Cập nhật thông tin chi tiết về 58. Năm Hạng Tang Phục (Ngũ Phục) Là Gì? mới nhất trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Một trăm điều nên biết về phong tục Việt Nam
Theo “Thọ mai gia lễ”, có năm hạng tang phục tuỳ theo quan hệ huyết thống và nghĩa tình phân biệt thân sơ:
1.Đại tang: Trảm thôi và tề thôi.
Quần áo sổ gấu gọi là trảm thôi: Con để tang cha.
Quần áo không sổ gấu gọi là tề thôi: Con để tang mẹ, vợ để tang chồng khi cha chưa mất.
Thời hạn: 3 năm, đời sau giảm bớt còn 2 năm 3 tháng (sau lễ giỗ đại tường 2 năm, thêm 3 tháng dư ai).
áo xô, khăn xô có hai giải sau lưng (gọi là khăn ngang).
Nếu cha mẹ đều đã mất thì hai giải bằng nhau, nếu còn mẹ hoặc còn cha thì hai giải dài ngắn lệch nhau.
Con trai chống gậy: Tang cha gậy tre, tang mẹ gậy vông, mũ rơm quấn đầu, dây chuối, dây đai thắt lưng.
Thời nay, nhiều nơi đã bãi bỏ những tang phục này. ở thành phố nhiều nhà dùng băng đen theo tang chế châu Âu, theo ý chúng tôi, tiện hơn.
Con trai, con gái, con dâu đều để tang cha mẹ. (Kể cả đích mẫu, kế mẫu, dưỡng mẫu, từ mẫu và dưỡng phụ).
Vợ để tang chồng.
Nếu con trưởng mất trước thì cháu đích tôn để tang ông bà nội cũng đại tang thay cha.
2. Cơ niên: Để tang một năm. Từ niên cơ trở xuống dùng khăn tròn, vải trắng, không gậy.
Cháu nội để tang ông bà nội.
Con riêng của vợ để tang bố dượng nếu bố dượng có công nuôi và ở cùng, nếu không ở cùng thì không tang; trước có ở cùng sau thôi thì để tang 3 tháng.
Con để tang mẹ đẻ ra mình nhưng bị bố rẫy (xuất mẫu), hoặc cha chết, mẹ lấy chồng khác (giá mẫu).
Chồng để tang vợ cả có gậy, nếu cha mẹ còn sống thì không gậy.
Cháu để tang bác trai bác gái, chú, thím và cô ruột.
Anh chị em ruột để tang cho nhau (cùng cha khác mẹ cũng tang một năm, cùng mẹ khác cha thì tang 5 tháng).
Cha mẹ để tang con trai, con gái và con dâu cả, kể cả con đi làm con nuôi nhà người.
Chú, bác, thím cô ruột để tang cho cháu (con anh em ruột).
Ông bà nội để tang cho cháu trưởng (đích tôn).
Đích mẫu, kế mẫu, từ mẫu tang các con chồng, thứ mẫu tang con mình và con chồng như nhau đều một năm. Tang con dâu cả cũng một năm.
Con dâu để tang dì ghẻ của chồng (tức vợ lẽ cha chồng).
Rể để tang cha mẹ vợ (vợ chết đã láy vợ khác cũng vậy).
Nàng hầu để tang cha mẹ chồng, vợ cả của chồng, các con chồng cũng như con mình (các họ hàng bàng thân bên nhà chồng đều không tang).
3. Đại công: để tang 9 tháng.
Anh chị em con chú con bác ruột để tang cho nhau.
Cha mẹ để tang con dâu thứ hoặc con gái đã lấy chồng.
Chú, bác thím ruột để tang cháu (con gái đã xuất giá, con dâu của anh em ruột).
Cháu dâu để tang ông bà của chồng, chú, bác, thím ruột, hoặc cô ruột của chồng.
Mẹ để tang con dâu thứ và con gái riêng của chồng.
Con gái đã xuất giá để tang bác trai, bác gái, chú thím, cô ruột.
4. Tiểu công: Để tang 5 tháng.
Chắt để tang cụ. (Hoàng tang: Chít khăn vàng)
Cháu để tang anh chị em ruột của ông nội (ông bà bác, ông chú, bà thím, bà cô).
Con để tang vợ lẽ, nàng hầu của cha (nếu cha giao cho nuôi mình thì để tang 3 năm như mẹ đẻ).
Cháu để tang đường bá thúc phụ mẫu và đường cô (anh chị em con chú bác ruột của cha).
Anh chị em con chú, bác ruột để tang cho vợ của nhau.
Anh chị em chung mẹ khác cha để tang cho nhau (vợ con của anh chị em ấy thì không tang).
Chú bác ruột để tang cho cháu dâu (con dâu của anh em ruột).
