Cập nhật thông tin chi tiết về Bài 19. Nhân Dân Việt Nam Kháng Chiến Chống Pháp Xâm Lược (Từ Năm 1858 Đến Trước Năm 1873) mới nhất trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
PHẦN BALỊCH SỬ VIỆT NAM 1858 – 1918CHƯƠNG III: VIỆT NAM TỪ NĂM 1858 ĐẾN CUỐI THẾ KỶ XIX
BÀI 19NHÂN DÂN VIỆT NAM KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP XÂM LƯỢC (Từ năm 1858 đến trước năm 1873) I. Liên quân Pháp – Tây Ban Nha xâm lược Việt Nam. Chiến sự ở Đà Nẵng năm 18581. Tình hình Việt Nam đến giữa thế kỷ XIX (trước khi thực dân Pháp xâm lược).Bài 19: NHÂN DÂN VIỆT NAM KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP XÂM LƯỢC (Từ năm 1858 đến trước năm 1873)Chính trị:– Giữa thế kỷ XIX, Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, có những tiến bộ nhất định về kinh tế, văn hóa.– Chế độ phong kiến khủng hoảng và suy yếu nghiêm trọng.Tình hình chính trị , kinh tế, quân sự, đối ngoại của nước ta dưới triều Nguyễn trước khi thực dân Pháp xâm lược? I. Liên quân Pháp – Tây Ban Nha xâm lược Việt Nam. Chiến sự ở Đà Nẵng năm 18581. Tình hình Việt Nam đến giữa thế kỷ XIX (trước khi thực dân Pháp xâm lược).Bài 19: NHÂN DÂN VIỆT NAM KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP XÂM LƯỢC (Từ năm 1858 đến trước năm 1873)Kinh tế:+ Nông nghiệp: sa sút, mất mùa, đói kém thường xuyên.+ Công thương nghiệp đình đốn. Nhà nước thực hiện chính sách ” bế quan tỏa cảng” I. Liên quân Pháp – Tây Ban Nha xâm lược Việt Nam. Chiến sự ở Đà Nẵng năm 18581. Tình hình Việt Nam đến giữa thế kỷ XIX (trước khi thực dân Pháp xâm lược).Bài 19: NHÂN DÂN VIỆT NAM KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP XÂM LƯỢC (Từ năm 1858 đến trước năm 1873) Quân sự – đối ngoại:– Quân sự : lạc hậu. Đối ngoại sai lầm: chính sách “cấm đạo”, đuổi giáo sĩ phương Tây, gây ra những mâu thuẫn, làm rạn nứt khối đoàn kết dân tộc, gây bất lợi cho sự nghiệp kháng chiến sau này.Súng thần công thời nhà Nguyễn I. Liên quân Pháp – Tây Ban Nha xâm lược Việt Nam. Chiến sự ở Đà Nẵng năm 18581. Tình hình Việt Nam đến giữa thế kỷ XIX (trước khi thực dân Pháp xâm lược).Bài 19: NHÂN DÂN VIỆT NAM KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP XÂM LƯỢC (Từ năm 1858 đến trước năm 1873)
Với tình hình kinh tế, chính trị, quân sự như vậy thì nó đã ảnh hưởng như thế nào đến tình hình xã hội nước ta?
Xã hội: – Mâu thuẫn giai cấp gay gắt – Nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra : KN Cao Bá Quát, KN Lê Văn Khôi… I. Liên quân Pháp – Tây Ban Nha xâm lược Việt Nam. Chiến sự ở Đà Nẵng năm 18581. Tình hình Việt Nam đến giữa thế kỷ XIX (trước khi thực dân Pháp xâm lược).Bài 19: NHÂN DÂN VIỆT NAM KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP XÂM LƯỢC (Từ năm 1858 đến trước năm 1873)Sự khủng hoảng của nước ta giữa thế kỉ XIX, dẫn đến nguy cơ gì?Đứng trước nguy cơ bị thực dân Pháp xâm lược I. Liên quân Pháp – Tây Ban Nha xâm lược Việt Nam. Chiến sự ở Đà Nẵng năm 18583. Chiến sự ở Đà Nẵng 1858Bài 19: NHÂN DÂN VIỆT NAM KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP XÂM LƯỢC (Từ năm 1858 đến trước năm 1873).Pháp tấn công bán đảo Sơn TràĐÀ NẴNG
Tại sao thực dân Pháp chọn Đà Nẵng làm điểm tấn công đầu tiên?
ĐÀ NẴNGNằm trên trục giao thông Bắc- Nam.Cách Huế 100 km về phía Bắc.Hải cảng Đà Nẵng sâu và rộng. Âm mưu: chiếm Đà Nẵng làm căn cứ rồi tấn công ra Huế, nhanh chóng buộc triều đình nhà Nguyễn đầu hàng. Là nơi Pháp xây dựng được cơ sở giáo dân theo Kitô và hậu phương ĐN là đb Nam- Ngãi I. Liên quân Pháp – Tây Ban Nha xâm lược Việt Nam. Chiến sự ở Đà Nẵng năm 18583. Chiến sự ở Đà Nẵng 1858Bài 19: NHÂN DÂN VIỆT NAM KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP XÂM LƯỢC (Từ năm 1858 đến trước năm 1873)
Triều đình và quân dân ta đã làm gì để chống lại sự xâm lược của Liên quân Pháp – Tây Ban Nha? I. Liên quân Pháp – Tây Ban Nha xâm lược Việt Nam. Chiến sự ở Đà Nẵng năm 18583. Chiến sự ở Đà Nẵng 1858Bài 19: NHÂN DÂN VIỆT NAM KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP XÂM LƯỢC (Từ năm 1858 đến trước năm 1873).Bài 19: NHÂN DÂN VIỆT NAM KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP XÂM LƯỢC (Từ năm 1858 đến trước năm 1873) II. Cuộc kháng chiến chống Pháp ở Gia Định và các tỉnh miền Đông Nam Kì từ năm 1859 đến năm 18621. Kháng chiến ở Gia Định9-2-1859 Pháp đến Vũng Tàu16-2-1859 áp sát Gia Định17-2-1859 tấn công Gia ĐịnhPháp tấn công thành Gia Định 17-2-1859Nguyên nhân thực dân Pháp tấn công Gia Định?Xa TQ tránh được sự can thiệp của nhà Thanh Xa Huế tránh được sự trợ giúp của triều đìnhGia Định là vựa lúa của triều đìnhTheo đường sông Mê kong chiếm Campuchia làm chủ sông Mêkong Mặt trậnGia Định năm 1859
Gia Định năm 1860Cuộc xâm lược của quân PhápCuộc kháng chiến của quân dân Việt NamKết quả17/2/1859 Pháp đánh chiếm thành Gia ĐịnhLàm thất bại kế hoạch “đánh nhanh thắng nhanh” của Pháp Nhân dân chủ động kháng chiến ngay từ đầu.1860 Pháp gặp khó khăn buộc phải dừng các cuộc tấn công, lực lượng ở Gia Định rất mỏng– Triều đình không tranh thủ tấn công – Nhân dân tiếp tục tấn công địch ở đồn Chợ Rẫy (7/1860), trong khi triều đình xuất hiện tư tưởng cầu hòaPháp không mở rộng đánh chiếm được Gia Đinh, ở vào thế tiến thoái lưỡng nanChiến sự Đà Nẵng
Thái độ của Triều đìnhThái độ của nhân dânKêu gọi và phối hợp với nhân dân kháng chiến Hưởng ứng nhiệt tình lời kêu gọi của triều đình, nô nức tham gia Số đông không có tinh thần chống Pháp; Không biết tận dụng cơ hội để đánh bại Pháp, lo sợ Pháp, đường lối nặng về phòng thủ – Quyết tâm chiến đấu đến cùng– Biết tận dụng mọi cơ hội để đánh PhápKháng chiến ở Gia ĐịnhBài 19: NHÂN DÂN VIỆT NAM KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP XÂM LƯỢC (Từ năm 1858 đến trước năm 1873) II. Cuộc kháng chiến chống Pháp ở Gia Định và các tỉnh miền Đông Nam Kì từ năm 1859 đến năm 18622. Kháng chiến lan rộng ra các tỉnh miền Đông Nam Kì. Hiệp ước 5/6/1862 (KKHSTH)Sau khi kết thúc thắng lợi cuộc chiến ở Trung Quốc với Điều ước Bắc Kinh (25/10/1860), quân Pháp liền kéo về Gia Định → tiếp tục đánh chiếm nước ta.Mặt trậnMiền Đông Nam Kì trước 1862Cuộc tấn công của quân PhápCuộc kháng chiến của nhân dânThái độ của triều đình – Ngày 23/2/1861, quân Pháp tấn công đánh chiếm Đại đồn Chí Hòa– Kháng chiến của nhân dân phát triển mạnh mẽ– Trận đánh lớn: 10/12/1861, nghĩa quân Nguyễn Trung Trực đốt cháy tàu giặc trên sông Nhật Tảo – Tiếp đó, Pháp chiếm luôn Định Tường (12/4/1861), Biên Hòa (18/12/1861), Vĩnh Long (23/3/1862) – Giữa lúc phong trào kháng chiến của nhân dân ngày một dâng cao thì triều đình Huế kí với Pháp Hiệp ước Nhâm Tuất (5/6/1862)Bài 19: NHÂN DÂN VIỆT NAM KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP XÂM LƯỢC (Từ năm 1858 đến trước năm 1873) II. Cuộc kháng chiến chống Pháp ở Gia Định và các tỉnh miền Đông Nam Kì từ năm 1859 đến năm 18622. Kháng chiến lan rộng ra các tỉnh miền Đông Nam Kì. Hiệp ước 5/6/1862 (KKHSTH)Quân Pháp tấn công Đại đồn Chí HòaNghĩa quân Nguyễn Trung Trực đốt tàu chiến Pháp (10/12/1861) Bài 19: NHÂN DÂN VIỆT NAM KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP XÂM LƯỢC (Từ năm 1858 đến trước năm 1873) II. Cuộc kháng chiến chống Pháp ở Gia Định và các tỉnh miền Đông Nam Kì từ năm 1859 đến năm 18622. Kháng chiến lan rộng ra các tỉnh miền Đông Nam Kì. Hiệp ước 5/6/1862 Hiệp ước Nhâm Tuất 5-6-1862– Về lãnh thổ: Huế thừa nhận quyền cai quản của Pháp ở Gia Định – Định Tường – Biên Hòa. Pháp trả lại Vĩnh Long khi nào triều đình buộc nhân dân ngừng kháng chiến– Về thông thương: mở 3 cửa biển Đà Nẵng, Ba Lạt, Quảng Yên cho Pháp vào tự do buôn bán . – Về chiến phí: bồi thường cho Pháp 288 vạn lạng bạc .