Xem Nhiều 3/2023 #️ Bộ Máy Nhà Nước Việt Nam Theo Hiến Pháp 2013 # Top 3 Trend | Tvzoneplus.com

Xem Nhiều 3/2023 # Bộ Máy Nhà Nước Việt Nam Theo Hiến Pháp 2013 # Top 3 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Bộ Máy Nhà Nước Việt Nam Theo Hiến Pháp 2013 mới nhất trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Hiến pháp 2013 ra đời và chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2014, theo đó, về cơ bản vẫn giữ nguyên hệ thống 3 cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tuy nhiên, cơ cấu tổ chức có sự thay đổi so với trước. Vì vậy, sau đây mình giới thiệu sơ đồ tổ chức bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 2013 như sau:

1. Bộ máy nhà nước là gì?

Để thực hiện tốt chức năng của Nhà nước, bộ máy nhà nước cần được tổ chức chặt chẽ, khoa học. Bộ máy nhà nước là hệ thống các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương, được tổ chức theo những nguyên tắc chung thống nhất, tạo thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.

– Cơ quan tư pháp:

Các cơ quan xét xử (Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, Tòa án quân sự…);

Các cơ quan kiểm sát (Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, Viện kiểm sát quân sự). Hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước tùy thuộc vào hiệu lực, hiệu quả hoạt động của từng cơ quan nhà nước.

2. Tổ chức các phân hệ của bộ máy nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Nhìn tổng quát, bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức thành các phân hệ sau:

Quốc hội

Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo Hiến pháp năm 2013, Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội được quy định tại Điều 70 Hiến pháp 2013.

Chủ tịch nước

hủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại (Điều 86); nhiệm vụ, quyền hạn được quy định tại Điều 88 Hiến pháp 2013.

Chính phủ

Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Chính phủ có nhiệm vụ thống nhất quản lý mọi mặt đời sống xã hội trên cơ sở Hiến pháp và luật.

Các cơ quan xét xử

Các cơ quan xét xử gồm:

– Tòa án nhân dân tối cao.

– Tòa án nhân dân địa phương.

– Tòa án quân sự.

– Các tòa án do luật định.

Nhiệm vụ là xét xử và giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, lao động, hôn nhân và gia đình… để bảo vệ trật tự pháp luật. Nguyên tắc hoạt động của tòa án là độc lập xét xử, chỉ tuân theo pháp luật.

Các cơ quan kiểm sát

Các cơ quan kiểm sát gồm:

– Viện kiển sát nhân dân tối cao.

– Viện kiểm sát nhân dân địa phương.

– Viện kiểm sát quân sự.

Nhiệm vụ là kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hiện quyền công tố nhà nước trong phạm vi thẩm quyền do luật định, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.

Chính quyền địa phương

Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân (Điều 113).

Uỷ ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên. Uỷ ban nhân dân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao (Điều 114).

Link bài viết: https://havip.com.vn/bo-may-nha-nuoc-viet-nam-theo-hien-phap-2013/

Link trang chủ: https://havip.com.vn/

Nguyên Tắc Tổ Chức Bộ Máy Nhà Nước Trong Hiến Pháp 2013

Hiến pháp (sửa đổi) năm 2013[1] đã được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 28/11/2013 với đa số phiếu tuyệt đối (97,59% tổng số đại biểu Quốc hội). Có thể nói, đây là một sự kiện chính trị – pháp lý đặc biệt quan trọng, đánh dấu một bước tiến mới trong lịch sử lập hiến của nước ta.

Trong điều kiện lịch sử mới, trên cơ sở Cương lĩnh năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011), kết quả tổng kết sâu sắc thực tiễn và lý luận 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước[2], những thành tựu của lịch sử lập hiến nước nhà, với sự đồng thuận của nhân dân, Hiến pháp mới đã được sửa đổi, bổ sung cả về nội dung, bố cục và kỹ thuật lập hiến, bảo đảm xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Một trong những nội dung quan trọng được Hiến pháp mới tiếp tục kế thừa và phát triển, đó là nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”[3]. Đây là quy định có tính nguyên tắc, không chỉ chi phối chủ đạo đối với chương về Chế độ chính trị, tổ chức bộ máy nhà nước mà xuyên suốt toàn bộ Hiến pháp về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục, khoa học công nghệ và môi trường, bảo vệ Tổ quốc.

1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực Nhà nước

Ở nước ta, nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nguồn gốc và bản chất của Nhà nước pháp quyền XHCN là “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Kế thừa những hạt nhân hợp lý của thuyết phân quyền, Đảng ta đã khẳng định nhất quán quan điểm: “Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với sự phân công rành mạch ba quyền đó”[4]. Tiếp tục tổng kết thực tiễn, hoàn thiện và phát triển quan điểm nói trên của Cương lĩnh 1991 trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân, Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng khẳng định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”[5]. Tiếp theo đó, Nghị quyết Đại hội IX của Đảng khẳng định: “Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền củadân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”[6]. Đếnnăm 2001, Quốc hội khóa X đã tiến hành sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992, trong đó đã thể chế các quan điểm trên của Đảng trở thành một trong những nguyên tắc tổ chức và hoạt động chủ đạo của bộ máy nhà nước ta. Điều 2 Hiến pháp 1992 sửa đổi (2001) ghi rõ: “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”[7].

Tiếp đó, cùng với sự phát triển tư duy lý luận trong thời kỳ lịch sử mới, trên cơ sở tổng kết thực tiễn của quá trình 25 năm đổi mới, Đại hội Đảng lần thứ XI đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), trong đó tiếp tục khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”; tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước dựa trên nguyên tắc nền tảng: “Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”[8]. So với Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh 2011 đã thể hiện sự nhận thức đúng đắn của Đảng ta trước bối cảnh lịch sử mới. Cương lĩnh không chỉ khẳng định rõ ràng: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN” mà còn đưa một nội dung mới vào nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là: “Kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Sự bổ sung và phát triển này có ý nghĩa to lớn, thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng ta trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN trong giai đoạn lịch sử mới hiện nay.