Ông bà bác, ông chú, bà thím, bà cô để tang cho cháu (tức là cháu nội của anh em ruột).
Ông bà nội để tang cho vợ cháu đích tôn hoặc cháu gái xuất giá.
Cháu ngoại để tang ông bà ngoại và cậu ruột, dì ruột (anh chị em ruột của mẹ, kể cả đối với anh chị em ruột của đích mẫu, thứ mẫu, kế mẫu).
Cháu dâu để tang cô ruột của chồng.
Chị dâu, em dâu để tang anh chị em ruột của chồng và con của những người đó (tức là cháu gọi bằng bác, bằng thím).
5. Ty ma Phục: Tang 3 tháng.
Chít để tang can (kỵ) nội (ngũ đại: Hồng tang chít khăn đỏ).
Chắt để tang cụ nhà bác, nhà chú (tằng tổ bá thúc phụ mẫu và tằng tổ cô, tức là anh em ruột với cụ nội).
Cháu để tang bà cô đã lấy chồng (chị em ruột với ông nội).
Cháu để tang cô bá (chị em con chú bác ruột với bố).
Con để tang bố dượng (nếu trước có ở cùng, sau mới về bên nội).
Con để tang nàng hầu của cha.
Con để tang bà vú (cho bú mớm).
Cháu để tang tộc bá thúc phụ mẫu (anh em cháu chú, cháu bác với cha).
Chồng để tang vợ lẽ nàng hầu.
Anh chị em họ nội 5 đời để tang cho nhau.
Bố mẹ vợ để tang con rể.
Ông bà ngoại để tang cháu ngoại và cháu dâu ngoại.
Ông của chồng để tang cháu dâu.
Cụ để tang cho chắt nội.
Cháu để tang vợ cậu, chồng cô, chồng dì có cùng ở một nhà.
Anh chị em con cô ruột và bạn con dì ruột để tang cho nhau.
Cậu ruột để tang vợ của cháu trai
Cháu dâu để tang ông bà ngoại của chồng, cậu ruột, dì ruột chồng
Cháu dâu để tang các ông bà anh chị em ruột với ông nội chồng.
Chắt dâu để tang cụ nội của chồng.
Cụ để tang chắt nội trai gái.
Ông bà để tang các cháu gái của con nhà chú, nhà bác.
Tang bên cha mẹ nuôi:
Kỵ bên cha nuôi thì 3 tháng, cụ bên cha nuôi thì 5 tháng, ông bà thì một năm.
Cha mẹ nuôi thì áo bằng gấu, hoặc sổ gấu 3 năm có cả gậy.
Từ ông bà trở lên nếu mình thừa trọng cũng sổ gấu 3 năm.
Ông bà sinh ra mẹ nuôi thì 5 tháng, còn thì đều không có.
Tang họ nhà mình (Đã là con nuôi người khác, để tang bên họ của mình):
Ông bà sinh ra cha thì 9 tháng.
Cha mẹ sinh ra mình thì 1 năm có gậy.
Bác trai bác gái, chú, thím và cô là anh chị em ruột với cha thì đều 9 tháng. Cô đã giá thì 5 tháng.
Anh chị em ruột thì 9 tháng, chị dâu, em dâu thì 3 tháng, chị em đã xuất giá thì 5 tháng.
Ông bà sinh ra mẹ thì 3 tháng.
Xét trong lễ nói rằng: Con gái đã xuất giá thì các tang có giáng, song đi lấy chồng, hoặc phải chồng rẫy bỏ, hoặc chồng chết, con lại chẳng có, lại trở về nhà cũng như chưa lấy chồng, tang chẳng có giáng
Nếu đương để tang cha mẹ được một năm mà chồng rẫy bỏ thì phải tang cha mẹ 3 năm, hoặc để tang cha mẹ được 1 năm đã trừ phục đoạn thì chẳng được để lại 3 năm, dù phải chồng dẫy trước, sau mới để tang cha mẹ chưa đủ 1 năm mà chồng mới gọi về thì chẳng nên về vội phải nên để trọn 3 năm.
Trường phục: có ba loại:
Trưởng trường: Từ 16-19 tuổi
Trung trường: Từ 12-15 tuổi
Hạ trường: Từ 8-11 tuổi
(Đều lấy thứ tự giáng một bậc).
Ví dụ: Giai đã lấy vợ, gái đã lấy chồng, dẫu còn trẻ cũng không thể gọi là trường được, nhưng vốn mình phải tang 1 năm trưởng trường giáng xuống 9 tháng, trung trường giáng xuống 7 tháng, hạ trường giáng xuống 5 tháng.
Như vốn tang 9 tháng, trưởng trường giáng 7 tháng, trung trường giáng 5 tháng, hạ trường giáng 3 tháng, các trường hợp khác đều như thế mà suy.
Định Nghĩa Recovery / Phục Hồi; Khôi Phục Là Gì?