– Về truyền giáo: cho phép người Pháp và Tây Ban Nha tự do truyền đạo Gia Tô và bãi bỏ lệnh cấm đạoPHAN THANH GIẢN VÀ LÂM DUY HIỆP KÝ HIỆP ƯỚC NĂM 1862Bài 19: NHÂN DÂN VIỆT NAM KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP XÂM LƯỢC (Từ năm 1858 đến trước năm 1873) III. Cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Kì sau Hiệp ước 1862 (KKHSTH)1. Nhân dân ba tỉnh miền Đông tiếp tục kháng chiến sau Hiệp ước 1862Triều đình ra lệnh giải tán các đội nghĩa binh chống Pháp ở các tỉnh Gia Định, Định Tường, Biên Hòa.Nhân dân ba tỉnh miền Đông tiếp tục kháng chiến vừa chống Pháp vừa chống phong kiến đầu hàng.Các sĩ phu yêu nước vẫn bám đất bám dânPhong trào “tị địa”diễn ra sôi nổi khiến cho Pháp gặp nhiều khó khăn trong việc quản lí, tổ chức những vùng đất mới chiếm được.Bài 19: NHÂN DÂN VIỆT NAM KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP XÂM LƯỢC (Từ năm 1858 đến trước năm 1873) III. Cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Kì sau Hiệp ước 18621. Nhân dân ba tỉnh miền Đông tiếp tục kháng chiến sau Hiệp ước 1862Trương Định(1820-1864) quê ở Quãng Ngãi, theo cha vào Nam từ nhỏ. Năm 1850, ông đuược triều đình phong chức Phó Quản cơ. Năm 1959, khi Pháp đánh Gia Định, ông đã đưa quân dồn điền của mình về sát cánh cùng quân triều đình chiến đâuÔng được nhân dân phong là ” Bình Tây đại nguyên soái”Trương ĐịnhBài 19: NHÂN DÂN VIỆT NAM KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP XÂM LƯỢC (Từ năm 1858 đến trước năm 1873) III. Cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Kì sau Hiệp ước 18621. Nhân dân ba tỉnh miền Đông tiếp tục kháng chiến sau Hiệp ước 1862Tóm tắt khởi nghĩa1859, Trương Định đưa quân cùng với triều đình đánh Pháp tại Gia Định.2/1861, về cane cứ Tân Hòa (Gò Công), chuẩn bị kháng chiến lâu dài.1862, phất cao lá cờ “Bình Tây đại Nguyên soái” tập hợp nhân dân kháng chiến chống Pháp.28/2/1862, Pháp tấn công căn cứ Tân Hòa, nghĩa quân chiến đấu anh dũng sau đó rút về căn cứ Tân Phước.20.8.1864, Pháp tập kích bất ngờ Trương Định hi sinh, cuộc khởi nghĩa thất bại.Pháp chuẩn bị tấn công Gò Công (1863)Lược đồ cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam KìBài 19: NHÂN DÂN VIỆT NAM KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP XÂM LƯỢC (Từ năm 1858 đến trước năm 1873) III. Cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Kì sau Hiệp ước 1862Khởi nghĩa Trương Định tiếp tục giành thắng lợi , gây cho Pháp nhiều khó khănÔng phất cao ngọn cờ “Bình Tây Đại Nguyên Soái”.Nghĩa quân chống trả quyết liệt.Hành động của Pháp: Bắt tay vào tổ chức bộ máy, Pháp mở cuộc tấn công vào Tân Hòa. Sau đó bất ngờ mở cuộc tập kích vào căn cứ Tân Phước.Ý nghĩa lịch sử1. Nhân dân ba tỉnh miền Đông tiếp tục kháng chiến sau Hiệp ước 1862Bài 19: NHÂN DÂN VIỆT NAM KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP XÂM LƯỢC (Từ năm 1858 đến trước năm 1873) III. Cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Kì sau Hiệp ước 18622. Thực dân Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Kì3. Nhân dân ba tỉnh miền Tây Nam Kì chống PhápMặt trậnKháng chiến tại miền Tây Nam KìCuộc tấn công của quân PhápThái độ của triều đìnhCuộc kháng chiến của nhân dân– 20/6/1867 Pháp dàn trận trước thành Vĩnh Long → Phan Thanh Giản nộp thành– Từ 20 → 24/6/1867 Pháp chiếm trọn 3 tỉnh miền Tây Nam Kì (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên) không tốn 1 viên đạn– Nhân dân miền Tây anh dũng kháng chiến.– Tiêu biểu: Trương Quyền, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Hữu Huân…Lúng túng, bạc nhược, nhanh chóng đầu hàng giặcLược đồ Pháp xâm lược 3 tỉnh miền Tây Nam Kì từ ngày 20/6 đến 24/6/198720/6/186724/6/186721/6/1867
8 Mục Tiêu Chiến Lược Dân Số Việt Nam Đến Năm 2030
Đó là các mục tiêu tổng quát của Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030 vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Chiến lược với quan điểm chỉ đạo là quán triệt sâu sắc và triển khai đầy đủ Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới. Tập trung mọi nỗ lực chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang thực hiện và đạt được các mục tiêu toàn diện cả về quy mô, cơ cấu, phân bố, đặc biệt là chất lượng dân số và được đặt trong mối quan hệ hữu cơ với các yếu tố kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh”.
Chiến lược đề ra 8 mục tiêu cụ thể đến năm 2030: Mục tiêu 1: Duy trì vững chắc mức sinh thay thế, giảm chênh lệch mức sinh giữa các vùng, đối tượng; duy trì vững chắc mức sinh thay thế (bình quân mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có 2,1 con), quy mô dân số 104 triệu người; giảm 50% chênh lệch mức sinh giữa nông thôn và thành thị, miền núi và đồng bằng; 50% số tỉnh đạt mức sinh thay thế; mọi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đều được tiếp cận thuận tiện với các biện pháp tránh thai hiện đại, phòng tránh vô sinh và hỗ trợ sinh sản; giảm 2/3 số vị thành niên, thanh niên có thai ngoài ý muốn.
Mục tiêu 2: Bảo vệ và phát triển dân số các dân tộc thiểu số có dưới 10 nghìn người, đặc biệt là những dân tộc thiểu số rất ít người có nguy cơ suy giảm giống nòi: duy trì tỉ lệ tăng dân số của các dân tộc thiếu số dưới 10 nghìn người cao hơn mức bình quân chung cả nước; cơ bản ngăn chặn tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng dân tộc thiểu số; bảo đảm tốc độ tăng các chỉ tiêu phản ánh chất lượng dân số của các dân tộc thiếu số dưới 10 nghìn người cao hơn mức tăng bình quân chung cả nước.
Mục tiêu 3: Đưa tỉ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên, phấn đấu duy trì cơ cấu tuổi ở mức hợp lý. Tỉ số giới tính khi sinh dưới 109 bé trai/100 bé gái sinh ra sống; tỉ lệ trẻ em dưới 15 tuổi đạt khoảng 22%, tỉ lệ người cao tuổi từ 65 tuổi trở lên đạt khoảng 11%, tỉ lệ phụ thuộc chung đạt khoảng 49%.
Mục tiêu 4: Nâng cao chất lượng dân số. Tỉ lệ cặp nam, nữ thanh niên được tư vấn, khám sức khỏe trước khi kết hôn đạt 90%; giảm 50% số cặp tảo hôn, giảm 60% số cặp hôn nhân cận huyết thống; 70% phụ nữ mang thai được tầm soát ít nhất 4 loại bệnh tật bẩm sinh phổ biến nhất; 90% trẻ sơ sinh được tầm soát ít nhất 5 bệnh bẩm sinh phổ biến nhất; tuổi thọ bình quân đạt 75 tuổi, trong đó thời gian sống khỏe mạnh đạt tối thiểu 68 năm; chiều cao người Việt Nam 18 tuổi đối với nam đạt 168,5 cm, nữ đạt 157,5 cm; chỉ số Phát triển con người (HDI) nằm trong nhóm 4 nước hàng đầu khu vực Đông Nam Á.
Mục tiêu 5: Thúc đẩy phân bố dân số hợp lý và bảo đảm quốc phòng, an ninh. Thúc đẩy đô thị hóa, đưa tỉ lệ dân số đô thị đạt trên 45%; tiếp tục thực hiện bố trí, sắp xếp dân cư hợp lý ở vùng biên giới, hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn; bảo đảm người di cư được tiếp cận đầy đủ và công bằng các dịch vụ xã hội cơ bản.
Mục tiêu 6: Hoàn thành xây dựng và vận hành cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đẩy mạnh lồng ghép các yếu tố dân số vào xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội: 100% dân số được đăng ký, quản lý trong hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư thống nhất, dùng chung trên quy mô toàn quốc; 100% ngành, lĩnh vực và địa phương sử dụng dữ liệu chuyên ngành dân số vào xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế – xã hội.
Mục tiêu 7: Phát huy tối đa lợi thế cơ cấu dân số vàng, tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển đất nước nhanh, bền vững. Tiếp tục thực hiện tốt, hướng đến đạt mục tiêu cao hơn các chiến lược về giáo dục, đào tạo, lao động, việc làm, xuất khẩu lao động, thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài… hiện có; nghiên cứu xây dựng các chiến lược, chương trình về những lĩnh vực nêu trên cho giai đoạn 2021 – 2030 với mục tiêu tăng tối đa số lượng việc làm, nâng cao tỉ lệ lao động được đào tạo, cải thiện chất lượng việc làm.