Có thể nói, tư tưởng về sự thống nhất quyền lực, có sự phân công, phối hợp với nhau trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đã được thể hiện nhất quán trong tư duy lý luận của Đảng ta. Đây là một trong những quan điểm quan trọng, thể hiện sự phát triển về nhận thức lý luận của Đảng và Nhà nước trong quá trình tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, trở thành nguyên tắc cơ bản chỉ đạo công cuộc cải cách, xây dựng bộ máy nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới.

Thực tế cho thấy, trong bối cảnh một Đảng cộng sản duy nhất lãnh đạo hệ thống chính trị, dựa trên nền tảng là khối liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và toàn thể nhân dân lao động Việt Nam; mục đích của việc giành chính quyền không phải là giành quyền thống trị cho riêng mình, mà để giải phóng toàn xã hội, đưa người lao động, đưa nhân dân lên địa vị làm chủ, xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản”[9] …, thì quan điểm về “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” càng được thực tiễn chứng minh là đúng đắn, phù hợp với thể chế chính trị Việt Nam.

2. Nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước trong Hiến pháp mới

Xuất phát từ những hạn chế nhất định trong cách thức tổ chức quyền lực nhà nước của Hiến pháp năm 1992[10], Hiến pháp mới đã có những bước tiến quan trọng khi bổ sung, hoàn thiện nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tại Điều 2 của Hiến pháp. Cụ thể là, Hiến pháp mới khẳng định:

“Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.

Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soátgiữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”[11].

Việc hiến định nguyên tắc trên đã thể hiện bước phát triển lớn trong tư duy lý luận của Đảng và Nhà nước ta về chủ quyền nhân dân, về nguyên tắc, mục tiêu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn sâu sắc.

Về lý luận, tổ chức quyền lực của bộ máy nhà nước ta dựa trên quan điểm về sự thống nhất quyền lực: “Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân”của tư tưởng dân chủ XHCN[12]. Nguyên lý này không những được quy định trong các bản Hiến pháp của nước ta mà hầu hết các nước có chế độ chính trị dân chủ và pháp quyền trên thế giới. Theo đó, nhân dân thực hiện quyền dân chủ đại diện bằng cách trao một phần quyền lực nhà nước của mình cho Quốc hội, cho Chính phủ và cho cơ quan tư pháp, đồng thời giữ lại một phần quyền lực của mình để thực hiện hình thức dân chủ trực tiếp. Theo Điều 84 của Hiến pháp năm 1992, nhân dân chỉ trao cho Quốc hội ba nhóm quyền hạn và nhiệm vụ: quyền hạn và nhiệm vụ về lập hiến, lập pháp; quyền hạn và nhiệm vụ về giám sát tối cao; quyền hạn và nhiệm vụ về quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Kế thừa tư tưởng đó, Hiến pháp mới tiếp tục khẳng định rõ nguyên tắc phân công phối hợp giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp khi quy định: Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọngcủa đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước[13]; Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội[14]; Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp[15].

Thực tế ở nước ta chỉ ra rằng, quyền lực nhà nước dẫu là quyền lập pháp, hành pháp hay tư pháp đều có chung một nguồn gốc thống nhất là nhân dân, đều do nhân dân ủy quyền, giao quyền. Do vậy, nói quyền lực nhà nước là thống nhất trước tiên là sự thống nhất ở mục tiêu chính trị, nội dung chính trị của nhà nước. Cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp tuy có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau nhưng đều thống nhất với nhau ở mục tiêu chính trị chung là xây dựng một nhà nước “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” như Đảng ta đã chỉ ra.

Quan niệm quyền lực nhà nước là thống nhất nói trên là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước đề cao trách nhiệm trước nhân dân, hạn chế sự dựa dẫm, ỷ lại trong việc thực hiện quyền hạn và nhiệm vụ mà nhân dân đã ủy quyền. Đó cũng là cơ sở để không có chỗ cho các yếu tố cực đoan, đối lập, thiếu trách nhiệm trong mối quan hệ giữa các quyền, nhất là giữa quyền lập pháp và quyền hành pháp. Ngược lại, mỗi cơ quan sẽ có điều kiện phát huy đầy đủ trách nhiệm và thực hiện hiệu quả chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Đồng thời, đó cũng là điều kiện để hình thành cơ chế kiểm soát, nhận xét, đánh giá chất lượng và hiệu quả hoạt động của các quyền từ bên trong tổ chức quyền lực nhà nước cũng như từ bên ngoài là nhân dân.

Về hình thức kiểm soát theo chiều ngang

Về thực tiễn, là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước nên tất yếu nhân dân phải kiểm soát được quyền lực đó. Chính vì vậy, Cương lĩnh xây đựng đất nước trong thời kỳ quá độ ở nước ta (sửa đổi, bổ sung năm 2011) và Điều 2 Hiến pháp mới đã xác định kiểm soát quyền lực nhà nước là một nguyên tắc trong tổ chức quyền lực ở nước ta. Đồng thời, Hiến pháp mới chỉ rõ phương thức: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân (HĐND) và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”[16].