Khái niệm thuật ngữ
1.Việc nợ được xóa sổ trước đó như khoản lỗ. Vì khoản vay, đã dược tính phí đối với tài khoản dự trữ cho nợ khó đòi, việc thu tiền được ghi có đối với dự trữ lỗ khoản vay hay được phân bố vào lợi nhuận chưa chia. Khoản thu hồi có thể bắt nguồn từ việc thanh toán bởi người vay hay thanh lý khoản thế chấp.
Xem WORKOUT AGREEMENT.
2. Cải thiện trong chu kỳ kinh doanh, sau suy thoái.
3. Tăng giá chứng khoán sau đợt suy thoái thị trường.
4. Tăng giá trị đồng tiền đối với các đồng tiền khác trên thế giới.
Thuyết Phục Là Gì? Phương Pháp Rèn Luyện Kỹ Năng Thuyết Phục?
Thuyết phục là gì? Tai sao chúng ta cần thuyết phục người khác. Phương pháp rèn luyện Kỹ năng thuyết phục là gì? Có những điểm nào cần lưu ý trong quá trình học tập và rèn luyện kỹ năng thuyết phục. Trong bài học này Trịnh Đức Dương Blog sẽ cùng các bạn đi giải quyết từng câu hỏi đó
Chúng ta đã nghe nói rất nhiều đến việc thuyết phục. Và chúng ta cũng đã thực hiện thuyết phục rất nhiều lần trong quá khứ. Nhưng không phải ai cũng định nghĩa chính xác được thuyết phục là gì? Đôi khi hoạt động thuyết phục diễn ra chúng ta cũng không nhận ra nó.
Thuyết phục là gì? Thuyết phục là sử dụng kiến thức, dẫn chứng, lý luận… thông qua lời nói và ngôn ngữ cơ thể nhằm làm thay đổi suy nghĩ và hành động của đối phương. Từ đó làm cho người đối diện tin và thực hiện hành động theo mong muốn của chúng ta. Hay nói một cách khác Thuyết phục là việc làm cho đối phương thay đổi hành vi theo định hướng mà chúng ta mong muốn. Một cách dễ dễ hình dung hơn tôi có thể định nghĩa rằng: Thuyết phục là gì? Thuyết là Nói, Phục là phục tùng, là đồng ý, làm theo. Vậy thuyết phục là sử dụng lời nói để làm cho người khác đồng ý, làm theo, hành động theo những gì bạn muốn.
Có thể thấy rằng thuyết phục là một phần của giao tiếp, nó cho phép bạn sử dụng luận điểm, luận cứ, biện giải, chứng minh, qua đó có được sự tin tưởng của người đối diện. Để có thể thuyết phục được người khác trước hết bạn cần có kiến thức, hiểu biết, khả năng logic, truyền đạt tốt. Các yếu tố khác về niềm tin, thương hiệu, hoàn cảnh và hiểu biết của người đối diện cũng đóng một vai trò quan trọng để thuyết phục thành công.
Trong quá trình nghiên cứu và phát triển các đặc điểm về kỹ năng thuyết phục, chúng tôi nhận thấy các bạn thường có xu hướng nhầm lẫn giữ các khái niệm về đàm phá, thuyết phục và áp đặt. Không phải bỗng dưng chúng ta có nhiều khái niệm khác nhau đến vậy. Thuyết phục có những đặc điểm riêng có của nó. Chúng tôi chia sẻ với bạn 3 đặc điểm cơ bản của thuyết phục bao gồm:
Nguyên tắc đàm phán: Thuyết phục chủ yếu dựa trên nguyên tắc là cuộc Đàm phán, nhưng thế lệch về 1 bên. Bên còn lại có sự nhún nhường phục tùng nhiều hơn.
Bình đẳng: Trong phần thuyết phục là gì, tôi có nhắc đến việc tuân theo. Tuy nhiên Thuyết phục phải dự trên nguyên tắc bình đẳng, hai bên cùng có lợi, hoặc ít nhất bên còn lại cũng thấy bình đẳng hoặc mình có lợi. Đặc điểm bình đẳng giúp chúng ta phân biệt được Thuyết phục và áp đặt
Tìm thấy mục tiêu chung. Thuyết phục là làm giảm ý kiến chủ quan của đối phương, đưa về mức cân bằng và chấp nhận được của cả 2 bên. Mục tiêu của thuyết phục là phân tích đúng, sai, lợi, hại, của vấn đề mà cả 2 cùng quan tâm từ đó dẫn dắt đối phương đi đến 1 quyết định mới khác với dự định hoặc ý kiến ban đầu của họ. Thuyết Phục là gì?
