Xem Nhiều 6/2023 #️ Cho Mình Hỏi Về Logic Học ? # Top 9 Trend | Tvzoneplus.com

Xem Nhiều 6/2023 # Cho Mình Hỏi Về Logic Học ? # Top 9 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Cho Mình Hỏi Về Logic Học ? mới nhất trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Phố mùa đông

Trả lời 11 năm trước

[b]Câu 1: Thế nào là khái niệm, kết cấu lôgíc của khái niệm, phân tích kết cấu lôgíc của khái niệm. Mối quan hệ giữa nội hàm và ngoại diên cho ví dụ và phân tích ví dụ.[/b] Khái niệm : là hình thức của tư duy trong đó phản ánh các dấu hiệu cơ bản khác biệt của một sự vật đơn nhất hay lớp các sự vật đồng nhất. Kết cấu lôgíc của khái niệm: Mỗi khái niệm bao giờ cũng có nội hàm và ngoại diên. Nội hàm của khái niệm là tập hợp các dấu hiệu cơ bản của đối tượng được phản ánh trong khái niệm đó. Ví dụ: nội hàm của khái niệm hình chữ nhật là hình bình hành, có một góc vuông. Ngoại diên của khái niệm là đối tượng hay tập hợp đối tượng được khái quát trong khái niệm. Ví dụ : ngoại diên của khái niệm “Thực vật ”là tất cả thực vật đã sống , đang sống và sẽ sống trong tương lai; Ngoại diên của màu vàng là tất cả các sự vật tồn tại thuộc tính màu vàng. Có những khái niệm có ngoại diên rất rộng (vô hạn),cũng có những khái niệm có ngoại diên rất hẹp (hữu hạn) như “Việt nam” Khái niệm có ngoại diên phân chia được thành các lớp con gọi là khái niệm giống của các khái niệm có ngoại diên là các lớp con đó. Khái niệm vó ngoại diên là lớp con gọi là khái niệm loài của khái niệm có ngoại diên là lớp. Nội hàm và ngoại diên của khái niệm liên hệ chặt chẽ với nhau, biểu thị tư tưởng thống nhất phản ánh tập hợp đối tượng có dấu hiệu cơ bản chung. Nội hàm của khái niệm giống có ít dấu hiệu cơ bản hơn nội hàm của khái niệm loài phụ thuộc vào nó. Nội hàm của khái niệm giống chỉ là một phần nội hàm của khái niệm loài, nhưng ngoại diên của khái niệm giống lại bao hàm ngoại diên của khái niệm loài. Ví dụ: nội hàm của khái niệm hình bình hành giàu hơn nội hàm khái niệm “tứ giác phẳng lồi” nhưng ngoại diên của khái niệm thứ hai bao hàm cả ngoại diên của khái niệm thứ nhất. [b]Câu 2: Thế nào là định nghĩa 1 khái niệm, phân tích kết cấu logic của định nghĩa và chỉ ra nhũng lỗi logic thường phạm phải khi định nghĩa 1 khái niệm cho ví dụ.[/b] Định nghĩa một khái niệm: là thao tác logic nhờ đó xác định nội hàm của khái niệm hay xác lập ý nghĩa các thuật ngữ. Ví dụ : danh từ là từ dùng để chỉ tên sự vật , không chỉ chỉ ra dấu hiệu bản chất của danh từ mà còn phân biệt nó với các từ khác nằm trong lớp “từ”. kết cấu logíc của định nghĩa: Trong mỗi định nghĩa bao giờ cũng có hai thành phần: Khái niệm cần phát hiện nội hàm gọi là khái niệm được định nghĩa (viết tắt là Dfd- difiniendum); khái niệm nhờ đó phát hiện nội hàm của khái niệm được định nghĩa gọi là khái niệm dùng để định nghĩa.