Mục tiêu 8: Thích ứng với già hóa dân số, đẩy mạnh chăm sóc sức khỏe người cao tuổi: Ít nhất 50% số xã, phường đạt tiêu chí môi trường thân thiện với người cao tuổi; khoảng 70% người cao tuổi trực tiếp sản xuất, kinh doanh tăng thu nhập, giảm nghèo có nhu cầu hỗ trợ được hướng dẫn về sản xuất kinh doanh, hỗ trợ phương tiện sản xuất, chuyển giao công nghệ, tiêu thụ sản phẩm, vay vốn phát triển sản xuất. 100% người cao tuổi có thẻ bảo hiểm y tế, được quản lý sức khỏe, khám, chữa bệnh, chăm sóc tại gia đình, cộng đồng, cơ sở chăm sóc tập trung.
Để đạt được các mục tiêu trên, Chiến lược đề ra một số nhiệm vụ và giải pháp như: tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp; đổi mới truyền thông, vận động về dân số; hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về dân số; phát triển mạng lưới và nâng cao chất lượng dịch vụ về dân số; đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, hoàn thiện hệ thống thông tin, số liệu dân số; bảo đảm nguồn lực cho công tác dân số; kiện toàn tổ chức bộ máy và đào tạo; tăng cường hợp tác quốc tế.
Trong đó, về bảo đảm nguồn lực cho công tác dân số, bảo đảm đủ nguồn lực đáp ứng yêu cầu triển khai toàn diện công tác dân số, tập trung vào việc thực hiện các mục tiêu: duy trì mức sinh thay thế, đưa tỉ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên, tận dụng hiệu quả lợi thế cơ cấu dân số vàng, thích ứng với già hóa dân số, phân bố dân số hợp lý và nâng cao chất lượng dân số.
Tăng đầu tư từ ngân sách nhà nước, gồm cả ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; đẩy mạnh việc đa dạng hóa các nguồn đầu tư từ cộng đồng, doanh nghiệp, tư nhân cho công tác dân số. Ngân sách nhà nước bảo đảm đáp ứng nhu cầu thiết yếu cho triển khai toàn diện công tác dân số và thực hiện chính sách đối với các đối tượng được nhà nước chi trả.
Bố trí các chương trình, dự án về dân số vào kế hoạch, chương trình đầu tư công. Thực hiện phân bổ kinh phí công khai, có định mức rõ ràng, tập trung cho cơ sở, phù hợp với các vùng, miền, địa phương. Quản lý chặt chẽ và nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước đầu tư cho công tác dân số.
Đẩy mạnh xã hội hóa, huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước cho công tác dân số. Có chính sách khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư xây dựng các cơ sở sản xuất, phân phối, cung cấp các phương tiện, dịch vụ trong lĩnh vực dân số.
Phát triển thị trường bảo hiểm, bao gồm bảo hiểm nhà nước, bảo hiểm thương mại theo hướng đa dạng hóa các gói bảo hiểm, với nhiều mệnh giá tương ứng các gói dịch vụ khác nhau bảo đảm các nhóm dân số đặc thù được bình đẳng trong việc tham gia và thụ hưởng các dịch vụ phúc lợi, an sinh xã hội. Nghiên cứu, thí điểm tiến tới hình thành quỹ dưỡng lão trên cơ sở đóng góp của người dân, bảo đảm mọi người đều được chăm sóc khi về già./.
Thực Dân Pháp Xâm Lược Việt Nam Là Khai Hóa Văn Minh
Hiện nay, có luận điệu cho rằng, “thực dân Pháp xâm lược Việt Nam là sự khai hóa văn minh”. Đây hoàn toàn là sự ngộ nhận, tuyên truyền xuyên tạc lịch sử, nhằm hạ thấp, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cần phải kiên quyết đấu tranh, bác bỏ.
Chủ nghĩa thực dân là một “vết nhơ”, một lực cản sự tiến bộ trong lịch sử nhân loại. Mặc dù vậy, vẫn có những người do vô tình (thiếu thông tin), hoặc cố ý xuyên tạc thực tế lịch sử, khi biện minh, “ngợi ca” sự thống trị, “những đóng góp to lớn” của chủ nghĩa thực dân phương Tây đối với các nước thuộc địa ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ la-tinh. Đối với nước ta, họ rêu rao rằng, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam là sự “khai hóa văn minh” cho một dân tộc lạc hậu và lập luận rằng: “Thời Pháp thuộc, có thể Việt Nam chưa giàu có, nhưng trước đó Việt Nam cũng đã sung sướng đâu?”; hoặc, các công trình, đường sá,… Việt Nam hiện nay đang sử dụng đều do Pháp xây dựng, chứ Đảng Cộng sản đã làm được gì đâu!, v.v. Đây hoàn toàn là luận điệu xuyên tạc, hòng phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, hạ thấp, xem thường dân tộc Việt Nam của những kẻ ngộ nhận, thế lực thù địch, phản động.
Phu mỏ người Việt làm việc trong các hầm lò thời kỳ Pháp “khai hóa văn minh”. Ảnh tư liệuTrên thực tế, việc phê phán, lên án và vạch trần bản chất của chủ nghĩa thực dân phương Tây nói chung, thực dân Pháp nói riêng đã được lịch sử nhân loại làm rõ. Chủ tịch Hồ Chí Minh tố cáo thực chất cái gọi là “khai hóa văn minh” của chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam: đó chỉ là bình phong để họ áp đặt sự thống trị, thực hiện công cuộc khai thác ở một nước thuộc địa.
Về chính trị, pháp lý, sau khi xâm chiếm Việt Nam, “văn minh” của thực dân Pháp được thể hiện ở chỗ, họ đã không áp dụng những thành tựu của cuộc Đại cách mạng Pháp năm 1789 để thủ tiêu chế độ phong kiến chuyên chế đã lỗi thời, thay bằng một chế độ chính trị mới tiến bộ hơn, được soi chiếu bởi tư tưởng của những nhà khai sáng dân chủ tư sản; trái lại, những “nhà khai hóa” lại duy trì chế độ phong kiến làm tay sai cho bộ máy thống trị thực dân. Đặc biệt, thực dân Pháp thi hành ở Việt Nam chính sách pháp luật hết sức phản động, phân biệt đối xử giữa người da trắng và người bản địa. Trong tác phẩm ” Bản án chế độ thực dân Pháp” (năm 1925), Hồ Chí Minh (Nguyễn Ái Quốc) viết: “Về hành chính và pháp lý: cả một vực thẳm cách biệt người Âu với người bản xứ. Người Âu hưởng mọi tự do và ngự trị như người chủ tuyệt đối; còn người bản xứ thì bị bịt mõm và bị buộc dây dắt đi, chỉ có quyền phải phục tùng, không được kêu ca, vì nếu anh ta dám phản đối thì anh ta liền bị tuyên bố là kẻ phản nghịch hoặc là một tên cách mạng, và bị đối xử đúng với tội trạng ấy” 1.
Để duy trì ách thống trị của mình, thực dân Pháp còn thi hành chính sách “chia để trị”, hòng “làm nguội được tình đoàn kết, nghĩa đồng bào trong lòng người An Nam và tạo ra những mối xung khắc giữa anh em ruột thịt với nhau” 2. Về công lý thì càng không được thực thi, “lẽ phải” đương nhiên thuộc về người da trắng, vì thế mà bất cứ tên thực dân nào cũng có thể giết chết, tàn sát hoặc cưỡng dâm người bản xứ; nếu có bị đưa ra tòa thì cũng được tha bổng. “Đó là việc áp dụng nguyên tắc nhằm bảo tồn bằng mọi cách uy tín của người da trắng trước bọn da vàng” 3. Càng mỉa mai hơn khi những “nhà khai hóa” đã bộc lộ rõ bộ mặt lừa dối và tàn bạo khi thực hiện “chế độ lính tình nguyện” bằng cách tiến hành những cuộc lùng ráp lớn về nhân lực trên toàn cõi Đông Dương, đẩy hàng chục vạn người dân Việt Nam phải bỏ mạng nơi đất khách quê người, trở thành người đóng “thuế máu” cho chúng. Thậm chí, chính quyền thực dân đã hành hạ, tra tấn những người trong gia đình họ, cho đến khi những người trốn lính buộc phải nhận “tình nguyện” tham gia quân đội.
Không những thủ tiêu các quyền tự do, dân chủ của người dân, thực dân Pháp còn thẳng tay chém giết những người Việt Nam yêu nước dám đứng lên chống lại sự thống trị tàn bạo của chúng, tắm các cuộc khởi nghĩa, các phong trào đấu tranh yêu nước trong biển máu. Các nhà tù khổ sai ở Guyan, Tân Calêđôni, Côn Đảo,… đều đầy ắp tù chính trị người bản xứ sau những cuộc đàn áp. Súng liên thanh và máy chém đều chóng vánh buộc những ai “bướng bỉnh”, dám phản kháng lại sự “khai hóa văn minh” kiểu thực dân phải im hơi lặng tiếng. Đó có phải là khai hóa văn minh? Phải chăng, sự “khai hóa văn minh” được thể hiện ở phương châm: “Đối với cái giống nòi Annamít ấy, chỉ có một cách tốt để cai trị nó – đó là ách thống trị bằng sức mạnh…” 4.
Trong lĩnh vực kinh tế, nhằm vơ vét tài nguyên, khoáng sản, làm giàu cho chính quốc, thực dân Pháp đã đẩy mạnh công cuộc khai thác thuộc địa, đỉnh cao là cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897 – 1914) và lần thứ hai (1919 – 1929), làm khánh kiệt tài nguyên của đất nước. Đi kèm với đó, hệ thống giao thông (đường bộ, đường sắt, đường thủy, cảng biển,…) phục vụ cho việc khai thác thuộc địa được mở mang; một số công trình dân sinh phục vụ cho nhu cầu của giới thực dân được xây dựng, chứ không nhằm đem lại cuộc sống tốt đẹp cho người dân bản xứ.