Chúng ta đã tìm hiểu về Thuyết phục là gì? Trong cuộc sống hàng ngày bạn cũng có thể nhận thấy được tầm quan trọng của thuyết phục. Khi bạn có khả năng thuyết phục tốt bạn dễ dàng đạt được mục tiêu và nhận được sự hỗ trợ tích cực từ người đối diện. Việc rèn luyện cho mình 1 kĩ năng thuyết phục tốt, sẽ giúp bạn chiếm ưu thế tuyệt đối trên bàn đàm phán.
Trong thực tế những cuộc trò chuyện với mong muốn thay đổi suy nghĩ hành động của bạn bè chình là quá trình thuyết phục. Bạn khiến cho bạn bè, người thân đồng ý giúp đỡ cũng chính là thuyết phục. Thông thường quá trình thuyết phục sản ra thường xuyên, rất nhanh và thường không có sự chuẩn bị. Khi bạn cần vay tiền, mượn đồ, rủ bạn gái đi chơi…. Nếu ban đầu họ không đồng ý, sau đó thay đổi ý kiến, như vậy đó là quá trình thuyết phục thành công. Nếu không có kỹ năng thuyết phục tốt, thì từ việc nhỏ nhất cũng dẫn đến việc bạn thất bại. Trong các buổi trò chuyện những người có khả năng thuyết phục tốt cho phép bạn toả sáng hơn, nhanh chóng có được thiện cảm.
Thuyết phục là một trong những kỹ năng quan trọng nhất trong kinh doanh. Để có thể kêu gọi đầu tư, có thêm khách hàng mới đối tác… bạn cần sử dụng rất nhiều kỹ năng thuyết phục. Quá trình thuyết phục giúp bạn có được ưu thế lớn hơn trong đàm phán và ký kết hợp đông. Với nhân viên bán hàng thuyết phục đã giúp mang lại 95% khách hàng quyết định mua hàng. Vì vậy những tư vấn viên, thường là những người rất giỏi trong việc thuyết phục khách hàng của mình.
Trong quan hệ đối tác cũng vậy, quá trình thuyết phục được nâng cấp lên 1 tầm cao mới. Để có thể duy trì, nâng cấp các mỗi quan hệ với đối tác việc sử dụng kỹ năng giao tiếp giúp bạn dễ dàng hành công hơn. Ngay cả trên bàn nhậu hoặc đơn giản là mời đối tác đi cafe cũng cần đến những lý do hợp lý và thuyết phục. Tuy vậy thuyết phục là việc không phải lúc nào cũng mang lại lợi ích cho bản thân. Việc cân đối hài hoà ở múc win win cho phép bạn duy trì mối quan hệ tốt hơn.
Như vậy chúng ta cũng đã hình dung được tầm quan trọng của thuyết phục là gì rồi. Trong mọi lĩnh vực của cuộc sống chúng ta đều cần đến thuyết phục. Từ việc nhỏ nhặt cho đến việc mang tầm vóc quốc tế thuyết phục vẫn luôn là một yếu tố đóng vai trò quan trọng. Tuy nhiên tôi muốn nhấn mạnh với bạn 1 lần nữa thuyết phục phải dựa trên nguyên tắc bình đẳng, và cần phân biệt với áp đặt.
Tạo niềm tin trong thuyết phục là gì, tại sao phải tạo . Trong quá trình thuyết phục, niềm tin là yếu tố quyết định, vì bản chất của thuyết phục là lấy được niềm tin của người khác. Quá trình tạo niềm tin có thể diễn ra trước trong hoặc sau quá trình thuyết phục. Bạn cần phải là 1 người đáng tin, và vô hại đối, hoặc mang lại lợi ích cho người đối diện. Nếu bạn tạo ra tâm lý đề phòng, thì việc thuyết phục trở nên khó khăn hơn rất nhiều. Bằng một cách nào đó bạn luôn phải gây dựng niềm tin, có thể là xây dựng thương hiệu cá nhân, thông quan bạn bè, hoặc dẫn chứng.
Tại sao các diễn giả nổi tiếng thường làm thay đổi suy nghĩ của bạn 1 cách dễ dàng, còn người bạn của bạn nói thì không. Đó là sức mạng của niềm tin, sự ngưỡng mộ. Một ví dụ khác, khi bạn vay tiền 1 ai đó, nếu họ không tin bạn thì bạn không thể thuyết phục được họ. Như vậy một lần nữa tôi muốn nhấn mạnh với bạn rằng niềm tin là yếu tố quyết định đến kết quả của thuyết phục.
Không phải chỉ những người có tầm ảnh hưởng (KOL) mới có thương hiệu. Bạn là người bình thường bạn cần liên tục hành động để chiếm được niềm tin của mọi người xung quanh. Nhưng việc tạo dựng niềm tin phải luôn đi kèm hành động thay vì lời nói đơn thuần. Bởi lẽ lời nói chỉ giúp bạn tạo dựng niềm tin nhất thời, chỉ hành động mới đóng đinh niềm tin của người đối diện với bạn. Với cộng đồng lớn, hãy học cách cho đi nhiều hơn, lan toả giá trị, chắc chắn bạn sẽ có được sự tin tưởng.
