Cập nhật thông tin chi tiết về Chính Sách Lạm Phát Mục Tiêu mới nhất trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Với cuộc sống của những người dân bình thường, việc đạt được chính sách lạm phát mục tiêu không phải lúc nào cũng là sự lựa chọn tốt nhất. Dĩ nhiên, việc duy trì được sự kiểm soát trong tình trạng lạm phát cao là điều có lợi, do điều này giúp bảo toàn giá trị của đồng tiền hiện hành.
Tuy nhiên, việc nâng mức lạm phát thấp hơn mục tiêu đề ra tới 2% làm nhiều người lâm vào tình trạng tồi tệ hơn, vì điều này làm cho những khoản tiền tiết kiệm của họ liên tục mất giá.
Koichi Hamada, Giáo sư danh dự Đại học Yale và là cố vấn đặc biệt của Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe, đã đưa ra nhận định như vậy trong bài viết thuộc dự án Project Syndicate. Bản dịch bài viết được đăng tải độc quyền trên VietnamPlus.
Mỹ, châu Âu, và Nhật Bản đang nỗ lực đạt được những tiến bộ tích cực về kinh tế. Ở Mỹ, tỷ lệ thất nghiệp đang giảm xuống, hiện chỉ ở trên mức 4% một chút. Tỷ lệ thất nghiệp vẫn cao ở khu vực đồng euro, đến gần 9%, tuy nhiên nó vẫn cho thấy tiến bộ có ý nghĩa so với khoảng một thập niên trước đó.
Còn Nhật Bản đã đạt được tỷ lệ có công ăn việc làm hầu như hoàn toàn, với nhu cầu về lao động cao đến mức những người mới ra trường giờ đây không chỉ có thể tìm thấy công ăn việc làm, mà họ còn có thể lựa chọn công việc cho mình.
Tuy nhiên, vẫn còn một lĩnh vực chủ chốt vẫn chưa có tiến bộ rõ rệt, đó là lạm phát. Trong khi chỉ số giá tiêu dùng đạt mức 2,2% vào tháng Mười vừa qua, Ngân hàng Trung ương châu Âu và Ngân hàng Nhật Bản cho đến nay vẫn không thể đạt được mục tiêu đề ra là CPI chỉ khoảng 2%, với tỷ lệ tăng giá bình quân hàng năm của khu vực đồng euro xoay quanh mức 1,5% còn của Nhật Bản thì trong phạm vi 1%.
Mua hàng tại một siêu thị ở Nhật Bản. (Nguồn: AFP)
Có những lý do chính đáng của việc nỗ lực đạt được chính sách lạm phát mục tiêu. Các thị trường tiền tệ sẽ loại bỏ những lãi suất zero. Những lo ngại về việc một số đồng tiền tăng giá, gây phương hại cho sự cạnh tranh trong xuất khẩu, sẽ dịu bớt, do toàn cầu hóa và trí tuệ nhân tạo (AI) sẽ tiếp tục tạo ra môi trường cạnh tranh cho mọi người. Và chính sách nới lỏng tiền tệ mà các ngân hàng trung ương quan trọng trên thế giới theo đuổi trong những năm gần đây sẽ được chứng minh là đúng đắn.
Tuy nhiên, với cuộc sống của những người dân bình thường thì việc đạt được chính sách lạm phát mục tiêu không phải lúc nào cũng là sự lựa chọn tốt nhất. Dĩ nhiên, việc duy trì được sự kiểm soát trong tình trạng lạm phát cao là điều có lợi, do điều này giúp bảo toàn giá trị của đồng tiền hiện hành. Song, việc nâng mức lạm phát thấp hơn mục tiêu đề ra tới 2% làm nhiều người lâm vào tình trạng tồi tệ hơn, vì điều này làm cho những khoản tiền tiết kiệm của họ liên tục mất giá, gây phương hại cho sự thịnh vượng của họ.
Việc nâng mức lạm phát thấp hơn mục tiêu đề ra tới 2% làm nhiều người lâm vào tình trạng tồi tệ hơn
Cố Giáo sư Arthur Okun, một trong những giáo sư mà tôi theo học tại Đại học Yale trước khi ông chuyển sang làm Chủ tịch Hội đồng Cố vấn Kinh tế của Tổng thống Mỹ Lyndon Johnson, đã lập ra cái gọi là chỉ số khốn khổ. Chỉ số này ngoài việc đề cập đến tỷ lệ tăng trưởng GDP hay tỷ lệ thất nghiệp được quan tâm nhất, còn đưa ra một cái nhìn sâu vào việc những công dân bình thường làm ăn kiếm sống như thế nào.
Chỉ số của Okun – một phép cộng giữa tỷ lệ lạm phát với tỷ lệ thất nghiệp – được đưa ra dựa trên giả định cho rằng một sự gia tăng về lạm phát, giống như một sự gia tăng trong tỷ lệ thất nghiệp, sẽ buộc một quốc gia phải trả giá về mặt kinh tế và xã hội.
Xếp hàng chờ xin việc ở Tokyo. (Nguồn: AFP)
Thực tế là mục tiêu lạm phát chỉ là một phương tiện – tạo điều kiện cho tình trạng công ăn việc làm đầy đủ và tốc độ tăng trưởng GDP nhanh hơn – chứ bản thân nó không phải là đích đến. Và, ít nhất đối với Nhật Bản, tiến bộ thực chất nhằm vào mục tiêu đó cho đến nay đã đạt được, mặc dù chưa hoàn thành chính sách lạm phát mục tiêu của Ngân hàng Nhật Bản. Những tín hiệu về tình trạng công ăn việc làm đầy đủ trên thị trường cho người có công ăn việc làm ổn định có thể tạo điều kiện cho một sự gia tăng khiêm tốn về giá cả-tiền lương. Điều này không giống với tình hình trước năm 2013, khi việc thực hiện chương trình cái cách kinh tế của Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe, còn gọi là Abenomics, đã kết thúc một thời kỳ áp dụng chính sách tiền tệ khắc khổ.
Tuy nhiên, điều này đã không ngăn cản những người chỉ trích Abenomics tiếp tục nhắc đến việc cho đến nay vẫn không hoàn thành chính sách lạm phát mục tiêu. Câu hỏi đặt ra là tại sao.
Cách đây không lâu, tôi đặt câu hỏi đó với một nhân vật phụ trách chính sách tiền tệ (mà tôi không được tiết lộ tên tuổi vị này ở đây). Thay vì đưa ra câu trả lời thẳng vào vấn đề, ông này lại đáp lại rằng đây là một vấn đề “tế nhị,” và cuối cùng tuyên bố rằng cho dù tỷ lệ thất nghiệp có thấp đi thế nào đi chăng nữa thì chính sách lạm phát mục tiêu sẽ tiếp tục được theo đuổi.
Chỉ số khốn khổ có vai trò trong việc giúp chúng ta đánh giá tình trạng các nền kinh tế cũng như thành công của các chính sách
Kiểu suy nghĩ như thế này là rất phổ biến trong số các nhà kinh tế, đặc biệt là thế hệ đã bị cuốn đi bởi cuộc cách mạng “những kỳ vọng hợp lý” trong kinh tế vĩ mô. Đội ngũ các nhà kinh tế này coi kinh tế học là việc nghiên cứu các mô hình, trong đó những kỳ vọng của các tác nhân có thể được cho là hợp lý và thích hợp với mô hình. Từ góc nhìn này, những kỳ vọng về lạm phát có thể được coi hoặc là những điều dự đoán lý tưởng về tương lai, hoặc ít nhất là những dự đoán hợp lý, với việc độ chính xác và đúng đắn của chúng chỉ có thể bị tác động bất lợi bởi những hạn chế về thông tin mà các bên tham gia trong lĩnh vực kinh tế nhận được.
Trong khi điều quan trọng là phải thừa nhận những giá trị của chính sách lạm phát mục tiêu, thì chỉ số khốn khổ cũng đóng một vai trò trong việc giúp chúng ta đánh giá tình trạng các nền kinh tế cũng như thành công của các chính sách./.
Người vô gia cư ngủ trên ghế trong một công viên ở Tokyo, Nhật Bản. (Nguồn: AFP)
Người dịch: Nguyễn Văn Lập
Share this:
Tweet
Chính Sách Tiền Tệ Theo Mục Tiêu Lạm Phát
Theo ông, nên hiểu thế nào là chính sách tiền tệ theo mục tiêu lạm phát?
Chính sách tiền tệ theo mục tiêu lạm phát (inflation targeting monetary policy) về bản chất phải dựa vào một số tiền đề và quan trọng nhất là NHNN phải đưa ra một tỷ lệ lạm phát cụ thể nào đó. Ví dụ ở Mỹ, NHTW (Fed) đưa ra tỷ lệ lạm phát mục tiêu 2%, nghĩa là cơ quan này sẽ điều chỉnh lãi suất và các công cụ chính sách tiền tệ khác để làm sao lạm phát xoay quanh mức 2% đó. Nếu giá cả tăng cao hơn mục tiêu lạm phát thì Fed sẽ tăng lãi suất để giảm cho vay và do đó giảm lượng tiền đi vào lưu thông, đồng thời giảm tỷ lệ lạm phát thực tế, còn ngược lại, nếu tỷ lệ lạm phát thực tế thấp hơn lạm phát mục tiêu thì Fed sẽ giảm lãi suất xuống để cho vay nhiều hơn, đẩy lượng tiền vào lưu thông và do đó tăng lạm phát thực tế.
Điều này cũng giúp cho DN khi thấy được tỷ lệ lạm phát thực tế không khớp với mục tiêu lạm phát sẽ dự đoán được NHTW sẽ làm gì. Bên cạnh đó, cần có những tiền đề là hệ thống ngân hàng minh bạch thông suốt, lãi suất vận hành tự do, cạnh tranh lành mạnh.
Mô hình chính sách này có lợi và bất lợi gì?
Điểm lợi là lạm phát sẽ được kiểm soát chặt chẽ vì lãi suất và chính sách tiền tệ chủ yếu xoay quanh việc kiểm soát lạm phát. Điểm bất lợi là có thể sẽ làm cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế trở thành thứ yếu vì tất cả mục tiêu ưu tiên là kiểm soát lạm phát và ổn định đồng nội tệ. Trong khi ở Việt Nam, bên cạnh yêu cầu kiểm soát lạm phát thì tăng trưởng cũng là mục tiêu rất quan trọng. Trong một nền kinh tế non trẻ, tăng trưởng thấp sẽ phát sinh rất nhiều vấn đề về kinh tế, dân sinh và xã hội. Vì thế, không thể để kinh tế tăng trưởng dưới mức 5%. Tuy nhiên, khi có điều kiện để thực hiện chính sách tiền tệ theo mục tiêu lạm phát thì nên thi hành để giữ bình ổn giá trị đồng Việt Nam, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong ổn định.
Việt Nam có hội đủ điều kiện để theo đuổi chính sách này hay không, theo ông?
Từ trước đến giờ, Việt Nam chưa bao giờ đưa ra mục tiêu cụ thể theo đuổi chính sách này vì hình như chưa hội đủ điều kiện để thực hiện. NHTW chưa bao giờ đưa ra một mục tiêu lạm phát mà chỉ có Quốc hội làm việc này, nhưng ngay cả khi Quốc hội đề ra một mục tiêu lạm phát thì NHTW cũng chưa bao giờ tuyên bố đó là mục tiêu theo đuổi của chính sách tiền tệ.
Hiện tại, lạm phát và lãi suất ở Việt Nam hầu như không có mối liên kết chặt chẽ. Trong khi lãi suất đã được điều chỉnh rất sâu nhưng các doanh nghiệp không có khả năng vay và do đó hệ thống ngân hàng không đẩy được một lượng tiền lớn vào lưu thông qua tín dụng. Vậy là lãi suất đã không ảnh hưởng nhiều đến lạm phát. Nói cách khác, công cụ lãi suất đã bị vô hiệu hóa bởi hoạt động sản xuất kinh doanh suy giảm tới mức nhiều doanh nghiệp không muốn vay hay không còn khả năng vay vốn từ các ngân hàng.
Trong thời gian qua, lãi suất và lạm phát cùng giảm rất sâu. Đây là một điều rất tốt mà NHNN đã thực hiện được. Tuy nhiên, hình như lãi suất đi sau lạm phát chứ không phải đi trước lạm phát. Nghĩa là lạm phát bị đẩy xuống không phải do lãi suất giảm mà do sức cầu rất yếu của nền kinh tế. Sau đó, trên cơ sở lạm phát giảm, lãi suất đã được kéo xuống. Đây là một nghịch lý.
Từ thực tế trên, có thể nói, môi trường tài chính hiện nay của Việt Nam không thích hợp cho một chính sách tiền tệ theo mục tiêu lạm phát.
Bao giờ thì Việt Nam có thể sử dụng chính sách này?
Việt Nam nên theo đuổi chính sách tiền tệ theo mục tiêu lạm phát tại một thời điểm thích hợp khi mà các điều kiện kinh tế vĩ mô thuận lợi hơn, cùng với hệ thống ngân hàng và tài chính phải được tái cơ cấu để trở nên thông suốt, minh bạch, và những yếu tố làm méo mó thị trường như các biện pháp hành chính, các kiểu cạnh tranh không lành mạnh, đến việc vi phạm các quy định của pháp luật và của NHTW phải được giảm thiểu tối đa. Tại thời điểm này, không những chúng ta quan tâm đến kiềm chế lạm phát mà còn phải nỗ lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nếu chúng ta quan tâm quá nhiều đến lạm phát mà kinh tế càng ngày càng đi vào khủng hoảng thì có khác nào một tình cảnh mà người Mỹ hay ví von: “chúc mừng anh, cuộc giải phẫu thành công tốt đẹp nhưng bệnh nhân đã chết”.
Tái cơ cấu cả nền kinh tế, trong đó có hệ thống ngân hàng khỏe mạnh để cả nền kinh tế được vận hành một cách quy củ, từ đó, lãi suất mới trở thành một công cụ hiệu lực của chính sách tiền tệ thì lúc đó mới có thể thực hiện “chính sách tiền tệ theo mục tiêu lạm phát”.
Khái Niệm, Đặc Điểm Khuổn Khổ Chính Sách Tiền Tệ Theo Lạm Phát Mục Tiêu
Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) (2004) định nghĩa CSLPMT là ” một chiến lược chính sách tiền tệ nhằm mục tiêu duy trì ổn định giá cả bằng cách tập trung vào khoảng chênh giữa dự báo lạm phát được công bố với mức CSLPMT đã được công bố“. Quan điểm của ECB cho rằng trong cơ chế của lạm phát mục tiêu, dự báo lạm phát là trọng tâm của việc lập và công bố chính sách, đồng nghĩa với việc ” Ngân hàng Trung ương thông báo các quyết định chính sách tiền tệ dưới hình thức điều chỉnh đối với độ lệch của dự báo lạm phát theo một thước đo cụ thể so với lạm phát mục tiêu cụ thể trong một thời gian cụ thể “. Như vậy việc công bố chính sách LPMT cần đơn giản hóa và nếu chỉ tập trung hoàn toàn vào một con số dự báo lạm phát thì khả năng xác định được bản chất các mối đe dọa đối với sự ổn định của giá cả sẽ không có độ chính xác cao, do đó cần có phân tích sâu đối với thực trạng kinh tế chứ không chỉ dừng lại ở việc đưa ra duy nhất con số dự báo lạm phát. ECB tuyên bố họ thiên về sử dụng cách tiếp cận đa dạng hóa dựa trên nhiều phương pháp phân tích khác nhau.
Svensson (2002) đưa ra định nghĩa lạm phát mục tiêu trong bài báo “Lạm phát mục tiêu nên được mô hình hóa như là vai trò của quy tắc công cụ hay là quy tắc mục tiêu” như sau: (i) Đặc trưng đầu tiên trong các đặc trưng này là chỉ rõ lạm phát là một con số hoặc khoảng. Lạm phát đạt được là bằng với mục tiêu chính và không có neo danh nghĩa nào khác; (ii) Dự báo lạm phát của Ngân hàng Trung ương có một vai trò đặc biệt quan trọng, và do vậy cần có một tập hợp các công cụ để cho dự báo này phù hợp, nhưng các dự báo sản lượng và khoảng chênh sản lượng có thể cũng ảnh hưởng tới chính sách; (iii) Mức độ minh bạch và khả năng giải trình cao,Ngân hàng Trung ương chịu trách nhiệm đạt được mục tiêu lạm phát và công bố các báo chính sách tiền tệ một cách chính thức để phản ánh các dự báo và giải thích chính sách.
Bernanke và cộng sự (1999) có quan điểm về lạm phát mục tiêu như sau: ” lạm phát mục tiêu là một hệ thống các chính sách tiền tệ được thể hiện bằng tuyên bố công khai về mục tiêu (hoặc nhiều mục tiêu) rõ ràng đối với tỷ lệ lạm phát trong một hoặc một số khoảng thời gian và chính thức thừa nhận lạm phát thấp và ổn định là mục tiêu dài hạn chính của chính sách tiền tệ. Những đặc trưng quan trọng khác của LPMT là những nỗ lực mạnh mẽ nhằm thông tin cho công chúng về các kế hoạch và mục tiêu của các nhà quản lý tiền tệ và cả về cơ chế tăng cường trách nhiệm của Ngân hàng Trung ương để đạt được các mục tiêu này “. Các tác giả cho rằng LPMT cần được xem là một hệ thống các chính sách chứ không phải là một quy tắc vì “không có một quy tắc tuyệt đối cho chính sách tiền tệ trong thực tế”. Định nghĩa này không nói rõ về vai trò dự báo lạm phát một cách chính thức trong CSLPMT.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã đưa ra định nghĩa như sau:” Chính sách tiền tệ lấy lạm phát làm mục tiêu là một bản thông báo ra công chúng về chỉ tiêu trung hạn của lạm phát cũng như uy tín của cơ quan thẩm quyền về tiền tệ để đạt mục tiêu này. Các yếu tố khác bao gồm phổ biến thông tin về các kế hoạch và mục tiêu của nhà hoạch định chính sách tiền tệ tới công chúng và thị trường, cũng như trách nhiệm giải trình của Ngân hàng Trung ương để đạt được các chỉ tiêu lạm phát của mình. Các quyết định về chính sách tiền tệ sẽ dựa trên độ lệch dự báo lạm phát (một cách hoàn toàn hay rõ ràng) đóng vai trò là chỉ tiêu trung gian của chính sách tiền tệ”.
Theo quan điểm của TS.Nguyễn Văn Hà [2] thì lạm phát mục tiêu được miêu tả như một cơ chế điều hành CSTT dựa trên nền tảng sử dụng việc dự báo lạm phát làm mục tiêu trung gian. Theo đó NHTW căn cứ vào chỉ tiêu lạm phát dự báo năm kế hoạch cũng như độ lệch so với dự báo đó trong thực tế từ đó đưa ra những quyết định tiền tệ để thực hiện mục tiêu đó và đây là mục tiêu duy nhất của họ.
Tô Ánh Dương [7] lại cho rằng LPMT là khuôn khổ điều hành và đánh giá chính sách tiền tệ bao gồm 4 yếu tố chủ yếu sau: (i) ổn định giá cả hay lạm phát là mục tiêu chủ yếu hoặc duy nhất của chính sách tiền tệ. Các mục tiêu này phải chỉ ra rõ ràng cho công chúng thấy mục tiêu lạm phát được ưu tiên hơn so với các mục tiêu khác của chính sách tiền tệ; (ii) LPMT được xác định rõ ràng về mặt định lượng bằng một con số hoặc một khoảng giá trị xác định. NHTW cần thiết lập mô hình hay phương pháp dự báo lạm phát thông qua sử dụng một số các chỉ số chứa đựng các thông tin về lạm phát trong tương lai; (iii) lộ trình thực hiện – khoảng thời gian để có thể đạt được mục tiêu lạm phát; (iv) đánh giá việc thực hiện mục tiêu lạm phát của NHTW- đặc trưng phản ánh tính minh bạch hơn trong chính sách tiền tệ. Như vậy, mặc dù được phát biểu dưới nhiều hình thức khác nhau, các quan điểm về LPMT không có quá nhiều khác biệt giữa các định nghĩa. Tựu chung lại có thể hiểu LPMT dưới những nội dung chính như sau:
– Thứ nhất, LPMT là một khuôn khổ chính sách tiền tệ đơn mục tiêu với mục tiêu duy nhất là lạm phát thấp và ổn định. Nếu như việc thực hiện các khuôn khổ chính sách tiền tệ tỷ giá mục tiêu, tiền tệ mục tiêu và lãi suất mục tiêu như đã phân tích ở trên có thể cho phép NHTW lựa chọn các mục tiêu khác ngoài mục tiêu về ổn định giá, ví dụ như sự đánh đổi giữa tăng trưởng và lạm phát, thì LPMT luôn xoay chính sách tiền tệ về một mục tiêu cuối cùng và duy nhất là mức lạm phát thấp và ổn định, và không có neo danh nghĩa nào khác cũng như không có sự đánh đổi nào cả. Tuy nhiên, điều này chỉ cố định trong dài hạn, nghĩa là khoảng thời gian mà mục tiêu về lạm phát cần đạt được, còn trong ngắn hạn NHTW vẫn có thể phối hợp các mục tiêu khác, đảm bảo tính linh hoạt của chính sách tiền tệ.
– Thứ hai, mục tiêu trung gian của CSLPMT là độ lệch dự báo lạm phát- khoảng chênh giữa dự báo lạm phát được công bố với mức CSLPMT được công bố. Do vậy, dự báo lạm phát đóng vai trò quan trọng khuôn khổ lạm phát mục tiêu.
– Thứ ba: nếu như các khuôn khổ chính sách tiền tệ trước đây như tỷ giá mục tiêu, lãi suất mục tiêu, tiền tệ mục tiêu, mỗi một khuôn khổ chính sách tiền tệ lại có xu hướng tập trung nhiều hơn vào một kênh truyền dẫn chính sách tiền tệ, thì LPMT sử dụng linh hoạt các kênh truyền dẫn chính sách tiền tệ mà không quá tập trung vào một kênh nào. Do vậy, CSLPMT còn có thể hiểu là một khuôn khổ chính sách tiền tệ giống như định nghĩa của Bernanke và cộng sự (1999).
Như vậy, dựa trên các nội dung rút ra, Luận án đi đến định nghĩa về LPMT như sau: CSLPMT là khuôn khổ CSTT có cơ chế vận hành linh hoạt, minh bạch và trách nhiệm tạo sự hiểu biết của dân chúng, sử dụng lạm phát dự báo làm mục tiêu trung gian trong các quyết định chính sách về cung tiền, lãi suất, tỷ giá để đạt mục tiêu cuối cùng là kiểm soát lạm phát ổn định ở mức hợp lý được xác định bằng con số cụ thể hoặc trong khoảng.
Xét ở góc độ tổng thể, nội hàm cơ chế điều hành chính sách tiền tệ LPMT bao gồm các thành tố sau:
(1) Về thông tin, đó là một bản báo cáo rộng rãi, công khai trước công chúng và thị trường về chỉ tiêu lạm phát dự kiến trong năm kế hoạch của cơ quan thẩm quyền. Thông thường, chỉ tiêu đó nằm trong một khoảng biên độ nhất định;
(2) Về trách nhiệm, khi mục tiêu lạm phát được cơ quan thẩm quyền công bố cũng đồng nghĩa với việc giao cho Ngân hàng Trung ương có trách nhiệm hàng đầu phải thực hiện mục tiêu đó và đó cũng là mục tiêu duy nhất của Ngân hàng Trung ương. Để thực hiện mục tiêu lạm phát, Ngân hàng Trung ương được quyền linh hoạt lựa chọn kế hoạch, công cụ và phải giải trình việc sử dụng nó với công chúng và thị trường;
(3) Về kỹ thuật, khi đã quyết định sử dụng chỉ tiêu lạm phát để làm mục tiêu chính sách tiền tệ thì một đòi hỏi đặt ra là các nhà hoạch định chính sách tiền tệ phải lựa chọn được cách thức xác định chỉ tiêu lạm phát sao cho đảm bảo loại trừ ở mức độ tối đa các yếu tố lạm phát phi tiền tệ. Mặt khác, trên cơ sở có đủ thông số cần thiết xây dựng kế hoạch sử dụng công cụ tác động thực hiện mục tiêu lạm phát một cách tối ưu;
(4) Ở góc độ đánh giá hiệu quả, mức độ đạt được của CSLPMT là bằng chứng rõ ràng và tin cậy nhất về uy tín đối với Ngân hàng Trung ương.
Khái niệm, đặc điểm khuổn khổ chính sách tiền tệ theo lạm phát mục tiêu
Admin Mr.Luân
Với kinh nghiệm hơn 10 năm, Luận Văn A-Z nhận hỗ trợ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ một cách UY TÍN và CHUYÊN NGHIỆP. Liên hệ: 092.4477.999 – Mail : luanvanaz@gmail.com ✍✍✍ Báo giá dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ ✍✍✍
Mục Tiêu Của Chính Sách Tiền Tệ
Chính sách tiền tệ là một bộ phận trong tổng thể các chính sách kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, chính sách tiền tệ cũng có mục tiêu và tính chất riêng khi hướng tới mục tiêu chung. Tuỳ từng quốc gia và những giai đoạn phát triển khác nhau, chính sách tiền tệ có thể có những mục tiêu khác nhau. Ví dụ: Ngân hàng Trung ương Mỹ (hệ thống dự trữ liên bang Mỹ) thường đưa ra sáu mục tiêu của chính sách tiền tệ là công ăn việc làm cao, tăng trưởng kinh tế, ổn định giá cả, ổn định lãi suất, ổn định thị trường tài chính, ổn định thị trường ngoại hối. Các mục tiêu chính sách tiền tệ của một số nước ASEAN như Malaysia, Thái Lan, Singapore là duy trì sự ổn định tiền tệ, ổn định tỷ giá, thúc đẩy sự phát triển hệ thống tài chính, ngân hàng và góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế.
Mặc dù mục tiêu cụ thể của chính sách tiền tệ ở các nước có thể khác nhau ở một vài điểm nhưng cơ bản đều thống nhất là hướng tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế, ổn định giá trị đồng tiền, tạo việc làm cho người lao động.
Mục tiêu tổng quát/ mục tiêu cuối cùng
Mục tiêu chính sách tiền tệ hầu như thống nhất ở các nước. Sự điều chỉnh lượng tiền cung ứng nhằm mục tiêu trước hết là ổn định giá trị tiền tệ, trên cơ sở đó góp phần tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm. Ngoài các mục tiêu vĩ mô trên, một số nước còn tập trung vào các mục tiêu cụ thể, tuỳ thuộc vào đặc điểm phát triển kinh tế đặc thù của quốc gia. Tuy nhiên do tính chất mâu thuẫn giữa các mục tiêu nên NHTW không thể theo đuổi tất cả các mục tiêu trên trong một khoảng thời gian nhất định. Điều này buộc NHTW phải có sự lựa chọn và ưu tiên cho những mục tiêu quan trọng trong từng thời kỳ mặc dù mục tiêu ổn định tiền tệ luôn là mục tiêu dài hạn của NHTW.
Mục tiêu điều hành
Các mục tiêu chính sách trên chỉ là mục tiêu cuối cùng mà các chính sách tiền tệ nhắm tới. Đây là các mục tiêu mang tính định tính nên để tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình điều hành CSTT, các NHTW đều xây dựng hệ thống mục tiêu điều hành mang tính định lượng cụ thể hơn.
Mục tiêu điều hành là các biến số tiền tệ có tác động mạnh theo một chiều nhất định đến mục tiêu cuối cùng (mục tiêu chính sách) của chính sách tiền tệ. Căn cứ vào sự phát triển và diễn biến của thị trường tiền tệ, NHTW các nước đều lựa chọn các mục tiêu điều hành của chính sách tiền tệ. Mục tiêu điều hành của chính sách tiền tệbao gồm mục tiêu trung gian và mục tiêu hoạt động.
a) Mục tiêu trung gian
NHTW không thể sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ tác động trực tiếp và ngay lập tức đến các mục tiêu cuối cùng của nền kinh tế. Ảnh hướng của chính sách tiền tệ chỉ xuất hiện sau một thời gian nhất định. Để khắc phục hạn chế này, NHTW của tất cả các nước thường xác định các chỉ tiêu cần đạt được trước khi đạt được mục tiêu cuối cùng.
Tiêu chuẩn của chỉ tiêu trung gian: (1) Có thể đo lường được một cách chính xác và nhanh chóng, bởi vì các chỉ tiêu này chỉ có ích khi nó phản ánh được tình trạng của chính sách tiền tệT nhanh hơn mục tiêu cuối cùng; (2) Có thể kiểm soát được để có thể điều chỉnh mục tiêu đó cho phù hợp với định hướng của chính sách tiền tệ; (3) Có mối liên hệ chặt chẽ với mục tiêu cuối cùng.
Cả tổng lượng tiền cung ứng và lãi suất đều thoả mãn các tiêu chuẩn trên, nhưng NHTW không thể chọn cả hai chỉ tiêu trên làm mục tiêu trung gian mà chỉ có thể chọn một trong hai chỉ tiêu đó. Bởi lẽ, nếu đạt được mục tiêu về tổng khối lượng tiền cung ứng thì phải chấp nhận sự biến động của lãi suất và ngược lại.
b) Mục tiêu hoạt động
Mục tiêu hoạt động là các chỉ tiêu có phản ứng tức thời với sự điều chỉnh của công cụ chính sách tiền tệ đồng thời có mối quan hệ chi phối tới các mục tiêu trung gian. Việc lựa chọn hệ thống chỉ tiêu thích hợp làm mục tiêu hoạt động có ý nghĩa quan trọng quyết định hiệu quả tác động của chính sách tiền tệ. Hệ thống chỉ tiêu này vừa đóng vai trò phản ánh tình trạng chính sách tiền tệ đồng thời phản ánh dấu hiệu về định hướng chính sách tiền tệ của NHTW.
Các tiêu chuẩn lựa chọn chỉ tiêu làm mục tiêu hoạt động cũng tương tự như tiêu chuẩn lựa chọn mục tiêu trung gian, bao gồm: (1) Phải đo lường được nhằm tránh những suy diễn thiếu chính xác làm sai lệch dấu hiệu của chính sách tiền tệ; (2) Phải có mối quan hệ trực tiếp và ổn định với các công cụ của chính sách tiền tệ; (3) Phải có mối quan hệ chặt chẽ và ổn định với mục tiêu trung gian được lựa chọn. Căn cứ vào tiêu chuẩn trên, các chỉ tiêu thường được lựa chọn làm mục tiêu hoạt động của NHTW bao gồm: lãi suất liên ngân hàng và dự trữ ngân hàng.
Mục tiêu của chính sách tiền tệ
Admin Mr.Luân
Với kinh nghiệm hơn 10 năm, Luận Văn A-Z nhận hỗ trợ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ một cách UY TÍN và CHUYÊN NGHIỆP. Liên hệ: 092.4477.999 – Mail : luanvanaz@gmail.com ✍✍✍ Báo giá dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ ✍✍✍
Bạn đang xem bài viết Chính Sách Lạm Phát Mục Tiêu trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!