Đáng nói hơn là, nhằm nô dịch, đầu độc, bóc lột dân ta, chính quyền thuộc địa đã áp dụng chính sách độc quyền, khuyến khích tiêu thụ rượu, thuốc phiện. “Lúc ấy, cứ một nghìn làng thì có đến một nghìn năm trăm đại lý bán lẻ rượu và thuốc phiện. Nhưng cũng trong số một nghìn làng đó lại chỉ có vẻn vẹn mười trường học” 5. Từ năm 1900 đến năm 1910, chính quyền thuộc địa thu về 45 triệu tiền lời từ rượu. Đồng thời, sử dụng nhiều biện pháp khuyến khích, ép buộc người dân sử dụng thuốc phiện. Chế độ đó đã làm hại giống nòi Việt Nam nhưng đem lại nguồn thu không nhỏ cho những tên thực dân. Trong thời kỳ 1900 – 1907, ngân sách thu được từ thuốc phiện là 54 triệu đồng, bình quân mỗi năm Đông Dương thu được xấp xỉ 6,8 triệu đồng và năm 1911 thu về là 9 triệu đồng. Điều này đã được chính toàn quyền Đông Dương viết trong thư gửi cho những người thuộc quyền: “Kính gửi ông Công sứ, Tôi trân trọng yêu cầu ông vui lòng giúp đỡ những cố gắng của Nha Thương chính trong việc đặt thêm đại lý bán lẻ thuốc phiện và rượu, theo chỉ thị của ông Tổng Giám đốc Nha Thương chính Đông Dương. Để tiến hành việc đó, tôi xin gửi ông một bản danh sách những đại lý cần đặt trong các xã đã kê tên; phần lớn các xã này, vẫn hoàn toàn chưa có rượu và thuốc phiện” 6. Cùng với đó, thực dân Pháp còn thực hiện chế độ cho vay nặng lãi, sưu cao, thuế nặng, với nhiều loại thuế, chỉ tính “từ năm 1890 đến năm 1896, thuế trực thu tăng gấp đôi; từ năm 1896 đến năm 1898 lại tăng lên gấp rưỡi” 7. Điều đó làm cho đời sống người dân vốn đã cơ cực lại càng cơ cực, nhiều người vì gánh nặng nợ nần đã phải “bán vợ, đợ con” và nhà cửa, ruộng vườn để thoát nợ nần, tù tội.
Nói về “công lao khai hóa” của thực dân Pháp, Hồ Chí Minh đã chỉ ra: “Sự tương phản càng nổi bật không kém trong lĩnh vực kinh tế. Một bên là những người bản xứ,… họ phải đổ mồ hôi sôi nước mắt trong những lao tác nặng nhọc nhất và bạc bẽo nhất để kiếm sống một cách chật vật, và hầu như chỉ bằng sức của họ thôi, để nuôi mọi ngân quỹ của chính quyền. Một bên là những người Pháp và người nước ngoài: họ đều đi lại tự do, tự dành cho mình tất cả các tài nguyên của đất nước, chiếm đoạt toàn bộ xuất nhập khẩu và tất cả các ngành nghề béo bở nhất, bóc lột trâng tráo trong cảnh dốt nát và nghèo khốn của nhân dân” 8. Người còn vạch trần thực chất “công cuộc khai hóa văn minh” của chủ nghĩa thực dân khi chỉ ra rằng, chính quyền thực dân Pháp đã không những không thủ tiêu chế độ ruộng đất phong kiến, mà còn tiếp tay, dung dưỡng cho nhiều tên địa chủ thực dân và địa chủ tay sai cướp đoạt ruộng đất của các làng xã, của người nông dân và duy trì phương thức kinh doanh phát canh thu tô lạc hậu, nhưng lại rất an toàn. Trên thực tế, có những tên tư bản sau khi sang Đông Dương và Việt Nam đã biến thành những tên địa chủ theo đúng nghĩa. Đó là “công lao” quay ngược bánh xe lịch sử tiến hóa. Do đó, nền kinh tế Việt Nam thời thực dân thực tế vẫn là một nền kinh tế lạc hậu, què quặt và để lại di chứng lâu dài đối với sự phát triển kinh tế – xã hội Việt Nam sau này.
Vì vậy, trong Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên án những chính sách kinh tế thời kỳ chế độ thực dân: “Về kinh tế – Chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho dân nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, rừng mỏ, nguyên liệu… Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng. Chúng không cho các nhà tư sản ta được giầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn” 9. Đó phải chăng là sự khai hóa văn minh của thực dân Pháp ở Việt Nam?
Trong lĩnh vực văn hóa – xã hội, thực dân Pháp đã thể hiện sự “khai hóa” bằng “chính sách ngu dân” để trị. Tuy người Pháp có mở một số trường dạy chữ, dạy nghề, nhưng không phải vì mục tiêu nâng cao dân trí, mà chủ yếu nhằm đào tạo ra một đội ngũ người Việt có thể giúp việc đắc lực cho việc khai thác, bóc lột và duy trì lâu dài nền thống trị thuộc địa của mình. Điều này được Hồ Chí Minh dẫn ý kiến của ngay chính những người Pháp có “tâm địa thực dân” về nền giáo dục ở Đông Dương và Việt Nam: “Truyền học vấn cho bọn Annamít hoặc cho phép chúng tự chúng có học vấn, tức là một mặt cung cấp cho chúng những súng bắn nhanh để chống chúng ta, và mặt khác đào tạo những con chó thông thái gây rắc rối hơn là có ích…” 10, hoặc “Chúng ta chỉ cần dạy tiếng Pháp cho người An Nam, dạy cho họ biết đọc, biết tính toán chút ít thôi; biết hơn nữa chỉ là thừa vô ích” 11. Với mục đích hạn chế thanh thiếu niên Việt Nam đến trường, chính quyền thực dân quy định, hệ tiểu học gồm 5 lớp từ thấp đến cao, học sinh phải thi lấy bằng Sơ học yếu lược sau khi học được 3 năm và phải học bằng tiếng Pháp ở hai năm cuối. Các quy định khắt khe đó đã khiến nhiều học sinh nông thôn bỏ học, nên tình trạng mũ chữ vẫn là phổ biến trong dân chúng. Theo thống kê năm 1914, bình quân cả ba xứ, chỉ có 20% số trẻ em đến tuổi đi học được đến trường, 80% trẻ em Việt Nam bị thất học 12.
Việc giảng dạy được thực hiện bằng tiếng Pháp và chương trình mang tính nhồi sọ, nô dịch và ngu dân, làm sai lệch lịch sử dân tộc Việt Nam, nghiêng hẳn về tuyên truyền cho nền văn hóa Pháp, phủ nhận sự tồn tại độc lập của nền văn minh bản địa, nhằm làm lạc hướng, tạo ra trong thanh thiếu niên tư tưởng lệ thuộc Pháp, khiếp sợ trước sức mạnh vật chất của chính quốc, hàm ơn đối với “công khai hóa” của chủ nghĩa thực dân và do đó sẵn lòng phục tùng Pháp, biến họ thành những kẻ mất gốc, quên đi nguồn gốc dân tộc và lịch sử nước mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Ngoài mục đích giáo dục để đào tạo tùy phái, thông ngôn và viên chức nhỏ đủ số cần thiết phục vụ cho bọn xâm lược – người ta đã gieo rắc một nền giáo dục đồi bại, xảo trá và nguy hiểm hơn cả sự dốt nát nữa, vì một nền giáo dục như vậy chỉ làm hư hỏng mất tính nết của người đi học, chỉ dạy cho họ một lòng “trung thực” giả dối, chỉ dạy cho họ biết sùng bái những kẻ mạnh hơn mình, dạy cho thanh niên yêu một Tổ quốc không phải là Tổ quốc của mình và đang áp bức mình. Nền giáo dục ấy dạy cho thanh thiếu niên khinh rẻ nguồn gốc dòng giống mình” 13. Ngay cả người Pháp cũng nhận xét: “Về phương diện tinh thần, người Pháp không tổ chức một nền giáo dục mới thay thế cho nền giáo dục An Nam mà họ đã bỏ đi. Họ chỉ xây dựng được một ít trường học để đào tạo ra những con vẹt, những người vong bản thiếu đạo đức và thiếu cả kiến thức phổ thông” 14. Không chỉ vậy, thực dân Pháp còn tăng cường kiểm soát các ấn phẩm, nhất là báo chí, sử dụng phương tiện văn hóa để tuyên truyền cho chủ nghĩa thực dân, công kích tư tưởng tiến bộ, phong trào cách mạng trên thế giới. Họ “cấm học sinh đọc tác phẩm của Huygô, Rútxô và Môngtexkiơ” 15, vì lo sợ tư tưởng của các nhà khai sáng sẽ tác động đến thanh niên. Đi cùng với chính sách ngu dân, thực dân Pháp tăng cường thực hiện chính sách đầu độc, trụy lạc đối với người dân, nhất là đối với thanh niên; nạn cờ bạc, mại dâm, mê tín, thói hư, tật xấu,… được chính quyền các cấp dung túng, cho phát triển, trở thành ung nhọt, gây nhức nhối trong xã hội Việt Nam, v.v.
Còn trên lĩnh vực y tế, hầu như người dân không được hưởng sự chăm sóc y tế, thường xuyên đối mặt với các loại dịch bệnh, đặc biệt là các loại bệnh truyền nhiễm có ảnh hưởng lớn đến sức khỏe và khả năng gây tử vong.
Rõ ràng, với những tư liệu sinh động, thuyết phục trên, nhất là những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã vạch trần bản chất của chủ nghĩa thực dân là khai thác kinh tế. Còn chiêu bài “khai hóa”, “bình đẳng, bác ái” chỉ là bình phong để họ thực hiện mục đích của mình. Đó là sự thật lịch sử, mà không ai có thể phủ nhận.
1 – Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 1, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 11
2 – Sđd, Tập 2, tr. 125.
3, 4 – Sđd, Tập 1, tr. 11-12, 11.