Những gì bạn bạn làm được là cách chứng minh tốt nhất với người đối diện. Bạn thành công hơn sẽ giúp bạn có được niềm tin hơn từ đó quá trình thuyết phục sẽ dễ dành hơn. Nâng cao kiến thức luôn là điều quan trọng nhất trong mọi trường hợp, với thuyết phục cũng không ngoại lệ. Để có luận luận sắc bén, thuyết phục bạn cần có kiến thức vững chắc, hiểu biết về điều mà bạn chia sẻ.
Học cách cho đi trong Thuyết Phục là gì? Học cách cho đi để nhận lại trong trường hợp này là một khái niệm tương đối khác so với thông thường. Nó được sử dụng với nghĩa trong quá trình thuyết phục bạn hãy cho đối phương thấy những giá trị mà họ sẽ nhận được. Cho dù là một lời khuyên, thuyết phục đầu tư, hay bất cữ một hình thức thuyết phục nào đi nữa thì việc cho họ cảm thấy bạn chân thành và muốn tốt cho họ. Bạn đang cho người đối diện những giá trị bạn sẽ nhận lại được thực đồng thuận và tin tưởng
Tư duy phản biện là tư duy hệ thống vô cùng cần thiết trong việc thuyết phục người khác. Trong đó tư duy phản biện là tư duy mà ở đó những luận cứ, luận điểm được đưa ra một cách tích cực, nhằm mục đích chống lại lý lẽ mà đối phương đưa ra. Quá trình thuyết phục luôn sảy ra phản biện qua lại giữa 2 bên. Vì vậy Tư duy phản biện giúp bạn chiếm ưu thế so với nửa còn lại. Tuy duy hệ thống giúp bạn có thể dễ dàng tổng hợp thống kê lại phần kiến thức mà bạn cần có. Hệ thống hoá luận điểm sắp xếp và đưa ra dẫn chứng đúng lúc đúng thời điểm sẽ giúp thuyết phục tốt hơn.
Thuyết phục là gì? Thuyết phục là phương pháp sử dụng lời nói, luận luận, chứng cứ. quá trình này nhằm thuyết phục và dẫn dắt người đối diện tin tưởng, và hành động theo định mong muốn của người thuyết phục.
Quá trình thuyết phục diễn ra trong tất cả các khía cạnh của cuộc sống. Việc rèn luyện cho mình một kỹ năng thuyết phục tốt sẽ giúp cho bạn làm chủ mọi tình huống.
Mỹ Thuật Phục Hưng Là Gì?
Vài nét khái quát về Phục Hưng
Thời kỳ Phục Hưng có gốc từ tiếng Pháp – Renaissance (nghĩa là sự tái sinh), còn gọi là Rinascimento (tiếng Ý), là cuộc tái sinh các giá trị nghệ thuật, tư tưởng, khoa học của thời kì Cổ đại và sự sống lại, phát triển rực rỡ của nền văn minh phương Tây. Phong trào Phục Hưng bắt đầu từ khoảng thế kỉ 14 tại Ý và thế kỉ 16 tại Bắc Âu. Nó đánh dấu giai đoạn chuyển tiếp của châu Âu từ thời kỳ Trung cổ sang thời kỳ Cận đại, cũng như từ thời kỳ phong kiến sang thời kỳ tư bản.
Phục Hưng được gọi như thế vì đặc tính cơ bản của thời kỳ này là sự hồi sinh của tinh thần thời kỳ Cổ đại. Chủ nghĩa Nhân văn chính là phong trào tinh thần cơ bản của thời kỳ này. Việc hồi sinh thể hiện ở chỗ nhiều yếu tố của tư tưởng thời kỳ Cổ đại được tái khám phá và sống lại (văn học, tượng đài kỷ niệm, tác phẩm điêu khắc, triết học,…và hơn cả đó là hội hoạ). Trong một nghĩa rộng người ta hiểu Phục Hưng là sự hồi sinh của thời kỳ Cổ đại với các ảnh hưởng của thời kỳ này đến khoa học, văn học, xã hội, cuộc sống của những tầng lớp thượng lưu và sự phát triển của con người đi đến tự do cá nhân ngược lại với chế độ đẳng cấp của thời kỳ Trung cổ. Trong nghĩa hẹp hơn Phục Hưng là một thời kỳ của lịch sử nghệ thuật – “thời kì của hội hoạ”.
