Xem Nhiều 6/2023 #️ Acsimet – Nhà Bác Học Vĩ Đại Của Hy Lạp # Top 15 Trend | Tvzoneplus.com

Xem Nhiều 6/2023 # Acsimet – Nhà Bác Học Vĩ Đại Của Hy Lạp # Top 15 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Acsimet – Nhà Bác Học Vĩ Đại Của Hy Lạp mới nhất trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Acsimet là nhà toán học xuất chúng, nhà kỹ thuật tài ba, nhà khoa học dũng cảm và thiết tha yêu Tổ quốc. Ông là người phát hiện ra định luật đòn bẩy, lý thuyết về trọng tâm, điều kiện nổi của các vật, nguyên lý về tỉ trọng…

Nhà bác học vĩ đại Acsimet

Tiểu sử

Acsimet có nhiều đóng góp to lớn trong lĩnh vực Vật lý, Toán học và Thiên văn học. Về Vật lý, ông là người đã sáng chế ra chiếc máy bơm dùng để tưới tiêu nước cho đồng ruộng Ai Cập, là người đầu tiên sử dụng hệ thống các đòn bẩy và ròng rọc để nâng các vật lên cao, là người đã tìm ra định luật về sức đẩy của nước. Về Toán học, Acsimet đã giải bài toán về tính độ dài của đường cong, đường xoắn ốc, đặc biệt ông đã tính ra số Pi bằng cách đo hình có nhiều góc nội tiếp và ngoại tiếp. Về Thiên văn học, ông đã nghiên cứu sự chuyển động của Mặt Trăng và các vì sao.

Acsimet suốt cuộc đời say sưa học tập, nghiên cứu. Tương truyền rằng ông đã tìm ra định luật về sức đẩy của nước khi đang tắm. Ông đã sung sướng nhảy ra khỏi bồn tắm, chạy thẳng về phòng làm việc mà quên cả mặc quần áo, miệng kêu lớn: “Ơrêca! Ơrêca (Tìm thấy rồi! Tìm thấy rồi!). Trong cuộc chiến tranh của Hy Lạp chống quân xâm lược Rôma, Acsimet đã sáng chế ra nhiều loại vũ khí mới như máy bắn đá, những cái móc thuyền, đặc biệt trong đó có một thứ vũ khí quang học để đốt thuyền giặc. Thành Xicacudo đã được bảo vệ đến 3 năm mới bị thất thủ. Khi bọn xâm lược hạ được thành, chúng thấy ông vẫn đang say sưa ngồi nghiên cứu những hình vẽ trên đất. Ông đã thét lên: “Không được xóa các hình vẽ của ta”, trước khi bị ngọn giáo của kẻ thù đâm vào ngực. Acsimet đã anh dũng hi sinh như một chiến sĩ kiên cường.

Acsimet là người yêu nước thiết tha. Trong giai đoạn cuối đời mình ,ông đã tham gia bảo vệ quê hương chống lại bọn xâm lược La Mã .Ông đã lãnh đạo việc xây dựng các công trình có kỹ thuật phức tạp và chế tạo vũ khí kháng chiến. Hơn hai nghìn năm đã trôi qua từ khi Acsimet bị quân La Mã giết hại, song người đời vẫn mãi ghi nhớ hình ảnh một nhà bác học thiết tha yêu nước, đầy sáng kiến phát minh về lý thuyết cũng như về thực hành, hình ảnh một con người đã hiến dâng cả đời mình cho khoa học, cho tổ quốc đến tận giờ phút cuối cùng.

Những công trình ông tìm ra:  1. Công thức tính diện tích, thể tích hình lăng trụ và hình cầu  2. Số thập phân của số Pi. Năm -250, ông chứng minh rằng số Pi nằm giữa 223/7 và 22/7  3. Phương pháp tính gần đúng chu vi vòng tròn từ những hình lục giác đều nội tiếp trong vòng tròn 4. Những tính chất của tiêu cự của Parabole  5. Phát minh đòn bẩy, đinh vis Acsimet (có thể do Archytas de Tarente), bánh xe răng cưa 6. Chế ra máy chiến tranh khi Cyracuse bị quân La Mã vây 7. Chế ra vòng xoắn ốc không ngừng của Acsimet (có thể do Conon de Samos)  8. Tính diện tích Parabole bằng cách chia ra thành tam giác vô tận  9. Nguyên lý Thủy tĩnh (hydrostatique), sức đẩy Acsimet, trọng tâm Barycentre  10. Những khối Acsimet (Solides Acsimet)  11. Những dạng đầu tiên của tích phân

1. Công thức tính diện tích, thể tích hình lăng trụ và hình cầu2. Số thập phân của số Pi. Năm -250, ông chứng minh rằng số Pi nằm giữa 223/7 và 22/73. Phương pháp tính gần đúng chu vi vòng tròn từ những hình lục giác đều nội tiếp trong vòng tròn4. Những tính chất của tiêu cự của Parabole5. Phát minh đòn bẩy, đinh vis Acsimet (có thể do Archytas de Tarente), bánh xe răng cưa6. Chế ra máy chiến tranh khi Cyracuse bị quân La Mã vây7. Chế ra vòng xoắn ốc không ngừng của Acsimet (có thể do Conon de Samos)8. Tính diện tích Parabole bằng cách chia ra thành tam giác vô tận9. Nguyên lý Thủy tĩnh (hydrostatique), sức đẩy Acsimet, trọng tâm Barycentre10. Những khối Acsimet (Solides Acsimet)11. Những dạng đầu tiên của tích phân

Nhiều công trình của ông đã không được biết đến cho đến thế kỷ XVIIe, thế kỷ XIXe, Pascal, Monge và Carnot đã làm công trình của họ dựa trên công trình của Acsimet.

Tác phẩm ông đã viết về: 

– Sự cân bằng các vật nổi  – Sự cân bằng của các mặt phẳng trên lý thuyết cơ học  – Phép cầu phương của hình Parabole  – Hình cầu và khối cầu cho Toán. Tác phẩm này xác định diện tích hình cầu theo bán kính, diện tích bề mặt của hình nón từ diện tích mặt đáy của nó

– Sự cân bằng các vật nổi- Sự cân bằng của các mặt phẳng trên lý thuyết cơ học- Phép cầu phương của hình Parabole- Hình cầu và khối cầu cho Toán. Tác phẩm này xác định diện tích hình cầu theo bán kính, diện tích bề mặt của hình nón từ diện tích mặt đáy của nó

Ông còn viết những sách về: 

– Hình xoắn ốc (đó là hình xoắn ốc Acsimet, vì có nhiều loại xoắn ốc)  – Hình nón và hình cầu (thể tích tạo thành do sự xoay tròn của mặt phẳng quanh một trục (surface de révolution), những Parabole quay quanh đường thẳng hay Hyperbole  – Tính chu vi đường tròn (ông đã cho cách tính gần đúng của con số Pi mà Euclide đã khám phá ra  – Sách chuyên luận về phương pháp để khám phá Toán học. Sách này chỉ mới được khám phá ra vào năm 1889 tại Jérusalem  – Về trọng tâm và những mặt phẳng: đó là sách đầu tiên viết về trọng tâm barycentre (ý nghĩa văn chương là “tâm nặng”)

Minh LyTổng hợp

Triết Học Hy Lạp Cổ Đại

1. Hoàn cảnh lịch sử xã hội Hy Lạp cổ đại 

1.1. Trong những nền văn minh cổ đại rực rỡ mà ngày nay người ta biết được thì nền văn minh Hy Lạp – La Mã xuất hiện muộn hơn cả, nhưng nó lại rất phong phú, đặc biệt là về triết học. Điều đó có thể giải thích bằng tính chất điển hình của chế độ chiếm hữu nô lệ ở đây. Hy Lạp và La Mã đã có một chế độ chiếm hữu nô lệ phát triển tới hình thức cao, mang tính chất điển hình, biểu hiện ở các điểm sau đây:

– Sự phân hoá giai cấp trong xã hội hết sức rõ rệt thành hai giai cấp chủ yếu là giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ. Nô lệ có số lượng đông đảo trong xã hội và sống tập trung (có tài liệu cho biết: vào thế kỷ IV. chúng tôi A – ten có số dân là 34 vạn, thì 25 vạn là nô lệ).

– Nô lệ là lực lượng sản xuất chủ yếu trong xã hội (trong sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và mậu dịch hàng hải).

– Mâu thuẫn giữa chủ nô và nô lệ ngày càng gay gắt đã làm cho mức độ ác liệt của cuộc đấu tranh giữa nô lệ với chủ nô ngày càng tăng (tiêu biểu là cuộc nổi dậy của Xpác-ta-cu-xơ vào năm 70 tr.CN). Giai cấp chủ nô cũng phân hoá thành chủ nô quý tộc và chủ nô dân chủ. Chủ nô quý tộc gắn liền với sản xuất nông nghiệp, bảo thủ và chuyên chế. Chủ nô dân chủ gắn liền với công thương nghiệp, tiến bộ hơn, thường đề xuất những chủ trương dân chủ chống lại chủ nô quý tộc. Cuộc đấu tranh giữa các trường phái triết học duy vật và duy tâm thời cổ đại Hy Lạp – La Mã chủ yếu là cuộc đấu tranh giữa chủ nô dân chủ và chủ nô quý tộc.

– Tính chất chuyên chế của bộ máy nhà nước chủ nô thường xuất hiện dưới hình thức các thành bang (quốc gia thành thị). Nhà nước được tổ chức theo kiểu cộng hoà hay dân chủ; các kiểu nhà nước này đều là công cụ chuyên chính của giai cấp chủ nô.

1.2. Chế độ chiếm hữu nô lệ Hy Lạp ra đời từ thế kỷ VI chúng tôi và suy tàn vào thế kỷ V. Sự phát triển của nó đã mở rộng sự phân công xã hội, tách lao động trí óc khỏi lao động chân tay, tạo điều kiện cho tầng lớp trí thức chủ nô nghiên cứu triết học, khoa học và sáng tạo văn học nghệ thuật. Hơn nữa, qua cuộc chiến tranh Hy Lạp – Ba Tư, nền văn hoá Hy Lạp – La Mã đã kế thừa được nhiều thành tựu văn hoá của phương Đông.

Về văn học, sớm nhất là Ome (Homère). Về sử học, nổi tiếng nhất là nhà chép sử Hêrôđốt (Hérodote). Về toán học và thiên văn học, có Talét (Thalès), Pitago (Pythagore), Ơclít (Euclide). Về vật lý học, có Acsimét (Archimède). Về y – sinh học, có Híppôcrát (Hippocrate). Về điêu khắc, có đền Páctênôn (Parthénon) của nhà điêu khắc Phiđiát (Phiđias). Về kiến trúc, có tượng thần Vệ nữ (Venus) của Praxiten. Về hội hoạ, có bức Maratông trong chiến tranh Hy Lạp – Ba Tư v.v.

Tất cả những tiền đề kinh tế, xã hội, khoa học, văn học, nghệ thuật nói trên là những điều kiện cho sự phát triển rực rỡ của triết học cổ Hy Lạp. Như Ăng-ghen nói, nếu không có chế độ nô lệ, thì cũng không có nhà nước Hy Lạp, không có khoa học và nghệ thuật Hy Lạp.

2. Sự hình thành, phát triển và suy tàn của triết học Hy Lạp cổ đại

Lịch sử triết học Hy Lạp – La Mã cổ đại có thể chia làm ba thời kỳ. Xuyên suốt ba thời kỳ ấy là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm mà đỉnh cao là cuộc đấu tranh giữa đường lối duy vật của Đê-mô-crít và đường lối duy tâm của Pla-tôn.

2.1. Thời kỳ thứ nhất (thế kỷ VI tr.CN): Đây là thời kỳ chế độ chiếm hữu nô lệ mới hình thành. Do sự phát triển của sản xuất, thế giới quan cũ có tính chất tôn giáo, thần thoại dần dần nhường chỗ cho những hiểu biết khoa học về con người, về vũ trụ. Trên cơ sở đó, triết học với tư cách là một khoa học bao quát mọi tri thức (khoa học của khoa học) ra đời.

a. Ba nhà triết học duy vật thuộc trường phái Mi-lê (tên một đô thị cổ Hy Lạp) là Talét, Anaximăngđrơ và Anaximen cho rằng có những thực thể vật chất đầu tiên, vĩnh viễn vận động tạo ra mọi vật trên thế giới. Theo Talét đó là nước, theo Anaximăngđrơ đó là một thực thể vô định và vô hạn, theo Anaximen đó là không khí.