5, 6, 7 – Sđd, Tập 2, tr. 40, 39, 81.
8 – Sđd, Tập 1, tr. 12.
9 – Sđd, Tập 4, tr. 2.
10, 11 – Sđd, Tập 1, tr. 11, 424.
12 – Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Lịch sử – Lịch sử Việt Nam, Tập 7 (từ năm 1897 – 1918), Nxb Khoa học xã hội, H. 2013, tr. 172.
13, 14, 15 – Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 1, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 424.
Nghiên Cứu Về Quan Hệ Dân Tộc Ở Việt Nam (Từ Năm 1980 Đến Nay)
(Viện trưởng Viện Dân tộc học)
Trong nghiên cứu về tộc người, việc xem xét quan hệ dân tộc có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Quan hệ dân tộc là mối quan hệ giữa các tộc người trong một quốc gia và xuyên quốc gia, và mối quan hệ giữa tộc người với cộng đồng dân tộc – quốc gia (Nation – State) trên nhiều lĩnh vực, như chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa… Quan hệ dân tộc vừa là mối quan hệ tự nhiên, vừa mang tính tất yếu trong một quốc gia hay khu vực đa dân tộc, chịu tác động của nhiều yếu tố.
Tầm quan trọng của quan hệ dân tộc là điều dễ nhận thấy, nhưng xử lý vấn đề này thế nào cho đúng ở mỗi quốc gia là điều không dễ dàng. Cùng với thời gian, từ trong nội tại, mối quan hệ dân tộc cũng luôn biến đổi. Và cùng với thời gian, các thể chế chính trị cũng đổi thay chính sách dân tộc, tác động đến mối quan hệ dân tộc. Ngoài ra, quan hệ dân tộc còn bị chi phối bởi bối cảnh quốc tế, tức những nhân tố bên ngoài, với các hệ lụy khó kiểm soát.
Với Việt Nam, quan hệ dân tộc là lĩnh vực được Đảng Cộng sản và Nhà nước rất quan tâm. Bởi vậy, trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ đất nước, các dân tộc thiểu số đã sát cánh cùng dân tộc đa số, có nhiều đóng góp to lớn. Khi bước vào giai đoạn xây dựng đất nước, tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, các chính sách của Đảng và Nhà nước càng tập trung thực hiện đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ giữa các dân tộc.
Do chính sách ưu việt nêu trên nên quan hệ dân tộc ở nước ta kể từ khi Đổi mới đến nay thường được đánh giá về cơ bản vẫn ổn định. Xu thế chung của quan hệ này vẫn là sự gắn bó, đoàn kết giữa các dân tộc. Tuy nhiên, đã nảy sinh những vấn đề ở một số tộc người tại các địa phương khác nhau. Các cuộc bạo loạn ở Tây Nguyên của những nhóm người thuộc một số dân tộc tại chỗ, các cuộc biểu tình đòi đất của người Khơ-me tại vùng Tây Nam Bộ, hay gần đây là việc gây rối của những người Hmông ở Mường Nhé tỉnh Điện Biên đòi tự do tôn giáo và thành lập vương quốc Hmông… cho thấy quan hệ dân tộc ở nước ta hiện nay không hoàn toàn êm ả, mà đã dung chứa yếu tố thiếu ổn định.
Tại sao chúng ta có chính sách dân tộc tiến bộ, song vẫn nảy sinh những vấn đề phức tạp về quan hệ dân tộc? Thời gian qua, đã có một số công trình nghiên cứu luận giải việc này. Điểm chung là nghiên cứu đó thừa nhận cả nguyên nhân chủ quan và khách quan, song có phần nghiêng về nguyên nhân khách quan, mà chủ yếu là do các thế lực thù địch. Các nguyên nhân chủ quan được đề cập nhưng thường chung chung nên thiếu chiều sâu, thậm chí có phần né tránh.
1. Quan điểm và cách tiếp cận nghiên cứu
Qua sự phát triển của nội hàm, có thể nhận thấy, khái niệm “quan hệ dân tộc” ở nước ta ngày càng hoàn thiện, và về cơ bản đã phản ánh được thực trạng của mối quan hệ đó đang diễn ra tại Việt Nam hiện nay. Trong số các ý kiến nêu trên, cần lưu ý đề xuất về nội hàm quan hệ dân tộc của các tác giả Phạm Quang Hoan và Nguyễn Hồng Dương. Tuy nhiên, nội hàm (1) có thể được thay bằng thuật ngữ “quan hệ tộc người với cộng đồng “dân tộc – quốc gia”, để chuẩn xác hơn về khoa học. Nội hàm thứ (2) có phần bị trùng lặp với nội hàm thứ (3); và trong nội hàm thứ (4), quan hệ xuyên quốc gia của một tộc người không chỉ bao hàm với đồng tộc mà với cả khác tộc. Trường hợp người Chăm có quan hệ rất gắn bó với những người khác tộc ở nước ngoài cùng tôn giáo là một ví dụ. Với quan hệ dân tộc xuyên quốc gia ở Việt Nam hiện nay, nên xếp riêng để được nhìn nhận thấu đáo hơn.
Kế thừa các ý kiến nêu trên, chúng tôi đưa ra nội hàm của quan hệ dân tộc để làm khung phân tích trong tổng quan này như sau:
1. Quan hệ nội tộc người.
2. Quan hệ giữa các dân tộc thiểu số.
3. Quan hệ giữa dân tộc thiểu số với dân tộc Kinh (Việt).
4. Quan hệ dân tộc xuyên quốc gia.
5. Quan hệ tộc người với cộng đồng dân tộc – quốc gia.
2. Nghiên cứu về quan hệ dân tộc ở Việt Nam
2.1. Quan hệ nội tộc người
Đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực này. Dù nhìn nhận vấn đề ở nhiều chiều cạnh khác nhau, song tựu trung, các tác giả chủ yếu phân tích sự cố kết hoặc phân ly của tộc người.
Vào khoảng những năm 60-80 của thế kỷ trước, có xu hướng là các nhà dân tộc học thường quan tâm khám phá bản sắc tộc người. Trong hành trình khó khăn đó, họ đã cố gắng chứng minh tính thống nhất, sự cố kết của các dân tộc. Xu hướng này còn ghi dấu ấn khi xác minh thành phần các dân tộc ở Việt Nam. Từ hàng trăm nhóm địa phương của các tộc người, các nhà dân tộc học đã chứng minh sự tương đồng về ngôn ngữ, văn hóa và ý thức tự giác tộc người để xếp thành 54 dân tộc. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, việc ghép các nhóm địa phương vào cùng một dân tộc không tránh khỏi bất cập, mà dân tộc Sán Chay – với việc gộp hai nhóm Cao Lan, Sán Chỉ là một ví dụ [Khổng Diễn (Chủ biên), 2003].
Như đã trình bày, quan tâm tới cố kết của tộc người, nhiều tác giả hướng tới sự thống nhất về văn hóa. Bên cạnh đó, có những nghiên cứu quan tâm đến sự cố kết mạnh của một số dân tộc, mà người Hmông là một ví dụ. Có khá nhiều bài viết về sự cố kết tộc người của dân tộc này qua quan hệ dòng họ và những tương đồng về văn hóa [Phạm Quang Hoan, 1995; Phan Hữu Dật (Chủ biên), 2001, tr. 223-241; Vương Duy Quang, 2005; Nguyễn Văn Thắng (Chủ biên), 2009]. Trong thời gian qua, còn có dạng cố kết mới trong cộng đồng các dân tộc, đó là cố kết của cộng đồng dân tộc – tôn giáo, song lại chưa được nghiên cứu kỹ lưỡng. Đến nay, vấn đề đó mới được lưu ý ở tộc người Chăm (Phú Văn Hẳn, 2009), còn với các dân tộc khác như Hmông, Ê-đê, Gia-rai… vẫn chưa có nghiên cứu chuyên sâu.
Nếu như trước những năm 90, xu hướng chung trong xem xét quan hệ nội tộc người là sự cố kết, thì từ những năm 90 đến nay, đã có những công trình nhận thấy sự phân ly. Vào cuối những năm 90 của thế kỷ trước, cả nước có tới 40 nhóm địa phương có nguyện vọng tách thành những dân tộc riêng [Phan Hữu Dật (Chủ biên), 2001, tr. 346]. Trên cơ sở đó, Viện Dân tộc học được giao nhiệm vụ xác định lại thành phần một số dân tộc ở Việt Nam (Khổng Diễn, 2002), song kết quả của nghiên cứu ấy vẫn chưa công bố. Tuy nhiên, rải rác đã có các nghiên cứu về vấn đề này [Khổng Diễn (Chủ biên), 2003; Đinh Thanh Dự, 2008]. Có những công trình phản ánh tình hình chuyển đổi từ tín ngưỡng truyền thống sang đạo Tin Lành ở người Hmông đã tạo nên phân ly trong nội bộ tộc người, qua mâu thuẫn, xung đột giữa những người theo đạo và người không theo trong một cộng đồng [Vương Duy Quang, 2005; Nguyễn Văn Thắng (Chủ biên), 2009]. Yếu tố tôn giáo ở dân tộc Chăm cũng tạo nên sự phân ly giữa các nhóm theo Hồi giáo, Bàlamôn và Bàni (Phan Xuân Biên, 2010, tr. 17-18).
Về nguyên nhân dẫn đến sự cố kết, các tác giả thường nêu lên nhu cầu nội tại trong phát triển – đó là nhu cầu chia sẻ, giúp đỡ nhau trong cùng tộc người, đặc biệt là cùng dòng họ hay cộng đồng làng (Phạm Quang Hoan, 1995; Vương Duy Quang, 2005, tr. 106-132). Nguyên nhân dẫn đến phân ly thường do tác động của yếu tố bên ngoài, như kinh tế thị trường, toàn cầu hóa, truyền đạo trái phép [Vương Duy Quang, 2005, tr. 254-258; Nguyễn Văn Thắng (Chủ biên), 2009, tr. 147-163].
2.2. Quan hệ giữa các dân tộc thiểu số
Mối quan hệ này được nhiều tác giả đề cập, đặc biệt là quan hệ xã hội và văn hóa. Về quan hệ xã hội, Cầm Trọng (1978, tr. 240-266) từng chỉ ra sự áp bức dân tộc dưới chế độ cũ, như các tộc Kháng, La Ha, Xinh-mun ở vùng Tây Bắc phải hầu hạ, phục dịch cho quý tộc Thái. Nhưng mối quan hệ được đề cập nhiều hơn là văn hóa, như ảnh hưởng của văn hóa Thái tới các tộc người vùng Tây Bắc (Phan Hữu Dật, 2004, tr. 404-405). Trước những ảnh hưởng đó, có tộc người (Kháng, Khơ-mú) không còn giữ được nhiều yếu tố văn hóa của mình. Giáo sư Bế Viết Đẳng (1988) đã nhận định đó là đồng hóa tự nhiên, hoặc chuyển hóa về tộc người.
Những công trình nghiên cứu gần đây tiếp tục phản ánh sự giao lưu văn hóa giữa các tộc thiểu số dưới tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa [Trần Bình, 2002; Phạm Quang Hoan (Chủ biên), 2003]. Có nghiên cứu cũng chỉ ra, dưới góc độ văn hóa vùng, ảnh hưởng của một số dân tộc có dân số đông như Tày, Nùng ở vùng Đông Bắc đã giảm, và được thay thế bằng ảnh hưởng văn hóa của người Kinh (Việt) [Vương Xuân Tình và Trần Hồng Hạnh (Đồng chủ biên), 2012, tr. 254-263]. Trần Văn Hà (Chủ biên, 2011), Phạm Quang Hoan (Chủ biên, 2012) còn quan tâm tới vấn đề tái định cư đang diễn ra ở nhiều vùng dân tộc thiểu số nước ta, làm gia tăng việc cộng cư, xen cư giữa các dân tộc, thúc đẩy giao lưu, tiếp xúc văn hóa, song cũng đặt ra vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa của các tộc người này.
Nguyên nhân khiến quan hệ giữa các dân tộc thiểu số ngày càng gia tăng được các tác giả phân tích dưới tác động của cư trú xen cài (Vương Xuân Tình, 1995), hôn nhân hỗn hợp dân tộc (Đỗ Thúy Bình, 1991) và chính sách dân tộc ở nước ta (Phạm Quang Hoan và Nguyễn Hồng Dương, 2009; Phan Xuân Biên, 2011).
2.3. Quan hệ giữa dân tộc thiểu số với dân tộc Kinh (Việt)
Quan hệ này được nhiều công trình nghiên cứu phản ánh. Trước đây, các nghiên cứu thường cho rằng, quan hệ giữa người Kinh (Việt) với các dân tộc thiểu số khá tốt đẹp trong lịch sử, không có áp bức dân tộc. Ngay cả cuộc di dân về phương Nam để khai phá vùng đồng bằng sông Cửu Long cũng diễn ra một cách hòa bình giữa người Kinh (Việt) với các tộc người tại chỗ (Nguyễn Công Bình và cộng sự, 1990, tr. 222-224). Có những tác giả cũng chỉ ra rằng, một số người Kinh (Việt) lên sinh sống ở khu vực miền núi còn hòa nhập vào cộng đồng các dân tộc thiểu số (Phan Hữu Dật và Lâm Bá Nam, 2001). Tuy nhiên, các nghiên cứu về giao lưu, ảnh hưởng văn hóa của tộc người này với các dân tộc thiểu số là mối quan tâm của nhiều tác giả, và mối quan tâm đó càng gia tăng. Vào thập niên 80 của thế kỷ trước, có xu hướng nghiên cứu về sự xích lại gần nhau giữa dân tộc Kinh (Việt) và các dân tộc thiểu số (Nguyễn Văn Huy, 1982, tr. 7-12; 1983a, tr. 32-36; Bế Viết Đẳng, 1988, tr. 3-15).
Là dân tộc chủ thể, có ưu thế trong tiếp thu, truyền bá văn hóa ngoài Việt Nam, người Kinh (Việt) đã ảnh hưởng sâu sắc đến biến đổi văn hóa của nhiều tộc người, đặc biệt trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập. Rất nhiều nghiên cứu đã cảnh báo về việc xói mòn, thậm chí mất văn hóa của các tộc thiểu số do ảnh hưởng văn hóa của tộc đa số. Nghiên cứu về phát triển bền vững văn hóa tộc người vùng Đông Bắc, Vương Xuân Tình và Trần Hồng Hạnh (Đồng chủ biên, 2012, tr. 167-233) đã cho biết, do ảnh hưởng văn hóa Kinh (Việt) nên hầu hết thanh niên của làng dân tộc Sán Dìu được nghiên cứu đã không còn nói ngôn ngữ mẹ đẻ, và làng này cũng không còn một số thành tố văn hóa truyền thống như nhà ở, trang phục…
Kể từ năm 1986 đến nay, trong bối cảnh của kinh tế thị trường, một số người Kinh (Việt) đã lợi dụng các dân tộc thiểu số khi làm ăn, buôn bán với họ. Đó là tình trạng cho vay nặng lãi khiến người dân tộc thiểu số phải bán cả lúa non (Vương Xuân Tình và cộng sự, 2007); là việc dùng nhiều chiêu thức khác để chiếm đất của họ (Vũ Đình Lợi, Bùi Minh Đạo, Vũ Thị Hồng, 2000, tr. 103-113). Vẫn trong bối cảnh kinh tế thị trường, phân hóa giàu nghèo ngày càng diễn ra mạnh mẽ, trong đó có phân hóa giữa dân tộc đa số với thiểu số, giữa đồng bằng và miền núi. Thực trạng này do nhiều nguyên nhân, cả khách quan và chủ quan. Tuy nhiên, có quan điểm lại cho rằng trong việc thực hiện xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam, người Kinh (Việt) được hưởng lợi nhiều hơn (Neil J và cộng sự, 2000; WB, 2006; AF, IDS, 2008).
Trước tình hình nêu trên, đặc biệt là từ khi xuất hiện các mâu thuẫn ở Tây Nam Bộ và xung đột ở Tây Nguyên, một số tác giả quan tâm hơn đến quan hệ của người Kinh (Việt) với các tộc thiểu số ở những vùng này. Nghiên cứu của các tác giả chủ yếu đề cập đến quan hệ kinh tế, sử dụng đất đai và văn hóa. Song những nghiên cứu đó thường thiên về đánh giá tác động tiêu cực từ phía dân tộc đa số, mà ít xem xét vai trò của họ trong phát triển ở vùng dân tộc thiểu số như thế nào (Trương Minh Dục, 2005; Khổng Diễn, 2005; Bùi Minh Đạo, 2009; Vương Xuân Tình và Nguyễn Văn Minh, 2010). Vừa qua, tác giả Bùi Xuân Đính (2010) đã quan tâm đến vai trò của người Kinh (Việt) trong mối quan hệ với các dân tộc thiểu số, nhưng nghiên cứu lại được thực hiện ở vùng Đông Bắc, nơi có mối quan hệ được xem là khá êm ả giữa các tộc người này trong nhiều thập kỷ qua.
Cũng như trong quan hệ giữa các dân tộc thiểu số, những yếu tố cư trú xen cài, hôn nhân hỗn hợp dân tộc và chính sách dân tộc có ảnh hưởng lớn đến quan hệ giữa các dân tộc thiểu số với người Kinh (Việt) (Nguyễn Văn Huy, 1982; Bế Viết Đẳng, 1988; Phan Hữu Dật, 2004, tr. 713-733). Kể từ sau Đổi mới đến nay, nhiều tác giả còn cho rằng kinh tế thị trường, toàn cầu hóa… cũng là những nguyên nhân tác động đến mối quan hệ này (Phạm Quang Hoan và Nguyễn Hồng Dương, 2008; Bùi Xuân Đính, 2010; Vương Xuân Tình và Nguyễn Văn Minh, 2009; 2010).
Như vậy, trong nghiên cứu về quan hệ giữa dân tộc Kinh (Việt) với các tộc thiểu số, nếu như trước năm 1986 có xu hướng tìm hiểu sự hòa hợp, gắn kết thì từ năm 1986, nhất là từ năm 2000 đến nay, còn có thêm việc xem xét những mâu thuẫn giữa các tộc người này. Bên cạnh đó, không ít các luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc của những thế lực thù địch trên các phương tiện thông tin đại chúng bôi đen mối quan hệ ấy. Tuy nhiên, trong thời gian qua vẫn chưa có nghiên cứu toàn diện nào về mối quan hệ của người Kinh (Việt) với các tộc thiểu số và vai trò của tộc người này trong sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc ở nước ta hiện nay.
2.4. Quan hệ dân tộc xuyên quốc gia
Dưới góc độ đánh giá thực trạng đời sống của người Khơ-me ở Tây Nam Bộ, một số nghiên cứu đã nhấn mạnh việc không có đất sản xuất, thu nhập thấp, tỷ lệ nghèo đói, mù chữ cao là một số yếu tố khiến đồng bào bị các thế lực phản động lợi dụng tuyên truyền bịa đặt lịch sử, xuyên tạc chính sách của Đảng và Nhà nước, làm phức tạp thêm các mối quan hệ tộc người giữa người Khơ-me với người Kinh (Việt) – nhất là một bộ phận người Khơ-me trở về từ Campuchia đòi lại đất ông cha, tìm cách chia rẽ mối quan hệ đoàn kết dân tộc (Lê Ngọc Thắng, 2010; Vương Xuân Tình, 2012).
Như đã đề cập, nghiên cứu về quan hệ dân tộc xuyên quốc gia ở nước ta chủ yếu mới tìm hiểu mối quan hệ qua biên giới với ba nước láng giềng. Tuy nhiên, đã có nghiên cứu xem xét quan hệ với quốc gia không có chung đường biên của một số dân tộc, như Hoa và Chăm.