Nét độc đáo trong hội họa Phục hưng
Các tác phẩm Phục Hưng mang tư tưởng nhân văn: ca ngợi chủ nghĩa anh hùng, sức mạnh con người. Bỏ lối vẽ chi tiết cũ sang khái quát hóa hình thức hoành tráng. Tìm chỗ dựa ở nghệ thuật cổ đại Hy lạp – La mã. Tranh thời kì Phục Hưng là tranh của sự mẫu mực. Tả chất vô cùng độc đáo với làn da mềm mại của người phụ nữ và cơ bắp chắc khỏe của người đàn ông… Tạo hình khốc liệt, có sức mạnh về chiều sâu không gian. Các hoạ sĩ vẽ rất nhiều tranh khỏa thân, ngay cả trong tôn giáo, các thiên thần, thánh thần…
Hội hoạ thời Phục Hưng là đỉnh cao của hội hoạ, là bước ngoặt của nền mĩ thuật thế giới, đóng vai trò quan trọng trong công cuộc phát triển nhiều lĩnh vực như: tìm ra chất liệu sơn dầu, phát triển bộ môn giải phẫu tạo hình, luật xa gần, phối cảnh, hình hoạ, nhiếp ảnh… Là nơi sản sinh ra rất nhiều nhân tài nghệ thuật, nhiều hoạ sĩ nổi tiếng, nhiều tác phẩm để đời cho cả thế giới. Phục hưng có nghĩa là “làm sống lại”. Đã vậy, chỉ nhìn vào những tác phẩm hội hoạ của thời Phục Hưng chúng ta có thể nhận ra về mặt tôn giáo và lịch sử mà không cần phải qua sách vở. Đó là những tác phấm sống mãi với thời gian.những hoạ sĩ bậc thầy lớn để các ngòi bút không ngừng tranh cãi mặc dù đã cách xa hàng trăm năm.
Một số tác giả và tác phẩm tiêu biểu của thời kì Phục Hưng
Giotto di Bondone (1267 – 1337)
Giotto là một thiên tài đã phá vỡ vòng kim tỏa của nghệ thuật Byzantine và thoát ra, mạo hiểm dấn thân vào một thế giới mới, đã chuyển dịch những hình tượng sống động của nghệ thuật Gothic vào trong hội họa. Người Ý tin rằng một kỉ nguyên nghệ thuật hoàn toàn mới đã bắt đầu mới sự xuất hiện của họa sĩ vĩ đại ấy. Ông nổi tiếng với các bức bích họa trong Nhà Nguyện Arena (Arena Chapel), hoàn thành khoảng năm 1305, mô tả cuộc đời Đức mẹ Đồng Trinh và Chúa Jesu. Đây được coi là một trong những kiệt tác của thời kì đầu Phục Hưng.
Các bức bích họa bên trong Nhà Nguyện Arena Nụ hôn của Dudas Vào thành Jerusalem ( Entry into Jerusalem) Phán xét cuối cùng Trích đoạn bức bích họa Phán xét cuối cùng Leona Da Vinci (1452 – 1519)
Leonar da Vinci là một họa sĩ, đồng thời cũng là nhà bác học am hiểu nhiều bộ môn khoa học xã hội và khoa học tự nhiên: điêu khắc, kiến trúc, toán học, cơ khí học, sinh học,… Sự hiểu biết của ông mang dấu vết liên tục trong lịch sử khoa học và nghệ thuật Châu Âu qua nhiều thế kỉ. Ông được xem là một trong những nhà nghiên cứu và sáng tạo cái mới xuất sắc. Trong suốt quá trình hoạt động nghệ thuật của mình, ông chỉ để lại khoảng 30 tác phẩm. Song mỗi tác phẩm của ông lại là một cuộc tìm tòi để tạo ra cái mới cho nhiều thế hệ sau học tập. Những tác phẩm của ông còn giữ tới ngày nay là những mẫu mực về nhiều mặt cho nền hội họa thế giới.
Trong thời gian ở Milan giữa những năm 1495- 1498, Leonar vẽ bức tranh tường cho nhà thờ Thánh Maria denhla – Hraxi ( gần Milan ) “Buổi họp kín” hay còn gọi là bữa tiệc cuối cùng (1495 – 1498) – Tranh tường. Tác phẩm không chỉ có giá trị về mặt thẩm mỹ mà còn có giá trị to lớn về tính khoa học trong nghệ thuật. Điều mà Leonar vẫn tâm đắc và tự hào.
Bữa tiệc cuối cùng (1495 – 1498)
Sẽ thật thiếu sót nếu nhắc tới Leonar mà không nhắc tới tác phẩm Monalisa hay còn gọi là La giocongdo. Bức tranh nổi tiếng gắn liền với tên tuổi của họa sĩ.
Nàng Monalisa
Đây là bức chân dung miêu tả tâm lý rất thành công. Nhân vật trong tranh được tác giả chăm chút cả về vẻ đẹp ngoại hình lẫn nội tâm. Điểm đặc biệt trong bức tranh là nụ cười bí hiểm của nàng Monalisa, nụ cười vừa phảng phất niềm vui và nỗi buồn khiến người xem cứ vương vấn mãi. Vẻ đẹp của nàng là một vẻ đẹp lý tưởng không chỉ của thế kỉ XVI mà còn là vẻ đẹp lý tưởng của mọi thời đại.
Không chỉ thành công ở thể loại chân dung, đề tài về Chúa và thần thoại cũng được Leonar thể hiện rất thành công với những tác phẩm nổi tiếng như: Đức Mẹ Litta, Leda… Từ năm 1500 – 1516 Leonard dành nhiều thời gian để nghiên cứu khoa học. Ông muốn sáng tác một bộ Bách khoa toàn thư về “sự vật trong thiên nhiên”. Ngoài ra ông vẫn sáng tác cho đến cuối đời.
Lady and an ermine Đức mẹ Madona trong hang đá Bella Principessa Đức mẹ Đồng Trinh và Chúa hài đồng Đức mẹ Litta Michelangelo di Lodovico Buonarroti Simoni (1475 – 1564)
Michelangelo không chỉ là nhà điêu khắc nổi tiếng của thời kỳ phục hưng mà còn là một kiến trúc sư, một hoạ sĩ và là một nhà thơ. Ở bất kì lĩnh vực nào ông cũng để lại những tác phẩm tiêu biểu được lưu giữ mãi tới mai sau.
Ông là một hoạ sĩ kỳ tài với tác phẩm nổi tiếng nhất là quần thể tranh trong nhà thờ Sistine. Tuy vậy niềm đam mê thật sự của ông lại là tạc nên những pho tượng và tác phẩm đầu tiên đưa tên tuổi và uy tín của ông đến với mọi người là: Pietta (theo tiếng Pháp có nghĩa là “tình thương”). Tác phẩm được ông hoàn thành trong 5 năm. Với tác phẩm này ông đã rất thành công khi miêu tả nỗi xót thương, đau đớn của đức mẹ trước đứa con đã mất trên tay. Chân dung chúa Jesu cũng được tác giả miêu tả vô cùng sống động. Ở đó ta nhìn thấy rõ nỗi đau đớn mà chúa phải chịu đựng trước khi mất nhưng ta cũng nhìn thấy ở chân dung đó niềm kiêu hãnh của một vị anh hùng, một đấng cứu thế. Ngoài ra tác phẩm còn thành công trong việc thể hiện những nét gấp trang phục, chất da thịt mền mại. Bằng thủ pháp đối lập giữa nét mền mại của các nếp áo váy phong phú và đa dạng với mảng phẳng nhẵn của cơ thể chúa Jesu. Sự đối lập đó tạo nên sự nổi bật khác nhau của nhân vật, của sự sống và cái chết.
Từ năm 1501 – 1504, Michelangelo dành thời gian để tạo nên kiệt tác cho nhân loại, đó là bức tượng người anh hùng David của người dân Hebreuca đã chiến thắng người khổng lồ Goliat. Bức tượng được xem là một sự hoàn thiện mẫu mực về vẻ đẹp thể chất và vẻ đẹp tinh thần của con người. Pho tượng cao 5,5m này được đặt ở trước trụ sở hành chính của thành Phlorangxo. Đây là niềm tự hào của người dân thành phố, họ coi David là một “người khổng lồ” là biểu tượng sức mạnh của con người.
Tượng David
Những năm cuối đời là những năm sáng tác đẹp đẽ của ông. Tác phẩm tiêu biểu nhất là bức “Sự phán xét cuối cùng” và cảnh Chúa giáng thế trên trần nhà Nguyện Sistine.
Các bức bích họa trong nhà nguyện Sistine Bức bích họa trên trần nhà nguyện Phán xét cuối cùng Sự sáng tạo ra con người Raphael Santi (1483 – 1520)
Khác với Leonar, Raphael không phải là nhà sáng tạo ra cái mới. Vì nghệ thuật của ông có ý nghĩa không phải ở chỗ khám phá ra con đường mới mà là ở chỗ đã tổng hợp thành tựu của những người đi trước. Ông cùng với Leonar, Michelangelo tạo nên chuẩn mực, định hình cho sự phát triển phong cách nghệ thuật phuc hưng.
Thành phố Phlorangxo đã khiến Raphael thành công và được nhiều nhà bảo trợ hào phóng giúp đỡ. Đây cũng là thời kì ông vẽ nhiều tranh về đề tài Đức Mẹ. Trong đó nổi tiếng là tác phẩm ” Đức mẹ của Đại công tước” được ông vẽ theo yêu cầu của Đại công tước. Vị này coi tác phẩm là vô giá và luôn giữ bên mình. Ở bức tranh này ta vẫn còn thấy phảng phất nét của Peruganh, nhưng nó đã đạt đến sự mẫu mực, hoàn hảo về đề tài dạng này. Raphael đã tạo được một Madona có thực trên đời, một Madona thơ mộng, dịu dàng như trăm nghìn phụ nữ Ý khác.