(Viết tắt là Dfn- difinience). Các loại khái niệm khái niệm cụ thể và khái niệm trừu tượng +Khái niệm phản ánh đối tượng hay lớp đối tượng thực tế gọi là khái niệm cụ thể ví dụ : tòa nhà hay bút chì hay cây nhài +Khái niệm phản ánh các thuộc tính hay các quan hệ cảu các đối tượng gọi là khái niệm trừu tượng ví dụ : các khái niệm tích cực, dũng cảm … khái niệm khẳng định và khái niệm phủ định +Khái niệm khẳng định là khái niệm phản ánh sự tồn tại thực tế của các đối tượng , các thuộc tính hay các quan hệ của đối tượng. ví dụ: các khái niệm có văn hóa ,văn minh + Khái niệm phản ánh sự không tồn tại dấu hiệu khẳng định ở đối tượng là khái niệm phủ định. Ví dụ : vô văn hóa, không lịch sự.. 3.khái niệm quan hệ và khái niệm không quan hệ + Khái niệm quan hệ là các khái niệm phản ánh các đối tượng mà sự tồn tại của chúng quy định sự tồn tại của khái niệm khác ví dụ “giáo viên”-“học sinh” 4.khái niệm chung và khái niệm đơn nhất + Khái niệm đơn nhất là khái niệm cso ngoại diên chỉ chứa một đối tượng duy nhất ví dụ : “Nguyễn Ái Quốc” quan hệ giữa các khái niệm 1.Quan hệ so sánh được và không so sánh được Quan hệ giữa các khái niệm có chung một dấu hiệu gọi là quan hệ so sánh được Quan hệ giữa các khái niệm không có dấu hiệu chung nào gọi là quan hệ không so sánh được. 2.Quan hệ hợp và không hợp Các khái niệm có ngoại diên trùng nhau hoàn toàn hay trùng nhau một phần gọi là khái niệm có quan hệ hợp hay các khái niệm hợp. Thí dụ : Người lao động chí óc và nhà khoa học Các khái niệm không có phần ngoại diên nào trùng nhau gọi là các khái niệm có quan hệ không hợp hay các khái niệm không hợp. Các khái niệm hợp có các quan hệ: đồng nhất, bao hàm, giao nhau a.các khái niệm đồng nhất. các khái niệm có ngoại diên hoàn toàn trùng nhau gọi là các khái niệm đồng nhất b.các khái niệm bao hàm . Hai khái niệm được gọi là bao hàm nhau nếu ngoại diên của khái niệm này nằm trọn trong ngoại diên của khái niệm kia. c, các khái niệm giao nhau Hai khái niệm gọi là giao nhau nếu ngoại diên của chúng có một phần trùng nhau. Thí dụ: “học sinh” “và vận động viên” Các khái niệm không hợp được chia thành tách rời đối lập và mâu thuẫn. a.các khái niệm tách rời. Hai khái niệm gọi là tách rời nếu ngoại diên của chúng không có phần nào trùng nhau. b.Các khái niệm đối lập. Hai khái niệm gọi là đối lập nếu ngoại diên của chúng không có phần n ào trùng nhau và tổng ngoại diên của hai khái niệm nhỏ hơn ngoại diên của khái niệm giống chung. Ví dụ màu trắng và màu đen chỉ là hai trong số các màu c. khái niệm mâu thuẫn .Hai khái niệm gọi là mâu thuẫn nếu ngoại diên của chúng không có phần nào trùng nhau và tổng ngoại diên của chúng bằng ngoại diên của khái niệm giống chung. Các loại và các hình thức định nghĩa khái niệm a, định nghĩa thực tế là định nghĩa nhờ đó đối tượng được định nghĩa tách ra từ lớp các đối tượng giống nhau theo các dấu hiệu khác biệt của nó. Định nghĩa duy danh là địng nghĩa xác định thuật ngữ biểu thị đối tượng tư tưởng. b, định nghĩa rõ ràng và định nghĩa không rõ ràng Định nghĩa rõ ràng là định nghĩa trong đó xác lập được quan hệ bằng nhau của Dfd và Dfn. Định nghĩa rõ ràng có nhiều loại, trong đó phổ biến nhất là định nghĩa qua giống gần gũi và khác biệt về loài. + Định nghĩa theo nguồn gốc là định nghĩa vạch ra nguồn gốc tạo thành đối tượng được định nghĩa + Định nghĩa chỉ ra quan hệ cảu đối tượng với các mặt đối lập của nó + Định nghĩa là liệt kê các dấu hiệu khác biệt bên ngoài của đối tượng nhằm phân biệt đối tượng ấy với đối tượng khác giống nó. + Nếu đặc trưng là chỉ ra đặc quan trọng nhất của đối tượng + So sánh là thao tác lôgic nhờ đó nêu lên được dấu hiệu của đối tượng bằng cách chỉ ra dấu hiệu tương tự với dấu hiệu đó trong đối tượng khác đã biết đặc trưng nhất . + Thao tác logic đưa lại định nghĩa đối tượng nhờ chỉ ra các dấu hiệu không tồn tại ở đối tượng ấy gọi là phân biệt. Định nghĩa không rõ ràng Định nghĩa không rõ ràng là định nghĩa trong đó Dfn được thay bằng việc giải thích, bằng quy nạp, hay bằng tiền đề. Các quy tắc định nghĩa: + Định nghĩa phải cân đối, tức là ngoại diên của khái niệm được định nghĩa trùng với ngoại diên của khái niệm để định nghĩa – vi phạm quy tắc định nghĩa sẽ dẫn tới định nghĩa quá rộng hoặc quá hẹp Nếu ngoại diên của khái niệm được định nghĩa lớn hơn khái niệm để định nghĩa thì định nghĩa quá hẹp, Nếu ngoại diên của khái niệm được định nghĩa nhỏ hơn khái niệm để định nghĩa thì định nghĩa quá rộng + Định nghĩa không được luẩn quẩn. Khi định nghĩa khái niệm để định nghĩa lại được giải thích qua khái niệm được định nghĩa thì gọi là định nghĩa luẩn quẩn. + Định nghĩa phải rõ ràng, chính xác, ngắn gọn. +Định nghĩa không được phủ định [b]Câu 3: Thế nào là phân chia khái niệm , phân tích ,…. [/b] Định nghĩa: Phân chia một khái niệm là thao tác lôgic chia khái niệm bị phân chia thành hết thảy các thành phần phân chia. Định nghĩa khác:Phân chia một khái niệm là thao tác lôgic chia các khái niệm giống thành tất cả các loài Hay cũng có thể định nghĩa phân chia một khái niệm là thao tác lôgic giúp ta phát hiện ngoại diên của khái niệm. Có hai loại phân chia: a. phân chia theo sự biến đổi dấu hiệu. Đó là sự phân chia khái niệm giống thành các loài sao cho mỗi loài vẫn giữ được dấu hiệu nào đó của giống, nhưng dấu hiệu ấy lại có chất lượng mới trong loài Cơ sở phân chia có thể là dấu hiệu bản chất,bên trong hay dấu hiệu không bản chất bên ngoài Chúng ta không được nhầm lẫn giữa phân chia và chia nhỏ đối tượng ,với chia cái toàn thể thành cái bộ phận Thí dụ: năm “Khái niệm doanh nghiệp được phân chia thành doanh nghiệp nhà nước doanh nghiệp tư nhân và liên doanh” b. phân đôi khái niệm thao tác lôgic chia khái niệm bị chia thành hai khái niệm mâu thuẫn với nhau gọi là phân đôi một khái niệm Phân đôi khái niệm luôn luôn là cân đối và được tiến hành theo một cơ sở nhất định. Nhưng nó chỉ giúp hiểu khái niệm khẳng định và sau khi thực hiện một số bước có thể trở lại khái niệm ban đầu. Các quy tắc phân chia một khái niệm + phân chia phải cân đối có nghĩa là tổng ngoại diên của các thành phần chia bằng ngoại diên của khái niệm bị phân chia. Nếu phạm quy tắc này sẽ dẫn đến sai lầm – chia thiếu thành phần tức là ngoại diên của khái niệm bị phân chia lớn hơn tổng ngoại diên của các thành phần phân chia. – Phân chia thừa thành phần, khi ngoại diên của khái niệm bị phân chia nhỏ hơn tổng ngoại diên của các thành phần phân chia +Phân chia phải theo một cơ sở nhất định. Trong quá trình phân chia có thể theo nhiều cách khác nhau tùy theo dấu hiệu lựa chọn. Nhưng trong cách phân chia chỉ được căn cứ vào dấu hiệu xác định nào đó và phải giữ nguyên dấu hiệu ấy trong suốt quá trình phân chia. + Các thành phần phân chia phải loại trừ nhau có nghĩa là chúng nằm trong quan hệ không hợp. +Phân chia phải liên tục, nghĩa là khái niệm giống bị phân chia phải chuyển tới các khái niệm loài gần gũi, chứ không được chuyển sang loài xa. [b]Câu 4.Tính chu diên[/b] Tính chu diên của các thuật ngữ Thuật ngữ là chu diên, nếu nó nói lên toàn bộ ngoại diên. Thuật ngữ là không chu diên, nếu nó nói lên một phần ngoại diên. a.Phán đoán khẳng định chung (a) Chủ ngữ của phán đoán luôn chu diên,vì nó nói lên toàn bộ ngoại diên (Tất cả S), Đối với vị ngữ có hai trường hợp: +Nếu ngoại diên của vị ngữ lớn hơn ngoại diên của chủ ngữ thì vị ngữ không chu diên,vì trong phán đoán chỉ nêu lên một phần ngoại diên của vị ngữ là ngoại diên của vị ngữ. +Nếu ngoại diên của chủ ngữ và vị ngữ như nhau (Svà P nằm trong quan hệ đồng nhất),thì chúng chu diên b.Phán đoán phủ định chung (e) -Trong phán đoán phủ định chung (e) các thuật ngữ đều chu diên ( Không S nào là P hay Mọi S không là P) c. Phán đoán khẳng định riêng i (Một số S là P) Chủ ngữ của phán đoán không chu diên, vì nó nêu lên một phần ngoại diên (Một số S) Vị ngữ nằm trong hai quan hệ khác nhau đối với chủ ngữ. + Nếu vị ngữ và chủ ngữ là khái niệm giao nhau thì vị ngữ kkông chu diên + Nếu vị ngữ và chủ ngữ nằm trong quan hệ bao hàm, ngoại diên của chủ ngữ nằm trong toàn bộ ngoại diên của chủ ngữ thì vị ngữ là chu diên d. Phán đoán phủ định riêng (o) “Một số S không là P” Chủ ngữ của phán đoán luôn không chu diên,vì nói đến một phần của S “ Một số S” vị ngữ chu diên KL:- Như vậy chủ ngữ phán đoán chung (a,e )và vị ngữ phán đoán phủ định o bao giờ cũng chu diên -Chủ từ phán đoán riêng luôn không chu diên -Phán đoán a, P chỉ chu diên khi S trùng P – Phán đoán i, P chỉ chu diên khi S và P quan hệ bao hàm [b] Câu 5: Quan hệ giữa các phán đoán (a,e,i,o) [/b] 1.Quan hệ hợp. Các phán đoán hợp là các phán đoán có cùng giá trị a. Các phán đoán tương đương (hợp hoàn toàn): Các phán đoán tương đương này là các phán đoán có cùng giá trị chân thực hoặc giả dối. Trong các phán đoán tương đương ý nghĩa tư tưởng là như nhau được biểu thị dưới nhiều hình thức khác nhau. Ví dụ: “Nguyễn Trãi – anh hùng dân tộc”và tác giả “Bình Ngô Đại Cáo- anh hùng dân tộc ” b.Quan hệ phụ thuộc Đó là quan hệ giữa cặp phán đoán a và i, e và o. Các phán đoán a và e – phán đoán chi phối, các phán đoán i và o là phán đoán phụ thuộc. Trong quan hệ phụ thuộc từ tính chân thực của phán đoán phụ thuộc và tính giả dối của phán đoán phụ thuộc có thể suy ra tính giả dối của phán đoán chi phối. Ví dụ “Một số kim loại không dẫn nhiệt”- giả dối suy ra “Mọi kim loại không dẫn nhiệt”-giả dối c.Quan hệ đối lập riêng (hợp một phần) Quan hệ đối lập riêng là quan hệ giữa các phán đoán i và o có đặc trưng : Các phán đoán cùng chân thực nhưng không cùng giả dối 2.Quan hệ không hợp a. Quan hệ đối lập chung là quan hệ giữa các phán đoán có thể cùng giả dối nhưng chúng không cùng chân thực. đó là quan hệ giữa a và e Ví dụ : “Kim loại là chất rắn” và “Không kim loại nào là chất rắn” đều là giả dối b.Quan hệ mâu thuẫn. Quan hệ mâu thuấn là quan hệ giữa các phán đoán không thể cùng chân thực và cùng giả dối. Đó là cặp phán đoán a và o , e và i Ví dụ “Một số câu là phán đoán- chân thực” “Không câu nào là phán đoán -giả dối”.. [b]Câu 6: Các quy luật cơ bản của logic hình thức[/b] 1.Quy luật đồng nhất Trong quá trình lập luận bất cứ tư tưởng nào cũng phải được diễn đạt chính xác, phải có nội dung xác định và vững chắc. Thuộc tính này của tư duy được biểu thị trong quy luật đồng nhất : Trong quá trình lập luận mọi tư tưởng phải đồng nhất với chính nó. Quy luật đồng nhất biểu thị “a là a”( đối với phán đoán) “A là A ” (đối với khái niệm) Kí hiệu A­=A hay a a Đồng nhất là sự giống nhau của các đối tượng trong quan hệ nào đó · yêu cầu : Quy luật đồng nhất yêu cầu trong quá trình lập luận không được biến đổi một cách tuỳ tiện, vô căn cứ nội dung của tư tưởng, không được thay thế tư tưởng này, khái niệm này bằng tư tưởng khác khái niệm khác. · Một sai lầm cũng dễ phạm phải là sự thay thế luận đề trong quá trình chứng minh và bác bỏ luận đề nào đó có thể vô tình hay hữu ý bị thay thế bằng luận đề khác. · Trong tư duy không nên đồng nhất các khái niệm giống nhau sự đồng nhất các khái niệm giống nhau dẫn đến sai lầm lôgic gọi là đánh trao khái niệm. · Vịêc vi phạm quy luật đồng nhất thường gặp trong các trường hợp sử dụng không chính xác (Sử dụng từ đồng âm, đồng nghĩa không chính xác) Ví dụ: Trong chân không có dẫn điện không Chân không có dầy dép thì dẫn điện 2.Quy luật không mâu thuẫn (Mâu thuẫn ) a. Nội dung quy luật : Khi nghiên cứu khảo sát 1 đối tượng nào đó trong cùng điều kiện xác định thì không thể có hai phán đoán mâu thuẫn nhau và đối lập chung cùng chân thực, ít nhất một trong hai phán đoán phải là giả dối. – Chỉ phạm quy luật khi cả hai phán đoán đều đúng Ví dụ: Mọi xà phòng đều làm khô ra bạn Nhưng chỉ có … làm cho da bạn mịn màng b. Yêu cầu quy luật – Không được có mâu thuẫn trực tiếp trong tư duy. Có nghĩa là không được khẳng định đối tượng có một dấu hiệu nào đó xong lại phủ định dấu hiệu ấy có nghĩa là không được khẳng định được khẳng định đối tượng có một dấu hiệu nào đó xong lại phủ định hệ quả rút từ dấu hiệu ấy – Ví dụ : