Cập nhật thông tin chi tiết về Chính Sách Lạm Phát Mục Tiêu Và Khả Năng Thực Thi Tại Việt Nam mới nhất trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Ngày 27/9/2011 Bộ Tài chính đề xuất gói 6 giải pháp kiềm chế lạm phát trong đó đề cập đến chính sách lạm phát mục tiêu (Inflation Targeting Policy – ITP) và xác định là chiến lược để NHNN áp dụng trong thời gian tới sau khi áp lực lạm phát giảm bớt.
Vậy chính sách lạm phát mục tiêu là gì và những điều kiện để áp dụng thành công ở Việt nam là gì? Bài viết này sẽ tập trung phân tích những thuận lợi, khó khăn và đánh giá khả năng thành công khi chính sách ITP áp dụng tại Việt nam
Chính sách lạm phát mục tiêu được hiểu là chính sách mà ngân hàng trung ương sẽ đưa ra mục tiêu lạm phát trong một thời gian khá dài (thường là 5 năm) và được quyền chủ động sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ như nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, tỷ giá .v.v để đạt mục tiêu đó. Một chính sách lạm phát mục tiêu được coi là thành công nếu như trong quá trình thực hiện lạm phát sẽ vận động xoay quanh mức mục tiêu đã đề ra.
Chính sách lạm phát mục tiêu được áp dụng nhiều bởi các nước phát triển và các nước mới nổi khi lãnh đạo các nước nhận định rằng, lạm phát hay nói cách khác ổn định giá là mục tiêu chính của chính sách tiền tệ. Tùy từng thời kỳ, mức lạm phát mục tiêu có thể có những điều chỉnh theo năm, tuy nhiên mức điều chỉnh có thể không quá lớn so với định hướng dài hạn đã xác định từ thời gian trước.
Vậy những điều kiện nào thì chính sách lạm phát mục tiêu có thể có hiệu quả?
Theo Debelle et al. (1998) để thực hiện chính sách này, các quốc gia cần có:
(i) sự độc lập nhất định của ngân hàng trung ương, ít nhất là trong việc chủ động sử dụng các công cụ và chính sách tiền tệ, Ngân hàng trung ương không chịu áp lực phải in tiền để mua trái phiếu chính phủ phát hành nữa ;
(ii) yêu cầu thứ 2 là sự chủ động của ngân hàng trung ương không phải thực thi các mục tiêu khác như tăng trưởng, việc làm, hay tỷ giá hối đoái. Đối với các nước thực hiện chế độ tỷ giá hối đoái cố định thì rõ ràng chính sách ITP hoàn toàn không khả thi.
Cũng theo Debelle et al. (1998), một quốc gia sau khi đạt được hai tiêu chí trên thì phải xây dựng một lộ trình thực hiện chính sách ITP. Trước hết, Ngân hàng trung ương phải xác định một mức lạm phát mục tiêu cụ thể trong giai đoạn trước mắt (ví dụ 7% hay 8%) và phải đưa ra một thông điệp rõ ràng và minh bạch với thị trường rằng chúng tôi sẽ thực hiện để đạt được mục tiêu này trong thời gian nhất định. Đồng thời, Ngân hàng trung ương sẽ đưa ra những công thức mô hình tính toán cụ thể để có cơ chế dự báo lạm phát và các chính sách có thể phải điều chỉnh một khi mục tiêu của lạm phát không đạt được. Điểm cơ bản nhất của chính sách này chủ yếu là cơ chế giao thiệp của Ngân hàng trung ương với thị trường càng rõ ràng, thì thị trường sẽ hiểu được cơ chế hoạt động, cơ chế điều hành chính sách của ngân hàng trung ương và sẽ có những phản ứng phù hợp và làm tăng hiệu ứng của các chính sách điều tiết của ngân hàng trung ương khi không đạt mục tiêu của lạm phát.
Cái điểm khác biệt chính giữa chính sách lạm phát mục tiêu với chính sách xử lý lạm phát khác chính là có một mô hình một cơ chế xử lý cụ thể và định lượng được để dự báo lạm phát cũng như dự báo xu hướng lạm phát. Chính sách lạm phát mục tiêu là chính sách xác định mục tiêu lạm phát, xác định cơ chế dự báo cơ chế điều tiết kinh tế để đạt mục tiêu đó với nhiều vấn đề mang tính toán kỹ thuật nhiều hơn. Như vậy lạm phát mục tiêu có thể khiến chính sách điều tiết kinh tế của Ngân hàng trung ương cứng nhắc hơn và thiên về xu hướng kỹ trị nhiều hơn.
Trong quá khứ, nhiều quốc gia đã áp dụng chính sách ITP khá thành công như New Zealand, Canada, Anh, Phần Lan, Thụy điển, Úc, Tây Ban nha. Ví dụ New Zealand là quốc gia khá thành công với lạm phát mục tiêu khi trong một thời gian dài những năm 2000 nước này xây dựng cơ chế để đạt mục tiêu lạm phát 2% và họ đã khá thành công.
Khả năng áp dụng ở Việt nam
Qua những phân tích về chính sách lạm phát mục tiêu ở trên, có một số điểm cần lưu ý khi áp dụng chính sách này ở Việt Nam
Thứ nhất, sự chủ động của ngân hàng trung ương. Trong một thời kỳ dài vừa qua, ngân hàng nhà nước với tư cách là ngân hàng trung ương của Việt nam luôn là thành viên của Chính phủ. Do vậy, có hạn chế về mặt độc lập để đưa ra chính sách tiền tệ. NHNN khó có thể từ chối những lời đề nghị bơm tiền tạo thanh khoản và hỗ trợ tăng trưởng của các thành viên khác của Chính phủ được. Ngoài ra, sự chủ động của NHNN hiện nay còn hạn chế khi các chỉ tiêu hàng năm được xây dựng và gần như là áp đặt cho NHNN như tăng trưởng tín dụng; tổng phương tiện thanh toán; dự trữ ngoại hối; tỷ giá.
Thứ hai, Cơ chế đối thoại và xây dựng mục tiêu lạm phát. Đây là điều kiện 2, tưởng chừng như đơn giản nhưng khá khó khăn đối với tình hình Việt nam trong thời gian tới. Điều kiện này đòi hỏi cơ chế minh bạch thông tin vĩ mô. Hiện nay thị trường gặp rất nhiều khó khăn để tiếp cận những thông tin vĩ mô, và thị trường càng không biết được cơ chế kỹ trị của NHNN. Như vậy, để xây dựng được chính sách ITP, giao thức truyền thông thông suốt của cả hệ thống tài chính và thị trường phải được thực hiện.
Thứ ba, Sự cần thiết của việc áp dụng chính sách ITP. Mặc dù lạm phát là điều xấu, nhưng nếu không có lạm phát chưa chắc sẽ tốt cho nền kinh tế, đặc biệt là nền kinh tế đang phát triển như Việt nam. Trong vài năm tới, có thể Việt nam chưa bước vào nhóm những nước phát triển, nên các chính sách để tăng cường nghiên cứu phát triển, xây dựng cơ sở hạ tầng.v.v. cần phải xây dựng. Một nền kinh tế có thể tăng trưởng được khi những kỳ vọng tăng giá vẫn còn và người dân vẫn tích cực tham gia vào quá trinh tích lũy và đầu tư. Nếu bước vào xã hội tiêu dùng quá sớm có thể ngăn cản một phần việc tích lũy xã hội và hạn chế đầu tư xã hội.
Như vậy, với những phân tích trên, cần phải một thời gian nữa thì chính sách ITP mới nên được áp dụng tại Việt nam. Có lẽ, áp dụng một phần của chính sách như là xác định một mục tiêu cụ thể mà tạm thời chưa xây dựng cơ chế đối thoại giữa NHNN và thị trường cũng có thể chấp nhận được.
Nguồn: http://www.finance.tvsi.com.vn
Share this:
Like this:
Số lượt thích
Đang tải…
Chính Sách Tiền Tệ Lạm Phát Mục Tiêu Và Khả Năng Áp Dụng Ở Việt Nam
(thitruongtaichinhtiente.vn) – Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã định hướng việc điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) theo khuôn khổ lạm phát mục tiêu. Tuy nhiên, cho đến nay, việc chuyển đổi sang cơ chế lạm phát mục tiêu vẫn còn là một thách thức lớn đối với Việt Nam. Bài viết cung cấp những bằng chứng thực nghiệm để chỉ ra điểm nghẽn trong việc hướng tới điều hành CSTT theo lạm phát mục tiêu ở Việt Nam.
Tóm tắt: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã định hướng việc điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) theo khuôn khổ lạm phát mục tiêu. Tuy nhiên, cho đến nay, việc chuyển đổi sang cơ chế lạm phát mục tiêu vẫn còn là một thách thức lớn đối với Việt Nam. Trong bài nghiên cứu này, tác giả cung cấp những bằng chứng thực nghiệm để chỉ ra điểm nghẽn trong việc hướng tới điều hành CSTT theo lạm phát mục tiêu ở Việt Nam chính là công cụ lãi suất (LS).
Từ khoá: chính sách tiền tệ, lạm phát mục tiêu, lãi suất
Inflation targeting monetary policy and its applicability in Vietnam
Abstract: The State Bank of Vietnam has intention of moving to inflation targeting strategy long time ago. However, the adoption of inflation targeting framework in Vietnam is still a challenge. In this paper, the author will provide empirical evidences to prove that the use of interest rate is an obstacle for Vietnam to move to inflation targeting framework.
Key words: monetary policy, inflation targeting, Vietnam
1. Giới thiệu
Lịch sử khoa học cho thấy CSTT lạm phát mục tiêu là sự lựa chọn tối ưu của nhiều ngân hàng trung ương (NHTW) trên thế giới. Trong một khảo sát của Quỹ Tiền tệ thế giới (IMF) dành cho 88 quốc gia phi công nghiệp (non-industrial countries), hơn một nửa các quốc gia này thể hiện mong muốn chuyển đổi sang cơ chế điều hành CSTT theo lạm phát mục tiêu trong tương lai và Việt Nam cũng được xếp vào nhóm các quốc gia tiềm năng có khả năng áp dụng lạm phát mục tiêu (Batini và Laxton, 2006). Quyết tâm chuyển đổi sang cơ chế điều hành CSTT theo lạm phát mục tiêu thể hiện rõ trong đề án phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng phát triển đến năm 2020 tại Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg ngày 24/5/2006 của Thủ tướng Chính phủ: “Thực hiện điều hành CSTT dựa trên cơ sở điều tiết khối lượng tiền; đồng thời xây dựng các điều kiện cần thiết để chuyển dần sang thực hiện điều hành CSTT trên cơ sở điều tiết LS. Tạo lập các điều kiện cần thiết để sau năm 2010, NHNN chuyển sang điều hành CSTT theo cơ chế lạm phát mục tiêu”. Sau năm 2010, gần 3/4 các quốc gia được IMF đánh giá là những quốc gia có tiềm năng chuyển đổi sang cơ chế lạm phát mục tiêu đã thực hiện được mong muốn của họ. Trong khi đó, đến năm 2020 Việt Nam vẫn đang trên con đường tiến tới cơ chế điều hành CSTT theo lạm phát mục tiêu.
Đối với điều kiện đầu tiên, đã có nghiên cứu thực nghiệm chứng minh được Việt Nam không để xảy ra hiện tượng áp chế tài chính bởi thâm hụt ngân sách ở Việt Nam không phải là nguyên nhân gây ra lạm phát (Nguyen&Nguyen, 2010; Hoang, 2014). Do đó, có thể vướng mắc Việt Nam đang gặp phải là vấn đề độc lập công cụ CSTT để đạt được mục tiêu kiểm soát lạm phát. Cụ thể, Debelle (2001) phân tích những trở ngại thường gặp đối với các nền kinh tế mới nổi khi áp dụng cơ chế lạm phát mục tiêu là ở các quốc gia này mối quan hệ giữa công cụ CSTT và lạm phát thường không rõ ràng. Nếu các NHTW áp dụng cơ chế lạm phát mục tiêu thường sử dụng công cụ gián tiếp là LS để điều hành CSTT thì NHTW ở nhiều nước đang phát triển vẫn sử dụng những công cụ trực tiếp để đưa ra các mệnh lệnh hành chính phục vụ việc điều hành CSTT như hạn mức tín dụng, trần LS huy động. Để làm rõ hơn về vấn đề độc lập công cụ CSTT ở Việt Nam, trong nghiên cứu này, tác giả sẽ tập trung phân tích về mối quan hệ giữa công cụ LS ở Việt Nam và lạm phát để xem xét công cụ này có thực sự hiệu quả trong việc kiểm soát lạm phát như các quốc gia áp dụng lạm phát mục tiêu đang sử dụng. Bên cạnh đó, bài viết cũng xem xét Việt Nam có thoả mãn điều kiện thứ hai hay không?
Theo báo cáo tổng quan Việt Nam 2035 (Ngân hàng Thế giới-WB, 2016), NHNN đang có quá nhiều mục tiêu trong việc điều hành CSTT, trong khi nhiều NHTW trên thế giới chỉ được giao nhiệm vụ ổn định giá cả. Từ năm 2012 đến nay, lạm phát ở Việt Nam luôn được kiểm soát ở mức một con số, tuy nhiên, do không có sự cam kết về ổn định giá cả trong dài hạn nên sự kỳ vọng tăng giá cả luôn tồn tại. Chính vì vậy, nhóm nghiên cứu của WB đã đề xuất nên lựa chọn giữa việc quản lý chặt tỷ giá hoặc tập trung vào mục tiêu lạm phát. Mặc dù trong Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng đến năm 2025 định hướng đến năm 2030 tại Quyết định số 986/QĐ-TTg ngày 8/3/ 2018 của Thủ tướng Chính phủ đã khẳng định rõ mục tiêu kiểm soát lạm phát là ưu tiên cao nhất của CSTT Việt Nam, nhưng đối với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam, ổn định tỷ giá vẫn là vấn đề quan trọng cần phải xem xét trước khi Việt Nam áp dụng cơ chế lạm phát mục tiêu. Bởi, nghiên cứu khoa học đã chứng minh tỷ giá là nhân tố quan trọng tác động tới lạm phát ở Việt Nam (Nguyen & Nguyen, 2010). Liệu chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý như thời gian qua của Việt Nam có ảnh hưởng tới việc mục tiêu kiểm soát lạm phát của CSTT hay không? Trong nghiên cứu này, tác giả sẽ đi sâu phân tích để làm rõ vấn đề này.
2. Cơ sở lý thuyết
Trong một nền kinh tế đóng, các quyết định CSTT tác động tới lạm phát thông qua LS. Lãi suất được điều chỉnh tăng lên sẽ làm cho hộ gia đình và doanh nghiệp tiêu thụ và đầu tư ít lại. LS tăng cũng làm cho các ngân hàng thắt chặt tín dụng, làm cho các cá nhân và doanh nghiệp chi tiêu ít hơn. Khi nền kinh tế chi tiêu ít hơn thì nhu cầu sản xuất ít hơn và ít áp lực lên giá cả (do cầu giảm).
Trong một nền kinh tế mở, tỷ giá là một kênh truyền dẫn khác mà thông qua nó, các quyết định CSTT tác động tới lạm phát và kỳ vọng lạm phát. Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, khi NHTW quyết định thắt chặt CSTT thông qua việc tăng LS thì việc làm này có thể làm tăng giá đồng nội tệ. Cụ thể, LS tăng làm thu hút thêm nhiều dòng vốn đầu tư từ các thị trường khác đổ vào thị trường nội địa. Các nhà đầu tư nước ngoài chuyển vốn vào thị trường nội địa nên sẽ có nhu cầu mua nội tệ nhiều hơn. Sự gia tăng nhu cầu đồng nội tệ làm cho đồng nội tệ lên giá. Giả sử các yếu tố khác không đổi, đồng nội tệ sẽ tăng giá cho tới khi chênh lệch giữa LS trong nước và ngoài nước bằng mức độ tăng giá của đồng nội tệ.
Các NHTW điều hành CSTT theo khuôn khổ lạm phát mục tiêu thường chọn LS làm công cụ chính. Việc điều hành công cụ LS sẽ gặp khó khăn nếu NHTW vừa muốn ổn định tỷ giá, vừa muốn kiểm soát lạm phát. Nếu như không chịu áp lực ổn định tỷ giá thì việc điều hành công cụ LS hướng tới ổn định lạm phát sẽ hiệu quả hơn. Nếu như lạm phát có nguy cơ tăng cao, NHTW sẽ điều chỉnh tăng LS. Từ công thức của lý thuyết ngang bằng LS có bảo hiểm thì giá trị đồng nội tệ sẽ giảm hay tỷ giá sẽ tăng. Nếu như NHTW muốn giữ cho tỷ giá ổn định, nghĩa là không cho tỷ giá tăng, thì việc tăng LS không giúp cho NHTW đạt được mục tiêu này. Do đó, NHTW chỉ có thể chọn 1 trong 2 mục tiêu: ổn định tỷ giá hoặc ổn định lạm phát.
Hình 1 . Cơ chế truyền dẫn của công cụ LS
Dựa trên phân tích, để đánh giá hiệu quả của công cụ LS trong việc điều hành hướng tới kiểm soát LS, tác giả sử dụng mô hình hồi quy vectơ bao gồm các biến như sau: LS, tỷ giá, tổng cầu và lạm phát. Ngoài ra, do hiệu ứng gián tiếp của tỷ giá tác động lên lạm phát thông qua tổng cầu trong nước và ngoài nước, mô hình sẽ tách bạch tác động của tổng cầu trong nước và ngoài nước lên lạm phát. Từ đó, mô hình nghiên cứu có thể đánh giá được mức độ truyền dẫn của tỷ giá vào lạm phát (exchange rate pass-through). Mức độ truyền dẫn của tỷ giá vào lạm phát càng thấp thì NHTW càng dễ dàng điều hành chính sách hướng đến kiểm soát lạm phát (Choudhri, Faruqee & Hakura, 2005).