Tuy nhiên, kiểm soát quyền lực nhà nước là một vấn đề phức tạp và quyền lực nhà nước chỉ có thể được kiểm soát khi Nhà nước có cơ chế xác định rõ ràng và có các điều kiện cần thiết cho sự vận hành của nó trên thực tế. Cơ chế đó bao gồm hình thức kiểm soát theo chiều ngang (là sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước) và hình thức kiểm soát theo chiều dọc (là sự kiểm soát giữa trung ương và địa phương thông qua việc phân công, phân cấp, phân quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương với các cơ quan nhà nước ở địa phương; sự kiểm soát của nhân dân với tư cách là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước đối với các cơ quan được ủy quyền thực thi quyền lực nhà nước). Theo đó, những nội dung này đã được Hiến pháp mới thể hiện một cách rõ hơn.

Đây là mối quan hệ kiểm soát quyền lực bên trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ở trung ương: lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Một là, Hiến pháp mới đã thể hiện rõ sự phân công quyền lực giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước.

Kế thừa bản chất và mô hình tổng thể của bộ máy nhà nước ta theo Hiến pháp năm 1992, thể chế hóa các quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền, Hiến pháp mới xác định rõ hơn chức năng của các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và điều chỉnh lại một số nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này.

Đối với các cơ quan ở trung ương, Hiến pháp mới khẳng định: Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước; Chính phủ được khẳng định là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, cơ quan thực hiện quyền hành pháp và là cơ quan chấp hành của Quốc hội; Tòa án nhân dân được xác định là cơ quan xét xử và là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Bên cạnh đó, việc phân biệt rõ ràng các nhóm quyền thuộc ba quyền này cũng được Hiến pháp mới quy định.

Hai là, Hiến pháp mới thể hiện rõ hơn sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực thi quyền lực nhà nước.

Như vậy, mặc dù Nhà nước ta không thừa nhận cơ chế tam quyền phân lập nhưng Hiến pháp mới đã thể hiện rõ nội dung “ba quyền được xác lập” khi đã ghi nhận rõ ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong Hiến pháp mới và trên thực tế. Sự phân công rành mạch ba quyền này không chỉ tạo cơ sở pháp lý cho việc chuyên nghiệp hóa các quyền mà còn là yếu tố đầu tiên tạo ra cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Thực tiễn cho thấy, chỉ trên cơ sở phân công một cách đúng đắn, hợp lý, minh bạch, rõ ràng giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp để cho các quyền này có điều kiện thực hiện đầy đủ và đúng đắn ý nguyện của nhân dân đã được ghi nhận thành các quy định của Hiến pháp và các đạo luật thì việc kiểm soát quyền lực nhà nước mới có hiệu quả.

Đối với việc phân cấp giữa trung ương và chính quyền địa phương: để tạo cơ sở hiến định cho việc đổi mới tổ chức chính quyền địa phương, Hiến pháp mới không quy định cụ thể về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cấp chính quyền địa phương mà quy định theo hướng: “Chính quyền địa phương được tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp, pháp luật tại địa phương; quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên” (Khoản 1, Điều 112); “Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và ở mỗi cấp chính quyền địa phương” (Khoản 2, Điều 112). Cách quy định như vậy không những tạo sự phân công, phân nhiệm rành mạch mà còn tạo cơ sở cho việc tiếp tục đổi mới tổ chức chính quyền địa phương và sẽ được quy định cụ thể trong luật.

Cùng với sự phân công rành mạch chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước còn được thực hiện thông qua sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, tránh sự lấn sân, chồng chéo khi thực thi các chức năng, nhiệm vụ đó.

a) Cơ chế phối hợp trong việc thực hiện quyền lập hiến, lập pháp:

Hiến pháp mới khẳng định Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp.Theo đó, sự phối hợp, kiểm soát hoạt động của Quốc hội cũng được thể hiện ở việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ này. Cụ thể:

Quyền lập hiến: Hiến pháp mới quy định rõ việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp như sau: “1. Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH), Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội có quyền đề nghị làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp. Quốc hội quyết định việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành; 2. Quốc hội thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp. Thành phần, số lượng thành viên, nhiệm vụ và quyền hạn của Ủy ban dự thảo Hiến pháp do Quốc hội quyết định; 3. Ủy ban dự thảo Hiến pháp soạn thảo, tổ chức lấy ý kiến nhân dân và trình Quốc hội về dự thảo Hiến pháp; 4. Dự thảo Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểuQuốc hội biểu quyết tán thành. Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định”[17]. Như vậy, việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp không chỉ riêng Quốc hội thực hiện mà dựa trên ý kiến của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội.

Quyền lập pháp: Hiến pháp 1992 quy định quyền lập pháp do Quốc hội thực hiện. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền quyết định việc thông qua hay không thông qua các dự án luật. Tuy nhiên, Hiến pháp cũng quy định sự tham gia và phối hợp của nhiều chủ thể khác nhau trong việc trình các dự án luật[18]. Xuất phát từ tầm quan trọng của vấn đề sáng kiến lập pháp, Hiến pháp mới tiếp tục ghi nhận các chủ thể có quyền trình các dự án luật tại Điều 84 như sau: “Chủ tịch nước, UBTVQH, Hội đồng Dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền trình dự án luật trước Quốc hội. Đại biểu Quốc hội có quyền trình kiến nghị về luật và dự án luật trước Quốc hội”[19].

Như vậy, Hiến pháp mới đã ghi nhận quyền sáng kiến lập pháp của nhiều chủ thể và có quy định rõ sự khác nhau về quyền sáng kiến lập pháp của cá nhân đại biểu Quốc hội với các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền[20]. Trên thực tế ở nước ta hiện nay, có hơn 95% các dự án luật là do Chính phủ trình, một số văn bản luật do Tòa án nhân dân tối cao soạn thảo và trình Quốc hội. Sự tham gia của các cơ quan trong quá trình soạn thảo và trình các dự án luật đã thể hiện rõ sự phối hợp giữa Quốc hội với các cơ quan hành pháp, tư pháp trong việc thực hiện quyền lập pháp.

Bênh cạnh đó, Chủ tịch nước cũng tham gia vào quá trình lập pháp này với vai trò sáng kiến lập pháp, công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh. Trong quá trình công bố các văn bản pháp luật, Chủ tịch nước cũng có quyền không công bố pháp lệnh đã được UBTVQH thông qua và có quyền đề nghị UBTVQH xem xét lại Pháp lệnh đó. Trong trường hợp UBTVQH vẫn tán thành quyết định đó thì Chủ tịch nước có quyền đề nghị Quốc hội xem xét lại ở kỳ họp gần nhất. Đây là cách thức Chủ tịch nước vừa tham gia, vừa kiểm soát quyền ban hành Pháp lệnh của UBTVQH.

Ba là, cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước

b) Cơ chế phối hợp trong việc thực hiện quyền hành pháp

Hiến pháp mới khẳng định: Chính phủlà cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Theo đó, Chính phủ có quyền ban hành các chính sách, văn bản độc lập để thực hiện nhiệm vụ của mình. Đây là một điểm mới được quy định trong Hiến pháp mới so với Hiến pháp năm 1992. Nếu như Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định Chính phủ có quyền ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết việc thi hành Luật, Pháp lệnh, Nghị quyết của Quốc hội, UBTVQH thì Hiến pháp mới đã khẳng định sự độc lập của Chính phủ trong việc ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật nhằm phục vụ cho hoạt động quản lý thống nhất các cơ quan trong bộ máy nhà nước­ của mình[21].

Trong việc thực hiện quyền hành pháp, mối quan hệ phối hợp giữa Quốc hội và Chính phủ còn được thể hiện rõ ở quyền quyết định và hoạch định chính sách. Theo đó, Quốc hội chỉ quyết định những chính sách dài hạn, mang tầm định hướng quốc gia; còn Chính phủ sẽ quyết định những chính sách ngắn hạn, mang tính chất điều hành, thể hiện sự phản ứng linh hoạt của Nhà nước với thực tiễn phát triển trong nước và quốc tế. Bên cạnh đó, cơ chế phối hợp trong việc thực hiện quyền hành pháp còn được thể hiện thông qua việc Quốc hội tham gia vào việc quy định tổ chức và hoạt động của Chính phủ, quyết định việc thành lập hoặc bãi bỏ các bộ, cơ quan ngang bộ; thành lập mới, phân chia điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; thành lập hoặc giải thể các đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt…; UBTVQH thì có quyền quyết định, thành lập mới, nhập, chia điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

c) Cơ chế phối hợp trong việc thực hiện quyền tư pháp

Quyền tư pháp là quyền xét xử, được nhân dân giao cho Tòa án. Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong xét xử của Tòa án là nguyên tắc xuyên suốt và cao nhất trong tổ chức thực hiện quyền này. Mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức không được phép can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án. Việc bảo vệ pháp luật, công lý, tự do của công dân là trách nhiệm hàng đầu của quyền tư pháp. Do đó, các cơ quan, tổ chức và cá nhân tôn trọng, giữ gìn, bảo vệ tính pháp quyền và công lý trong các phán quyết của Tòa án chính là cách thức thể hiện sự phối hợp quan trọng nhất, giúp cơ quan tư pháp thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.

Nhằm nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả của kiểm soát quyền lực trên thực tiễn, bên cạnh việc quy định rõ sự phân công, phối hợp trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, Hiến pháp mới còn khẳng định cơ chế kiểm soát giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Theo đó, Hiến pháp đã bổ sung các quy định cụ thể vào chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội trong việc thực hiện quyền lập pháp, quy định một chương riêng về hai thiết chế hiến định độc lập, bao gồm: Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước. Việc ghi nhận hai thiết chế hiến định độc lập này, một lần nữa cho thấy quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước ta trong việc thực hiện triệt để nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước.

Kiểm soát đối với quyền lập pháp: Cùng với việc phân công rành mạch các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, Hiến pháp mới đồng thời khẳng định cơ chế kiểm soát giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Theo đó, việc lập hiến, lập pháp được thực hiện bởi Quốc hội nhưng phải dựa trên ý kiến của nhân dân, được sự đồng thuận của các đại biểu Quốc hội và ý kiến của Chính phủ, Chủ tịch nước…

Hiến pháp mới quy định: Quốc hội thực hiện quyền lập hiến (Điều 69). So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp mới đã bỏ cụm từ “duy nhất”, nhằm gắn với khả năng thực hiện trưng cầu ý dân về Hiến pháp trong quy trình sửa đổi Hiến pháp trong tương lai. Theo đó, Chương XI của Hiến pháp mới quy định về hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp, đã bổ sung quy định: “Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định”[22]. Quốc hội với vị trí là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam được trao thẩm quyền quyết định việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp phù hợp với điều kiện, tình hình thực tiễn cụ thể của đất nước.

Về hình thức kiểm soát theo chiều dọc

Kiểm soát quyền hành pháp: Cơ chế kiểm soát đối với quyền hành pháp được thực hiện trước hết từ cơ quan lập pháp. Theo đó, Hiến pháp mới tiếp tục khẳng định Quốc hội có quyền bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm Thủ tướng Chính phủ; có quyền phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng… Quốc hội có quyền bãi bỏ các văn bản pháp luật sai trái của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trái với Hiến pháp, luật, Nghị quyết của Quốc hội và thực hiện quyền giám sát hoạt động của Chính phủ, xem xét báo cáo của Chính phủ.

Sau khi Nghị quyết về lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm được thông qua thì một cơ chế kiểm soát mới từ phía Quốc hội đối với Chính phủ được thực hiện. Theo đó, Quốc hội có quyền lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu như Thủ tướng Chính phủ, phê chuẩn như Phó Thủ tướng, các bộ trưởng… Về phía các cơ quan tư pháp, việc thực hiện cơ chế kiểm soát từ phía tư pháp đối với cơ quan thực hiện quyền hành pháp cũng được xác lập thông qua cơ chế phán quyết của Tòa hành chính đối với các quyết định hành chính và hành vi hành chính của cán bộ thuộc cơ quan quản lý hành chính nhà nước.

Kiểm soát quyền tư pháp: Tòa án được xác địnhlà cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Hiện nay, trong cơ chế phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước, Tòa án đóng vai trò quan trọng trong việc phối hợp tham gia vào quyền lập pháp.

Theo Hiến pháp mới, cơ chế kiểm soát từ phía lập pháp đối với quyền tư pháp được thể hiện thông qua việc Quốc hội có quyền bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm đối với các chức danh là Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; Quốc hội lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do mình bầu ra như Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao[23].

Cơ chế kiểm soát thứ hai đối với quyền tư pháp là Chủ tịch nước thực hiện quyền kiểm soát tư pháp thông qua việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán các Tòa án khác để phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp…

Như vậy, kiểm soát quyền lực nhà nước theo chiều ngang chính là cơ chế kiểm soát bên trong giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Thông qua việc phân định rõ vai trò, trách nhiệm của các chủ thể trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, Hiến pháp mới không chỉ tạo ra cơ chế ngăn chặn sự lạm quyền mà còn tạo được sự chủ động trong hoạt động của mỗi cơ quan, tiến tới sự hoạt động đồng bộ của bộ máy nhà nước.

Hình thức kiểm soát này được hiểu là sự kiểm soát của nhân dân đối với các cơ quan công quyền (theo chiều từ trên xuống và từ dưới lên) và sự phân công, phân cấp, phân quyền rõ ràng giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương với các cơ quan nhà nước ở địa phương.

Trước hết, cơ chế kiểm soát theo chiều dọc được thực hiện thông qua hình thức kiểm soát quan trọng nhất, kiểm soát của nhân dân – chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước, đối với Nhà nước – chủ thể quản lý. Đây là mối quan hệ kiểm soát quyền lực của người chủ đối với chủ thể được ủy quyền là các cơ quan nhà nước. Theo quy định của pháp luật hiện hành, nhân dân có quyền kiểm soát trực tiếp các cơ quan nhà nước thông qua việc tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước; bầu, miễn nhiệm Đại biểu Quốc hội, giám sát hoạt động của Đại biểu Quốc hội; thông qua Quốc hội, nhân dân thực hiện quyền lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Quốc hội bầu, phê chuẩn… Bên cạnh đó, thông qua các tổ chức chính trị – xã hội, nghề nghiệp của mình, nhân dân thực hiện việc giám sát và phản biện xã hội đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức, viên chức[26]. Đối với cách tiếp cận giám sát từ dưới lên: nhân dân có quyền nêu ý kiến, nguyện vọng của mình đối với Quốc hội, các cơ quan và tổ chức hữu quan thông qua các đại biểu do mình bầu ra…

Thứ hai, về sự phân cấp, phân quyền, kiểm soát giữa trung ương và địa phương: Hiến pháp mới ghi nhận HĐND và UBND là một thể thống nhất (dưới tên chung là chính quyền địa phương), có vị trí quan trọng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước. Điều 111, Hiến pháp mới quy định: “1.Chính quyền địa phương tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt. HĐND, UBND được thành lập để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương trong phạm vi được phân cấp, phân quyền do luật định”.

“Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương”[27].

Như vậy, trong mối quan hệ với các cơ quan trung ương, Hiến pháp mới đã quy định những vấn đề mang tính nguyên tắc về vị ví, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương. Việc quy định này vừa bảo đảm cho chính quyền địa phương chủ động, linh hoạt trong việc xử lý các vấn đề thực tiễn tại địa phương, vừa giúp các cơ quan trung ương có điều kiện kiểm soát việc thực thi nhiệm vụ của cơ quan này. Theo đó, sự kiểm soát từ phía cơ quan lập pháp đối với chính quyền địa phương được thể hiện qua việc UBTVQH có quyền giám sát, hướng dẫn hoạt động của HĐND, có quyền bãi bỏ các nghị quyết sai trái của HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, trong trường hợp HĐND đó gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân[28].

Từ phía cơ quan hành pháp, bên cạnh chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo công tác của UBND các cấp, Chính phủ có quyền kiểm tra HĐND trong việc thực hiện văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên[29]…. Thủ tướng Chính phủ có quyền đình chỉ, bãi bỏ các văn bản pháp luật của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; đình chỉ việc thi hành Nghị quyết của HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị UBTVQH bãi bỏ[30]./.

Những Điểm Mới Về Tổ Chức, Hoạt Động Của Bộ Máy Nhà Nước Trong Hiến Pháp 2013

(QBĐT) – Hiến pháp là đạo luật gốc của nhà nước, là văn bản pháp lý thể hiện sự ủy quyền của nhân dân cho nhà nước thực hiện quyền lực nhân dân. Do đó, quy định về mô hình tổ chức bộ máy nhà nước, quy định về sự phân công (nhiệm vụ, quyền hạn), sự phối hợp, kiểm soát quyền lực nhà nước là một trong những nội dung cơ bản và quan trọng của hiến pháp.

Chính vì vậy mà, các nhà khoa học pháp lý thường gọi Luật Hiến pháp là Luật Nhà nước. Trong Hiến pháp năm 2013 có 11 chương, 120 điều thì đã có đến 6 chương, 50 điều quy định về tổ chức bộ máy nhà nước. Ngoài các quy định trực tiếp thì các nguyên tắc chung về tổ chức, hoạt động và trách nhiệm của nhà nước (thông qua các cơ quan trong bộ máy nhà nước) đối với mọi cá nhân, cộng đồng xã hội còn được thể hiện xuyên suốt trong quy định tại hầu hết các chương, điều khác của Hiến pháp.

Hiến pháp 2013 tiếp tục kế thừa bản chất và mô hình tổng thể về tổ chức bộ máy nhà nước trong Hiến pháp 1992, đồng thời đã quy định rõ hơn nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực nhà nước. Hiến pháp 2013 cũng đã xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và điều chỉnh một số nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này. Những điểm mới cơ bản trong quy định về tổ chức bộ máy nhà nước đó là:

– Đối với Quốc hội: Hiến pháp bổ sung quyền của Quốc hội phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Đây là quy định làm rõ hơn mối quan hệ giữa Quốc hội với cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc giám sát, quy định tổ chức và hoạt động, quyết định nhân sự đối với Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước. Quy định rõ và hợp lý hơn thẩm quyền của Quốc hội trong việc phê chuẩn hoặc bãi bỏ các loại điều ước quốc tế.

– Về chế định Chủ tịch nước: Hiến pháp 2013 đã làm rõ hơn thẩm quyền của Chủ tịch nước trong việc tham dự các phiên họp của Chính phủ, yêu cầu Chính phủ bàn về vấn đề mà Chủ tịch nước xét thấy cần thiết để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước. Trong mối quan hệ với cơ quan tư pháp, đã làm rõ hơn thẩm quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao căn cứ vào nghị quyết phê chuẩn của Quốc hội; đồng thời đã bổ sung thẩm quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán các Tòa án khác.

Hiến pháp đã bổ sung và làm rõ hơn thẩm quyền của Chủ tịch nước trong việc quyết định đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước; trình Quốc hội phê chuẩn điều ước Quốc tế hoặc quyết định phê chuẩn, gia nhập điều ước quốc tế theo thẩm quyền; thống lĩnh lực lượng vũ trang, làm Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh; quyết định phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.

– Về Chính phủ: Ngoài những nội dung kế thừa Hiến pháp 1992, Hiến pháp 2013 bổ sung quy định phân quyền rõ, Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Để bảo đảm cho Chính phủ thực hiện quyền hành pháp, Hiến pháp đã bổ sung thẩm quyền của Chính phủ trong việc đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền. Phân định rõ thẩm quyền của Chính phủ trong đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh nhà nước theo ủy quyền của Chủ tịch nước; ký kết, gia nhập, phê duyệt hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ. Để xác định rõ trách nhiệm của các thành viên trong Chính phủ, Hiến pháp đã quy định rõ hơn mối quan hệ giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các thành viên khác của Chính phủ; quy định các thành viên Chính phủ chịu trách nhiệm cá nhân, báo cáo công tác trước Thủ tướng Chính phủ; thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân về những vấn đề thuộc trách nhiệm quản lý.

– Về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân: Thể chế hóa chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp, Hiến pháp 2013 đã bổ sung quy định xác định rõ thẩm quyền của Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Hiến pháp đã sửa đổi quy định về hệ thống tổ chức Tòa án và Viện kiểm sát nhân dân theo hướng không xác định cấp cụ thể trong Hiến pháp mà để luật quy định phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp. Bổ sung nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của thẩm phán và Hội thẩm; bổ sung và làm rõ hơn nguyên tắc khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, kiểm sát viên tuân theo sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát.

– Về chính quyền địa phương: Hiến pháp năm 2013 không sử dụng tên Chương IX của Hiến pháp 1992 mà đổi thành Chính quyền địa phương, đồng thời quy định khái quát về phân chia đơn vị hành chính. Về tổ chức, thẩm quyền của từng cấp chính quyền địa phương sẽ do Luật tổ chức chính quyền địa phương quy định cụ thể. Về địa vị pháp lý, nhiệm vụ và quyền hạn của chính quyền địa phương, cùng với việc kế thừa quy định của Hiến pháp 1992, Hiến pháp 2013 đã bổ sung quy định, trong trường hợp cần thiết chính quyền địa phương được giao thực hiện một số nhiệm vụ của cấp trên với các điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ đó; đồng thời sắp xếp lại và làm rõ hơn tính chất, trách nhiệm, thẩm quyền của HĐND và UBND để phù hợp với nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất và mối quan hệ giữa trung ương và địa phương.

Phạm Thái  

Quyền Hành Pháp Của Chính Phủ Theo Hiến Pháp 2013

    1. Quyền hành pháp của Chính phủ là một bộ phận của quyền lực Nhà nước được giao cho Chính phủ – cơ quan hành chính nhà nước cao nhất nhằm tổ chức việc thi hành pháp luật, hoạch định và điều hành chính sách quốc gia.

    Quyền hành pháp của Chính phủ có những đặc điểm riêng biệt:

    - Thứ nhất: Quyền hành pháp của Chính phủ có tính độc lập tương đối với các nhánh quyền lực nhà nước khác song vẫn đặt dưới sự giám sát tối cao của Quốc hội.

    Do cơ quan quyền lực nhà nước lập ra, nhưng không có nghĩa là quyền hành pháp của Chính phủ chỉ là quyền phái sinh từ cơ quan quyền lực. Quyền hành pháp của Chính phủ đặt trong mối quan hệ với quyền lập pháp của Quốc hội và quyền tư pháp của Tòa án có tính độc lập, tác động qua lại và kiểm soát lẫn nhau.

    Tuy có tính độc lập tương đối trong mối quan hệ với các nhánh quyền lực nhà nước khác, nhưng với bản chất là cơ quan chấp hành của Quốc hội cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất; thì trong khuôn khổ nhất định, quyền hành pháp của Chính phủ phải chịu sự kiểm soát, giám sát tối cao của Quốc hội. Tính chất quyền lực nhà nước cao nhất của Quốc hội xuất phát từ tính chất trực tiếp đại diện cao nhất cho ý chí, nguyện vọng và lợi ích của toàn thể nhân dân. Theo Hiến pháp năm 2013, Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước(1). Do vậy, hoạt động của Chính phủ – cơ quan thực hiện quyền hành pháp; cũng phải đặt trong quyền giám sát tối cao này của Quốc hội. Điều này được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau: Chính phủ “chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước”(2), còn Quốc hội “xét báo cáo công tác của Chính phủ”, “bãi bỏ văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ”(3); Ủy ban Thuờng vụ Quốc hội với tư cách là cơ quan thường trực của Quốc hội, trong mối quan hệ với Chính phủ có quyền: “Đình chỉ việc thi hành văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ… trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc bãi bỏ văn bản đó tại kỳ họp gần nhất; bãi bỏ văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ… trái với pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội”(4)…

    - Thứ hai: Quyền hành pháp của Chính phủ đóng vai trò cơ bản và quan trọng nhất trong việc hoạch định, tổ chức và thực thi chính sách và pháp luật.

    Trong Hiến pháp năm 2013, mặc dù là lần đầu tiên quyền hành pháp của Chính phủ được hiến định, nhưng có thể nói xuyên suốt trong lịch sử kể từ khi Chính phủ được thành lập kể từ năm 1945 cho tới nay, những nhiệm vụ, quyền hạn này của Chính phủ luôn là những nhiệm vụ chủ yếu, then chốt để Chính phủ bảo đảm hiệu quả hoạt động, quản lý điều hành trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Việc quy định nhiệm vụ của Chính phủ trong Hiến pháp mới cũng chính là sự ghi nhận những kết quả to lớn đã đạt được, đồng thời khẳng định vai trò của Chính phủ trong việc hoạch định, tổ chức và thực thi chính sách và pháp luật. Bởi, so với các chủ thể khác chỉ thực hiện quyền hành pháp trên một số lĩnh vực và bó hẹp trong những đơn vị hành chính lãnh thổ thuộc phạm vi quản lý của chính quyền địa phương, thì Chính phủ là cơ quan thống nhất thực hiện việc quản lý, điều hành, lãnh đạo các hoạt động trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội về: Kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ; thống nhất quản lý nền hành chính quốc gia… Cùng với đó, Chính phủ với bộ máy quản lý rộng khắp từ Trung ương tới địa phương thực thi quyền hành pháp trải rộng trên khắp các đơn vị hành chính, lãnh thổ.

    - Thứ ba: Quyền hành pháp của Chính phủ có mục tiêu phục vụ nhân dân, đồng thời chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân.

    Tư tưởng quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân đã được đề cập ngay từ những ngày đầu đất nước giành được độc lập. Nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước. Toàn bộ quyền lực nhà nước đều bắt nguồn từ nhân dân, do nhân dân ủy quyền cho bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm phụng sự lợi ích của nhân dân. Bộ máy nhà nước được thiết lập là bộ máy thừa hành ý chí, nguyện vọng của nhân dân, đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước là công bộc của nhân dân. Chính vì lẽ đó, Chính phủ với vị trí là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, cơ quan thực hiện quyền hành pháp có nhiệm vụ tổ chức thi hành Hiến pháp, pháp luật, xây dựng và hoạch định chính sách, thống nhất quản lý mọi mặt của đời sống xã hội không thể tách rời mục tiêu hướng tới nhân dân, phục vụ nhân dân nhằm bảo vệ quyền và lợi ích, tính mạng và tài sản của nhân dân qua đó góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Đây chính là sự bảo đảm quan trọng cho hoạt động của Chính phủ trong giai đoạn hiện nay cũng như trong các giai đoạn phát triển tiếp theo của đất nước. 

Kỳ họp thứ sáu, Quốc hội khóa XIII thông qua Hiến pháp năm 2013 ngày 28-11-2013.

    2. Nội dung quyền hành pháp của Chính phủ bao gồm những hoạt động mà thông qua đó quyền hành pháp của Chính phủ được triển khai để thực thi pháp luật và tiến hành các hoạt động quản lý, điều hành, phục vụ xã hội.

    Một là, dựa theo các lĩnh vực, quyền hành pháp của Chính phủ gồm có các nội dung cơ bản sau:

    - Bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội: Đây là chức năng đặc thù của quyền hành pháp của Chính phủ, có ý nghĩa rất quan trọng nhưng đồng thời cũng hết sức phức tạp, được tiến hành thường xuyên về thời gian, rộng khắp về không gian, địa điểm và có tác động trực tiếp tới tất cả mọi người dân, mọi tổ chức.

    - Quản lý, điều hành: Nội dung này của quyền hành pháp rất rộng, xuyên suốt tất cả các lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao, an ninh, quốc phòng… với các mặt hoạt động phong phú và phức tạp.

    - Tổ chức thực thi pháp luật: Với tính chất là cơ quan chấp hành của cơ quan lập pháp, Chính phủ phải tiến hành các hoạt động của mình phù hợp với quy định pháp luật do cơ quan lập pháp ban hành, áp dụng đúng đắn pháp luật để giải quyết các công việc cụ thể thuộc chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, đồng thời phải tiến hành các hoạt động để bảo đảm cho pháp luật được tôn trọng và thực hiện trong thực tế đời sống. Bên cạnh đó, Chính phủ còn có chức năng lập quy, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để cụ thể hóa, giải thích, hướng dẫn thực hiện các văn bản pháp luật do cơ quan lập pháp ban hành, kịp thời điều chỉnh các quan hệ mới phát sinh, đáp ứng nhu cầu quản lý, điều hành.

    - Bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân: Nội dung này của quyền hành pháp bao gồm nhiều hoạt động cụ thể và được tiến hành một cách chủ động, linh hoạt bằng nhiều phương pháp khác nhau như theo dõi, kiểm tra, phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đồng thời cũng là những hoạt động thường nhật được tiến hành theo đề nghị, yêu cầu của công dân.

    - Xem xét, xử lý các vi phạm: Nội dung tài phán là mặt hoạt động không thể thiếu để tiến hành xem xét và xử lý đối với các vi phạm của công dân hoặc nhân viên của bộ máy nhà nước, khi các vi phạm này chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc trách nhiệm dân sự. Chức năng này có ý nghĩa quan trọng, nó bảo đảm cho quyền hành pháp của Chính phủ được tôn trọng, qua đó bảo vệ trật tự xã hội, bảo đảm kỷ luật lao động và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.

    - Tổ chức bộ máy hành pháp: Để xây dựng được bộ máy hành pháp mạnh, gọn nhẹ, trước hết là phải có cơ sở pháp lý vững chắc và đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Các văn bản pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước nói chung và bộ máy hành pháp nói riêng do cơ quan lập pháp ban hành giữ vị trí đặc biệt quan trọng, đồng thời đòi hỏi phải có sự cụ thể hoá bằng các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành pháp.

    Hai là, dựa theo tính chất, mức độ thì quyền hành pháp của Chính phủ bao gồm hai nội dung cơ bản:

    - Quyền hành pháp chính trị

    Quyền hành pháp chính trị của Chính phủ có thể được hiểu là một bộ phận của quyền lực nhà nước được giao cho Chính phủ nhằm tổ chức việc thi hành pháp luật, hoạch định và điều hành chính sách quốc gia thông qua việc ban hành các chính sách, các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Cụ thể hóa quyền hành pháp, Điều 96 Hiến pháp năm 2013 đã quy định các nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ để thực thi quyền hành pháp:

    Thứ nhất, khẳng định vai trò hoạch định chính sách của Chính phủ: “Đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn…”.

    Thứ hai, quy định một cách cụ thể hơn quyền sáng tạo pháp luật của Chính phủ, theo đó Chính phủ có nhiệm vụ: “Trình dự án luật, dự án ngân sách nhà nước và các dự án khác trước Quốc hội; trình dự án pháp lệnh trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội”.

    Bên cạnh quyền trình dự án luật, pháp lệnh, Hiến pháp còn quy định quyền ban hành văn bản pháp luật của Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ như một nhiệm vụ, quyền hạn độc lập của chức năng hành pháp: “Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành văn bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử lý các văn bản trái pháp luật theo quy định của luật” (Điều 100).

    Thứ ba, quy định rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ trong việc tổ chức thi hành Hiến pháp và pháp luật, theo đó Chính phủ: “Tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước”.

    Thứ tư, quy định thi hành “các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài sản của nhân dân”. Đây là quy định mới và là một công cụ quan trọng để Chính phủ thực thi có hiệu quả những nhiệm vụ, quyền hạn đã được hiến định của mình.

    - Quyền lực hành chính điều hành

    Là quyền điều hành, tổ chức đưa các chính sách và pháp luật vào đời sống xã hội bằng các hoạt động mang tính tổ chức pháp lý khác nhau. Quyền hành chính điều hành thuộc về cá nhân người đứng đầu cơ quan hành chính, là quyền lực trong hành động để thực hiện quyền hành pháp thông qua việc ban hành các quyết định hành chính – quyết định cá biệt và thực hiện các hành vi hành chính để quản lý mọi mặt của đời sống xã hội, đời sống nội bộ trong bộ máy hành chính nhà nước(5). Hiến pháp năm 2013 trên cơ sở kế thừa những hạt nhân hợp lý trong các bản Hiến pháp trước đây, cũng đã có những sự bổ sung mới thể hiện rõ nét hơn quyền hành chính điều hành của Chính phủ trên một số phương diện cụ thể sau:

    Một là, Hiến pháp quy định: Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Nhưng vị trí của quy định này có sự điều chỉnh rất mới về kỹ thuật lập hiến, khi được đưa lên vị trí đầu tiên trong nội dung quy định của Hiến pháp về tính chất, vị trí, chức năng của Chính phủ, bảo đảm sự đồng bộ, logic với quy định về Quốc hội (là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam) và Tòa nhân dân dân (là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam). Đồng thời, là một bước chuyển rất cơ bản trong nhận thức về phân công quyền lực, về vị trí, vai trò của Chính phủ trong các mối quan hệ quyền lực, nhấn mạnh và đề cao tính chất, vị trí, chức năng của Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.

    Hai là, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục đề cao vai trò của Thủ tướng Chính phủ, đồng thời nhấn mạnh hơn vị trí của người đứng đầu Chính phủ, đứng đầu hệ thống hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa phương.

(1) Hiến pháp năm 2013, Điều 69. (2) Hiến pháp năm 2013, Điều 94.

(3) Hiến pháp năm 2013, Điều 70. (4) Hiến pháp năm 2013, Điều 74.

(5) GS, TS. Phạm Hồng Thái, “Sự liên tục của hành pháp và quyền lực hành chính”, http://www.hids.hochiminhcity.gov.vn.

Ths. Cao Việt Cường (Ban Nội chính Trung ương) Ths. Phạm Thị Hồng Mai (Văn phòng Chính phủ)

Bạn đang xem bài viết Bộ Máy Nhà Nước Việt Nam Theo Hiến Pháp 2013 trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!