Qua xem xét các nghiên cứu về quan hệ dân tộc xuyên quốc gia ở nước ta cho thấy, có những mối quan hệ của các tộc thiểu số với đồng tộc ở nhiều quốc gia không có chung đường biên với Việt Nam, đặc biệt là quan hệ ấy ảnh hưởng đến cả an ninh quốc gia, nhưng lại chưa được nghiên cứu thấu đáo. Đó là trường hợp quan hệ của người Hmông với đồng tộc ở Thái Lan, Australia, Pháp, Canada, Anh, Mỹ; của các tộc Khơ-me, Ê-đê, Gia-rai… với đồng tộc tại Mỹ và một số nước Tây Âu khác. Trong khi đó, các thế lực phản động của những tộc người này ở nước ngoài thời gian qua đã móc nối với bọn phản động trong nước chống phá Việt Nam, tạo nên mâu thuẫn, xung đột tộc người ở Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ.
Người Kinh (Việt), nhất là ở miền Nam, cũng có quan hệ dân tộc xuyên quốc gia đa dạng, đặc biệt từ sau năm 1975, khi chấm dứt cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Từ thời điểm này, có số lượng rất lớn người Kinh (Việt) di tản hoặc vượt biên tới sinh sống ở nước ngoài, mà chủ yếu là ở Tây Âu, Bắc Mỹ và Australia. Từ đó, đã nảy sinh mối quan hệ gắn bó giữa người Kinh (Việt) ở trong nước với đồng tộc ở nước ngoài, đồng thời cũng xuất hiện những chiến lược chống phá Việt Nam của bộ phận phản động lưu vong, kể từ truyền thông đến xây dựng các đảng đối lập và tổ chức khủng bố. Song đến nay, còn rất ít công trình nghiên cứu về quan hệ dân tộc xuyên quốc gia của người Kinh (Việt) dưới góc độ dân tộc học/nhân học. Một số nhà nghiên cứu tìm hiểu vấn đề này nhưng mới chỉ ở quan hệ hôn nhân xuyên quốc gia (Phan An, 2004; Trần Mạnh Cát, 2007).
Nguyên nhân để thúc đẩy quan hệ dân tộc xuyên quốc gia được các tác giả phân tích trước hết là sự cố kết tộc người [Lý Hành Sơn, 2008; Nguyễn Văn Thắng (Chủ biên), 2009; Vương Xuân Tình, 2011]. Bên cạnh đó, chính sách đổi mới, trọng tâm là các chính sách thương mại, đầu tư… của nước ta cũng ảnh hưởng đến mối quan hệ này. Cuối cùng, không thể không nhắc tới tác động của quan hệ quốc tế, của toàn cầu hóa, nhất là chính sách dân tộc của các quốc gia có chung đường biên, của quốc gia có ảnh hưởng đến mối quan hệ dân tộc xuyên quốc gia ở Việt Nam, của các thế lực thù địch chống phá Việt Nam (Phú Văn Hẳn, 2009; Phan Xuân Biên, 2010; Vương Xuân Tình và Nguyễn Văn Minh, 2009, 2010; Vương Xuân Tình, 2012).
2.5. Quan hệ tộc người với cộng đồng dân tộc – quốc gia
Trước tình hình phức tạp về quan hệ tộc người ở một số vùng trong cả nước, có tác giả đã quan tâm đến tác động của thế lực thù địch trong việc kích động đồng bào dân tộc thiểu số đòi tự trị, ly khai. Người Khơ-me đã bị tổ chức phản động Khơ-me Krom ở Campuchia và ở nước thứ ba chi phối với nhiều danh nghĩa khác nhau, nhằm kích động chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, sự hằn thù dân tộc, chống phá chính quyền Việt Nam, đòi tự trị, tự do tôn giáo (Trần Văn Bính, 2004; Bùi Minh Đạo, 2009; Lê Ngọc Thắng, 2010, tr. 407-424). Tổ chức FULRO, nhà nước Đề Ga còn kích động đồng bào dân tộc tại chỗ Tây Nguyên chống lại Nhà nước, đòi ly khai, tự trị (Trương Minh Dục, 2005; Vương Xuân Tình và Nguyễn Văn Minh, 2009; 2010). Tuy nhiên, đáng tiếc là những tìm hiểu dưới góc độ này còn hạn chế và hầu hết vẫn chung chung. Trong một công trình gần đây, Vương Xuân Tình đã cố gắng nghiên cứu thực nghiệm về ý thức quốc gia – dân tộc(4) của 6 cộng đồng làng thuộc các dân tộc Tày, Nùng, Hmông, Khơ-mú, Chăm và Khơ-me tại ba vùng biên giới Việt – Trung, Việt – Lào và Việt – Campuchia. Để xem xét vấn đề này, tác giả đã khảo sát khả năng của người dân trong sử dụng tiếng phổ thông, việc sử dụng và hiểu biết của họ về các biểu tượng văn hóa quốc gia (quốc kỳ, quốc ca, lãnh tụ, thủ đô…). Qua đó, tác giả cho rằng, ý thức quốc gia – dân tộc của nhiều người dân được nghiên cứu trong cộng đồng Khơ-me và Chăm ở vùng biên giới Campuchia chưa cao (Vương Xuân Tình, 2012, tr. 76-86).
Nghiên cứu quan hệ của tộc người với cộng đồng dân tộc – quốc gia ở nước ta, một số tác giả cũng cho rằng, sở dĩ mối quan hệ đó vẫn giữ được như ngày nay là bởi có chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta (Đặng Nghiêm Vạn, 2003, tr. 170-174; Phan Hữu Dật, 2004, tr. 734-762). Bên cạnh đó, nghiên cứu của Phạm Quang Hoan và Nguyễn Hồng Dương (2009), Vương Xuân Tình và Nguyễn Văn Minh (2009, 2010), Phan Xuân Biên (2011), Vương Xuân Tình (2012) còn chỉ ra sự tác động của các thế lực thù địch đến mối quan hệ ấy.
Kết luận
Qua tổng quan tài liệu, có thể rút ra một số hạn chế về nghiên cứu quan hệ dân tộc ở nước ta trong thời gian qua như sau:
1. Thiếu tính lý thuyết. Các nghiên cứu hầu như không cập nhật được lý thuyết của thế giới hiện nay để chọn lọc và áp dụng. Bởi vậy, các nghiên cứu thiên về mô tả, trình bày tư liệu và sự phân tích, đánh giá, luận giải, đề xuất thiếu sắc bén.
3. Thiếu tính thực nghiệm. Hầu như ít có những nghiên cứu thực nghiệm được tiến hành theo quy trình từ xây dựng lý thuyết đến áp dụng nghiên cứu và đề xuất giải pháp. Nhiều công trình nghiên cứu dựa vào tài liệu thống kê, hoặc có triển khai thực địa nhưng không được tuân theo quy trình mang tính thực nghiệm.
4. Còn những khoảng trống trong nội dung nghiên cứu. Trong quan hệ dân tộc, quan hệ tộc người xuyên quốc gia, quan hệ tộc người với cộng đồng dân tộc – quốc gia, các cộng đồng dân tộc – tôn giáo là những vấn đề chưa được đi sâu; còn ít nghiên cứu quan tâm đến mối quan hệ giữa chính sách dân tộc với quan hệ dân tộc và ngược lại; thiếu nhạy bén trong phản ứng với các luận điểm của những học giả nước ngoài có tác động không tích cực cho quan hệ dân tộc ở nước ta.
5. Những hạn chế về phương pháp nghiên cứu. Các kết quả nghiên cứu phản ánh sự thiếu phong phú về phương pháp nghiên cứu, đặc biệt là còn ít phương pháp tham gia. Nhiều nghiên cứu vẫn theo kiểu kinh viện, “tầm chương trích cú”. Bởi vậy, cách làm này đã ảnh hưởng đến chất lượng và đóng góp của nghiên cứu.
Tài liệu tham khảo
1) AF – IDS (2008), Sự phát triển kinh tế của các dân tộc thiểu số Việt Nam, DFID, Báo cáo.
2) Phan An (2004), Hiện tượng phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan, Nxb Trẻ TP. Hồ Chí Minh.
3) Phan An (2005), Người Hoa ở Nam Bộ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
4) Phan Xuân Biên (2010), “Tác động của quan hệ tộc người đối với sự phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta”, trong: Viện Nghiên cứu phát triển Thành phố Hồ Chí Minh (2010), Quan hệ tộc người và phát triển xã hội ở Việt Nam hiện nay, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
5) Phan Xuân Biên (2011), Tác động của quan hệ tộc người đối với sự phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta đến năm 2020, Báo cáo tổng hợp đề tài cấp Nhà nước, Viện Nghiên cứu phát triển Thành phố Hồ Chí Minh.
6) Đỗ Thúy Bình (1986), “Về cơ cấu gia đình các dân tộc ở miền Bắc”, Tạp chí Dân tộc học, Số 3, tr. 3-10.
7) Đỗ Thúy Bình (1991), “Thực trạng hôn nhân ở các dân tộc miền núi phía Bắc”, Tạp chí Dân tộc học, Số 2, tr. 19-27.
8) Nguyễn Công Bình và Cộng sự (1990), Văn hóa và cư dân đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
9) Trần Bình (2002), Về văn hóa Xinh-mun, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
10) Trần Văn Bính (Chủ biên) (2004), Văn hóa các dân tộc Tây Bắc – Thực trạng và những vấn đề đặt ra, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11) Trần Mạnh Cát (2007), “Vấn đề cô dâu Việt Nam và chú rể Đài Loan”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, Số 3.
12) Nguyen Van Chinh (2013), “Recent Chinese Migration to Vietnam”, Asian and Pacific Migration Journal, Vol. 22, No. 1.
13) Ngô Thị Chính và Tạ Long (2007), Ảnh hưởng của các yếu tố tộc người tới phát triển kinh tế – xã hội của dân tộc Chăm ở Ninh Thuận và Bình Thuận, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
14) Phan Hữu Dật (1998), Một số vấn đề về dân tộc học Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
16) Phan Hữu Dật, Lâm Bá Nam (2001), Chính sách dân tộc của các chính quyền nhà nước phong kiến Việt Nam (thế kỷ X – XIX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17) Phan Hữu Dật (2004), Góp phần nghiên cứu dân tộc học Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18) Khổng Diễn (2002), “Về việc xác định lại một số thành phần các dân tộc ở Việt Nam”, Tạp chí Dân tộc học, Số 4, tr. 51-59.
19) Khổng Diễn (2003), Dân tộc Sán Chay ở Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
20) Khổng Diễn (2005), Thực trạng sử dụng đất đai hiện nay ở Tây Nguyên và kiến nghị, giải pháp, Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài cấp Bộ, Viện Dân tộc học, Hà Nội.
21) Trương Minh Dục (2005), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dân tộc và quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22) Đinh Thanh Dự (2008), “Những chứng cứ văn hóa dân gian để góp phần xác định tộc danh của người Nguồn”, Tạp chí Dân tộc học, Số 4.
23) Bùi Minh Đạo (2009), “Một số vấn đề về quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên hiện nay”, Báo cáo tại Hội nghị thông báo Dân tộc học, Hà Nội.
24) Bế Viết Đẳng (1988), “Các quá trình tộc người ở Việt Nam”, Tạp chí Dân tộc học, Số 3.
25) Bế Viết Đẳng và cộng sự (1982), Đại cương về các dân tộc Ê-đê, Mnông ở Đăk Lăk, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
26) Bùi Xuân Đính (2010), Vai trò của người Việt trong sự phát triển bền vững vùng Đông Bắc, Báo cáo tổng hợp kết quả thực hiện đề tài cấp Bộ, Viện Dân tộc học, Hà Nội.
27) Trần Văn Hà (2005), “Đời sống song ngữ của người Cống và Hà Nhì ở Tây Bắc”, Tạp chí Dân tộc học, Số 5, tr. 35-41.
28) Trần Văn Hà (Chủ biên) (2011), Nghiên cứu tái định cư thủy điện ở Việt Nam thời kỳ Đổi mới, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.
29) Châu Thị Hải (2006), Người Hoa ở Việt Nam và Đông Nam Á, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
30) Phú Văn Hẳn (2009), Người Chăm ở Nam Bộ và quan hệ xuyên biên giới trong khu vực Đông Nam Á, Báo cáo tại Hội nghị Thông báo Dân tộc học, Hà Nội.
31) Phạm Đăng Hiến (2010), “Người Lô Lô trong môi trường kinh tế – xã hội vùng biên giới Việt – Trung”, Tạp chí Dân tộc học, Số 1, tr. 5-13.
33) Phạm Quang Hoan, Hùng Đình Quý (Chủ biên) (1999), Người Dao ở Hà Giang, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
34) Phạm Quang Hoan (Chủ biên) (2003), Dân tộc Cơ Lao ở Việt Nam – Truyền thống và biến đổi, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
35) Phạm Quang Hoan và Nguyễn Hồng Dương (2008), Quan hệ dân tộc tôn giáo ở nước ta trong thời kỳ đổi mới, Báo cáo chuyên đề, Viện Dân tộc học, Hà Nội.
36) Phạm Quang Hoan (2011), Nghiên cứu người Hmông ở biên giới Việt – Lào, Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài cấp Bộ, Viện Dân tộc học, Hà Nội.
37) Phạm Quang Hoan (Chủ biên) (2012), Văn hóa các tộc người vùng lòng hồ và vùng tái định cư thủy điện Sơn La, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
38) Nguyễn Văn Huy (1982), “Một số vấn đề về sự phát triển mối quan hệ giữa các dân tộc ở Việt Nam”, Tạp chí Dân tộc học, Số 3, tr. 7-12.
39) Nguyễn Văn Huy (1983a), “Góp phần nghiên cứu sự phát triển mối quan hệ giữa các dân tộc”, Tạp chí Dân tộc học, Số 1, tr. 32-36.
40) Nguyễn Văn Huy (1983b), “Nhìn lại 15 năm nghiên cứu sự phát triển các quan hệ dân tộc ở nước ta”, Tạp chí Dân tộc học, Số 4, tr. 38-51.
41) Nguyễn Văn Huy (1983c), “Một số vấn đề phương pháp luận nghiên cứu sự hình thành cộng đồng nhân dân Việt Nam xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Số 3.
42) Nguyễn Văn Huy (1988), “Một số vấn đề tăng cường quản lý các quan hệ dân tộc một cách khoa học”, Tạp chí Dân tộc học, Số 3, tr. 16-22.
43) Nguyễn Chí Huyên (Chủ biên) (2000), Nguồn gốc lịch sử tộc người vùng biên giới phía Bắc Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
45) Phan Huy Lê (2011), Quá trình hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ, Báo cáo tổng hợp đề án cấp Nhà nước, Hà Nội.
46) Vũ Đình Lợi, Bùi Minh Đạo, Vũ Thị Hồng (2000), Sở hữu và sử dụng đất đai ở các tỉnh Tây Nguyên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
47) Neil J. và cộng sự (2000), Những khó khăn trong công cuộc phát triển miền núi ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48) Nguyễn Thị Nhung (2014), “Tổ chức dòng họ của người Hoa ở Tây Nam Bộ”, Tạp chí Khoa học xã hội TP. Hồ Chí Minh, Số 2, tr. 73-82.
49) Vương Duy Quang (2005), Văn hóa tâm linh của người Hmông ở Việt Nam – Truyền thống và hiện tại, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
50) Chu Thái Sơn (1987), “Tăng cường yếu tố văn hoá quốc gia ở các vùng cao biên giới phía Bắc”, trong: Viện Dân tộc học, Một số vấn đề kinh tế – xã hội các tỉnh miền núi phía Bắc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
51) Lý Hành Sơn (2008), Quan hệ dân tộc vùng biên giới Việt – Lào, Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài cấp Bộ, Viện Dân tộc học, Hà Nội.
52) Lý Hành Sơn (2011), Một số vấn đề cơ bản của tộc người Chăm ở Việt Nam, Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài cấp Bộ, Viện Dân tộc học, Hà Nội.
53) Nguyễn Văn Thắng (Chủ biên), (2009), Giữ “Lý cũ” hay theo “Lý mới”: Bản chất của những cách phản ứng khác nhau của người Hmông ở Việt Nam với ảnh hưởng của đạo Tin Lành, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
54) Nguyễn Văn Thắng (2010), “Bản sắc của người Khơ-me ở khu vực biên giới tỉnh Kiên Giang”, Tạp chí Dân tộc học, Số 2.
55) Lê Ngọc Thắng (2010), “Một số vấn đề về tác động của các thế lực thù địch đến mối quan hệ tộc người ở nước ta hiện nay”, trong: Viện Nghiên cứu phát triển Thành phố Hồ Chí Minh (2010), Quan hệ tộc người và phát triển xã hội ở Việt Nam hiện nay, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
56) Nguyễn Duy Thiệu và các cộng sự (2008), Di cư và chuyển đổi lối sống – Trường hợp cộng đồng người Việt ở Lào, Nxb Thế giới, Hà Nội.
57) Vương Xuân Tình và Nguyễn Văn Minh (2009), Báo cáo thường niên về Quan hệ dân tộc ở vùng miền núi phía Bắc và Bắc Trung Bộ, Viện Dân tộc học, Hà Nội.
58) Vương Xuân Tình – Nguyễn Văn Minh (2010), Báo cáo thường niên về Quan hệ dân tộc ở vùng Tây Nguyên và Tây Nam Bộ, Viện Dân tộc học, Hà Nội.
59) Vương Xuân Tình (2011), Một số vấn đề cơ bản về dân tộc dưới tác động của sự phát triển vùng biên giới Việt – Trung (Nghiên cứu về người Hà Nhì ở một làng của tỉnh Lào Cai và một làng thuộc châu Hồng Hà, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc), Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài cấp Bộ, Viện Dân tộc học, Hà Nội.
60) Vương Xuân Tình (2012), Một số vấn đề cơ bản về văn hóa trong phát triển bền vững ở các tỉnh biên giới Việt Nam, Báo cáo đề tài cấp Bộ, Viện Dân tộc học, Hà Nội.
61) Vương Xuân Tình và Trần Hồng Hạnh (Đồng chủ biên) (2012), Phát triển bền vững văn hóa tộc người trong quá trình hội nhập ở vùng Đông Bắc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
62) Cầm Trọng (1978), Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
63) Đặng Nghiêm Vạn (1978), “Thử bàn về dân tộc xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Tạp chí Dân tộc học, Số 4.
64) Đặng Nghiêm Vạn (2003), Cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
65) WB (2006), The Vietnam Country Social Analysis, Report.
Chú thích:
(1) Trong ngôn ngữ Việt, thuật ngữ “dân tộc” có hai nghĩa, vừa là tộc người (Ethnicity), vừa mang nghĩa quốc gia, dân tộc (Nation). Để tránh lặp từ trong diễn đạt, khi nói về “dân tộc” với hàm ý là Ethnicity, chúng tôi sử dụng hai thuật ngữ “dân tộc” và “tộc người” với nghĩa như nhau; còn khi sử dụng thuật ngữ “dân tộc” với nghĩa Nation, chúng tôi sẽ dùng thuật ngữ “dân tộc – quốc gia” (Nation – State), như nhiều công trình khoa học trên thế giới đã sử dụng.
Thực ra, hai thuật ngữ Nation và Nation – State có một số nội hàm khác nhau, song trong bối cảnh của vấn đề đang bàn, chúng tôi cho rằng sử dụng thuật ngữ Nation – State sẽ hợp lý hơn.
(2) Thuật ngữ này là của GS. Đặng Nghiêm Vạn trong tài liệu đã dẫn.
(3) Xem chú giải ở chú thích
(4) Thuật ngữ này là của tác giả Vương Xuân Tình trong tài liệu đã dẫn.
Nguồn: Tạp chí Dân tộc học (2014), số 1&2, trang 7-21.
Bạn đang xem bài viết Bài 19. Nhân Dân Việt Nam Kháng Chiến Chống Pháp Xâm Lược (Từ Năm 1858 Đến Trước Năm 1873) trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!