Hêraclít không thuộc trường phái nói trên, ông cũng cho rằng bản nguyên của vũ trụ là lửa, lửa thông qua sự đấu tranh giữa các mặt đối lập mà sinh ra vạn vật.

b. Ngược lại, một số nhà triết học thuộc trường phái Êlê (tên một đô thị cổ ở miền nam nước Ý) như Xênôphan, Pácmênít, Dênông và trường phái Pitago lại có những quan điểm duy tâm, siêu hình về nguồn gốc vũ trụ. Họ cho rằng, thế giới là một tồn tại bất động và bất biến (trường phái Êlê), con số là bản nguyên của vũ trụ (trường phái Pitago).

2.2. Thời kỳ thứ hai (bắt đầu từ thế kỷ V. tr.CN): Đây là thời kỳ chế độ chiếm hữu nô lệ phát triển đến hình thức cao và cũng là thời kỳ phồn vinh của triết học cổ đại Hy Lạp. Thời kỳ này, đối tượng nghiên cứu của triết học được mở rộng sang các vấn đề về kết cấu của vật chất, nhận thức luận và đời sống chính trị. Trong đó, kết cấu của vật chất là vấn đề trung tâm của nhiều trường phái triết học.

a. Theo khuynh hướng duy vật. Ămpeđôclơ cho rằng, bản nguyên của vũ trụ không phải chỉ là một thực thể riêng biệt (như trường phái Milê) mà là gồm 4 thực thể: đất, nước, lửa, không khí. Anaxago lại cho rằng, mọi vật đều được cấu tạo từ hạt cực nhỏ nhờ quá trình phân giải và đồng nhất của chúng.

Đạt tới đỉnh cao nhất của chủ nghĩa duy vật thời kì này là học thuyết về nguyên tử của Đêmôcrít. Theo ông, tất cả mọi vật đều được cấu thành từ những nguyên tử. Nguyên tử là những phần tử vật chất nhỏ nhất, không thể phân chia được, chúng vĩnh viễn vận động, không có điểm kết thúc.

c. Dao động giữa đường lối duy vật của Đêmôcrít và đường lối duy tâm của Platôn là Arixtốt. Ông là một nhà triết học lớn, bộ óc bách khoa thời cổ đại Hy Lạp – La Mã, nhưng là một nhà triết học không triệt để. Một mặt, ông bác bỏ thuyết ý niệm của Platôn; mặt khác ông lại chủ trương hình thức là bản chất của mọi sự vật, mà hình thức của mọi hình thức là tư duy (hình thức thuần tuý).

2.3. Thời kỳ thứ ba (từ thế kỷ thứ III TCN): Đây là thời kỳ khủng hoảng và suy vong của chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp – La Mã. Cùng với sự suy tàn đó, nền văn hoá mà nó sản sinh ra cũng suy tàn theo. Vào cuối thế kỷ này, chỉ còn Êpiquya và học trò của ông là Lucơrexơ là tiếp tục đường lối duy vật của Đê-mô-crít.

Triết học Hy Lạp – La Mã cổ đại đã đặt ra hầu hết các vấn đề triết học mà người ta thường thấy mối quan hệ của nó với các khuynh hướng, các trào lưu triết học sau này.

Trong những thành tựu triết học Hy Lạp-La Mã cổ đại, học thuyết về nguyên tử của Đêmôcrít, tư tưởng biện chứng của Hêraclít và lôgích học của Arixtốt là những cống hiến xuất sắc đối với sự phát triển của tư tưởng triết học nhân loại.

Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử triết học Hy Lạp-La Mã cổ đại chứng tỏ rằng, ngay từ đầu, lịch sử triết học là lịch sử đấu tranh giữa hai thế giới quan, hai phương pháp luận đối lập nhau. Cuộc đấu tranh ấy phản ánh lợi ích của những tầng lớp, những giai cấp khác nhau trong xã hội có giai cấp đối kháng.

3. Một số nhà triết học Hy Lạp cổ đại 3.1. Đêmôcrít (460-370 tr.CN) sinh trưởng trong một gia đình chủ nô dân chủ ở Ápđerơ (Hy Lạp). Ông đã đến Ai Cập, Ba Tư, Ấn Độ, nên đã có dịp tiếp xúc với nền văn hoá phương Đông cổ đại. Ông am hiểu toán học, vật lý học, sinh vật học cũng như mỹ học, ngôn ngữ học và âm nhạc v.v. Ông có đến 70 tác phẩm nghiên cứu về các lĩnh vực khoa học nói trên. Ông được Mác và Ăng -ghen coi là bộ óc bách khoa đầu tiên của người Hy Lạp.

Đê-mô-crít là đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy vật cổ đại Hy Lạp. Thuyết nguyên tử là cống hiến nổi bật của ông đối với chủ nghĩa duy vật. Ngoài ra, ông còn có nhiều đóng góp quý giá về lý luận nhận thức.

a. Thuyết nguyên tử

Thuyết nguyên tử đã được Lơxíp (Leucippe) nêu lên từ trước. Nhưng phải đến Đêmôcrít học thuyết đó mới trở lên chặt chẽ. Theo ông, vũ trụ được cấu thành từ hai thực thể đầu tiên: nguyên tử và chân không. Nguyên tử là những hạt vật chất cực nhỏ, không nhìn thấy được, không thể phân chia nhỏ hơn được nữa. Nguyên tử không biến đổi, tồn tại vĩnh viễn và vận động không ngừng. Nguyên tử không khác nhau về chất, chúng có mùi vị, âm thanh và mầu sắc. Nguyên tử chỉ khác nhau về hình thức, kích thước, vị trí và trình tự kết hợp của chúng. Có những nguyên tử hình cầu, hình tam giác, hình móc câu, hình lõm v.v., nhờ đó chúng mới có thể bám dính được với nhau. Mọi vật thể đều do sự kết hợp giữa các nguyên tử nên nếu tách rời chúng ra thì vật thể bị tiêu diệt.

Linh hồn của con người cũng do những nguyên tử hình cầu, nhẹ, và nóng tạo nên. Khi người ta chết, linh hồn sẽ không còn; chúng rời thể xác và tồn tại như những nguyên tử khác.

Chân không là khoảng không gian trống rỗng. Với Đêmôcrít, chân không cũng cần thiết như nguyên tử, nhờ nó nguyên tử mới vận động được. Nếu tất cả là đặc sệt các nguyên tử thì sẽ không có điều kiện cho vận động. Khác với nguyên tử có kích thước, hình dáng, chân không thì vô hạn và không có hình dáng.

Trong vũ trụ có hằng hà sa số những nguyên tử vận động theo nhiều hướng, khi thì tản ra, khi tụ lại. Khi tụ vào một điểm nào đó, chúng va chạm vào nhau tạo thành một cơn xoáy tròn (cơn lốc nguyên tử). Cơn lốc này đẩy những nguyên tử nhỏ, nhẹ ra ngoài chu vi, còn những nguyên tử to, nặng quy vào tâm, nhờ đó các hành tinh, kể cả trái đất được hình thành. Những hành tinh xuất hiện và mất đi một cách tự nhiên, không do thần thánh hoặc một ai tạo ra.

b. Lý luận về nhận thức

Đêmôcrít đã có công đưa lý luận nhận thức lên một bước mới. Ông và tiếp theo ông là Arixtốt, kể cả Platôn đã rất chú ý đến nhận thức lý tính, đến lôgíc học.

Theo ông, nhận thức của người ta bắt nguồn từ cảm giác. Nhờ sự vật tác động vào các giác quan mà ta có cảm giác về chúng. Những cảm giác này có nội dung chân thật, nhưng không đầy đủ, không sâu sắc, nó chỉ là sự phản ánh cái vỏ bên ngoài của sự vật, chưa phản ảnh được bản chất của sự vật. Bởi vì, nó chỉ phản ánh được mùi vị, âm thanh, mầu sắc, hình dáng của sự vật, mà không phản ánh được nguyên tử và chân không. Hơn nữa, mọi nguyên tử đều giống nhau về chất, bản thân chúng không có mùi vị, mầu sắc, âm thanh và không trông thấy được. Bởi vậy, những cảm giác này chỉ là chủ quan của con người. Theo ông, muốn nhận thức được nguyên tử và chân không, tức là muốn nhận thức bản chất của sự vật, con người ta không được dừng lại ở cảm giác, mà phải biết quy nạp, so sánh, phán đoán, tức là phải đẩy tới nhận thức lý tính. Do đó, ông chia nhận thức làm hai dạng: dạng nhận thức “mờ tối”(nhận thức cảm tính) và dạng nhận thức “trí tuệ”. Theo ông, dạng nhận thức thứ hai là chủ yếu, đáng tin cậy hơn.

Từ chỗ coi trọng vai trò của nhận thức lý tính, Đêmôcrít đã có một công lao to lớn nữa đối với triết học, đó là lôgíc học (Tác phẩm “Bàn về lôgíc học” (Canon); tác phẩm này đã bị thất lạc, người ta chỉ biết về nó một cách gián tiếp qua lời của Arixtốt, Platôn). Theo đó thì ông đã nêu ra nhiều vấn đề về lôgíc học như định nghĩa khái niệm, phương pháp so sánh, quy nạp, giả thiết.v.v, trong đó phương pháp quy nạp có vị trí nổi bật. Arixtốt đã coi Đêmôcrít là tiền bối của mình về lôgíc học, là người đầu tiên nghiên cứu lôgíc của khái niệm, lôgíc quy nạp.

c. Quan niệm về con người

Theo ông, linh hồn không phải là cái siêu vật chất, mà là cái bản nguyên bằng lửa trong cơ thể; nó cũng được cấu tạo từ các nguyên tử hình cầu giống như lửa và có tốc độ vận động lớn hơn các nguyên tử khác.

Sự sống và con người không phải do thần thánh tạo ra mà là kết quả của quá trình biến đổi của chính tự nhiên, được phát sinh từ những vật thể ẩm ướt dưới tác động của nhiệt độ. Theo ông, con người là một loại động vật, nhưng về khả năng có thể học được bất kỳ cái gì nhờ có tay chân, cảm giác và năng lực trí tuệ trợ giúp.

Đêmôcrit đứng trên lập trường vô thần phủ nhận thượng đế và thần linh; thần chỉ là sự nhân cách hóa hiện tượng tự nhiên hay thuộc tính của con người.

d. Quan điểm chính trị – xã hội

Đêmôcrit đứng trên lập trường của chủ nô dân chủ, bảo vệ nền dân chủ Aten chống lại chế độ chuyên chính. Ông cho rằng “cái nghèo trong chế độ dân chủ cũng quý hơn cái hạnh phúc của công dân dưới thời quân chủ y như là tự do quý hơn nô lệ”. Nhưng do xuất thân từ tầng lớp chủ nô nên ông chỉ đề cập đến dân chủ của chủ nô và công dân tự do; còn nô lệ phải biết tuân theo người chủ.

Ông coi nhà nước là trụ cột của xã hội, cần phải xử lý nghiêm khắc những kẻ vi phạm pháp luật hay các chuẩn mực đạo đức.

Tóm lại, triết học Đêmôcrít là sự kế thừa và phát triển lên một trình độ cao các quan điểm duy vật (của trường phái Milê) và tư tưởng biện chứng (của Hêraclít) trước đó, đưa triết học của ông trở thành đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật thời cổ đại. Sau này, Êpiquya và Lucơrexơ đã khắc phục những hạn chế của ông và phát triển học thuyết nguyên tử hơn nữa. Lơxíp, Đêmôcrít, Êpiquya trở thành những tên tuổi đại biểu cho phái nguyên tử luận thời cổ đại Hy Lạp – La Mã.

3.2. Pla-tôn (427 – 347 TCN) Pla-tôn xuất thân trong một gia đình chủ nô quý tộc ở A-ten. Tên thật của ông là Aristôclơ. Theo Arixtốt, lúc đầu Platôn là học trò của Cratin (người theo thuyết tương đối), sau đó là học trò của Xôcrát (nhà triết học duy lý, duy tâm chủ nghĩa). Khi Xôcrát bị kết án tử hình vì tội hoạt động chống lại chế độ dân chủ chủ nô, Platôn rời Aten đến sống ở miền nam nước Italia. Trong thời gian này ông có liên hệ với phái Pitago và Ơclít. Sau này ông trở lại Hy Lạp, lập trường dạy học ở Aten, gọi là Viện hàn lâm (Académie). Đây là trường Đại học tổng hợp đầu tiên ở châu Âu, học trò rất đông, trong đó có nhà triết học nổi tiếng Arixtốt. Ngót 40 năm giảng dạy và trước tác, ông đã để lại 34 thiên đối thoại và nhiều bức thư triết học. Tác phẩm “Nước cộng hoà” (République) có vị trí đặc biệt trong triết học của ông.

Platôn là nhà triết học duy tâm khách quan, đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy vật đương thời. Khi nói về hai đường lối, hai trường phái trong triết học, Lênin đã chỉ ra sự đối lập giữa đường lối duy vật của Đêmôcrít và đường lối duy tâm của Platôn. Tư tưởng triết học của Platôn chịu ảnh hưởng sâu sắc các yếu tố duy tâm trong triết học của Pitago và Xôcrát. Ngoài những cống hiến của ông về phép biện chứng của ý niệm, vai trò của ý thức xã hội trong việc hình thành nhân cách và ý thức cá nhân, triết học của ông tiêu biểu cho chủ nghĩa duy tâm thời cổ đại.

a. Học thuyết về ý niệm

Như đã nói ở trên, Pla-tôn chịu ảnh hưởng sâu sắc khuynh hướng duy lý trong triết học Hy Lạp cổ đại (lý luận về cái duy nhất của trường phái Êlê, lý luận về con số của trường phái Pitago, lý luận về cái phổ biến của Xôcrát). Vì vậy ông xem nhẹ vai trò của nhận thức cảm tính, tuyệt đối hoá vai trò của nhận thức lý tính, của khái niệm. Từ đó ông chia thế giới thành hai loại: thế giới của những ý niệm (khái niệm) và thế giới của những sự vật cảm tính.

Theo ông, thế giới của những ý niệm là tồn tại chân thực, vĩnh viễn, tuyệt đối, bất biến, nó là cơ sở tồn tại của thế giới các sự vật cảm tính. Còn thế giới các sự vật cảm tính là tồn tại không chân thực, phụ thuộc vào thế giới của các ý niệm, nó là cái bóng của ý niệm.

Để minh hoạ cho quan niệm thế giới các sự vật cảm tính được sinh ra từ thế giới các ý niệm như thế nào, Platôn đã đưa ra ví dụ “Hang động” như sau: Ở ngoài cửa của một cái hang tối có một đoàn người đi qua; ánh sáng mặt trời chiếu vào cửa hang làm cho bóng của đoàn người được in lên vách đá. Nếu nhìn lên vách hang bên trong, người ta sẽ thấy những bóng người đi qua. Những bóng này chỉ là hình ảnh của đoàn người, chứ không phải bản thân đoàn người. Thế giới các sự vật cảm tính cũng vậy, nó chỉ là cái bóng của ý niệm đã có từ trước mà thôi.

Như vậy, khi giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học, Platôn cho rằng ý niệm là cái có trước, là nguyên nhân, là bản chất của sự vật. Còn sự vật chỉ là cái có sau, là cái bắt chước, cái mô phỏng, là bản sao của ý niệm.

b. Lý luận về nhận thức

Từ cách giải quyết duy tâm khách quan như trên về mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học, khi giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học, Platôn cũng rơi vào quan niệm duy tâm, thần bí.

Theo ông, đối tượng của nhận thức không phải là các sự vật cảm tính khách quan bên ngoài, mà là thế giới ý niệm. Nhận thức cảm tính không phải là nguồn gốc của tri thức; tri thức chân thực chỉ có thể đạt được bằng nhận thức lý tính, được thể hiện ở các khái niệm. Bởi vì, mỗi sự vật đều có một ý niệm về nó; sự vật có thể mất đi, nhưng ý niệm về sự vật không bao giờ mất. Ví dụ cái nhà có thể sụp đổ, hư nát, không còn là cái nhà, nhưng ý niệm về cái nhà (khái niệm nhà) thì không mất.

Bằng cách nào để có được nhận thức chân thực, đạt được chân lý? Bằng cách hồi tưởng lại những gì linh hồn đã trải qua, nhưng khi nhập vào thể xác con người nó đã bị lãng quên. Tóm lại, Platôn đã quy toàn bộ quá trình nhận thức thành quá trình hồi tưởng của linh hồn bất tử, rất thần bí.

c. Học thuyết về chính trị – xã hội

Trong tác phẩm Nước cộng hoà (Chính thể cộng hoà), Pla-tôn chia linh hồn làm ba bộ phận: lý tính hay trí tuệ, xúc cảm và cảm tính. Tương ứng với ba bộ phận ấy là ba hạng trong xã hội. Hạng thứ nhất, là các nhà triết học, nhà thông thái. Hạng này lý tính giữa vai trò chủ đạo, thích hợp với việc lãnh đạo nhà nước. Hạng thứ hai, là những người lính, võ sĩ mà linh hồn của họ tràn đầy xúc cảm gan dạ, biết phục tùng lý trí và nghĩa vụ, thích hợp với việc bảo vệ an ninh của nhà nước cộng hoà. Hạng thứ ba, là đại chúng, gồm những người nông dân, thợ thủ công và thương nhân. Hạng này linh hồn của họ không đi xa hơn những khát vọng cảm tính thích nghi với lao động chân tay, làm ra của cải vật chất phục vụ cuộc sống của nước cộng hoà. Vì vậy, công lý là ở chỗ mọi người phải sống đúng vị trí của mình.

Để duy trì trật tự xã hội, Platôn cho rằng sự tồn tại của nhà nước là cần thiết, nhưng ba hình thức nhà nước hiện nay đều xấu. Một là nhà nước của bọn vua chúa xây dựng trên khát vọng làm giầu, ham danh vọng, đưa đến chiến tranh. Hai là, nhà nước quân phiệt của một số ít người giầu có, áp bức số đông, đưa đến tội ác. Ba là, nhà nước dân chủ đem lại quyền lực cho số đông; đó là một nhà nước tồi tệ.

Platôn nêu lên mô hình một nhà nước mà ông cho là lý tưởng, đó là nhà nước cộng hoà. Trong nhà nước ấy, quan hệ bất bình đẳng giữa các hạng người phải được duy trì, bởi vì nó hợp với tự nhiên, hợp với sự phân công trong xã hội. Sự tồn tại của nhà nước lý tưởng phải dựa trên sự phát triển của sản xuất vật chất và sự phân công hài hoà giữa các nghề trong xã hội. Để khắc phục sự phân chia giàu nghèo, cần xoá bỏ gia đình và tư hữu. Trẻ con sinh ra được đưa vào các cơ quan giáo dục riêng, lựa chọn những đứa trẻ khỏe mạnh, nuôi dưỡng chúng để trở thành vệ binh. Các nhà thông thái, triết học sẽ được lựa chọn trong số vệ binh này.

3.3. Arixtốt (384 – 322 TCN)

Arixtốt là con một thầy thuốc, thuộc xứ Maxêđoan, bắc Hy Lạp. Năm 17 tuổi ông đến Aten học ở Việt hàn lâm của Platôn và trở thành giáo viên của Viện. Khi Platôn qua đời, ông rời Aten đi chu du nhiều nơi thuộc vùng Tiểu Á. Trong thời gian này ông được mời dạy học cho hoàng tử Alếchxăngđrơ (Alexandre) con vua Philíp (Philippe) xứ Maxêđoan (Macédoine). Năm 336 chúng tôi ông trở về Aten lập ra trường phái triết học riêng của mình. Học thức của ông hết sức uyên bác, được Mác coi là nhà tư tưởng vĩ đại nhất của thời cổ đại. Ông đã để lại cho nhân loại nhiều công trình khoa học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Về triết học, có tác phẩm “Siêu hình học”. Về lôgíc học, có tác phẩm “Oóc ga-nôn”. Về khoa học tự nhiên, có tác phẩm “Vật lý học”. Về khoa học xã hội, có tác phẩm “Đạo đức học”, “Chính trị học”, “Thi ca học” v. v.

Cống hiến nổi bật của Arixtốt là ông đã phê phán một cách cặn kẽ học thuyết về ý niệm của Platôn, đã đặt nền móng cho khoa học lôgíc thời cổ đại. Nhưng vì dao động giữa hai đường lối duy vật và duy tâm, nên triết học của ông mang tính chất chiết trung, không triệt để.

a. Thế giới quan triết học của A-ri-xtốt

A-rít-xtốt là học trò xuất sắc của Platon, nhưng chính ông lại nhận ra sai lầm của thầy học mình về học thuyết ý niệm. Sai lầm của Platôn là ở chỗ, ông đã tách rời bản chất khỏi cái có bản chất đó, và biến ngay cái chung (khái niệm) thành cái riêng bên cạnh thế giới cảm tính, quyết định thế giới cảm tính. Nghĩa là, Platôn đã biến những khái niệm được hình thành trong quá trình nhận thức thành một thế giới riêng biệt, siêu cảm giác, tồn tại một cách độc lập đối với những sự vật được phản ánh.

Theo Arixtốt, bản chất tồn tại (chứa đựng) ngay trong bản thân sự vật. Những bản chất này được nhận thức của con người khái quát thành những cái chung, cái phổ biến dưới dạng, các khái niệm, các phạm trù, các quy luật. Vì vậy, không phải khái niệm phạm trù, quy luật là cái có trước, sinh ra sự tồn tại của sự vật, mà ngược lại. Trong tác phẩm “Các phạm trù”, Arixtốt khẳng định: “Khái niệm không bao giờ lại là nguyên nhân của sự tồn tại của sự vật, mà sự vật, có thể gọi là nguyên nhân chân chính của khái niệm”. Quan niệm đó được Lênin đánh giá là đã tiến sát đến chủ nghĩa duy vật.

Trên cơ sở phê phán học thuyết ý niệm của Platôn, Arixtốt đã xây dựng hệ thống triết học riêng của mình, ông thừa nhận giới tự nhiên tồn tại một cách khách quan với những sự vật hết sức đa dạng. Vật lý học nghiên cứu các dạng tồn tại cụ thể của nó; ông coi đây cũng là triết học, nhưng là “triết học thứ hai”.

Siêu hình học nghiên cứu bản chất của tồn tại nói chung và được ông coi là “triết học thứ nhất”.

Về vấn đề linh hồn, Arixtốt cho rằng con người có phần linh hồn và phần thể xác, tựa như mỗi sự vật đều được hình thành từ vật chất và hình thức. Ông phê phán Platôn xem “thể xác chỉ là nơi trú ngụ tạm thời của linh hồn bất tử “. Theo ông, linh hồn không có trong cơ thể chết; không thể có linh hồn nếu không có vật chất. Nhưng ông lại chia linh hồn làm 3 loại: linh hồn thực vật có hoạt động nuôi dưỡng và sinh sản; linh hồn động vật có khả năng cảm ứng với môi trường xung quanh; linh hồn con người có hoạt động lý tính, đây là loại linh hồn cao nhất. Trong con người có cả ba loại linh hồn nói trên. Khi người ta chết, riêng linh hồn lý tính còn tồn tại bất diệt. Quan niệm về linh hồn như trên chứng tỏ rằng Arixtốt là nhà triết học không triệt để, vừa phê phán Platôn, vừa kế thừa quan điểm duy tâm của Platôn.

b. Lý luận nhận thức của Arixtốt

Lý luận về nhận thức của Arixtốt là đỉnh cao của sự phát triển các tư tưởng về nhận thức luận thời cổ đại Hy Lạp. Ông đã đặt ra những vấn đề hệ trọng về nhận thức luận, như các vấn đề: đối tượng của nhận thức, khả năng nhận thức của con người, vấn đề chân lý và khoa học về tư duy. Điểm đặc sắc trong lý luận nhận thức của ông là phương pháp suy luận ba bước (tam đoạn luận) của lôgíc hình thức.

Khác với Platôn coi ý niệm là đối tượng của nhận thức, ông khẳng định rằng thế giới khách quan là đối tượng của nhận thức, là nguồn gốc của kinh nghiệm; tự nhiên là tính thứ nhất, tri thức là tính thứ hai. Theo ông, mọi tri thức đều bắt nguồn từ cảm giác về những sự vật đơn nhất được khái quát lại mà có. Ông kịch liệt phê phán quan niệm của Platôn coi nhận thức chỉ là sự hồi tưởng của linh hồn. Ông khẳng định rằng, nhận thức của con người không có tính chất bẩm sinh, linh hồn con người khi mới sinh ra hoàn toàn không có tri thức, nó tựa như một tấm bảng sạch chưa có vết phấn (nguyên lý Tabula rasa).

Ông là người có quan niệm rành mạch về quá trình nhận thức đi từ cảm tính đến lý tính. Tuy hết sức coi trọng nhận thức cảm tính, nhưng theo ông nhận thức cảm tính không có khả năng đi sâu vào bản chất của sự vật. Nếu chỉ bằng cảm giác, con người ta không thể nắm được định lý về tổng các góc của một tam giác bằng hai góc vuông và không giải thích được các hiện tượng nhật thực, nguyệt thực. Vì vậy, để đạt đến chân lý, nhận thức phải đi từ cảm tính đến lý tính. Đó là quá trình đi từ những cảm giác đơn lẻ, ngẫu nhiên đến cái chung, cái phổ biến, cái bản chất dưới dạng khái niệm, phạm trù, quy luật. Nhưng như đã nói ở trên, ông đã tuyệt đối hoá vai trò của nhận thức lý tính, coi lý tính là hình thức của mọi hình thức, quyết định bản chất của sự vật.

Trên con đường tư duy lý tính, Arixtốt rất quan tâm đến phương pháp tư duy: theo ông, cái được coi là chân lý phải là cái phù hợp giữa tư tưởng và thực tế. Muốn vậy, mọi tư duy đáng tin cậy phải được diễn đạt chính xác, có nội dung đáng tin cậy và vững chắc. Từ đó, ông đã nêu lên những nguyên tắc rất cơ bản để xây dựng khái niệm, phạm trù. Ông cũng đã nêu lên những quy luật cơ bản của tư duy logíc (quy luật đồng nhất, quy luật cấm mâu thuẫn trong tư duy, quy luật loại trừ cái thứ ba). Ông đã nêu lên phương pháp suy luận ba bước (tam đoạn luận). Trong đó, kết luận được rút ra từ hai tiền đề đã có (Nếu A thuộc B, B thuộc C, thì A thuộc C. Ví dụ: Đồng là kim loại, mọi kim loại đều dẫn điện, vậy đồng cũng dẫn điện).

Tuy mới đề cập được một số nguyên tắc của tư duy lôgíc, nhưng ông được coi là người sáng tạo ra lôgíc hình thức cổ điển. Những nguyên tắc lôgíc học của ông, sau này được Bêcơn, Đềcác và các nhà triết học cổ điển Đức kế thừa và phát triển lên một trình độ cao hơn.

Tóm lại: Arixtốt là nhà triết học vĩ đại nhất của Hy Lạp cổ đại. Ph. Ăngghen đã gọi ông là con người có “ khối óc toàn diện nhất”. Còn C. Mác đã đánh giá: “ tư tưởng thâm thúy của Arixtốt vạch ra những vấn đề trừu tượng nhất một cách thật đáng kinh ngạc…” Tư tưởng của ông coa ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của triết học và khoa học tự nhiện sau này.

(Nguồn: ĐH Mỏ Địa chất)

0.000000

0.000000

Những Triết Gia Lừng Danh Của Hy Lạp Cổ Đại

Parmenides được biết đến như là học trò của Pythagoras – một triết gia nổi tiếng khác của Hy Lạp cổ đại. Các tác phẩm thơ và tư tưởng của Parmenides dường như luôn chịu ảnh hưởng đáng kể từ Xanophanes, đến nỗi các sử gia phải băn khoăn rằng, có nên coi ông là học trò của Xanophanes. Trong số các nhà triết học tiền Socrates, Parmenides được liệt kê vào danh sách những người quan trọng nhất.

Tác phẩm duy nhất của Parmenides được mọi người biết đến là bài thơ có tiêu đề “On Nature” (“Bàn về tự nhiên’). Trong bài thơ này, ông đã cố gắng làm sáng tỏ 1 câu hỏi lớn: Là nó, hay không phải là nó? Thật sự mà nói, những nỗ lực của ông trong việc giải mã bí ẩn triết học này đã dẫn đến một tuyên bố khá nghịch lý chứ không phải là một câu trả lời thỏa đáng. Parmenides cho rằng ta nhận định được tất cả các sự vật là vì chúng có tồn tại. Chúng ta không thể hình dung sự không tồn tại, không hình dung được là không có. Quan niệm về tồn tại của Parmenides mang tính siêu hình, nhưng nó lại là đóng góp lớn của ông cho nền triết học sau này.

Một nhân vật quan trọng khác của thời kỳ tiền-Socrates là Anaxagoras. Ông sinh ra tại Clazomenae, là một triết gia, một nhà khoa học có sức ảnh hưởng lớn, người đã sống và giảng dạy tại Athens trong gần 30 năm. Quan điểm triết học của ông phần nhiều xoay quanh bản chất của sự vật. Cũng giống như hầu hết các triết gia Hy Lạp cổ đại khác, tư tưởng của ông tương phản và động chạm tới các tư tưởng đương thời. Niềm tin mới mẻ đó đã khiến Anaxagoras phải đối mặt với những hậu quả nguy hiểm cả đến tính mạng.

Anaxagoras được ghi cho là người đầu tiên mang triết học đến Athens. Đây cũng chính là nơi mà sau này triết học phát triển đến đỉnh cao và tác động vào xã hội cho tới hàng trăm năm sau. Ông dành nhiều thời gian của mình để giải thích bản chất của tự nhiên – lấy vũ trụ như là một khối không phân định cho đến khi nó được xác định trong một phần tinh thần mà ông gọi là ‘nous’. Ông tin rằng trong thế giới vật lý, vạn vật đều có chứa một phần của tất cả mọi thứ khác. Không có gì là tinh khiết hoàn toàn, riêng chỉ có “nous” (tức là trí tuệ) là đơn giản có quyền hạn tối cao và không hòa lẫn với một vật nào. Trí tuệ tự nó tồn tai. Nếu nó không tự nó tồn tại, mà hòa lẫn với một cái khác thì hỗn hợp sẽ cản trở, do vậy nó không thể điều khiển được một vật nào nữa. Nó là một vật nhẹ nhất và thuần khiết nhất, có trí thức đầy đủ về tất cả và có sức mạnh vĩ đại nhất. Trí tuệ điều khiển tất cả những gì có linh hồn.

Anaximander sinh ra tại Miletus, là một học trò nổi tiếng và là người kế tục của Thales. Ông được xem là triết gia đầu tiên đã ghi chép lại những nghiên cứu của mình. Ông cũng là một nhân vật nổi tiếng trong lĩnh vực sinh học và địa lý buổi sơ khai. Hơn nữa, ông đã dựng nên hình ảnh đầu tiên về thế giới trong một vũ trụ mở, gạt bỏ khái niệm về một vũ trụ đóng, và điều này đã giúp ông trở thành nhà thiên văn học đầu tiên trong lịch sử nhân loại.

Anaximander tiếp tục phát triển các quan điểm triết học của người thầy Thales – đưa ra một ‘Arche’ hoặc một nguyên lý mà ông tin đó là cơ sở của tất cả vũ trụ. Nhưng không giống như Thales, Anaximander cho rằng cơ sở này đã có một ‘Apeiron’ (một chất không giới hạn) hoạt động như khởi nguồn cho tất cả mọi thứ. Chính khởi nguồn này đã tạo nên những điểm trái ngược trong thế giới như nóng và lạnh, sáng và tối,… Rất có thể phần lớn các tác phẩm của ông đã bị cắt ngắn, đặc biệt là khi rơi vào tay các triết gia thế hệ tiếp theo. Thế nhưng Anaximander vẫn thực sự là một trong những bộ óc vĩ đại nhất của Hy Lạp thời kỳ cổ đại.

Empedocles là một trong những nhà triết học quan trọng nhất trong thời kỳ tiền Socrates. Xuất sắc hơn nữa là những bài thơ của ông đã tạo nên một sức ảnh hưởng vô cùng lớn tới các nhà thơ thế hệ sau, bao gồm cả những người như Lucretius. Empedocles nổi tiếng nhất là nhờ khởi xướng cho thuyết nguồn gốc vũ trụ tạo bởi bốn nguyên tố cổ điển. Thuyết này nói rằng tất cả các vấn đề về cơ bản đều bao gồm bốn yếu tố chính: đất, không khí, lửa và nước. Mặc dù một số sử gia cho rằng lý thuyết trên là một nỗ lực để phủ nhận thuyết “vạn vật quy nhất” của Parmenides, thế nhưng đây vẫn trở thành một trong những lý thuyết sớm nhất về phân tử vật lý, được mặc nhiên công nhận.

Empedocles chỉ đơn giản là phủ nhận sự hiện diện của bất kỳ khoảng trống hoặc không gian rỗng nào, do đó quan niệm này mâu thuẫn với tư tưởng triết học của Parmenides. Ông đưa ra ý tưởng về các động lực đối lập cùng hình thành nên thế giới – cụ thể là: Ái tình là nguyên nhân của hòa hợp, và xung đột là nguyên nhân của chia ly. Empedocles cũng đi vào nghiên cứu và trở thành người đầu tiên đưa ra một khoản mục về sự phát triển tiến hóa các loài.

Vào thời điểm mà hầu hết các triết gia Hy Lạp cổ đại đang xem xét kỹ lưỡng suy luận và kiến thức của mình để giải thích bản chất vốn có của tự nhiên. Zeno Elea lại dành thời gian để làm sáng tỏ các các khúc mắc, nghịch lý về chuyển động và đa nguyên. Giá trị của ông nằm ở chỗ ông là người đã cố gắng để tìm một lời giải thích chi tiết cho những mâu thuẫn hiện diện trong thế giới vật chất, rất lâu trước khi logic phát triển.

Zeno tiếp tục mở rộng và bảo vệ các hệ tư tưởng triết học mà ông học được của Parmenides, những tư tưởng đã gặp phải nhiều sự phản đối từ số đông dư luận tại thời điểm đó. Ông cũng đưa ra nhiều nghịch lý của mình, trở thành đề tài gây tranh cãi sôi nổi giữa các thế hệ triết gia sau này. Đa phần các đối số đương đại về nghịch lý của ông được sử dụng nhằm dẫn tới sự phân chia thời gian và không gian vô hạn – ví dụ như nếu có một khoảng cách thì sẽ phải có một nửa của khoảng cách đó và tương tự. Zeno là nhân vật đầu tiên trong lịch sử triết học của nhân loại đã tìm ra các khái niệm về tồn tại vô cực.

Ở trường phái này, Pythagoras đã cố gắng để tìm thấy một sự hòa hợp lẫn nhau giữa cuộc sống thực và các khía cạnh thực tiễn của triết học. Các quan điểm của ông không hoàn toàn khô cứng như những gì chúng ta vẫn nghĩ về triết học, nhưng nó cũng bao gồm một số vấn đề chung như “Những nguyên tắc sống”, “Thực phẩm để ăn hàng ngày”, tương tự như vậy. Pythagoras cho rằng thế giới là một sự hòa hợp hoàn hảo và hướng việc giảng dạy của mình vào mục đích làm thế nào để sống một cuộc sống hài hòa.

Socrates đã đem lại một cái nhìn hoàn toàn mới về việc ứng dụng triết học vào đời sống hàng ngày một cách thiết thực – Điều mà phần lớn các cách tiếp cận của triết học tiền Socrates đã không làm được.

Triết học Socrates không có một mục đích nào khác ngoài việc hướng tới con người với những suy tư, trăn trở đời thường của nó. Ông thực sự “là một trong số những khuôn mặt nổi bật nhất nhưng cũng bí ẩn nhất trong lịch sử triết học”.

Ông là một học trò chịu ảnh hưởng rõ rệt từ cách tiếp cận triết học của người thầy Socrates. Thế nhưng trong khi Socrates không ngừng bận rộn với việc giải thích triết học chỉ dựa trên lý luận về con người, Plato lại đưa ra hướng đi của mình bằng cách kết hợp hai cách tiếp cận chính: siêu hình học tiền Socrates thần học tự nhiên với thần học đạo đức Socratic. Triết học của Platon là một hệ thống triết học duy tâm khách quan lớn và đầu tiên trong lịch sử triết học đã đạt đến sự hoàn chỉnh, nhất quán và triệt để.

Trong vật lý, ông đồng ý với nhiều quan điểm của trường phái Pytago. Hầu hết các tác phẩm của ông – đặc biệt là tác phẩm nổi tiếng nhất “The Republic” – dường như là sự pha trộn giữa các khía cạnh khác nhau của đạo đức, triết học chính trị và siêu hình của những người khác, làm thành một triết lý có hệ thống, có ý nghĩa và có thể áp dụng.

Aristotle là triết gia có sức ảnh hưởng lớn nhất trong số các môn đệ của Plato. Cách lý giải sự vật của ông thường dựa trên những điều đã học được từ trải nghiệm thực tế, kết hợp với những cách tiếp cận khác nhau học hỏi từ người thầy Plato. Aristotle đã chứng tỏ bản thân vừa là một nhà văn giàu trí tưởng tượng, vừa là một học giả đầy sáng tạo. Ông ghi lại tất cả các các quan điểm của mình trong tất cả các lĩnh vực ông nghiên cứu.

Vào thời điểm khi mà các kiến thức chuyên môn của con người vẫn còn ở mức độ quá tổng quát, Aristotle đã phá vỡ sự đồng hoá kiến thức tổng thể, phân chia nó thành các loại khác nhau như đạo đức học, sinh học, toán học và vật lý – mô hình phân loại này vẫn được sử dụng cho tới ngày hôm nay. Aristotle thực sự là một nhân vật chủ chốt trong triết học Hy Lạp cổ đại. Sức ảnh hưởng và tác động của ông không chỉ vượt ra ngoài giới hạn của Hy Lạp cổ đại, mà còn vượt ra cả giới hạn của thời gian.

Thales được xếp vào vị trí đầu bảng trong danh sách này vì ông là điểm then chốt trong triết học Hy Lạp cổ đại – nơi mà từ đây, các thế hệ tiếp theo của nhiều nhà tư tưởng, nhà lý luận, biện chứng, vật lý học và triết học siêu nổi tiếng sẽ phát triển và thành danh. Các nhà sử học coi Thales như là cha đẻ của triết học Hy Lạp cổ đại. Phần lớn tư tưởng của Thales được truyền lại thông qua những miêu tả của Aristotle – người đã chỉ ra rằng Thales là nhà triết học đầu tiên nghiên cứu các nguyên tắc cơ bản trong triết học như căn nguyên của vấn đề. Thales cũng được cho là người đã sáng lập ra trường phái triết học tự nhiên.

Là một triết gia, Thales hiếm khi giới hạn nghiên cứu của mình trong một lĩnh vực hạn chế giữa biển kiến thức sẵn có. Ông đã rất đam mê và tích cực tìm hiểu các khía cạnh khác nhau của kiến thức như triết học, toán học, khoa học, địa lý, và cả những khía cạnh không tên khác. Ông cũng được cho là người đã phát triển một tiêu chuẩn rõ ràng để đưa ra giả thuyết tại sao trong sự vật lại diễn ra những thay đổi. Ông cho rằng nước là thành phần cơ bản của thế giới. Thales là triết gia được kính trọng bậc nhất trong xã hội Hy Lạp cổ đại.

Kết luận

Sự xuất hiện của toàn bộ triết học truyền thống phương Tây có thể đã được bắt nguồn từ thời đại triết học ở Hy Lạp cổ đại. Sự phát triển của niềm đam mê triết học và tư duy phân tích trong các triết gia Hy Lạp cổ đại khoảng thế kỷ 6 TCN đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển tiếp theo của kiến thức như chúng ta biết ngày nay. Trong cuộc hành trình triết học của họ, mỗi người có một cách tiếp cận khác nhau để tìm kiếm câu trả lời cho những nghịch lý nổi tiếng, và từ đó lại tìm ra thêm vô số những nghịch lý khác. Hành trình ấy bắt đầu với những nỗ lực đầu tiên của Thales để nhận thức thế giới từ góc độ phương pháp. Sau đó, thành công của các nhà tư tưởng quan trọng kế cận đã dần tiếp nối nhau, đa dạng hóa phương pháp này thành khoa học tự nhiên, siêu hình học, và cuối cùng, thần học đạo đức – dẫn đến sự phát triển của triết học mà chúng ta biết ngày nay.

Dịch bởi: Yến Nhi Nguồn dịch: AncientHistoryLists

Julia Có Nghĩa Là Gì Trong Tiếng Hy Lạp. Ý Nghĩa Của Tên Nữ Là Julia. Mối Quan Hệ Và Hôn Nhân

Tên Julia có nghĩa là Firl Fluffy,, từ tiếng Hy Lạp (yulos).

– Theo một phiên bản khác, tên này xuất phát từ tiếng Latin Iulia – và có nghĩa là “Tháng Bảy”, hoặc “từ gia tộc Julia”.

– Có một phiên bản ít phổ biến hơn, đây là tên Slavic, bắt nguồn từ động từ “to bustely”.

Cái tên Julia tươi sáng, du dương và hấp dẫn. Một sự kết hợp hiếm hoi của ba nguyên âm trong một tên ngắn như vậy tạo cho nó một sự dịu dàng, vì vậy tên này rất phổ biến, bất chấp tất cả các tên mới.

Cùng với cái tên này, cô gái thường có được tính cách sôi nổi, hòa đồng, tinh tế và xinh đẹp.

Các biến thể nhỏ gọn: Julia, Julia, Julia, Julia.

nữ diễn viên

Tên này đến nước ta cùng thời với Kitô giáo, nhưng cho đến thế kỷ 18, nó gần như không xảy ra. Sau đó, một vài phụ nữ quý tộc bắt đầu được gọi bằng cái tên này, và vào thế kỷ 19, nó đã lan rộng trong giới trí thức. Sau cuộc cách mạng, cái tên Julia được sử dụng đầu tiên ở các thành phố, sau đó là ở các làng và từ những năm 1970, nó đã trở thành một trong những cái tên phổ biến nhất.

Vào những năm 1980, cái tên này đã ở vị trí thứ 5 – đó là đỉnh cao của sự nổi tiếng.

Do sự hòa đồng, Julia thường được gọi là những cô gái sinh vào tháng Bảy. Và tại các quốc gia Scandinavi, họ gọi những cô gái sinh vào tháng 12 là cái tên nghe có vẻ giống như từ jul jul – –

Ở Anh và Ý, tên này được viết là Julia (Julia), ở Đức – Julia (Julia), ở Pháp – Juliette (Juliet) và Julie (Julie), ở Tây Ban Nha – Julia (Julia).

Ngày của Thiên thần của Julia là ngày 31 tháng 5 (Julia của Corinth) và ngày 29 tháng 7 (Julia của Corsican, được coi là người bảo trợ của Corsica).

Julia – có nghĩa là một cô gái năng động và nhanh nhẹn, có trạng thái nghỉ ngơi đơn giản dẫn đến trạng thái lãnh đạm, gây ra sự nhàm chán. Nhưng nếu Julia ở trên một trung đội, sẽ không có gì ngăn cản cô ấy.

nữ diễn viên

Khách hàng quen tên Julius

Cung hoàng đạo – Sư Tử

Hành tinh – mặt trời

Màu – Vàng tươi

Mùa vui vẻ – Mùa hè

Cây quý – Sồi

Cây hướng dương

Đá bùa – Hổ phách

Totem – Chuồn chuồn

Tiểu Julia

Thời thơ ấu, Julia rất không ổn định, cảm động và dễ bị tổn thương, khá bướng bỉnh và cố chấp. Tâm trạng của cô ấy có thể thay đổi trong vài phút, nhưng sự phẫn nộ qua đi nhanh chóng. Để tránh các vấn đề – đôi khi nó tốt hơn là chỉ để nó một mình. Fidget này sẽ không bao giờ thừa nhận sai lầm của mình và sai – không có gì để cố gắng làm cho cô ấy làm điều đó. Đối với tất cả sự bồn chồn (không phải là không có gì mà cái tên đó là phụ âm với từ “yule”) cô gái này rất ấn tượng, vì vậy cha mẹ nên bảo vệ cô khỏi những thông tin không mong muốn trên Internet.

Mọi thứ không diễn ra đặc biệt tốt với các nghiên cứu – Julia có khả năng tốt, nhưng cô ấy không có quyết tâm và khao khát kiến u200bu200bthức, vì vậy tất cả đào tạo đều dựa trên sự cần thiết. Ở tuổi thiếu niên, một cô gái có thể bắt đầu đọc rất nhiều, chủ yếu là tiểu thuyết nữ.

Nhân vật Julia Lemon cần điều chỉnh liên tục – nếu không đứa trẻ sẽ lớn lên không kiểm soát được, vì vậy mối quan tâm này nằm ở cha mẹ. Điều chính là để có thể kiểm soát và thao túng Julia, khiến cô ấy quan tâm đến các hoạt động hữu ích, tích cực, phát triển, chuyển trung tâm lợi ích của cô ấy đi đúng hướng. Nếu điều này không được thực hiện đúng hạn, trong tương lai cha mẹ sẽ nhận được rất nhiều vấn đề.

Làm việc

Các khả năng của Yulia xông cho nhiều lựa chọn ngành nghề – luật sư, lập trình viên, nhà thiết kế, quản lý mọi hướng, nhân viên sáng tạo và thậm chí là nữ diễn viên, nghệ sĩ, nhà phê bình nghệ thuật. Ở mọi nơi cô ấy sẽ cảm thấy ở vị trí của mình, ở mọi nơi cô ấy sẽ phát triển và tìm kiếm chính mình. Cô ấy là một công nhân xuất sắc, có trách nhiệm, bền bỉ, có thể truyền cảm hứng cho những người khác – và đồng thời, không có sự cuồng tín, mà không làm việc quá sức, trì hoãn và tham công tiếc việc. Hướng khoa học duy nhất không phải là con ngựa của cô. Trong một số trường hợp, nếu có cơ hội như vậy, Julia từ chối tất cả sự nghiệp, cống hiến cuộc đời cho gia đình.

Julia không đặc biệt bị thu hút bởi vị trí lãnh đạo – tuy nhiên, nhiều khả năng cô là một nhân viên nô lệ của người Hồi giáo, và nhân viên này khá bồn chồn. Anh ta không tha thứ cho học thuyết đạo đức và chọn lọc nit, và trong trường hợp này nó có thể khá mâu thuẫn. Julia cư xử tương tự với đàn ông và phụ nữ, thường đổ lỗi cho người khác về những thất bại, luôn biết cách thoát ra khỏi dòng nước.

Tính cách vui vẻ và vui vẻ của cô ấy giúp ích rất nhiều trong sự nghiệp, và làm dịu đi sự quyết đoán quá mức của cô ấy.

Nhân vật tên Julius

Julia tốt bụng, vị tha, rất sáng tạo, hòa đồng và nhiệt tình, đặc biệt là với tất cả các thế giới khác và siêu nhiên. Tuy nhiên, nhân vật của cô không thể được gọi là đơn giản – cô bướng bỉnh từ nhỏ và không bao giờ nghe lời khuyên của người khác, ngay cả khi họ chính xác và công bằng. Sự bướng bỉnh và không khoan nhượng làm phức tạp mối quan hệ của cô với mẹ chồng, nên càng ít tiếp xúc với cô thì càng tốt. Julia sẵn sàng đổ lỗi cho cả thế giới về những vấn đề của mình – ngoại trừ bản thân.

Rất mong muốn rằng một người đàn ông rắn rỏi, có mục đích và mạnh mẽ sẽ ở bên cạnh cô – sau đó Julia sẽ hạnh phúc sống dưới sự bảo trợ của anh ta.

Julia che giấu sức mạnh của nhân vật, và chỉ hiển thị nó khi cần thiết. Nếu cô ấy phải đối mặt với những nhiệm vụ phức tạp, phi thường, mạo hiểm và thú vị – cô ấy sẽ dễ dàng đối phó với chúng. Vấn đề chính của Julia là sự vội vàng, thiên về những cuộc phiêu lưu, những người quen mạo hiểm. Và tàn phá nhất đối với cô là thói quen và sự đơn điệu. Bị nhốt trong một thói quen hàng ngày buồn tẻ, Julia có thể nhanh chóng rơi vào trầm cảm và thờ ơ.

Tình yêu, gia đình và hôn nhân

Julia dễ dàng giao tiếp với cả nam và nữ. Xinh đẹp, vui vẻ, luôn giữ dáng, vừa vặn và nữ tính, với một chút bí ẩn, cô không bị chú ý – đàn ông yêu, phụ nữ ghen tị. Tiểu thuyết thường thoáng qua và mang lại nhiều thất vọng. Nhưng nếu đối tác yêu chân thành, mối quan hệ sẽ lâu dài và hạnh phúc.

Nếu người chồng được chọn đúng, Julia dành cả cuộc đời để yêu, vẫn là một người vợ tận tụy và chu đáo. Nhà và gia đình nhanh chóng trở thành nền tảng của cuộc đời cô – và Julia đối phó với vai trò tình nhân một cách hoàn hảo, mặc dù thói quen của cô rất phiền muộn. Luôn có sự ấm cúng và trật tự trong nhà cô, khách luôn được chào đón ở đó, không thiếu những món giải khát và giải trí. Người chồng sẽ hoàn toàn hạnh phúc với một người bảo vệ tuyệt vời của lò sưởi, điều duy nhất bạn nên luôn luôn nhớ là Julia không chịu đựng sự lừa dối, và tốt hơn là đừng đùa với điều này.

Bởi D. và N. Zima

Ý nghĩa và nguồn gốc của tên: Hình thức nữ của tên gia trưởng La Mã Julius. Tên bắt nguồn từ Yul Askaniy, anh hùng La Mã, người mà gia tộc La Mã Julius lãnh đạo gia phả

Tên năng lượng và tính cách: Tên này được đặc trưng bởi sự kích thích thần kinh đáng kinh ngạc, sự nhanh nhẹn của cảm xúc, và có vẻ như Yulia thích được hấp dẫn. Ít nhất, một trạng thái nghỉ ngơi thường gây ra sự thờ ơ của cô ấy, hoặc ít nhất là sự buồn chán và lười biếng. Nhưng khi cô ấy ở trên trung đội, cô ấy thường có thể kiềm chế bản thân. Không có gì ngạc nhiên khi tên này rất giống với từ Yule.

Thông thường, từ thời thơ ấu, Yulia rất đặc trưng về tính khí thất thường và bướng bỉnh, điều này làm phức tạp sự nuôi dưỡng của cô và đôi khi khiến cha mẹ cô nuông chiều con gái, đưa ra bất kỳ sự nhượng bộ nào với cô. Điều này là không hợp lý, kể từ đó, nhân vật bồn chồn và cố ý của Julia sẽ nhận được sự khích lệ, và Chúa biết những cuộc phiêu lưu và những bước đi sai lầm này sẽ khiến cô ấy già đi theo tuổi tác. Tuy nhiên, không thể nói rằng Julia đang phát triển hoàn toàn không thể kiểm soát được, ngược lại, nó rất dễ dàng đưa ra động lực cần thiết cho đỉnh cao thông thường hoặc, nếu bạn thích, Julia. Điều quan trọng nhất là làm điều đó một cách thành thạo và không cố gắng làm cho Julia ngồi yên, ngoài sự thờ ơ, không có khả năng gây ra bất cứ điều gì. Nhưng nó rất dễ dàng để hướng Yulin Lợi theo đúng hướng, phần còn lại sẽ là năng lượng bên trong của cô ấy. Nói một cách dễ hiểu, kể từ khi cha mẹ quay ra một cái yule, thì đáng để dành đủ sự quan tâm đến nó, truyền cho đứa trẻ một tình yêu của các hoạt động hữu ích và thực sự thú vị. Nếu không, rắc rối có thể xảy ra trong thời thơ ấu, chưa kể đến một độ tuổi chuyển tiếp nguy hiểm. Mong muốn của cô ấy cho những niềm vui của cuộc sống là quá lớn!

Điều thú vị là cảm xúc của Julia, có thể được thể hiện ngay cả trong tình yêu của cô đối với các ngành khoa học chính xác. Nói chung, sức mạnh bên trong của nó có thể được gọi là phổ quát, phổ ứng dụng có thể của nó rất rộng. Chỉ hy vọng rằng cô ấy có thể hài lòng với vai trò của một bà nội trợ, tôi sẽ không khuyên: nếu vợ / chồng của Yulia, thành công trong việc này, thì những cảm xúc không thể vượt qua của vợ anh ta, bị khóa trong bốn bức tường, có thể là một lực lượng khá bùng nổ. Hoặc Julia sẽ gây ra trầm cảm và ác cảm với mọi thứ. Bao gồm cả chồng.

Nhưng một nhân vật vui vẻ và nhanh nhẹn cũng có thể giúp Julia trong sự nghiệp. Cô ấy biết làm thế nào để có được những gì cô ấy muốn, đòi hỏi và kiên trì, có thể cô ấy sẽ có rất nhiều kẻ xấu và kẻ thù, nhưng bạn bè của cô ấy cũng sẽ không cảm thấy thiếu thốn. Ngược lại, Julia thường biết cách làm sáng tỏ người khác bằng sự nhiệt tình của mình, và sự quyết đoán quá mức của cô ấy trong hầu hết các trường hợp được làm dịu đi bởi sự vui vẻ và xu hướng hài hước. Mặc dù đôi khi điều đó không làm cô ấy bình tĩnh hơn.

Bí mật của giao tiếp: Đó thực sự là nơi trong trường hợp có bất kỳ xung đột nào, thật vô nghĩa để thu hút logic và lý trí! Nó giống như thuyết phục một thác nước dừng lại trong một giây hoặc chảy theo hướng khác. Tuy nhiên, cũng không kém phần vô dụng để chịu thua cảm xúc của bạn, tốt hơn là chỉ cần cho Yulia cơ hội để nói ra và hạ nhiệt, hoặc nếu không thì hướng năng lượng của cô ấy theo một hướng khác, có thể được giúp đỡ rất nhiều bởi sự hài hước.

Dấu vết tên trong câu chuyện:

Julia Krunder

Nữ nam tước xinh đẹp Julia Krunder (1764 trừ1824) từ thời thơ ấu được thừa hưởng từ tham vọng cắt cổ của cha mẹ và bản tính sắc sảo. Được giáo dục, đa dạng hóa, ở tuổi mười tám, Julia đã nhảy ra để kết hôn với nhà ngoại giao bốn mươi tuổi Baron Kruunder chỉ từ những cân nhắc không thương tiếc, nhưng sau một thời gian, cuộc hôn nhân thuận tiện trở thành nguồn đau khổ thực sự cho cô gái – điều đó xảy ra khi cô yêu chồng. ý kiến, không đủ nóng bỏng đáp lại tình yêu nồng nàn của cô.

Tìm kiếm sự lãng quên trong những cuốn tiểu thuyết gây bão, Julia lao vào cuộc sống thế tục bằng cái đầu của mình, thay đổi người yêu thường xuyên hơn găng tay – một đám đông quý ông luôn lóe lên xung quanh cô. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên, bởi vì, theo những người đương thời, mặc dù cô ấy không đẹp, “cô ấy có khuôn mặt quyến rũ và biểu cảm, bàn tay đẹp, mái tóc nâu nhạt tuyệt vời, đôi mắt xanh và ngoài ra – một sự duyên dáng tuyệt vời.” Góa phụ ở tuổi ba mươi tám, Julia Kruunder lao đầu vào văn học, viết một số tiểu luận và tiểu thuyết tự truyện Valeria về những cuộc phiêu lưu của cô, đó là một thành công tai tiếng. Sau đó, Nam tước đã phát triển sang một khía cạnh khác trong bản chất tươi sáng của mình, đã tiếp xúc với nhiều loại người làm dịu, và ngay cả bản thân cô cũng bắt đầu dự đoán tương lai. Được bao quanh bởi đám đông những người ăn xin và những người lang thang, cô đã thuyết giảng ở Đức và Thụy Sĩ về sự tiến bộ của vương quốc của người nghèo và qua đời ở tuổi sáu mươi tư, được hoàng đế Alexander I. đón nhận một cách tử tế.

Theo Mendelev

Rất đẹp, rất nữ tính, tên hay và dịu dàng. Một trong những tên nữ Nga hấp dẫn, đáng yêu và tươi sáng. Không giống như chủ sở hữu của nhiều tên phổ biến và phổ biến khác, Julia cởi mở với thế giới, không tự giam mình và không đi vào tự ái, nhưng truyền cảm hứng cho người khác bằng sự quyến rũ của mình.

Vẻ đẹp của Julia được kết hợp với một trí tuệ khá sâu sắc, khả năng tiếp thu tuyệt vời và khả năng sống giữa mọi người, không áp đặt ý kiến u200bu200bcủa họ lên họ, nhưng biết cách lắng nghe và nghe người lạ. Sự vững chắc của nó không thể được gọi là sự bướng bỉnh vô nghĩa, thay vào đó, nó là sự kiên định trong những bất hạnh và khả năng chấp nhận những món quà hạnh phúc hiếm hoi của số phận một cách tương đối bình tĩnh, không có sự tôn trọng.

Julia không tham gia vào việc lựa chọn và duy trì hình ảnh của mình; hành vi của cô ấy là tự nhiên và theo trực tiếp từ các tính năng của nhân vật của mình. Theo tính khí, cô ấy là một người lạc quan, nhưng dưới sự vui tươi và nhẹ nhàng hướng ngoại, công việc của linh hồn tiếp tục. Đó là với cô ấy, Julia nợ tự nhiên và kiên trì của cô.

Nếu các lực lượng tinh thần hoặc thể chất để chống lại các ảnh hưởng bất lợi là không đủ, nó có thể trở nên cô lập trong một thời gian. Đấu tranh tích cực và chống đối không phải là điển hình cho cô ấy, nhưng cô ấy tìm ra cách thoát khỏi những tình huống khó khăn.

Cuộc sống cá nhân và gia đình của Yulia không còn đơn giản và dễ dàng, vì cô không chấp nhận áp lực thô lỗ và nhu cầu phá vỡ quan điểm và thói quen của mình, hoặc sự bất cần của bạn đời, hoàn toàn phục tùng ý chí của cô. Nói một cách dễ hiểu, một nền tảng trung gian là cần thiết: trong việc đối phó với nó, bạn phải giữ chính mình và không cố gắng tạo ra một ấn tượng sai lầm, thậm chí rất tâng bốc về bản thân.

Julia gần như không khác với Julia, tất cả các dấu hiệu của chúng gần như hoàn toàn trùng khớp; do đó, chúng không được mua, nhưng ban đầu là đặc thù đối với những người mang tên này.

Màu sắc của tên Julia là xanh đậm, xanh lam, với một dải màu đỏ tươi hẹp.

Theo Higir

Hình dạng phụ nữ của cái tên Julius xuất phát từ tiếng Latin “Julius” – xoăn, mịn.

Với trí tưởng tượng không kiềm chế, cô gái cảm động và dễ bị tổn thương. Tâm trạng mạnh mẽ là đáng chú ý trong tâm trạng, khi Yulenka vui vẻ, vui vẻ và ồn ào đột nhiên trở nên thờ ơ và thờ ơ không có lý do cụ thể. Trong trạng thái này, tốt nhất là để cô gái một mình, thời gian sẽ trôi qua và cô ấy sẽ trở lại như cũ. Thật khó để tranh luận, đến cuối cùng, nó đứng vững, miễn cưỡng thừa nhận sai lầm của mình. Hơi rụt rè, không thích xem phim kinh dị, không chịu nổi cảnh máu me.

Julia trưởng thành thì tiết kiệm, tiết kiệm, cô nấu ăn ngon. Những gì không có trong tủ đựng thức ăn của cô ấy! Julia dành gần như toàn bộ thời gian của mình cho gia đình, gia đình và hạnh phúc của người thân, công việc và sự phát triển nghề nghiệp của cô ấy rất ít được quan tâm, vì vậy các đồng nghiệp của cô ấy thường có ấn tượng về Julia như một người lười biếng.

Julia thành công trong hôn nhân, cánh cửa ngôi nhà của cô luôn mở cho bạn bè và người thân. Những vị khách đến với Yulia sẵn sàng, cô ấy không keo kiệt, cô ấy thích trò chuyện với bạn bè, buôn chuyện một chút, chân thành vui mừng trước sự thành công của bạn bè, cô ấy không ghen tị.

Yulia bị ngăn cản bởi sự cố chấp mà cô được phân biệt ngay cả trong thời thơ ấu. Cô ấy sẽ không làm theo lời khuyên của người khác, ngay cả trong những trường hợp khi cô ấy biết rằng họ khá hợp lý. Đặc điểm tính cách này ngăn cản Julia tìm ngôn ngữ chung với mẹ và mẹ chồng, đó là lý do tại sao cô thích sống tách biệt với họ.

Nhiều Julia là những người yêu thích sách, đam mê đọc sách là trò tiêu khiển yêu thích của họ. Họ sẽ không để chồng chán, họ sẽ luôn mang đến sự đa dạng cho cuộc sống gia đình. Người chồng thường yêu Julia và phục tùng cô ấy trong mọi việc.

Tự ái yêu con mình.

Một liên minh đáng tin cậy là với Vasily, Eduard, Eugene, Bogdan, Mark, Vladislav. Cuộc sống gia đình với Taras, Anatoly, Nikolai hoặc Andrey thường không cộng dồn.

1. Tính cách: những người tạo nên rượu của cuộc sống

2. Màu sắc: đỏ

3. Các tính năng chính: tính xã hội – tính nhạy cảm – trực giác – sức khỏe

4. Cây Totem: cây nho

5. Totem động vật: hươu

6. Ký hiệu: cân

7. Loại. Bí mật, hơi rụt rè và thiếu quyết đoán. Giống như vật tổ của họ – cây nho, họ yêu cầu sự chăm sóc để nở hoa kịp thời. Đối với họ một cuộc hôn nhân hạnh phúc hay một công việc thú vị là mục tiêu của cuộc sống.

8. Tâm lý. Tránh xung đột với xã hội và thế giới, một chút hoang dã. Họ có một vài cách cư xử quý tộc, không thích giải trí phổ biến, như hội chợ.

9. Ý chí. Họ làm mọi thứ để không thể hiện sức mạnh của nhân vật. Nhưng có một ý chí, và vào đúng thời điểm nó làm cho chính nó cảm thấy.

10. Hứng thú. Rất mạnh mẽ và kết hợp với phản ứng nhanh chóng. Thật đáng kinh ngạc khi sự dễ bị kích thích quá mức này tiếp giáp với một cơn lạnh bên ngoài đáng kinh ngạc.

11. Tốc độ phản ứng. Để không giả vờ rằng tình huống này làm họ sợ hãi hoặc phấn khích, họ kiềm chế cảm xúc của mình đến mức dường như họ hoàn toàn bế tắc.

12. Lĩnh vực hoạt động. Họ không thích học, họ chỉ làm khi cần thiết. Hoặc chọn một ngôi nhà và sau đó trở thành tình nhân vượt trội và

người vợ lý tưởng, hoặc kết hợp nhiệm vụ gia đình với nghề luật sư, bác sĩ tâm thần, tiếp viên, v.v.

13. Trực giác. Những người phụ nữ này có khả năng thấy trước các giai đoạn quan trọng nhất của cuộc đời họ.

14. Thông minh. Họ có đầu óc sống, thiên về khái quát hóa, trí nhớ tuyệt vời, nhưng họ không quá tò mò.

15. Tính nhạy cảm. Nếu bạn trở nên gắn bó với ai đó, thì nó sẽ tồn tại trong một thời gian dài, và có thể là mãi mãi. Rất cẩn thận, thường trong nhiều năm chờ đợi hoàng tử trong truyện cổ tích của họ.

16. Đạo đức. Lòng tự trọng vốn có ở những người phụ nữ này, họ đúng với lời nói và luôn hoàn thành nghĩa vụ của mình. Họ là bạn như nhau với cả nam và nữ và rất khó để lừa dối hoặc không trung thực.

17. Sức khỏe. Hoàn hảo. Không bao giờ phàn nàn, không mệt mỏi và khỏe mạnh. Điểm yếu duy nhất trong cơ thể họ là các cơ quan bài tiết nội bộ.

18. Tình dục. Họ bị kiềm chế, không loại trừ các xung động của sự gợi cảm, đặc biệt là khi họ gặp một đối tác lý tưởng.

19. Hoạt động. Phải mất rất nhiều chiến thuật và đồng thời sự kiên trì để phát triển hoạt động của những cô gái này. Áp đặt lên ai đó quan điểm của họ bị coi là đáng trách.

20. Hòa đồng. Khắc phục những vấn đề khó khăn trong cuộc sống của họ. Người thân phải quan tâm rằng họ không mất liên lạc với xã hội.

21. Kết luận. Họ cần được hiểu rõ để không vô tình xúc phạm.

Trong ý nghĩa của tên Julia (Julia) có một bí mật thực sự. Nó đan xen nguồn gốc nam và năng lượng nữ sáng. Thực tế này làm cho Julia một tính cách tươi sáng và phi thường. Theo một số nguồn tin, ý nghĩa của tên nữ Julia bắt đầu từ một gia đình quý tộc của Julius, có nghĩa là nguồn gốc quý tộc của nó. Ở La Mã cổ đại, tên này được đặt cho tất cả phụ nữ của gia đình Yula Askania.

Julia – một cơn bão thực sự của cảm xúc và cảm xúc. Ngay cả khi bạn cho rằng một trong những ý nghĩa của cái tên là Fluffy, thì nó chắc chắn không áp dụng cho nhân vật. Bạn có thể gọi cô ấy ngoan ngoãn. Nghỉ ngơi cưỡng bức khiến cô ấy thờ ơ, cáu kỉnh hoặc thậm chí trầm cảm. Cô bừa bãi tham gia vào các cuộc phiêu lưu hết lần này đến lần khác, bất chấp nguy hiểm.

Thật khó để mô tả một tính cách và số phận gây tranh cãi như vậy với ý nghĩa duy nhất của cái tên Julius. Một mô tả tốt hơn về tính cách và đặc điểm tính cách sẽ giúp phân tách có điều kiện tất cả các đại diện của tên Julius theo tháng sinh.

“Mùa đông” biết cách giữ tình cảm với chính mình. Niềm đam mê của họ tiết lộ bất ngờ và bất ngờ, ngay cả đối với người thân nhất. Đối với những người không biết cô ấy lâu, Julia sẽ trông giống như một nữ hoàng Anh thực sự, người Anh – gọn gàng, kiềm chế, đúng giờ, kỷ luật và thu thập. Trong quan hệ, cô ấy là một nhà ngoại giao thực sự, giữ lời và không làm thất bại đối tác. Anh ấy thích giữ nỗi sợ hãi và cảm xúc của mình với chính mình.

“Mùa xuân” hơn bất cứ điều gì khác thích tạo ra và tạo ra. Trong quá trình sáng tạo, họ có thể thể hiện cảm xúc, tính cách sống động và tài năng. Cô ấy là một người nhạy cảm, do đó cô ấy phản ứng đau đớn với sự giả dối trong một mối quan hệ. Cô ấy là một người có tính cách phóng túng với nhiều bạn bè và những người quen biết.

“Mùa hè” có nguồn cung cấp kiên nhẫn và nhân loại vô tận. Họ là những người bạn chiến đấu thực sự và những người vợ chung thủy. Một khi họ gặp gỡ mọi người, họ liên tục duy trì mối quan hệ, giúp đỡ về lời khuyên và tiền bạc. Cô ấy không bao giờ can thiệp vào công việc của người khác, nhưng không chịu đựng những lời dối trá và thiếu hiểu biết.

Mùa thu mùa thu Julia Julia trong ý nghĩa của tên, tính cách và số phận kết hợp tính toán lạnh lùng và thân thiện. Cô ấy có nhiều người ngưỡng mộ, nhưng ít người có được sự ưu ái của cô ấy. Cô và chồng và đối tác của mình chọn cách một chiếc xe tốt thực dụng và cân bằng. Cảm giác không tham gia vào sự lựa chọn này.

Phụ nữ có tên Julia (Julia) có trực giác rất phát triển, có nghĩa là chỉ một điều – không thể lừa dối. Cô ấy không xung đột, nhưng cô ấy không bao giờ tham gia vào một cuộc thách đấu tẻ nhạt. Cô thích lùi lại và ở lại với ý kiến u200bu200bcủa mình. Ngay cả khi Julia tiếp tục liên lạc với một người khó chịu, điều này sẽ chỉ diễn ra trong khuôn khổ cuộc trò chuyện kinh doanh.

Cô ấy keo kiệt, ở đó, Patrick hoàn toàn không lãng phí ý nghĩa của cái tên. Ngay cả khi tình hình tài chính cho phép, Julia sẽ không bao giờ mua những chiếc xe đắt tiền hoặc trang phục thời trang cao cấp. Cô ấy thích mọi thứ đáng tin cậy, chất lượng cao và bền.

Trong ý nghĩa của tên, nhiều người chú ý đến vẻ đẹp của âm thanh và giai điệu. Từ này bao gồm một số lượng lớn các nguyên âm, mang lại cho nó sự dịu dàng và nữ tính. Việc giảm tên Julius trong các trường hợp được thực hiện theo các quy tắc cơ bản cho sự suy giảm của danh từ.

Cha mẹ đang xem xét một tên đẹp và con trai cho con gái của họ được khuyên nên hỏi về nguồn gốc và.

Sức khỏe

Thời thơ ấu, Julia dễ bị đau họng. Cảm lạnh đơn giản nhất gây ra các cơn ho. Vì vậy, bạn cần phải bảo vệ cổ họng của bạn.

Bí mật của nhân vật dẫn đến thực tế là những cảm xúc tích lũy qua nhiều năm có thể gây ra sự thay đổi mạnh mẽ trong tính cách và lối sống. Lý do cho điều này có thể là bất kỳ cú sốc. Do đó, bạn cần bảo vệ dây thần kinh của bạn.

Ngoài ra, đáng chú ý đến hệ thống nội tiết.

Hôn nhân và gia đình

Thật khó để giành được trái tim Julia. Nhưng nếu điều này xảy ra, cô đã sẵn sàng đi theo người mình yêu đến tận cùng thế giới. Sự lựa chọn của một đối tác không bị ảnh hưởng bởi tình trạng, mức thu nhập hoặc nguồn gốc cao quý của anh ta. Cô gái sẵn sàng yêu một cách vị tha và vị tha. Nhưng nếu cuộc hôn nhân vẫn xảy ra bằng tính toán, một người đàn ông khó có thể chờ đợi tình cảm nồng ấm từ vợ. Tất cả các lực lượng của Julia đã dành cho việc giành được người được chọn, điều đó có nghĩa là sau cuộc diễu hành đám cưới, bạn có thể thư giãn và tận hưởng những lợi ích có được. Julia sẽ không thay đổi, nhưng cũng chơi tình yêu.

Người được chọn nên sẵn sàng cho việc đi bộ của bạn gái. Nhưng làm thế nào có thể khác, vì từ nhỏ Julia hầu hết đều có giá trị chính xác trong mọi vấn đề. Sổ ghi chép của cô luôn là một mô hình chính tả, có nghĩa là cô giữ ngân sách gia đình một cách chính xác và có hệ thống. Ngoài ra, đối tác không nên có thói quen xấu.

Gian lận, cô không tha thứ cho ai. Trong gia đình, một người phụ nữ không tìm cách thống trị, nhưng không nhận ra sự kiểm soát quá mức. Thay vào đó, cô chọn vai trò cố vấn và Hồng y xám, người lãnh đạo bất thành văn của vương quốc nhỏ của mình.

Trong quan hệ tình dục, Julia hiếm khi chủ động. Đúng vậy, khi cô đặt cho mình mục tiêu giành được một người đàn ông thú vị, cô sẽ không dừng lại. Nếu một người đàn ông phù hợp với tính khí của cô ấy, một người phụ nữ sẵn sàng trở thành một đối tác không mệt mỏi và sáng tạo cho người cô ấy chọn.

Cô vô tư yêu thương con, nhưng hiếm khi thể hiện tình cảm. Từ phía có vẻ như mục tiêu của cô là nuôi dạy con cái và giáo dục chúng. Nhưng đây không phải là như vậy. Julia yêu trẻ con, cưng chiều, nhưng hiểu – kỷ luật và một nền giáo dục tốt sẽ khiến chúng thành công.

Julia không tuân thủ các quy tắc đặc biệt trong việc chọn nghề. Cô chịu trách nhiệm cho bất kỳ công việc nào, cho dù đó là y tá hay giám đốc sáng tạo.

Tính tập thể và sự hiểu biết rõ ràng về mục tiêu giúp cô đạt được những đỉnh cao trong sự nghiệp, nhưng chỉ khi bản thân cô muốn nó.

Tính cách hòa đồng giúp cô ấy trong sự nghiệp và biến Julia thành một nhân viên xuất sắc. Cô ấy có một cách tiếp cận có trách nhiệm với kinh doanh, nhưng tại nơi làm việc, cô ấy không muốn nán lại một phút. Cô ấy không thích tin đồn và làm rõ các mối quan hệ, do đó, nó thường được coi là một “con cừu đen” trong đội. Nếu bạn thêm sức hấp dẫn của nó với người khác giới, thì số lý do cho sự thù địch tăng lên đáng kể.

N và trong công việc lãnh đạo, cô thường chơi một trò chơi đôi. Duy trì mối quan hệ thân thiện với đồng nghiệp, nhưng trừng phạt ngay cả những lỗi nhỏ nhất. Cô ấy không nhận ra sai lầm của chính mình, và với một lương tâm rõ ràng chuyển trách nhiệm cho người khác. Nhưng cô ấy hiếm khi chọn vị trí lãnh đạo, tuy nhiên, cô ấy thích gia đình và cuộc sống hơn cho sự nghiệp của mình. Phải, Julia không tự phụ, cô ấy sẽ sẵn lòng giao cho chồng mình quyên góp tiền, và cô ấy sẽ dành hết thời gian rảnh cho niềm đam mê thực sự của mình – đọc sách. Ngoài việc đọc sách, cô còn thích thể thao, có lối sống năng động và lành mạnh.

Tên hãng nổi tiếng

Ý nghĩa tôn giáo và nguồn gốc của cái tên lấy từ truyền thuyết cổ xưa của Julia of Carthage, trên thực tế, có thể được coi là người mang tiếng nổi tiếng đầu tiên của tên này.

Theo truyền thuyết, những tên cướp đã đóng đinh cô gái và thấy linh hồn cô biến thành thiên thần như thế nào. Trong số các đại diện của tên này có nhiều liệt sĩ.

Nữ thi sĩ Julia Drunina (1924-1991) đã có thể mô tả dễ dàng và chính xác những trải nghiệm tình yêu và sự khủng khiếp của thời chiến. Các bài thơ của cô ấy gần gũi với mọi người. Tuổi thơ trong chiến tranh đã giúp cô nhận ra giá trị của sự nữ tính và dịu dàng, điều mà nữ thi sĩ liên tục mô tả trong các tác phẩm của mình. Lời bài hát của Drunina là một bản tình ca tuyệt đẹp.

Julia Vsevolodovna Lermontova (1846-1919) là một trong những nhà hóa học phụ nữ đầu tiên có bằng khoa học. Cô ấy đến từ gia đình mà nhà thơ Mikhail Lermontov thuộc về. Lermontova dành rất nhiều công việc cho việc chưng cất dầu, nhờ đó, trên thực tế, ngày nay chúng ta có cơ hội lái xe.

Julia Roberts là một nữ diễn viên Hollywood từng giành giải Oscar và là một phụ nữ xinh đẹp đơn giản. Nhiều người biết đến cô bằng vai diễn trong tình yêu melodramas, nhưng cô tích cực tham gia sản xuất. Roberts sở hữu một công ty điện ảnh và tích cực tham gia vào công việc từ thiện.

Julia Vysotskaya là một nữ diễn viên, blogger, chuyên gia ẩm thực và nhà văn. Cô không chỉ trở thành vợ của đạo diễn Andrei Konchalovsky, mà còn là một nhân vật truyền thông nổi tiếng. Vysotskaya phát sóng về nấu ăn, chia sẻ công thức nấu ăn trên trang web và điều hành một nhà hàng. Ngoài ra, Vysotskaya chơi trong nhà hát và đóng phim.

Tên ngày

Có lẽ bạn có người thân và bạn bè với tên của Julia? Chia sẻ trong các ý kiến u200bu200bcho dù nó tương ứng với đặc điểm, và nó ảnh hưởng đến số phận như thế nào.

Cái tên vô cùng dịu dàng và nữ tính Julia trong ba mươi năm qua đã trở thành một trong những tên nữ phổ biến nhất ở Nga. Nó thu hút với âm thanh du dương, tràn ngập ánh mặt trời và sự ấm áp của tháng bảy. Khi phát âm tên này, các hiệp hội phát sinh với một cái gì đó mềm mại và thoải mái. Và đây không phải là sự trùng hợp.

Ý nghĩa ngắn gọn của tên Julia

Lịch sử tên của Julius

Nguồn gốc của tên Julius là đồ cổ. Có hai phiên bản giải mã của nó. Theo người đầu tiên trong số họ – trong bản dịch từ ngôn ngữ Hy Lạp cổ đại, ý nghĩa của cái tên Julia là một cách dễ dàng, một cách dễ dàng. Phiên bản thứ hai tương quan với tên nữ Julia với tên chung của những người quý tộc quý tộc – Juliev, xuất thân từ con trai của huyền thoại Aeneas Yul (Askania), người đã xây dựng thành phố cổ Alba Long. Theo nghĩa này, tên Julia là từ chi Julia.

Ngoài ra còn có một phiên bản giải mã của cái tên dễ chịu này bằng tai nữ. Vâng, người Scandinavi khắc nghiệt, có tên trong đại diện truyền thống chứa đầy âm thanh gầm gừ, gọi đây là tên mềm mại của những cô gái sinh vào tháng 12. Điều này là do sự cộng hưởng của tên với từ jul – “Giáng sinh”.

Cách giải thích mùa đông của người Viking tên Julius là tuyệt vời đối với chúng tôi. Rốt cuộc, theo thông lệ truyền thống là tương quan Julia với tháng hè của tháng bảy. Và ý nghĩa của cái tên Julia đối với chúng ta tràn ngập ánh sáng và ấm áp. Có một sự thật ở đây – tháng 7 được đặt theo tên của chỉ huy nổi tiếng Guy Julius Caesar, người mang danh tiếng nổi tiếng nhất của tên tội phạm là Julius Julius. Caesar được sinh ra trong tháng này, có tên theo nghĩa đen là tháng Julia Julia tháng tháng.

Đặc điểm và ý nghĩa của tên Julia

Vậy cái tên Julia có nghĩa là gì? Làm thế nào để sự đan xen tuyệt vời của các ý nghĩa khác nhau của tên nữ này kết hợp trong số phận của tất cả Julius? Làm thế nào để Julia mùa hè hòa hợp với một giải thích mùa đông? Đặc điểm của cái tên Julius phản ánh những mâu thuẫn này, cho thấy bản chất mâu thuẫn của chủ nhân của nó, những bước ngoặt sắc bén của số phận.

Khi còn nhỏ, cô bé Julia hiền lành, hơi khép kín, các cô gái. Họ yêu sự cô độc, họ có thể chơi búp bê với chính mình hàng giờ. Sự tự túc này có thể phát triển thành sự buồn bã và xa lánh về tinh thần, nhưng nếu Julia có anh chị em, cô sẽ vượt qua sự lạnh lùng bên ngoài và lớn lên như một cô gái vui vẻ và hòa đồng. Nhưng chính xác những gì không có trong nhân vật Julia Julia là phù phiếm. Một vẻ ngoài dễ chịu, thường đẹp, một vẻ ngoài hơi mất tập trung có thể gây hiểu lầm cho người khác giới, nhưng cái lưỡi sắc bén của Julia sẽ nhanh chóng đặt họ vào vị trí của họ.

Đời sống tình cảm của Yulia xông ổn định, nhưng bùng nổ. Cô ấy không tha thứ cho những lời lăng mạ trong một thời gian dài, nhưng cũng rất khó để khiến cô ấy phát điên. Mặc dù nếu điều này xảy ra, một sự bùng nổ cảm xúc với tỷ lệ chưa từng có sẽ xảy ra. Đồng thời, Julia tìm kiếm một sự thỏa hiệp, nhưng không phải trả giá cho lợi ích cá nhân. Lòng tự trọng được kết hợp với một cảm giác đồng cảm được phát triển, và cảm giác này thường không phải là bẩm sinh, mà là kết quả của những nỗ lực cá nhân của Julius.

Trong công việc, Julia được hướng dẫn bởi ý thức trách nhiệm và trách nhiệm. Họ là điều hành và hoạt động. Họ không ngừng nỗ lực để phát triển bản thân, do đó họ có được nhiều hơn một nền giáo dục, có nhiều hơn một nghề nghiệp. Vấn đề tăng trưởng nghề nghiệp, nhưng họ sẽ không bao giờ gây tò mò cho đối thủ, dệt mưu mô. Julia đánh giá cao sự thoải mái và không khí thoải mái cả ở nơi làm việc và ở nhà. Nhưng những người gần gũi với Yulia nên luôn cảnh giác – ví dụ, cô có thể bỏ mọi thứ và đi, bằng cách quá giang xe ở châu Âu. Và hành động quyết định và bất ngờ này không phải là kết quả của sự lập dị hay phù phiếm, nó là một lối thoát khỏi sự nhàm chán và thói quen, mà đơn giản là không thể chịu đựng được đối với Julia.

Julia phải liên tục cảm thấy có ý nghĩa và cần thiết. Nếu không, một sự đổ vỡ và trầm cảm. Gia đình và gia đình – một trong những dự án quan trọng nhất của Julia, một nền tảng để tự thực hiện. Do đó, trẻ em nên là những học sinh xuất sắc và những người đàn ông thông thái, và người chồng – Brad Pitt và Albert Einstein trong một chai.

Năng lượng của Julia Lemon được sử dụng tốt trong các lĩnh vực chuyên nghiệp như diễn xuất, viết lách, ca hát và chữa bệnh dân gian.

Hôn nhân, gia đình, tương thích tên nam

Đối với Julia, trong mối quan hệ với người khác giới, sự thô lỗ và thô tục là không thể chấp nhận được. Theo quy định, cô ấy không thiếu người hâm mộ – tính dễ dãi và khả năng cư xử đúng đắn của cô ấy đúng lúc là một trong những phẩm chất quý giá nhất.

Sự quyến rũ và vẻ đẹp của những cô gái với cái tên Julia thu hút nhiều người đàn ông, nhưng cuộc sống cá nhân của họ không đặc biệt thành công. Thông thường các vấn đề bắt đầu với người khác giới do thực tế là Julia không thể dành phần lớn thời gian cá nhân của mình cho một người đàn ông duy nhất.

Cô ấy bận rộn với những vấn đề của người thân và bạn bè, cô ấy cố gắng giúp đỡ rất nhiều, trong khi quên đi người muốn ở bên cô ấy thường xuyên hơn. Không phải ai cũng có khả năng nhận ra điều này, vì thường thì đối với Julia mối quan hệ kết thúc bằng một cuộc chia tay.

Sự dịu dàng và lòng tốt vốn có ở những cô gái có tên này có thể là một trò đùa tồi tệ – đối tác bắt đầu lạm dụng những phẩm chất này, tất nhiên, Julia sẽ không thích. Nhưng không phải mọi thứ luôn tồi tệ như vậy – bên cạnh Julia là những người đàn ông liên tục có thể và muốn làm cho cô ấy hạnh phúc. Cô ấy có thể xây dựng hành vi của mình theo cách không xung đột với người được chọn và người thân của anh ấy, và điều này có thể mang lại lợi ích lớn cho cuộc sống gia đình yên tĩnh. Nhưng một người đàn ông muốn kết nối cuộc sống với Julia nên kiên nhẫn.

Mặc dù thực tế là Julia không thể tự hào về khả năng kiềm chế cảm xúc của mình trong một thời gian dài, nhưng hoàn toàn có thể đi đến thỏa thuận với nhân vật này, cố gắng tìm một lựa chọn phù hợp với cả hai bên của cuộc xung đột.

Tương thích tên nam Julia ít có khả năng có một liên minh thành công với những người đàn ông tên là Efim, Eugene, Artem, Zinovy, Ruslan, Vincent, Kazimir, Stanislav, Yaroslav, Yuri.

Nhiều cơ hội hơn cho một gia đình hạnh phúc nếu Julia kết nối cuộc sống của cô với những người đàn ông tên Vasily, Alexander, Pavel, Eduard, Maxim, Kirill, Gennady, Vladislav.

Điều quan trọng đối với những người phụ nữ có tên Julia là gia đình của họ dường như, nếu không lý tưởng, thì ít nhất là mẫu mực. Do đó, cô ấy có thể được khuyên nên tìm một người chồng có quan điểm tương tự về cuộc sống.

Nếu trong thời kỳ hôn nhân của họ, họ xoay sở để xây dựng mối quan hệ đối tác đáng tin cậy và mạnh mẽ, điều không kém phần quan trọng so với tình yêu và sự hấp dẫn với nhau, thì cuộc hôn nhân sẽ hoàn toàn hạnh phúc. Có lẽ niềm đam mê giữa vợ chồng sẽ nguội dần theo thời gian, nhưng họ sẽ vẫn là những người bạn mạnh mẽ và hỗ trợ đáng tin cậy cho nhau.

Ý nghĩa tôn giáo và hình thức của tên Julius

Chính thống giáo và Công giáo tôn vinh ký ức của các vị tử đạo Kitô giáo đầu tiên cho đức tin của Julia (Julia) của Corsican và Julia của Ankir. Ngày của ký ức và ngày tên của Julius lần lượt là ngày 29 tháng 7 và ngày 31 tháng 5.

Hình thức đầy đủ của tên trong tiếng Nga là Julia. Các hình thức phái sinh: Yulya, Yulchik, Yulchenysh, Yulenka, Yusya, Yulia, Yulek, Yula, Yulenok, Yulitsa, Yulanchik, Yulasha.

Trường hợp giảm

trường hợp chỉ định – Julia;

di truyền – Julia;

trường hợp lặn – Julius;

trường hợp buộc tội – Julia;

trường hợp nhạc cụ – bởi Julia;

trường hợp giới từ – Julia.

Viết và nghe tên của Julius bằng các ngôn ngữ khác nhau

tiếng Anh – Julia (Julia), Julie (Julie);

tiếng Ả Rập – جوليا (Yu I);

ngôn ngữ Bulgaria – Julia;

ngôn ngữ Hy Lạp – υλί;

tây Ban Nha – Julia (Julia);

ngôn ngữ Ý – Giulia (Julia), nhỏ bé – Giulietta (Juliet);

ngôn ngữ Trung Quốc – (Yu-li-a);

tiếng Latin – Iulia (Julia);

Đức – Julia

ngôn ngữ Tatar – Julia (nhấn mạnh vào âm tiết cuối cùng);

ngôn ngữ Ucraina – Julia;

tiếng Pháp – Julie (Julie);

tiếng Nhật – ュ リ (Yuri).

Julia nổi tiếng

Drunina là một nhà thơ;

Borisova – nữ diễn viên;

Menshova – nữ diễn viên, người dẫn chương trình truyền hình;

Tymoshenko – chính khách và chính trị gia Ukraine;

Rutberg – nữ diễn viên;

Liptitskaya – vận động viên trượt băng nghệ thuật;

Chicherina – ca sĩ nhạc rock;

Savicheva – ca sĩ nhạc pop;

Juliet Mazina – nữ diễn viên người Ý;

Julie Andrew – nữ diễn viên và ca sĩ người Anh;

Julia Roberts – nữ diễn viên điện ảnh người Mỹ;

Juliette Binoche – nữ diễn viên điện ảnh;

Julianne Moore – nữ diễn viên điện ảnh người Mỹ;

Julia Cameron – nhà văn người Mỹ;

Gillian Anderson là một nữ diễn viên người Mỹ.

Ý nghĩa của tên Julia trong video

Tên hãng nổi tiếng:

Julia Domna (vợ của hoàng đế La Mã)

Julia Drunina (nữ thi sĩ)

Yulia Tymoshenko (chính trị gia)

Julia Savicheva (ca sĩ, diễn viên)

Julia Vysotskaya (người dẫn chương trình truyền hình)

Julia Efimova (bơi lội)

Julia Chicherina (ca sĩ)

Bạn đang xem bài viết Acsimet – Nhà Bác Học Vĩ Đại Của Hy Lạp trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!