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1.Biến nghiên cứu
Mô hình nghiên cứu trong bài báo này thực chất là mô hình phản ánh cơ chế dẫn truyền của CSTT thông qua công cụ LS. Mô hình này cũng đã được áp dụng nghiên cứu ở Tunisia (Boughrara, 2007). Mô hình nghiên cứu gồm 5 biến số cần được thu thập dữ liệu như sau:
– Biến LS: Có nhiều loại LS trong một nền kinh tế, tuy nhiên, LS được chọn trong mô hình này là LS được lựa chọn và quyết định bởi NHTW làm cơ sở cho những loại LS khác trên thị trường.
– Biến tỷ giá: Tỷ giá danh nghĩa sẽ được chọn là đại diện cho biến tỷ giá trong mô hình.
– Biến lạm phát: Chỉ số lạm phát được sử dụng trong nghiên cứu là chỉ số lạm phát toàn phần (Headline Inflation).
– Biến tổng cầu trong nước: Chỉ số sản xuất công nghiệp Việt Nam được chọn là biến đại diện cho tổng cầu trong nước.
– Biến tổng cầu nước ngoài: Nghiên cứu sử dụng thêm biến chỉ số sản xuất công nghiệp Mỹ đại diện cho tổng cầu nước ngoài.
3.2.Dữ liệu nghiên cứu
Dữ liệu về các biến số nghiên cứu đều được thu thập theo tháng, trong khoảng thời gian từ tháng 1/2011 tới tháng 6/2018. Số liệu nghiên cứu trong bài báo được trích từ nguồn dữ liệu IFS của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), nguồn dữ liệu của NHNN và nguồn dữ liệu ARIC của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB).
Bảng 1. Tổng hợp các biến số nghiên cứu
(Nguồn: Tác giả tổng hợp)
3.3.Phương pháp nghiên cứu
Tác giả đã thiết lập mô hình hồi quy vector gồm 5 biến: lạm phát, LS, tỷ giá, tổng cầu trong nước và tổng cầu nước ngoài. Bản chất mô hình này là mô hình phản ảnh cơ chế dẫn truyền CSTT của công cụ LS. Có nhiều loại LS khác nhau, tuy nhiên, LS đại diện cho công cụ LS của NHTW là LS chính sách (LS do NHTW quyết định và công bố để làm cơ sở cho các loại LS khác trên thị trường). Trong trường hợp của Việt Nam, NHTW quyết định và công bố 2 loại LS chính sách là LS tái cấp vốn và LS tái chiết khấu. Do có 2 loại LS đóng vai trò LS chính sách nên tác giả xây dựng 2 mô hình để kiểm định vai trò của 2 loại LS này. Do các chuỗi dữ liệu trong nghiên cứu đều dừng ở sai phân bậc 1 nên tác giả vận dụng mô hình hiệu chỉnh sai số VECM trong việc phân tích dữ liệu. Kết quả phân tích từ hàm phản ứng đẩy và phân rã phương sai sẽ cho thấy công cụ LS ở Việt Nam có thực sự tác động tới lạm phát hay không cũng như tác động của LS tới tỷ giá. Toàn bộ dữ liệu nghiên cứu được xử lý trên phần mềm Stata14. Kết hợp với các phân tích định tính, tác giả sẽ đối chiếu các kết quả nghiên cứu định lượng có phù hợp với thực trạng hiện nay ở Việt Nam hay không. Cuối cùng, dựa trên các kết quả nghiên cứu định lượng và định tính, tác giả đưa ra những đánh giá về khả năng áp dụng CSTT lạm phát mục tiêu ở Việt Nam.
3.4. Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết nghiên cứu thứ nhất: Ở Việt Nam, tồn tại mối quan hệ giữa công cụ LS và lạm phát.
Giả thuyết nghiên cứu thứ hai: Việc điều hành công cụ LS chỉ hướng tới việc kiểm soát lạm phát.
Nếu như kết quả nghiên cứu từ mô hình đúng như 2 giả thuyết nêu trên thì Việt Nam thoả mãn điều kiện áp dụng CSTT lạm phát mục tiêu. Trong trường hợp ngược lại, Việt Nam chưa thoả mãn điều kiện để áp dụng CSTT lạm phát mục tiêu.
4. Kết quả nghiên cứu
4.1. Kết quả thống kê
Mô hình nghiên cứu thứ nhất bao gồm 5 biến: LS tái cấp vốn (R1), tỷ giá (EX), lạm phát (INFLATION), chỉ số sản xuất công nghiệp Việt Nam (IPVN) và chỉ số sản xuất công nghiệp Mỹ (IPUS). Số quan sát của 5 chuỗi dữ liệu là 90.
Kết quả thống kê các biến được sử dụng trong mô hình được tính toán từ phần mềm Stata như sau:
Bảng 2.1. Thống kê các biến trong mô hình thứ nhất
(Nguồn: Kết quả tính toán từ phần mềm Stata)
4.2. Kiểm định tính dừng của chuỗi dữ liệu
Để kiểm tra tính dừng của các chuỗi số liệu, tác giả thực hiện kiểm định nghiệm Dickey-Fuller. Với các chuỗi số liệu thu thập được, kết quả kiểm định Dickey Fuller chỉ rõ các chuỗi dữ liệu không dừng ở bậc 0 (do giá trị thống kê lớn hơn mức ý nghĩa 10%). Tuy nhiên, sai phân bậc 1 của các chuỗi dữ liệu đều dừng hay tích hợp bậc 1, I (1), trong khoảng tin cậy 99% (do giá trị thống kê nhỏ hơn mức ý nghĩa 1%). Kết quả kiểm định được thể hiện cụ thể ở bảng 2.2.
Bảng 2.2. Kiểm định tính dừng chuỗi dữ liệu của mô hình thứ nhất
Ghi chú: ***: Mức ý nghĩa 1%; **: Mức ý nghĩa 5%; *: Mức ý nghĩa 10%
(Nguồn: Kết quả tính toán từ phần mềm Stata)
4.3. Xác định độ trễ tối ưu của các chuỗi dữ liệu
Kết quả tính toán lựa chọn độ trễ tối ưu cho mô hình được thực hiện trên phần mềm Stata 14 như sau:
Nếu chọn độ trễ tối ưu dựa trên tiêu chuẩn AIC thì độ trễ tối ưu của mô hình là 1, tức là giá trị hiện tại của biến hiện tại chịu tác động của các biến trễ của 1 tháng trước đó.
Bảng 2.3. Xác định độ trễ tối ưu mô hình thứ nhất
(Nguồn: Kết quả tính toán từ phần mềm Stata)
4.4. Kiểm định đồng liên kết
Sau khi xác định độ trễ tối ưu, tác giả tiến hành đồng liên kết theo phương pháp Johansen. Kết quả tính toán từ phần mềm Stata 14 như sau:
Bảng 2.4. Kết quả kiểm định Johansen dành cho mô hình thứ nhất
(Nguồn: Kết quả tính toán từ phần mềm Stata)
4.5. Kết quả phân tích cú sốc và phân rã phương sai
Để tiếp tục kiểm tra mối quan hệ giữa lạm phát và các công cụ chính sách tiền tệ, tác giả tiếp tục thực hiện phân tích các cú sốc thông qua hàm phản ứng đẩy IRF với lựa chọn độ dài chu kỳ là 24 tháng (độ trễ này thấy ảnh hưởng rõ ràng của các quyết định chính sách) (hình 2). Kết quả bất ngờ là lạm phát dường như hoàn toàn không phản ứng trước các cú sốc từ LS tái cấp vốn (R1) (đường lạm phát nằm trùng với trục Ox). Trong khi đó, tỷ giá lại phản ứng mạnh trước cú sốc LS. Như vậy, việc điều chỉnh LS tái cấp vốn có thể không ảnh hưởng nhiều tới lạm phát nhưng lại ảnh hưởng tới tỷ giá. Hình 2 còn cho thấy sự thay đổi của LS tái cấp vốn dường như hoàn toàn không tác động tới tổng cầu. Kết quả này có thể cho thấy rằng việc điều hành công cụ LS ở Việt Nam hướng về mục tiêu ổn định tỷ giá nhiều hơn là kiểm soát lạm phát. Đây cũng là bằng chứng cho thấy NHNN ưu tiên mục tiêu ổn định tỷ giá nhiều hơn mục tiêu kiểm soát lạm phát. Khi kiểm soát lạm phát chưa phải là mục tiêu ưu tiên trong việc điều hành của NHTW thì khuôn khổ điều hành CSTT theo lạm phát mục tiêu chưa thể áp dụng.
Hình 2. Kết quả phân tích cú sốc LS tái cấp vốn (R1)
(Nguồn: Kết quả tính toán từ phần mềm Stata)
Kết quả phân rã phương sai cũng cho thấy công cụ LS tái cấp vốn đóng góp rất ít vào việc giải thích sự thay đổi của lạm phát. Ở kỳ 12 (cuối năm đầu tiên kể từ khi có cú sốc LS), sự thay đổi của lạm phát chỉ được giải thích 2,6% bởi sự thay đổi của LS tái cấp vốn. Ở kỳ 24 (cuối năm thứ hai kể từ khi có cú sốc LS), mức độ giải thích về sự thay đổi của lạm phát từ sự thay đổi của LS tái cấp lại càng giảm đi (chỉ còn 1,6%). Đây là bằng chứng cho thấy mối quan hệ giữa công cụ LS tái cấp vốn và lạm phát ở Việt Nam là rất yếu.
Ngoài ra, một kết quả nổi bật từ kết quả phân rã phương sai, tỷ giá cũng đóng góp rất nhỏ vào sự thay đổi của lạm phát. Cụ thể, mức độ giải thích của tỷ giá lần lượt là 2,1% (kỳ 12) và 3,3% (kỳ 24). Đây là kết quả đáng mừng bởi kết quả này cho thấy mức độ truyền dẫn của tỷ giá vào lạm phát là rất nhỏ. Đây là minh chứng cho thấy NHNN có thể tập trung cải thiện hiệu quả điều hành công cụ LS hướng tới kiểm soát lạm phát mà không sợ ảnh hưởng của tỷ giá.
Trong trường hợp LS tái chiết khấu (R2) chọn làm biến đại diện cho biến LS chính sách, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy LS tái chiết khấu ở Việt Nam dường như không tác động tới lạm phát. Ngoài ra, sự thay đổi của LS chính sách có tác động tới sự thay đổi của tỷ giá, nghĩa là việc điều hành công cụ LS chính sách ở Việt Nam có thể hướng tới việc ổn định tỷ giá hơn là ổn định giá cả. Những kết quả nghiên cứu này lần lượt bác bỏ 2 giả thuyết nghiên cứu ở trên. Điều này cũng đồng nghĩa Việt Nam chưa thoả mãn điều kiện áp dụng CSTT lạm phát mục tiêu.
5. Kết luận
Kết quả nghiên cứu từ mô hình cho thấy việc điều hành công cụ LS bao gồm LS tái cấp vốn và LS tái chiết khẩu để hướng tới kiểm soát lạm phát không thực sự hiệu quả. Điều này thể hiện qua kết quả nghiên cứu: Mối quan hệ giữa lạm phát và công cụ LS rất yếu. Đây là minh chứng cho thấy công cụ LS không thực sự hiệu quả trong việc kiểm soát lạm phát sẽ gây ra khó khăn cho việc hướng tới điều hành CSTT theo khuôn khổ lạm phát mục tiêu. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cho thấy công cụ LS chính sách ở Việt Nam tác động tới tỷ giá rất lớn. Điều này cho thấy có thể trong thời gian qua, việc điều hành LS hướng tới việc ổn định tỷ giá nhiều hơn so với việc ổn định giá cả. Tất cả những kết quả nghiên cứu này đều bác bỏ 2 giả thuyết nghiên cứu, đồng nghĩa Việt Nam vẫn chưa thoả mãn 2 điều kiện tiền cơ bản cần đạt được trước khi áp dụng CSTT lạm phát mục tiêu do nhóm nghiên cứu IMF đưa ra. Tuy nhiên, dựa trên kinh nghiệm các nước áp dụng lạm phát mục tiêu thì Việt Nam vẫn có cơ hội để áp dụng cơ chế lạm phát mục tiêu bởi nhiều quốc gia trên thế giới vẫn áp dụng cơ chế lạm phát mục tiêu khi không thoả mãn những điều kiện tiền đề.
– Batini, N., & Laxton, D. (2006). Under what conditions can inflation targeting be adopted? The experience of emerging markets. Central bank of Chile.