Madonna of the Pinks Đức mẹ Đồng Trinh và Chúa hài đồng – Nhà nguyện Sistine The virgin of the rose Nàng La Donna Velata Madonna della seggiola
Năm 1508, Raphael từ dã Phlorangxo đến Roma. Suốt từ đấy đến lúc mất ông sống ở đó và được sự bảo trợ của hai đời Giáo hoàng là Duyn II và Leon X. Nhiều tác phẩm danh tiếng của ông đã vẽ trong thời kí này. Trong đó có một bứ vẽ treo trong phòng “Chữ kí” – phòng quan trọng nhất trong tòa thánh Vatican vô cùng thành công là bức “Trường học Aten”. Nội dung tác phẩm ca ngợi triết học Hy Lạp cổ đại. Nhân vật chính của bức tranh là Praton và Arixtot. Hai người đang tranh luận về quan điểm triết học của mình, Praton chỉ tay lên trời chị Arixtot chỉ tay xuống đất. Điều này thể hiện tư tưởng triết học duy tâm khách quan của Praton và sự dung hợp giữa triết học duy vật và duy tâm của Arixtot. Bức tranh có khoảng 50 nhân vật bao gồm những nhà tiết học, các học giả…
Trường học Athen
Cuộc tranh luận của các vị Thánh
Hoạ sĩ Bô-ti-ce-li (Botticelli 1445-1510)
Bôticeli là hoạ sĩ kết thúc thời kì Phục Hưng. Trong sự nghiệp sáng tác của Bôticeli có nhiều tác phẩm nổi tiếng trong đó có tác phẩm: Mùa xuân, Ngày sinh của thần vệ nữ, Lễ truyền tin,…
Ông là hoạ sĩ kì tài, tranh ông nổi tiếng về mặt dụng công ,đề tài tôn giáo truyên ngụ ngôn và tương huyền nhiệm. Hoạ phẩm của ông còn dễ nhận thấy ở đường nét “trong ngọc, trắng ngà” rất uyển chuyển hoà điệu. Ông tài hoa ở chỗ tinh tế lạ thường, pha thêm không khí sầu tư hóm hỉnh. Vào tuổi già tranh ông vẽ như chìm vào sự lo buồn, nét mặt người trong tranh hốc hác, có lúc lộ vẻ nhăn nhó. Có lẽ ông chịu tác động của tôn giáo và xã hội đương thời.
Bức tranh Mùa xuân Sự ra đời của Thần Vệ nữ Đức mẹ và Chúa hài đồng Đức mẹ và tám thiên thần
Năm 1498, Bôticeli nhận trang trí nhà thờ Phờ-răng-xét-cô Goa-đi. Ở đó ông vẽ bức “Truyền tin”. Tranh được vẽ kĩ ,tả tỉ mỉ, tất cả đều rõ ràng rành mạch. Tuy vậy vẫn có sự tương phản giữa những đường thẳng, sắc cạnh trong những chi tiết tường nhà, nền gạch với những đường cong nếp gấp mềm mại trong sự diễn tả trang phục của hai nhân vật chính. Trong tranh, hoạ sĩ còn tạo sự tương phản về nóng lạnh của màu sắc để diễn tả xa gần. Vẻ mặt Đức Mẹ thanh tú được diễn tả khéo léo về ánh sáng đang cúi xuống được kết hợp với hai bàn tay đưa lên, vừa như muốn ngăn thiên sứ, vừa như chấp nhận sứ mệnh của Chúa trời trao cho.
Lễ truyền tin
Bôticeli là tài năng lớn của thời kì Phục Hưng. Nhà nghiên cứu nghệ thuật người nga Ooc-lô-ra đã viết về ông như sau: “nếu không biết đên sáng tác của ông, thì khái niệm của chúng ta về hội hoạ phưc hưng sẽ không đầy đủ”. Do tài năng, uy tín của ông trong nghệ thuật, năm 1504 Bôticeli được mời tham gia uỷ ban quyết định vị trí đật tượng Đa-vít của Mi-ken-lăng-giơ. Bo-ti-xen-li mất ngày 17 tháng 5 năm 1510. Mặc dù ông qua đời dã gần 500 năm song với những bức tranh với vẻ đẹp chuẩn mực của ông vẫn được công chúng nghệ thuật thế giới nhiều thời đại yêu thích và các thế hệ nghệ sĩ thời đại sau ông học tập.
Bạn đang xem bài viết 58. Năm Hạng Tang Phục (Ngũ Phục) Là Gì? trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!