Cập nhật thông tin chi tiết về Bản Chất Và Những Đặc Trưng Cơ Bản Của Pháp Luật mới nhất trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Theo học thuyết Mác – Lênin, pháp luật chỉ phát sinh tồn tại và phát triển trong xã hội có giai cấp. Bản chất của pháp luật thể hiện ở tính giai cấp của nó, không có “pháp luật tự nhiên” hay pháp luật không mang tính giai cấp.
Bản chất của pháp luật
Pháp luật mang tính giai cấp
Học thuyết Mác-Lênin về nhà nước và pháp luật lần đầu tiên trong lịch sử, đã giải thích một cách đúng đắn khoa học về bản chất của pháp luật và những mối quan hệ của nó với các hiện tượng khác trong xã hội có giai cấp. Theo học thuyết Mác-Lênin, pháp luật chỉ phát sinh tồn tại và phát triển trong xã hội có giai cấp. Bản chất của pháp luật thể hiện ở tính giai cấp của nó, không có “pháp luật tự nhiên” hay pháp luật không mang tính giai cấp.
Tính giai cấp của pháp luật thể hiện trước hết ở chỗ, pháp luật phản ánh ý chí nhà nước của giai cấp thống trị. C.Mác và Ănghen khi nghiên cứu về pháp luật tư sản đã đi đến kết luận: Pháp luật tư sản chẳng qua chỉ là ý chí của giai cấp tư sản được đề lên thành luật, cái ý chí mà nội dung của nó là do điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp tư sản quyết định. Nhờ nắm trong tay quyền lực nhà nước, giai cấp thống trị đã thông qua nhà nước để thể hiện ý chí của giai cấp mình một cách tập trung, thống nhất và hợp pháp hóa thành ý chí của nhà nước, ý chí đó được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Nhà nước ban hành và bảo đảm cho pháp luật được thực hiện, vì vậy pháp luật là những quy tắc xử sự chung có tính bắt buộc đối với mọi người.
Trong xã hội có giai cấp tồn tại nhiều loại quy phạm khác nhau, thể hiện ý chí và nguyện vọng của các giai cấp, các lực lượng xã hội khác nhau, nhưng chỉ có một hệ thống pháp luật thống nhất chung cho toàn bộ xã hội.
Tính giai cấp của pháp luật còn thể hiện ở mục đích điều chỉnh các quan hệ xã hội. Mục đích của pháp luật trước hết nhằm điều chỉnh quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Vì vậy, pháp luật là nhân tố để điều chỉnh về mặt giai cấp các quan hệ xã hội nhằm hướng các quan hệ xã hội phát triển theo một “trật tư” phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị, bảo vệ và củng cố địa vị của giai cấp thống trị. Với ý nghĩa đó, pháp luật chính là công cụ để thực hiện sự thống trị giai cấp.
Bản chất giai cấp là thuộc tính chung của bất kỳ kiểu pháp luật nào nhưng mỗi kiểu pháp luật lại có những nét riêng và cách biểu hiện riêng. Ví dụ: Pháp luật chủ nô công khai quy định quyền lực vô hạn của chủ nô, tình trạng vô quyền của nô lệ. Pháp luật phong kiến công khai quy định đặc quyền, đặc lợi của địa chủ phong kiến, cũng như quy định các chế tài hà khắc dã man để đàn áp nhân dân lao động. Trong pháp luật tư sản bản chất giai cấp được thể hiện một cách thận trọng, tinh vi dưới nhiều hình thức như quy định về mặt pháp lý những quyền tự do, dân chủ… nhưng thực chất pháp luật tư sản luôn thể hiện ý chí của giai cấp tư sản và mục đích trước hết nhằm phục vụ lợi ích cho giai cấp tư sản. Pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, là công cụ để xây dựng một xã hội mới trong đó mọi người đều được sống tự do, bình đẳng, công bằng xã hội được bảo đảm.
Tính xã hội của pháp luật
Pháp luật do nhà nước, đại diện chính thức của toàn xã hội ban hành nên nó còn mang tính chất xã hội. Nghĩa là, ở mức độ ít hay nhiều (tùy thuộc vào hoàn cảnh trong mỗi giai đoạn cụ thể), pháp luật còn thể hiện ý chí và lợi ích của các giai tầng khác trong xã hội. Ví dụ: Pháp luật tư sản Ơ giai đoạn đầu, sau khi cách mạng tư sản thắng lợi, bên cạnh việc thể hiện ý chí của giai cấp tư sản còn thể hiện nguyện vọng dân chủ và lợi ích của nhiều tầng lớp khác trong xã hội. Trong quá trình phát triển tiếp theo, tùy theo tình hình cụ thể, giai cấp tư sản đã điều chỉnh mức độ thể hiện đó theo ý chí của mình để pháp luật có thể “thích ứng” với điều kiện và bối cảnh xã hội cụ thể. Đối với pháp luật xã hội chủ nghĩa cũng vậy, bên cạnh việc pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mỗi thời kỳ (mỗi giai đoạn nhất định của quá trình phát triển), cũng phải tính đến ý chí và lợi ích của các tầng lớp khác.
Như vậy, pháp luật là một hiện tượng vừa mang tính giai cấp lại vừa thể hiện tính xã hội . Hai thuộc tính này có mối liên hệ mật thiết với nhau. Xét theo quan điểm hệ thống, không có pháp luật chỉ thể hiện duy nhất tính giai cấp; ngược lại, cũng không có pháp luật chỉ thể hiện tính xã hội.
Tuy nhiên mức độ đậm, nhạt của hai tính chất đó của pháp luật rất khác nhau và thường hay biến đổi tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội, đạo đức, quan điểm, đường lối và các trào lưu chính trị xã hội trong mỗi nước, ở một thời kỳ lịch sử nhất định.
Từ sự phân tích trên có thể định nghĩa pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, thể.hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là nhân tô điều chỉnh các quan hệ xã hội. Để giải thích rõ bản chất của pháp luật còn cần thiết phải phân tích các mối quan hệ giữa pháp luật với kinh tế, chính trị. đạo đức và nhà nước.
Trong mối quan hệ với kinh tế, pháp luật có tính độc lập tương đối. Một mặt, pháp luật phụ thuộc vào kinh tế; mặt khác, pháp luật lại có sự tác động trở lại một cách mạnh mẽ đối với kinh tế. Sự phụ thuộc của pháp luật vào kinh tế thể hiện ở chỗ nội dung của pháp luật là do các quan hệ kinh tế – xã hội quyết định, chế độ kinh tế là cơ sở của pháp luật. Sự thay đổi của chế độ kinh tế – xã hội sớm hay muộn cũng sẽ dẫn đến sự thay đổi của pháp luật. Pháp luật luôn luôn phan ánh trình độ phát triển của chế độ kinh tế, nó không thể cao hơn hoặc thấp hơn trình độ phát triển đó. Mặt khác, pháp luật có sự tác động trở lại đối với sự phát triển của kinh tế. Sự tác động đó có thể là tích cực cũng có thể là tiêu cực. Khi nào pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị là lực lượng tiến bộ trong xã hội, phản ánh đúng trình độ phát triển của kinh tế thì pháp luật có nội dung tiến bộ và có tác dụng tích cực. Ngược lại, khi pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị đã lỗi thời, muốn dùng pháp luật để duy trì các quan hệ kinh tế đã lạc hậu không còn phù hợp nữa, thì pháp luật mang nội dung lạc hậu và có tác dụng tiêu cực, kìm hãm sự phát triển của kinh tế, xã hội. Chẳng hạn, pháp luật tư sản ở thời kỳ đầu, sau thắng lợi của cách mạng tư sản đã thể hiện rõ nội dung tiến bộ so với pháp luật phong kiến và có tác dụng tích cực góp phần xóa bỏ những quan hệ kinh tế – xã hội phong kiến lạc hậu, củng cố và thúc đẩy sự phát triển những quan hệ kinh tế – xã hội tiến bộ mới hình thành trong xã hội tư sản chủ nghĩa. Nhưng đến thời kỳ đế quốc chủ nghĩa nó đã có nhiều thay đổi và có những tác động tiêu cực đến các quá trình kinh tế, chính trị và xã hội, gây ra sự phản ứng mạnh mẽ, đe dọa “trật tự” của xã hội tư bản. Để khắc phục nhược điểm đó, các nhà nước tư sản đã nhiều lần phải điều chỉnh, phải thay đổi đường lối để bảo đảm cho pháp luật có thể thích ứng với tình hình. Pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và đông đảo nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, phản ánh đúng đắn trình độ phát triển của chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa. Cho nên, pháp luật xã hội chủ nghĩa có nội dung tiến bộ và giữ vai trò tích cực trong việc tác động tới quá trình phát triển của kinh tế xã hội.
Trong mối quan hệ với chính trị, pháp luật là một trong những hình thức biểu hiện cụ thể của chính trị. Đường lối chính sách của giai cấp thống trị luôn giữ vai trò chỉ đạo đối với pháp luật. Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, vì vậy đường lối chính trị thể hiện trước hết ở các chính sách kinh tế. Các chính sách đó được cụ thể hóa trong pháp luật thành những quy định chung, thống nhất trong toàn xã hội. Mặt khác, chính trị còn là sự thể hiện mối quan hệ giữa các giai cấp và các lực lượng khác nhau trong xã hội trên tất cả các lĩnh vực. Vì vậy, pháp luật không chỉ phản ánh các chính sách kinh tế mà còn thể hiện các quan hệ giai cấp, phản ánh đối sánh giai cấp và mức độ của cuộc đấu tranh giai cấp. Chẳng hạn, dưới áp lực đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các lực lượng xã hội tiến bộ khác, giai cấp tư sản buộc phải ghi nhận về mặt pháp lý một số quyền thể hiện lợi ích của nhân dân lao động như quyền bầu cử, quyền học tập, nghỉ ngơi …
Pháp luật còn có mối quan hệ với đạo đức. Đạo đức là những quan niệm, quan điểm của con người (một cộng đồng người, một giai cấp), về cái thiện, cái ác, về sự công bằng, nghĩa vụ, danh dự và về những phạm trù khác thuộc đời sống tinh thần của xã hội. Những quan niệm, quan điểm này rất khác nhau, do những điều kiện của đời sống vật chất xã hội quyết định. Trên cơ sở những quan niệm, quan điểm đó, một hệ thống quy tắc ứng xử của con người được hình thành. Đạo đức một khi đã trở thành niềm tin nội tâm thì chúng sẽ là cơ sở cho hành vi của con người. Mỗi lực lượng xã hội, hoặc một cộng đồng người đều có những quan niệm và quan điểm riêng của mình. Cho nên các quy phạm đạo đức tồn tại trong xã hội cũng rất nhiều loại. Chúng luôn có sự tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau. Lực lượng thống trị (lực lượng nắm quyền lực) do có ưu thế đặc biệt nên có điều kiện để thể hiện những quan niệm, quan điểm của mình thành pháp luật. Vì vậy, pháp luật luôn phản ánh đạo đức của lực lượng cầm quyền. Tuy nhiên, do có sự tác động qua lại của nhiều loại đạo đức trong xã hội, pháp luật không thể không phản ánh các quan điểm, quan niệm, lợi ích của các lực lượng khác nhau trong xã hội. Trong khi xây dựng và thực hiện pháp luật, các lực lượng cầm quyền đều phải tính đến yếu tố đạo đức xã hội để tạo cho pháp luật một khả năng “thích ứng”, làm cho nó “tựa hồ” như thể hiện ý chí của mọi tầng lớp xã hội.
Pháp luật chịu sự tác động của đạo đức và các quy phạm xã hội khác nhưng pháp luật có tác động rất mạnh mẽ tới các hiện tượng đó và thậm chí trong một chừng mực nhất định, nó còn có khả năng cải tạo các quy phạm đạo đức và các quy phạm xã hội khác.
Pháp luật và nhà nước, hai thành tố của thượng tầng chính trị – pháp lý, luôn có mối quan hệ khăng khít, không thể tách rời nhau. Cả hai hiện tượng pháp luật và nhà nước đều có chung nguồn gốc cùng phát sinh và phát triển. Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, nhưng quyền lực đó chỉ có thể được triển khai và phát huy có hiệu lực trên cơ sở của pháp luật. Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành, luôn phản ánh những quan điểm và đường lối chính trị của lực lượng nắm quyền lực nhà nước và bảo đảm cho quyền lực đó được triển khai nhanh, rộng trên quy mô toàn xã hội. Với ý nghĩa đó, nhà nước không thể tồn tại và phát huy quyền lực thiếu pháp luật; và ngược lại pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và có hiệu lực khi dựa trên cơ sở sức mạnh của quyền lực nhà nước. Vì vậy không thể nói pháp luật đứng trên nhà nước hay nhà nước đứng trên pháp luật. Đồng thời khi xem xét các vấn đề nhà nước và pháp luật, phải đặt chúng trong mối quan hệ qua lại với nhau.
Khi xem xét mối quan hệ giữa pháp luật với nhà nước phải xét đến một khía cạnh thứ hai, đó là cần xuất phát từ tính chất đặc thù về giá trị xã hội của mỗi hiện tượng để luận giải. Pháp luật mặc dù do nhà nước ban hành, những khi đã được công bố thì nó trở thành một hiện tượng có sức mạnh công khai, bắt buộc đối với mọi chủ thể, trong đó có nhà nước. Nhà nước nói chung và mỗi cơ quan của nó nói riêng đều phải tôn trọng pháp luật, không thể coi nhẹ, càng không thể chà đạp lên nó. Nhà nước có quyền ban hành pháp luật, nhưng pháp luật bên cạnh việc thể hiện bản chất giai cấp, còn phản ánh những nhu cầu khách quan, phổ biến của các mối quan hệ xã hội. Vì vậy, nhà nước cũng không thể ban bố pháp luật một cách chủ quan, duy ý chí, không tính đến những nhu cầu và tâm lý xã hội. Khi pháp luật (thường là một bộ phận của nó) không còn phù hợp với thực tiễn nữa thì nhà nước phải tiến hành sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ để ban hành pháp luật mới.
Nhìn một cách tổng quát, pháp luật có những đặc trưng cơ bản sau:
Tính quyền lực của pháp luật (tính nhà nước, tính cưỡng chế)
Pháp luật do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện. Nói một cách khác, pháp luật được hình thành và phát triển bằng con đường nhà nước chứ không thể bằng bất kỳ một con đường nào khác. Với tư cách của mình, nhà nước là một tổ chức hợp pháp, công khai và có quyền lực bao trùm loàn xã hội. Vì vậy, khi pháp luật được nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, nó sẽ có sức mạnh của quyền lực nhà nước và có thể tác động đến tất cả mọi người. Đặc trưng này chỉ có ở pháp luật. Các loại quy tắc xử sự khác chỉ có thể tác động trong một phạm vi hẹp, dưới những phương thức “nhẹ nhàng” hơn và được bảo đảm bằng dư luận xã hội, chứ không phải bằng quyền lực nhà nước như đối với pháp luật (trừ những trường hợp đặc biệt được nhà nước quan tâm).
Tính quy phạm của pháp luật
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự đó là những khuôn mẫu, những mực thước được xác định cụ thể, không trừu tượng, chung chung. Tính quy phạm của pháp luật nói lên giới hạn cần thiết mà nhà nước quy định để mọi người (chủ thể) có thể xử sự một cách tự do trong khuôn khổ cho phép. Vượt quá giới hạn đó là trái luật. Giới hạn đó được xác định ở nhiều khía cạnh khác nhau như cho phép, cấm đoán, bắt buộc… Về nguyên tắc, pháp luật phải cụ thể, khuôn phép, mực thước, không thể lạm dụng hoặc tùy tiện. Vì vậy, nói đến pháp luật suy cho cùng là phải xét đến các quy phạm cụ thể. Nếu không có quy phạm pháp luật được đặt ra thì cũng không thể quy kết một hành vi nào là vi phạm, là trái pháp luật. Những nguyên tắc: “Mọi người được làm tất cả mọi việc trừ những điều mà pháp luật nghiêm cấm”, “mọi người đều bình đẳng trước pháp luật” được hình thành là dựa trên cơ sở của đặc trưng về tính quy phạm của pháp luật. Chính đặc trưng cơ bản này đã làm cho pháp luật ngày càng có “tính trội”, hơn hẳn đối với các loại quy phạm xã hội trong xã hội văn minh, hiện đại.
Pháp luật bao giờ cũng là hiện tượng ý chí, không phải là kết quả của sự tự phát hay cảm tính. Xét về bản chất, ý chí trong pháp luật là ý chí của giai cấp, lực lượng cầm quyền. Y chí đó thể hiện rõ Ơ mục đích xây dựng pháp luật, nội dung pháp luật và dự kiến hiệu ứng của pháp luật khi triển khai vào thực tế đời sống xã hội.
Trên thực tế chỉ có lực lượng nào nắm được nhà nước mới có khả năng thể hiện ý chí và lợi ích của mình một cách tối đa trong pháp luật. Một khi ý chí và lợi ích đã được hợp pháp hóa thành pháp luật thì nó được bảo đảm thực hiện bằng quyền lực nhà nước. Vì vậy mọi quá trình xây dựng, tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật đều được diễn ra dưới những hình thức cụ thể, theo những nguyên tắc và thủ tục chặt chẽ. Đó là kết quả của sự tư duy chủ động, tự giác của những nhà tư tưởng, những nhà chức trách. Điều này cũng cho thấy rõ sự khác biệt giữa pháp luật với các hệ thống quy phạm khác.
Tính xã hội của pháp luật
Mặc dù pháp luật có tính nhà nước, tính ý chí, nhưng tính xã hội vẫn là một đặc trưng cơ bản không thể coi nhẹ. Như đã phân tích trong mục 1 , muốn cho pháp luật phát huy được hiệu lực thì nó phải phù hợp với những điều kiện cụ thể của xã hội Ơ thời điểm tồn tại của nó, nghĩa là pháp luật phải phản ánh đúng những nhu cầu khách quan của xã hội. Tuy nhiên, do tính chất phức tạp của các mối quan hệ xã hội, pháp luật chỉ có khả năng mô hình hóa những nhu cầu xã hội khách quan đã mang tính điển hình, phổ biến và thông qua đó để tác động tới các quan hệ xã hội khác hướng các quan hệ đó phát triển theo hướng đã được nhà nước xác định. Như vậy ở đặc trưng này nét khác biệt của pháp luật so với các quy phạm xã hội khác thể hiện ở tính toàn diện và tính điển hình (phổ biến) của các mối quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh.
Xem xét những đặc trưng cơ bản nói trên của pháp luật càng cho thấy rõ bản chất và sự khác biệt giữa pháp luật với các hiện tượng khác. Cả bốn đặc trưng cơ bản đó đều có ý nghĩa quan trọng và nằm trong mối quan hệ bản chất với nhau, không thể chỉ chú trọng điểm này mà coi nhẹ điểm kia.
Tuy nhiên, những đặc trưng đã nêu chỉ là những đặc trưng cơ bản, bên cạnh chúng còn có những đặc trưng khác. Tùy thuộc vào yêu cầu xem xét kỹ về một kiểu pháp luật, một hệ thống pháp luật điển hình của một khu vực hoặc một quốc gia nhất định, chúng ta sẽ đề cập một cách cụ thể hơn. Ví dụ: tính khái quát và cụ thể, thành văn và không thành văn, tính nghiêm khắc và nhân đạo…
Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest
Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị đây chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
Những Đặc Trưng Cơ Bản Của Phạm Trù Quy Luật
Phạm trù quy luật là phạm trù có lịch sử rất lâu đời. Những tư tưởng về quy luật đã ra đời ngay từ thời cổ đại và được các nhà triết học sau này tiếp thu, kế thừa và phát triển. Trong lịch sử triết học, các nhà triết học đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về phạm trù quy luật. Nhưng tựu trung lại, các nhà triết học đều xác định nội dung phạm trù quy luật bằng cách quy nó về một phạm trù hoặc tập hợp các phạm trù khác. Ngay Mác, Engen, Lênin cũng không đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh nào về phạm trù quy luật, mà chỉ nêu lên những đặc trưng cơ bản về phạm trù đó, trên cơ sở kế thừa và phát triển những tư tưởng quý báu của các nhà triết học vĩ đại trước đó, đặc biệt là của Hêgen. Tình hình đó cho thấy việc định nghĩa phạm trù quy luật là vấn đề phức tạp và để hiểu cặn kẽ phạm trù này cần làm sáng tỏ những đặc trưng cơ bản của nó. Bởi lẽ, phạm trù quy luật là một phạm trù tổng hợp, nó mang những đặc trưng của một loạt các phạm trù khác.
Trước hết, quy luật không phải là bản thân sự vật, không phải là thuộc tính của sự vật hay là các hiện tượng riêng lẻ, mà chính là mối liên hệ, quan hệ giữa các sự vật và hiện tượng. Chính Hêgen, sau đó là Lênin đã khẳng định quy luật là quan hệ. Tuy nhiên, quy luật không phải là tất cả các hình thức, mà chỉ là một trong những hình thức của mối liên hệ phổ biến và sự quy định lẫn nhau giữa các hiện tượng thuộc thế giới khách quan. Do đó, quy luật không phản ánh sự khác biệt giữa các sự vật và hiện tượng, tức không phải là cái tách biệt giữa chúng mà là cái gắn chúng lại với nhau. Nó thể hiện với tư cách là quan hệ giữa các sự vật và hiện tượng, phản ánh sự thống nhất của các hiện tượng.
Khi nói rằng quy luật luôn luôn biểu hiện mối quan hệ, liên hệ giữa các sự vật và hiện tượng thì điều đó hoàn toàn không có nghĩa rằng quy luật không bị các thuộc tính, mà chỉ bị quan hệ thuần túy quy định. Trái lại, sự vật là vật mang của các quan hệ. Nếu không có sự vật thì không có các quan hệ, còn các quan hệ nào không gán với sự vật chỉ là những quan hệ tưởng tượng, không hiện thực, không khách quan. Nhưng vì các thuộc tính của sự vật không biểu hiện và không nhận thức bằng cách nào khác ngoài mối quan hệ, liên hệ qua lại với các sự vật và hiện tượng khác, cho nên nói đến sự vật và thuộc tính của sự vật, trước hết là phải nói đến các quan hệ. Mọi quy luật đều bao quát một số khách thể mà giữa chúng có những mối liên hệ và quan hệ nhất định. Quy luật khoa học khi phản ánh một quan hệ nào đó giữa các sự vật và hiện tượng, cũng đồng thời phản ánh các thuộc tính của hiện tượng ấy, sự khác nhau giữa các quy luật không chỉ phụ thuộc vào sự khác nhau của sự vật và hiện tượng mà quy luật đó bao quát mà còn phụ thuộc vào tính chất, kiểu quan hệ giữa các sự vật và hiện tượng đó.
Như trên đã khẳng định, quy luật chỉ là một trong những hình thức của mối liên hệ phổ biến và sự quy định lẫn nhau giữa các hình tượng thuộc thế giới khách quan. Nó không phản ánh mọi quan hệ, mối liên hệ giữa các hiện tượng mà chỉ phản ánh quan hệ tất yếu nội tại giữa các hiện tượng. Chính Hêgen và các nhà sáng lập chú nghĩa Mác đã sử dụng các khái niệm “quy luật”, “tính tất yếu nội tại”, “tính không tránh khỏi” như là những phạm trù đồng nghĩa. Bản thân khái niệm “quy luật” với tính cách là cái gì đó ,bắt buộc”, nhất định phải xảy ra gắn chặt với tính tất yếu, tính không tránh khỏi. Ngay từ thời cổ đại, các nhà triết học đã hiểu khái niệm quy luật như là khái niệm dùng để chỉ cái gì đó tất yếu, bắt buộc, không tránh khỏi, nhất định sẽ xảy ra. Điều đó đã được thể hiện trong các câu truyện thần thoại và trong các giáo lý tôn giáo thời cổ đại. Nhưng khác với các nhà triết học trước, Hêgen và những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác hiểu tính tất yếu trong quy luật như là tính tất yếu nội tại, bên trong của sự vật chứ không phải như là cái gì đó bị áp đặt từ bên ngoài vào bản thân sự vật kiểu như “mệnh lệnh của thượng đế” vậy. Cách hiểu mới về tính tất yếu của quy luật như vậy là rất quan trọng, nó giúp ta phân biệt quy luật với những nhiệm vụ phải làm ở một thời điểm nhất định.
Nói đến quy luật, bao giờ người ta cũng nói đến tính tất yếu, tính không tránh khỏi. Vì thế, không phải ngẫu nhiên trong lịch sử triết học cũng như hiện nay, các nhà triết học khi bàn đến quy luật đều khẳng định rằng bất kỳ quy luật nào cũng gắn liền với tính tất yếu. Hơn thế nữa, tính tất yếu còn được coi là ‘dấu hiệu bản chất nhất, là phần đáng kể nhất trong nội dung của quy luật”. Tuy nhiên, với tính cách là quan hệ tất yếu, quy luật không phải là cái gì đó bất di bất dịch, không phụ thuộc vào bất cứ điều kiện nào như những người theo thuyết định mệnh khẳng định. Trái lại, để thực hiện mối liên hệ tất yếu nội tại đó đòi hỏi phải có những sự vật và hiện tượng nhất định, đồng thời phải có những điều kiện nhất định. Mối liên hệ tất yếu nội tại giữa các hiện tượng chi được thực hiện trong những điều kiện xác định.
Như vậy, tính “tất yếu”, tính “không tránh khỏi” của quy luật luôn luôn gắn liền với những điều kiện nhất định. Điều đó có nghĩa là khi có những điều kiện đảm bảo cho sự tồn tại và tác động của quy luật thì những kết quả do quy luật đó đem lại là không tránh khỏi, điều kiện giống nhau thì kết quả là giống nhau. Tất nhiên, nói đến giống nhau ở đây chỉ có nghĩa tương đối, bởi vì những điều kiện giống nhau hoàn toàn chỉ có được trong các phòng thí nghiệm, còn trong tự nhiên và trong xã hội không bao giờ có. Như vậy, bản thân tính tất yếu là có tính chất phổ biến, tức là được lặp lại nhất định phải xảy ra khi có những điều kiện tương ứng. Chỉnh Hêgen và Lênin cũng đã khẳng định như vậy khi viết rằng “tính tất yếu không thể tách rời cái phổ biến”, “tính tất yếu ” = ” tính chung của tồn tại” (tính phổ biến trong tồn tại). Nói cách khác, quy luật là mối liên hé phổ biến của mọi sự vật và hiện tượng nào đó. Tính phổ biến là một đặc trưng của quy luật gắn chặt với đác trưng quan trọng nhất: tính tất yếu nội tại.
Mặt khác, bản thân quy luật không phải là mối liên hệ hay quan hệ nhất thời giữa các sự vật, hiện tượng mà là mối liên hệ bền vững giữa các sự vật, hiện tượng. Ngay tính tất yếu nội tại của quy luật cũng đã khẳng định điều đó. Bởi vì một mối liên hệ tất yếu nội tại không thể mối liên hệ nhất thời, hời hợt mà phải là mối liên hệ bền vững. Chính vì thế, Hêgen cho rằng quy luật là cái quy luật là cái gì bền vững (cái được bảo tồn) trong hiện tượng, quy luật phản ánh cái yên tĩnh, nắm lấy cái yên tĩnh. Như vậy, cùng với tính tất yếu và phổ biến, quy luật còn thể hiện mối liên hệ ổn định của sự vật hay hiện tượng, cho nên quy luật là mối liên hệ bản chất. Bởi lẽ, bản chất chính là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định ở bên trong sự vật, quy định cơ sự vận động của sự vật đó.
█
Quy luật là một quan hệ bản chất, là một mặt, là yếu tố của bản chất. Mỗi quy luật chỉ phản ánh một quan hệ bản chất, còn tổng hợp các quy luật phản ánh đầy đủ bản chất của sự vật và hiện tượng. Hêgen và Lênin đã chỉ ra rằng quy luật là một quan hệ bản chất, tức chỉ phản ánh một mặt nào đó của bản chất, còn quy luật cơ bàn phản ánh mặt bản của bản chất. Một sự vật có nhiều quy luật, song có một quy luật cơ bản phàn ánh chính bản chất, tức sự thống nhất, tính chỉnh thể của các quan hệ bản chất. Vì vậy, việc nhận thức quy luật cơ bản của sự vật đem lại cho con người quan niệm sâu bắc hơn về bản chất của sự vật. Chẳng hạn, trong các quy luật khách quan của giới tự nhiên hữu cơ: quy luật di truyền, quy luật biến dị, quy luật chọn lọc tự nhiên, quy luật thống nhất giữa cơ thể và điều kiện sống của nó thì quy luật thống nhất giữa cơ thể và điều kiện sống của nó là quy luật cơ bản. Các quy luật khác nhau của một lĩnh vực hiện tượng nhất định thể hiện với tính cách là những mặt của quy luật cơ bản. Mặt khác, không phải bất kỳ một quan hệ có tính bản chất nào cũng là quy luật. Mặc dù quy luật và bản chất là những phạm trù cùng bậc, song giữa chúng vẫn có sự khác nhau. Quy luật chỉ là một trong những hình thức đa dạng của bản chất. Trái lại, một quan hệ có tính bản chất không thể được coi là quy luật, nếu như nó không bao quát tất cả các sự vật hiện tượng nói chung, hoặc tất cả các sự vật, hiên tượng của một nhóm nào đó. Quy luật, như trên đã trình bày, mặc dù hẹp hơn vi phạm so với bản chất, song lại có tính chất chung và phổ biến.
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin đã rất chú ý đến vai trò của các điều kiện trong sự phát triển của các hiện tượng tự nhiên cũng như các sự kiện của đời sống xã hội, đồng thời cũng chỉ ra rằng chỉ có nghiên cứu tỉ mỉ những điều kiện xuất hiện và phát triển của các hiện tượng mới cho phép hiểu đúng các hiện tượng và những quy luật của nó. Trong hàng loạt tác phẩm của mình, Mác, Engen, Lênin đã chỉ ra tính lịch sử của các quy luật tự nhiên cũng như các quy luật xã hội, đồng thời nhấn mạnh sự phụ thuộc của các quy luật đó vào những điều kiện cần thiết cho sự tồn tại và tác động của chúng. Chẳng hạn, trong “Biện chứng của tự nhiên”, Engen đã láy nhiều ví dụ trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên khác nhau để chỉ ra vai trò của các điều kiện đối với sự tồn tại và tác đóng của quy luật. Engen cho rằng “Nước ở thể lỏng trong khoảng 0 0C đến 100 0C đó là một quy luật vĩnh viễn của tự nhiên. Nhưng muốn cho quy luật ấy có hiệu lực thì cần phải có nước, nhiệt độ nhất định và áp suất bình thường”. Như vậy muốn cho quy luật: nước ở thể lỏng trong khoảng từ 0 0C đến 100 0 C có hiệu lực thì cần phải có 3 điều kiện trên, ở đâu nếu thiếu một trong 3 điều kiện trên thì bản thán quy luật đó hoặc là không có hiệu lực hoặc là bị biến dạng. Chẳng hạn trên mặt trăng không có nước, trên mặt trời chỉ có những nguyên tố của nước thôi, cho nên đối với các thiên thể ấy bản thân quy luật trên không tồn tại, còn ngay ở những nơi có nước, sự thay đổi của nhiệt độ và áp suất sẽ ảnh hưởng rất lớn đến trạng thái của nước, tức ảnh hưởng đến độ đậm nhạt của quy luật.
Rõ ràng rằng, tính không tránh khỏi, tính tất yếu của quy luật đòi hỏi không chỉ một điều kiện, mà một loạt hoàn chỉnh các điều kiện. Điều kiện không phải là cái gì đó bên ngoài trong quan hệ với quy luật. Trái lại, điều kiện tác động của quy luật không tách khỏi bản thân quy luật, bởi vì quy luật có sức mạnh chỉ trong những điều kiện nhất định và thay đổi của những điều kiện thường gây nên sự thay đổi của bàn thân quy luật. Vì vậy, cấu trúc của quy luật khoa học bao gồm 3 phần:
l) các sự vật và hiện tượng, 2) các mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng do quy luật quy định, 3) lĩnh vực các điều kiện trong đó mối liên hệ tất yếu, phổ biến được thực hiện, trong đó phần thứ hai là phần chủ yếu phản ánh bản chất của quy luật.
Các điều kiện khác nhau có vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và tác động của quy luật. Trong triết học, người ta đã sử dụng hai khái niệm nguyên nhân và điều kiện để chỉ vai trò của các loại điều kiện khác nhau. Thực ra, những vật mang của nguyên nhân và điều kiện trong thế giới khách quan luôn luôn là những khách thể vật chất. Các khái niệm nguyên nhân và điều kiện là những khái niệm dùng để chỉ những mối liên hệ, quan hệ qua lại giữa các khách thể đó. Điều kiện đương nhiên là có ảnh hưởng đến sự vật, tác động đến nó theo một quan hệ nào đây. Khái niệm điều kiện rộng hơn khái niệm nguyên nhân. Không phải bất kỳ điều kiện nào cũng là nguyên nhân. Nguyên nhân là điều kiện sản sinh, gây nên hiện tượng nói chung hay là một số đặc điểm, quan hệ nào đó. Vì vậy, không nên đối lập điều kiện với nguyên nhân. Điều kiện là nguyên nhân của một mặt nào đó, của một đặc điểm nào đó, nhưng đồng thời không phải nguyên nhân của một mặt khác, đặc điểm khác trong sự vật, hiện tượng.
Song để hiểu rõ hơn vai trò của các loại điều kiện có thể phân điều kiện thành hai loại: điều kiện cần và điều kiện đủ. Sự khác nhau giữa điều kiện cần và điều kiện đủ là ở chỗ điều kiện cần là những điều kiện mà nếu thiếu nó sự kiện không thể xuất hiện, điều kiện đủ là những điều kiện mà nhờ đó sự kiện xuất hiện rõ ràng. áp dụng cách hiểu đó vào việc nghiên cứu quy luật, có thể nói rằng điều kiện cần là những điều kiện mà nếu thiếu nó quy luật không thể xuất hiện, tức là những điều kiện làm xuất hiện khả năng tác động của quy luật, còn điều kiện đủ là những điều kiện mà nhờ đó quy luật dứt khoát xuất hiện hoặc xuất hiện rõ ràng. Chúng ta hãy trở lại ví dụ của Engen. Như chúng ta đã biết, nước có khả năng ở trong các trạng thái khác nhau: trạng thái rắn, lỏng, hơi nước ở trạng thái lỏng là một trong các khả năng trên. Nếu không có nước thì hoàn toàn không có khả năng đó. Như vậy, nước là điều kiện cần cho quy luật nước ở thể lỏng, bởi vì nếu không có nước thì dứt khoát không có quy luật đó. Nhưng để quy luật đó tồn tại dưới dạng hiện thực, chứ không phải tồn tại như một khả năng thì ngoài điều kiện phải có nước, cần phải có điều kiện về nhiệt độ và áp suất nhất định. Chính điều kiện nhiệt độ và áp suất nhất định này làm cho quy luật trên tồn tại một cách hiện thực. Cho nên, nhiệt độ và áp suất nhất định chính là điều kiện đủ của quy luật nước ở thể lỏng.
Như vậy, để quy luật tồn tại và phát huy tác dụng cần phải có cà điều kiện cần lẫn điều kiện đủ. Mặc dù các điều kiện đó có những vai trò khác nhau, song nếu thiếu một trong hai điều kiện đó thì bản thân quy luật cũng không tồn tại. Các điều kiện của sự tồn tại và tác động của quy luật tạo thành cơ sở, môi trường nuôi dưỡng các quy luật. Các điều kiện không chỉ có vai trò quyết định đối với sự tồn tại hay không tồn tại của quy luật, mà còn ảnh hưởng đến cường độ và đặc tính của bản thân quy luật. Trên lý thuyết bao giờ người ta cũng giả định mọi quy luật đều diễn ra trong những điều kiện lý tưởng và thuần khiết. Trên thực tế các điều kiện là không thể có được. Vì vậy, bản thân các quy luật tác động trong thực tế luôn có sự biến dạng nhất định, tùy theo các điều kiện ở không gian và thời gian cụ thể. Ngay quy luật rơi tự do, một quy luật mà trên lý thuyết người ta giả định rằng gia tốc rơi tự do của các vật ở mọi nơi là như nhau nhưng trên thực tế, người ta đo được gia tốc rơi tự do của các vật ở Hà Nội khác với ở Bắc Kinh và Mátxcơva, tuy nhiên sự khác nhau đó là không đáng kể và không ảnh hưởng lớn lắm đến bản chất của quy luật. Sở dí có sự khác nhau đó là do sự khác nhau và điều kiện địa lý của các vùng biển quy định. Điều đó chứng tỏ rằng điều kiện có vai trò rất to lớn đến sự tác động của quy luật.
Tóm lại, muốn nhận thức đúng đắn quy luật cần phải vạch ra được mối liên hệ, tất yếu, phổ biến bản chất được lặp đi lặp lại trong các sự vật, hiện tượng, đồng thời phải vạch ra được những điều kiện cần và đủ cho sự tác động của quy luật đó chỉ có nghiên cứu đầy đủ những điều kiện cụ thể mới cho phép hiếu đúng nhưng biểu hiện cụ thể của quy luật Có lẽ đây là điều ít được chú ý khi nhận thức và vận dụng quy luật, đặc biệt là các quy luật xã hội. Chính vì thế, chúng ta đã mắc bệnh chủ quan và duy ý chí trong một thời gian dài mà biểu hiện cụ thể của nó hoặc là không tính đến quy luật, mặc dù nó đang tác động, hoặc là áp dụng những quy luật của những xã hội phát triển cao, mặc dù bản thân các quy luật đó chưa có điều kiện phát huy tác dụng. Việc nhận thức đầy đủ vai trò của điều kiện trong sự hình thành và tác động của quy luật xã hội là vấn đế có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. Tuy nhiên đây là một vấn đề phức tạp đòi hỏi phải được bàn chuyên sâu hơn.
Xe Van Là Gì? Những Đặc Trưng Cơ Bản Của Xe Van
Xe van chính là một loại xe tải nhỏ, có khoang sau dùng để chở người hoặc chở hàng. Chúng ta có thể dễ dàng nhận diện xe Van với các dòng xe thông thường khác ở đặc điểm của khoang sau này, đó là mục đích sử dụng của hàng ghế sau thường được biến thành một khoang chứa hàng hóa, xe được đăng ký với biển D riêng biệt.
Về kích cỡ, xe van có kích cỡ tầm trung, kích thước lớn hơn các dòng xe đa dụng như Minivan/ MVP và nhỏ hơn các dòng xe khách, xe buýt. Xe van thường được sử dụng trong các lĩnh vực như bệnh viện, khách sạn, kinh doanh vận tải, cứu hỏa, bưu chính,…
Nếu như chỉ nhìn từ tổng thể bên ngoài, chúng ta khó có thể nhận ra rằng xe lại được dùng chuyên cho việc chở hàng hóa thay vì mục đích chở người. Thực tế sử dụng cũng cho thấy điều đó, ít có chủ xe nào dùng xe van cho mục đích phục vụ gia đình hay chở người, hành khách.
Xe van có những đặc điểm hết sức đặc trưng và nổi bật, giúp chúng ta dễ dàng phân biệt nó với các dòng xe khác. Vậy những đặc điểm đó của xe van là gì?
2.1. Kích thước của xe van như thế nào?
Nếu như đem so sánh xe van với những dòng xe tải thì chắc chắn kích thước sẽ khiêm tốn lùi về phía sau. Tuy nhiên, trong cái nhìn đối chiếu với các dòng xe đa dụng thông thường như Minivan hay MVP mà chúng ta vừa nêu ở trên thì xe van lại có kích thước vượt trội hơn.
2.2. Những đặc trưng khác của xe van
Những đặc trưng cơ bản của xe van
Xe van có dạng khối kín được gọi là Covered vehicle. Nhờ hình dạng này cho nên bằng mắt thường chúng ta dễ dàng phân biệt được với những dòng xe có không gian mở, điển hình như xe bán tải (Pickup), xe mui trần (Convertible), xe tải (truck). Ngay từ tên gọi, chữ Van được bắt nguồn từ chữ Caravan theo tiếng Anh nghĩa là dạng khối kín , khi nhắc tới tên gọi của dòng xe này cũng đã đủ hình dung ra hình dạng của nó như thế nào rồi.
Có thêm hai cửa là cửa trượt ngang và cửa mở ở phía sau. Với dòng Minivan thì sẽ không có cửa trượt. Chỉ có dòng xe van là có cửa trượt ngang, những dòng còn lại có cửa đóng mở ở bên cạnh và cửa hát từ phía sau.
Xc van có khoang rộng đủ cho 10 đến 16 chỗ ngồi
Việc làm Khách sạn – Nhà hàng
3.1. Phân loại xe van theo nhóm
Xe van được chia rõ ràng thành 2 nhóm cụ thể để nhằm đáp ứng những nhu cầu cũng như mục đích sử dụng của từng đối tượng. Bao gồm:
– Xe van chở khách: đây là dòng xe phổ biến hơn, có khoang chứa từ 10 đến 16 chỗ ngồi. Mục đích sử dụng của xe van chở khách đương nhiên là dùng để chở khách. Lúc này, xe van sẽ trở thành dạng xe du lịch kích thước nhỏ, xe chở khách đi liên tỉnh.
– Xe van vận chuyển hàng hóa: khoang phía sau sẽ được khéo léo thiết kế tiện lợi cho việc chở hàng hóa, và thường được dùng vào mục đích vận chuyển hàng hóa. Chẳng hạn như khách sạn sử dụng để chở đồ, xe phục vụ cho hoạt động truyền hình lắp đặt trang thiết bị ở phía sau, xe bưu chính chuyển phát nhanh hàng hóa,… Tại Việt Nam, một dòng xe mới xuất hiện có kích thước khá nhỏ đang thịnh hành hiện nay chính là chiếc Suzuki Blind Van (dịch ra nghĩa đen là xe mù, đặc điểm của xe là không có cửa kính cho khoang chở hàng). Người ta thường sử dụng dòng xe này cho các cửa hàng điện máy trong hoạt động chở hàng.
3.2. Phân loại xe van theo dòng xe
Hiện nay, dòng van cho ra mắt những dạng xe có kích thước nhỏ với cửa mở từ phía sau nhằm đáp ứng cho nhu cầu của người sử dụng có thể biến xe van thành một chiếc xe chuyên dụng nhỏ và đầy tiện nghi. Chúng ta có thể kể tới những cái tên điển hình cho dòng xe van cỡ nhỏ như: Kia Morning Van 2014, Chevrolet Spark Van 2014.
Dòng xe này có giá thành vào khoảng 253 triệu đồng, là một phiên bản mới được nâng cấp từ dòng Matiz. Đặc điểm của dòng xe này là có độ dài 3 chiều không thay đổi là 3,495m x 1,495m x 1,5m. Với kích cỡ này thì Chevrolet Spark Van 2014 quả thực là một dòng xe nhỏ có mức giá khá phù hợp để sử dụng trong mục đích phục vụ gia đình.
Nếu bạn là một người không có sự am hiểu nhiều về xe ô tô thì chỉ nhìn từ bên ngoài chắc chắn rất dễ bị nhầm với một chiếc ô tô con 4 chỗ thông thường. Thực ra, Kia Morning Van 2014 chính là một dòng xe tải mini, chỉ có duy nhất 2 chiếc ghế ngồi ở phía trước mà thôi. Khoang phía sau thực chất chỉ để chứa hàng hóa.
Do đó, mục đích sử dụng của chiếc Kia Morning Van 2014 là để chuyên chở hàng hóa cho hoạt động kinh doanh. Nhiều người lựa chọn sử dụng chiếc xe này bởi nó có giá thành khá rẻ, chỉ khoảng 320 triệu đồng rất phù hợp với túi tiền của đại đa số các gia đình trung lưu tại Việt Nam.
Có rất nhiều những dòng xe là biến thể của xe van cỡ nhỏ và không có cửa trượt. Khi đó chúng ta sẽ gọi là các dòng xe đa dụng. Tiêu biểu có thể kể tới những loại xe thuộc dòng MPV như: Mazda Premacy, Kia Carens, Nissan Grand Livina, Toyota Innova,…
4. Một số thông tin quan trọng về cách sử dụng xe van
4.1. Những quy định về việc di chuyển của xe van
Việc tìm hiểu xe van là gì sẽ cho bạn những thông tin về đặc điểm nhận biết xe van. Nhưng khi quyết định sử dụng nó, chắc hẳn,phạm vi tìm hiểu thông tin không chỉ dừng lại ở đó. Bạn cần phải nắm được những quy định về việc sử dụng và di chuyển xe để đảm bảo việc chạy xe diễn ra an toàn, không vi phạm luật giao thông.
Theo quy định chung của luật giao thông, xe van có trọng lượng nhỏ hơn 1,5 tấn sẽ đi vào làn đường dành cho ô tô con. Nếu như đi vào làn dành cho xe tải thì đương nhiên những chiếc xe van như vậy sẽ bị vi phạm giao thông.
Mặc dù bản chất thuộc dòng xe tải nhưng thực tế, trọng lượng và kích thước của nó khá nhỏ, nằm trong quy cách của dòng xe con và phải chấp hành đi đúng theo làn đường dành cho ô tô con.
Có nhiều trường hợp chủ xe đang sở hữu một chiếc ô tô van, nhưng do chỉ hiểu một nửa về luật cho nên vẫn vi phạm giao thông dù đã đi vào làn đường dành cho ô tô con. Đó là trường hợp khi xe van của họ có tải trọng lớn hơn 1,5 tấn. Điều này nói lên rằng, nếu muốn biết được dòng xe Van mình đang sử dụng sẽ cần tuân thủ luật giao thông như thế nào thì các chủ phương tiện cần phải xác định tải trọng của xe.
4.2. Spark Van hay Morning Van có được lắp thêm ghế hay không?
Như khái niệm xe van là gì mà chúng ta đã tìm hiểu ở phần trên, chúng ta đều biết xe van chính là loại xe có khoang sau, được dùng với mục đích chính là chở hàng hóa. Do đó vấn đề lắp thêm ghế ở khoang sau so với mục đích sử dụng sẽ không phù hợp.
Nếu như lắp ghế sau, ắt hẳn mục đích của chủ phương tiện để dành cho việc chở người. Tuy nhiên, vấn đề phát sinh khiến cho phương tiện vi phạm luật giao thông đó chính là sự thiếu an toàn cho những người ngồi ở hàng ghế được lắp thêm đó vì ở hàng ghế sau không được trang bị dây an toàn.
Hơn nữa, do tự lắp đặt cho nên hàng ghế thêm sẽ không có độ chắc chắn theo đúng tiêu chuẩn của nhà sản xuất, không được kiểm định về mức độ an toàn cho nên cần cân nhắc việc lắp đặt thêm ghế cho khoang sau ở các dòng ô tô van như Spark van hoặc Moring van.
Nhìn từ phương diện pháp luật và luật an toàn giao thông thì xe ô tô Van không được phép cải tạo để trở thành những dòng xe có mục đích chính là chuyên chở người. Do vậy mà nếu lắp đặt thêm hàng ghế ở phía khoang sau thì nghiễm nhiên bạn đã thực hiện hành vi vi phạm luật giao thông.
5. Những lưu ý khi mua xe ô tô van tại Việt Nam
Ô tô van hiện nay đang là mối quan tâm lớn của người tiêu dùng Việt Nam. Lý do không chỉ bởi vì đây là dòng xe có giá bán rẻ nhất trên thị trường Việt Nam mà còn có rất nhiều mẫu mã mới ra đời vừa thời thượng lại tiện lợi trong sử dụng. Tuy nhiên, với những đặc trưng về cấu trúc và thiết kế của xe cho nên nếu có nhu cầu mua xe van thì bạn cần phải lưu ý để có thể đưa ra quyết định đúng đắn nhất.
5.1. Xác định những đặc điểm về thiết kế
Nếu nhìn theo hình dạng bên ngoài của một chiếc Chevrolet Spark thì chúng ta rất khó để phân biệt được liệu đó là chiếc xe Hatchback 4 chỗ hay là một chiếc Van 2 chỗ. Lý do vì chúng quá giống nhau về kích thước cũng như kiểu dáng thiết kế của thân xe.
Nhưng đi sâu hơn về nội thất ở bên trong, sẽ nhanh chóng để tìm ra đó là mẫu xe gì bởi vì ô tô van 2 chỗ vốn là chỉ có hai chỗ, không gian bên trong thiết kế nhỏ gọn và có khoang chở hàng, không có hàng ghế sau.
5.2. Xác định nhu cầu sử dụng đối với xe van
Xe van như các mẫu Kia Morning hay Chevrolet Spark chủ yếu được dùng cho mục đích chở hàng hóa ở khu vực nội đô có quãng đường di chuyển ngắn. Loại hàng hóa được vận chuyển cũng chỉ có trọng lượng nhỏ trong giới hạn cho phép và không cồng kềnh để phù hợp với thiết kế nhỏ gọn của xe.
Lưu ý khi mua xe ô tô van tại Việt Nam
5.3. Xác định ưu điểm – nhược điểm khi mua xe Van
Ở đất nước Việt Nam, các dòng xe Van đều được bán với giá từ 250 triệu đến 320 triệu đồng. Trong khi giá của các dòng xe ô tô khác đang leo thang không chỉ về thuế phí thì chắc chắn việc cân nhắc để sở hữu một chiếc Van là điều hợp lý hơn cả.
Bên cạnh ưu điểm lớn về chi phí thì xe van cũng có những nhược điểm nhất định mà suốt nội dung bài viết chúng ta cũng đã đề cập tới. Trước tiên nhược điểm bắt nguồn từ kích thước của xe, do có kích cỡ nhỏ cho nên Van khá hạn chế về mặt chỗ ngồi.
Không những vậy, thiết kế về trọng tại và sức chưa của dòng xe này khá nhỏ cho nên không thể chuyên chở một lượng lớn hàng hóa. Với giá trị sử dụng như vậy, nhiều người đã ví von khá vui rằng, một chiếc xe van không khác gì một chiếc xe máy, có hơn thì cũng chỉ ở điểm có thể che nắng che mưa cho người ngồi trên nó mà thôi.
Dựa vào ưu nhược điểm của xe Van mà các nhà kinh doanh ô tô không dám đặt cược lớn và những chiếc xe này. Họ chỉ nhập về khi nào có đơn đặt hàng rõ ràng từ khách hàng mà thôi. Như thế có nghĩa là mặc dù trở thành một trào lưu của xã hội hiện đại, là xu hướng mới trong việc lựa chọn mua ô tô của người tiêu dùng Việt Nam thế nhưng dòng xe này vẫn phải nằm trong diện cân nhắc rất nhiều.
Cold Calling Là Gì? Bản Chất Và Đặc Trưng Của Cold Calling
Định nghĩa
Cold Calling tạm dịch trong tiếng việt là cuộc gọi ngẫu nhiên, cuộc gọi chào hàng qua điện thoại.
Cold Calling (đôi khi được viết là Cold-Calling) là sự chào mời khách hàng tiềm năng thông qua những cuộc gọi chào hàng, trong đó khách hàng tiềm năng là người không có tương tác trước đó với nhân viên bán hàng.
Bản chất và đặc trưng của Cold Calling
– Cold Calling là một hình thức marketing qua điện thoại.
– Cold Calling cũng là một trong những hình thức marketing lâu đời nhất và phổ biến nhất dành cho nhân viên bán hàng. Warm Calling là sự chào mời khách hàng trước đây đã bày tỏ sự quan tâm đến công ty hoặc sản phẩm.
– Nhân viên bán hàng sử dụng kĩ thuật Cold Calling nên kiên trì và sẵn sàng chịu đựng sự từ chối lặp đi lặp lại. Để thành công, họ nên chuẩn bị đầy đủ kiến thức thông qua việc tìm hiểu và nghiên cứu nhân khẩu học về triển vọng và thị trường. Các ngành nghề phụ thuộc nhiều vào Cold Calling thường có tỉ lệ mất khách (attrition rate) cao.
Liên hệ thực tiễn
– Cold Calling tạo ra các phản ứng khác nhau của người tiêu dùng, chẳng hạn như chấp nhận, chấm dứt cuộc gọi hoặc cúp máy và thậm chí là tấn công bằng lời nói. Các nhà phân tích marketing ước tính tỉ lệ thành công của Cold Calling chỉ ở mức 2% ngay cả đối với một chuyên gia lành nghề.
– Dựa trên ước tính này, chỉ có 5 trong số 250 cuộc gọi sẽ thành công. Ngược lại, một nhân viên bán hàng sử dụng Warm Calling tự hào có tỉ lệ thành công lên đến 30%.
– Khi công nghệ ngày càng tiên tiến hơn, Cold Calling trở thành kĩ thuật ít được sử dụng. Các phương pháp tiếp thị mới, hiệu quả hơn bao gồm email, văn bản và marketing truyền thông xã hội thông qua Facebook và Twitter. So với Cold Calling, những phương pháp mới này thường hiệu quả hơn rất nhiều trong việc tạo ra khách hàng tiềm năng mới.
– Trong ngành tài chính, các nhà môi giới sử dụng Cold Calling để có được khách hàng mới. Tương tự như vậy, các nhân viên bán hàng, chuyên viên tín dụng thường xuyên sử dụng Cold Calling trong nỗ lực tìm kiếm khách hàng tiềm năng.
Bạn đang xem bài viết Bản Chất Và Những Đặc Trưng Cơ Bản Của Pháp Luật trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!