– Boughrara, A. (2007). Can Tunisia move to inflation targeting?. The developing Economies, 45(1), 27-62.
– Choudhri, E. U., Faruqee, H., & Hakura, D. (2005). Explaining the exchange rate pass-through in different prices. Journal of International Economics, 65(2), 349-374.
– Debelle, G., Masson, P., Savastano, M., & Sharma, S. (1998). Inflation targeting as a monetary policy framework. International Monetary Fund, October. Retrieved from https://www.imf.org/external/pubs/ft/issues/issues15/index.htm
– Debelle, G. (2001). The case for inflation targeting in East Asian countries in Future directions for monetary policies in East Asia, Gruen D., Simon J. (Eds), Reserve Bank of Australia. 65-87.
– Hoang, V. K. (2014). Budget Deficit, Money Growth and Inflation: Empirical evidence from Vietnam. MPRA Working paper.
– Ngân hàng thế giới và Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam (2016). Báo cáo tổng quan Việt Nam 2035.
– Nguyen, T.T.H., & Nguyen, D.T. (2010). Macroeconomic determinants of Vietnam’s inflation 2000-2010: Evidence and analysis. VEPR Working Paper WP-09.
Chính Sách Tiền Tệ Theo Mục Tiêu Lạm Phát
Theo ông, nên hiểu thế nào là chính sách tiền tệ theo mục tiêu lạm phát?
Chính sách tiền tệ theo mục tiêu lạm phát (inflation targeting monetary policy) về bản chất phải dựa vào một số tiền đề và quan trọng nhất là NHNN phải đưa ra một tỷ lệ lạm phát cụ thể nào đó. Ví dụ ở Mỹ, NHTW (Fed) đưa ra tỷ lệ lạm phát mục tiêu 2%, nghĩa là cơ quan này sẽ điều chỉnh lãi suất và các công cụ chính sách tiền tệ khác để làm sao lạm phát xoay quanh mức 2% đó. Nếu giá cả tăng cao hơn mục tiêu lạm phát thì Fed sẽ tăng lãi suất để giảm cho vay và do đó giảm lượng tiền đi vào lưu thông, đồng thời giảm tỷ lệ lạm phát thực tế, còn ngược lại, nếu tỷ lệ lạm phát thực tế thấp hơn lạm phát mục tiêu thì Fed sẽ giảm lãi suất xuống để cho vay nhiều hơn, đẩy lượng tiền vào lưu thông và do đó tăng lạm phát thực tế.
Điều này cũng giúp cho DN khi thấy được tỷ lệ lạm phát thực tế không khớp với mục tiêu lạm phát sẽ dự đoán được NHTW sẽ làm gì. Bên cạnh đó, cần có những tiền đề là hệ thống ngân hàng minh bạch thông suốt, lãi suất vận hành tự do, cạnh tranh lành mạnh.
Mô hình chính sách này có lợi và bất lợi gì?
Điểm lợi là lạm phát sẽ được kiểm soát chặt chẽ vì lãi suất và chính sách tiền tệ chủ yếu xoay quanh việc kiểm soát lạm phát. Điểm bất lợi là có thể sẽ làm cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế trở thành thứ yếu vì tất cả mục tiêu ưu tiên là kiểm soát lạm phát và ổn định đồng nội tệ. Trong khi ở Việt Nam, bên cạnh yêu cầu kiểm soát lạm phát thì tăng trưởng cũng là mục tiêu rất quan trọng. Trong một nền kinh tế non trẻ, tăng trưởng thấp sẽ phát sinh rất nhiều vấn đề về kinh tế, dân sinh và xã hội. Vì thế, không thể để kinh tế tăng trưởng dưới mức 5%. Tuy nhiên, khi có điều kiện để thực hiện chính sách tiền tệ theo mục tiêu lạm phát thì nên thi hành để giữ bình ổn giá trị đồng Việt Nam, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong ổn định.
Việt Nam có hội đủ điều kiện để theo đuổi chính sách này hay không, theo ông?
Từ trước đến giờ, Việt Nam chưa bao giờ đưa ra mục tiêu cụ thể theo đuổi chính sách này vì hình như chưa hội đủ điều kiện để thực hiện. NHTW chưa bao giờ đưa ra một mục tiêu lạm phát mà chỉ có Quốc hội làm việc này, nhưng ngay cả khi Quốc hội đề ra một mục tiêu lạm phát thì NHTW cũng chưa bao giờ tuyên bố đó là mục tiêu theo đuổi của chính sách tiền tệ.
Hiện tại, lạm phát và lãi suất ở Việt Nam hầu như không có mối liên kết chặt chẽ. Trong khi lãi suất đã được điều chỉnh rất sâu nhưng các doanh nghiệp không có khả năng vay và do đó hệ thống ngân hàng không đẩy được một lượng tiền lớn vào lưu thông qua tín dụng. Vậy là lãi suất đã không ảnh hưởng nhiều đến lạm phát. Nói cách khác, công cụ lãi suất đã bị vô hiệu hóa bởi hoạt động sản xuất kinh doanh suy giảm tới mức nhiều doanh nghiệp không muốn vay hay không còn khả năng vay vốn từ các ngân hàng.
Trong thời gian qua, lãi suất và lạm phát cùng giảm rất sâu. Đây là một điều rất tốt mà NHNN đã thực hiện được. Tuy nhiên, hình như lãi suất đi sau lạm phát chứ không phải đi trước lạm phát. Nghĩa là lạm phát bị đẩy xuống không phải do lãi suất giảm mà do sức cầu rất yếu của nền kinh tế. Sau đó, trên cơ sở lạm phát giảm, lãi suất đã được kéo xuống. Đây là một nghịch lý.
Từ thực tế trên, có thể nói, môi trường tài chính hiện nay của Việt Nam không thích hợp cho một chính sách tiền tệ theo mục tiêu lạm phát.
Bao giờ thì Việt Nam có thể sử dụng chính sách này?
Việt Nam nên theo đuổi chính sách tiền tệ theo mục tiêu lạm phát tại một thời điểm thích hợp khi mà các điều kiện kinh tế vĩ mô thuận lợi hơn, cùng với hệ thống ngân hàng và tài chính phải được tái cơ cấu để trở nên thông suốt, minh bạch, và những yếu tố làm méo mó thị trường như các biện pháp hành chính, các kiểu cạnh tranh không lành mạnh, đến việc vi phạm các quy định của pháp luật và của NHTW phải được giảm thiểu tối đa. Tại thời điểm này, không những chúng ta quan tâm đến kiềm chế lạm phát mà còn phải nỗ lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nếu chúng ta quan tâm quá nhiều đến lạm phát mà kinh tế càng ngày càng đi vào khủng hoảng thì có khác nào một tình cảnh mà người Mỹ hay ví von: “chúc mừng anh, cuộc giải phẫu thành công tốt đẹp nhưng bệnh nhân đã chết”.
Tái cơ cấu cả nền kinh tế, trong đó có hệ thống ngân hàng khỏe mạnh để cả nền kinh tế được vận hành một cách quy củ, từ đó, lãi suất mới trở thành một công cụ hiệu lực của chính sách tiền tệ thì lúc đó mới có thể thực hiện “chính sách tiền tệ theo mục tiêu lạm phát”.
Khái Niệm, Đặc Điểm Khuổn Khổ Chính Sách Tiền Tệ Theo Lạm Phát Mục Tiêu
Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) (2004) định nghĩa CSLPMT là ” một chiến lược chính sách tiền tệ nhằm mục tiêu duy trì ổn định giá cả bằng cách tập trung vào khoảng chênh giữa dự báo lạm phát được công bố với mức CSLPMT đã được công bố“. Quan điểm của ECB cho rằng trong cơ chế của lạm phát mục tiêu, dự báo lạm phát là trọng tâm của việc lập và công bố chính sách, đồng nghĩa với việc ” Ngân hàng Trung ương thông báo các quyết định chính sách tiền tệ dưới hình thức điều chỉnh đối với độ lệch của dự báo lạm phát theo một thước đo cụ thể so với lạm phát mục tiêu cụ thể trong một thời gian cụ thể “. Như vậy việc công bố chính sách LPMT cần đơn giản hóa và nếu chỉ tập trung hoàn toàn vào một con số dự báo lạm phát thì khả năng xác định được bản chất các mối đe dọa đối với sự ổn định của giá cả sẽ không có độ chính xác cao, do đó cần có phân tích sâu đối với thực trạng kinh tế chứ không chỉ dừng lại ở việc đưa ra duy nhất con số dự báo lạm phát. ECB tuyên bố họ thiên về sử dụng cách tiếp cận đa dạng hóa dựa trên nhiều phương pháp phân tích khác nhau.
Svensson (2002) đưa ra định nghĩa lạm phát mục tiêu trong bài báo “Lạm phát mục tiêu nên được mô hình hóa như là vai trò của quy tắc công cụ hay là quy tắc mục tiêu” như sau: (i) Đặc trưng đầu tiên trong các đặc trưng này là chỉ rõ lạm phát là một con số hoặc khoảng. Lạm phát đạt được là bằng với mục tiêu chính và không có neo danh nghĩa nào khác; (ii) Dự báo lạm phát của Ngân hàng Trung ương có một vai trò đặc biệt quan trọng, và do vậy cần có một tập hợp các công cụ để cho dự báo này phù hợp, nhưng các dự báo sản lượng và khoảng chênh sản lượng có thể cũng ảnh hưởng tới chính sách; (iii) Mức độ minh bạch và khả năng giải trình cao,Ngân hàng Trung ương chịu trách nhiệm đạt được mục tiêu lạm phát và công bố các báo chính sách tiền tệ một cách chính thức để phản ánh các dự báo và giải thích chính sách.
Bernanke và cộng sự (1999) có quan điểm về lạm phát mục tiêu như sau: ” lạm phát mục tiêu là một hệ thống các chính sách tiền tệ được thể hiện bằng tuyên bố công khai về mục tiêu (hoặc nhiều mục tiêu) rõ ràng đối với tỷ lệ lạm phát trong một hoặc một số khoảng thời gian và chính thức thừa nhận lạm phát thấp và ổn định là mục tiêu dài hạn chính của chính sách tiền tệ. Những đặc trưng quan trọng khác của LPMT là những nỗ lực mạnh mẽ nhằm thông tin cho công chúng về các kế hoạch và mục tiêu của các nhà quản lý tiền tệ và cả về cơ chế tăng cường trách nhiệm của Ngân hàng Trung ương để đạt được các mục tiêu này “. Các tác giả cho rằng LPMT cần được xem là một hệ thống các chính sách chứ không phải là một quy tắc vì “không có một quy tắc tuyệt đối cho chính sách tiền tệ trong thực tế”. Định nghĩa này không nói rõ về vai trò dự báo lạm phát một cách chính thức trong CSLPMT.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã đưa ra định nghĩa như sau:” Chính sách tiền tệ lấy lạm phát làm mục tiêu là một bản thông báo ra công chúng về chỉ tiêu trung hạn của lạm phát cũng như uy tín của cơ quan thẩm quyền về tiền tệ để đạt mục tiêu này. Các yếu tố khác bao gồm phổ biến thông tin về các kế hoạch và mục tiêu của nhà hoạch định chính sách tiền tệ tới công chúng và thị trường, cũng như trách nhiệm giải trình của Ngân hàng Trung ương để đạt được các chỉ tiêu lạm phát của mình. Các quyết định về chính sách tiền tệ sẽ dựa trên độ lệch dự báo lạm phát (một cách hoàn toàn hay rõ ràng) đóng vai trò là chỉ tiêu trung gian của chính sách tiền tệ”.
Theo quan điểm của TS.Nguyễn Văn Hà [2] thì lạm phát mục tiêu được miêu tả như một cơ chế điều hành CSTT dựa trên nền tảng sử dụng việc dự báo lạm phát làm mục tiêu trung gian. Theo đó NHTW căn cứ vào chỉ tiêu lạm phát dự báo năm kế hoạch cũng như độ lệch so với dự báo đó trong thực tế từ đó đưa ra những quyết định tiền tệ để thực hiện mục tiêu đó và đây là mục tiêu duy nhất của họ.
Tô Ánh Dương [7] lại cho rằng LPMT là khuôn khổ điều hành và đánh giá chính sách tiền tệ bao gồm 4 yếu tố chủ yếu sau: (i) ổn định giá cả hay lạm phát là mục tiêu chủ yếu hoặc duy nhất của chính sách tiền tệ. Các mục tiêu này phải chỉ ra rõ ràng cho công chúng thấy mục tiêu lạm phát được ưu tiên hơn so với các mục tiêu khác của chính sách tiền tệ; (ii) LPMT được xác định rõ ràng về mặt định lượng bằng một con số hoặc một khoảng giá trị xác định. NHTW cần thiết lập mô hình hay phương pháp dự báo lạm phát thông qua sử dụng một số các chỉ số chứa đựng các thông tin về lạm phát trong tương lai; (iii) lộ trình thực hiện – khoảng thời gian để có thể đạt được mục tiêu lạm phát; (iv) đánh giá việc thực hiện mục tiêu lạm phát của NHTW- đặc trưng phản ánh tính minh bạch hơn trong chính sách tiền tệ. Như vậy, mặc dù được phát biểu dưới nhiều hình thức khác nhau, các quan điểm về LPMT không có quá nhiều khác biệt giữa các định nghĩa. Tựu chung lại có thể hiểu LPMT dưới những nội dung chính như sau:
– Thứ nhất, LPMT là một khuôn khổ chính sách tiền tệ đơn mục tiêu với mục tiêu duy nhất là lạm phát thấp và ổn định. Nếu như việc thực hiện các khuôn khổ chính sách tiền tệ tỷ giá mục tiêu, tiền tệ mục tiêu và lãi suất mục tiêu như đã phân tích ở trên có thể cho phép NHTW lựa chọn các mục tiêu khác ngoài mục tiêu về ổn định giá, ví dụ như sự đánh đổi giữa tăng trưởng và lạm phát, thì LPMT luôn xoay chính sách tiền tệ về một mục tiêu cuối cùng và duy nhất là mức lạm phát thấp và ổn định, và không có neo danh nghĩa nào khác cũng như không có sự đánh đổi nào cả. Tuy nhiên, điều này chỉ cố định trong dài hạn, nghĩa là khoảng thời gian mà mục tiêu về lạm phát cần đạt được, còn trong ngắn hạn NHTW vẫn có thể phối hợp các mục tiêu khác, đảm bảo tính linh hoạt của chính sách tiền tệ.
– Thứ hai, mục tiêu trung gian của CSLPMT là độ lệch dự báo lạm phát- khoảng chênh giữa dự báo lạm phát được công bố với mức CSLPMT được công bố. Do vậy, dự báo lạm phát đóng vai trò quan trọng khuôn khổ lạm phát mục tiêu.
– Thứ ba: nếu như các khuôn khổ chính sách tiền tệ trước đây như tỷ giá mục tiêu, lãi suất mục tiêu, tiền tệ mục tiêu, mỗi một khuôn khổ chính sách tiền tệ lại có xu hướng tập trung nhiều hơn vào một kênh truyền dẫn chính sách tiền tệ, thì LPMT sử dụng linh hoạt các kênh truyền dẫn chính sách tiền tệ mà không quá tập trung vào một kênh nào. Do vậy, CSLPMT còn có thể hiểu là một khuôn khổ chính sách tiền tệ giống như định nghĩa của Bernanke và cộng sự (1999).
Như vậy, dựa trên các nội dung rút ra, Luận án đi đến định nghĩa về LPMT như sau: CSLPMT là khuôn khổ CSTT có cơ chế vận hành linh hoạt, minh bạch và trách nhiệm tạo sự hiểu biết của dân chúng, sử dụng lạm phát dự báo làm mục tiêu trung gian trong các quyết định chính sách về cung tiền, lãi suất, tỷ giá để đạt mục tiêu cuối cùng là kiểm soát lạm phát ổn định ở mức hợp lý được xác định bằng con số cụ thể hoặc trong khoảng.
Xét ở góc độ tổng thể, nội hàm cơ chế điều hành chính sách tiền tệ LPMT bao gồm các thành tố sau:
(1) Về thông tin, đó là một bản báo cáo rộng rãi, công khai trước công chúng và thị trường về chỉ tiêu lạm phát dự kiến trong năm kế hoạch của cơ quan thẩm quyền. Thông thường, chỉ tiêu đó nằm trong một khoảng biên độ nhất định;
(2) Về trách nhiệm, khi mục tiêu lạm phát được cơ quan thẩm quyền công bố cũng đồng nghĩa với việc giao cho Ngân hàng Trung ương có trách nhiệm hàng đầu phải thực hiện mục tiêu đó và đó cũng là mục tiêu duy nhất của Ngân hàng Trung ương. Để thực hiện mục tiêu lạm phát, Ngân hàng Trung ương được quyền linh hoạt lựa chọn kế hoạch, công cụ và phải giải trình việc sử dụng nó với công chúng và thị trường;
(3) Về kỹ thuật, khi đã quyết định sử dụng chỉ tiêu lạm phát để làm mục tiêu chính sách tiền tệ thì một đòi hỏi đặt ra là các nhà hoạch định chính sách tiền tệ phải lựa chọn được cách thức xác định chỉ tiêu lạm phát sao cho đảm bảo loại trừ ở mức độ tối đa các yếu tố lạm phát phi tiền tệ. Mặt khác, trên cơ sở có đủ thông số cần thiết xây dựng kế hoạch sử dụng công cụ tác động thực hiện mục tiêu lạm phát một cách tối ưu;
(4) Ở góc độ đánh giá hiệu quả, mức độ đạt được của CSLPMT là bằng chứng rõ ràng và tin cậy nhất về uy tín đối với Ngân hàng Trung ương.
Khái niệm, đặc điểm khuổn khổ chính sách tiền tệ theo lạm phát mục tiêu
Admin Mr.Luân
Với kinh nghiệm hơn 10 năm, Luận Văn A-Z nhận hỗ trợ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ một cách UY TÍN và CHUYÊN NGHIỆP. Liên hệ: 092.4477.999 – Mail : luanvanaz@gmail.com ✍✍✍ Báo giá dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ ✍✍✍
Bạn đang xem bài viết Chính Sách Lạm Phát Mục Tiêu Và Khả Năng Thực Thi Tại Việt Nam trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!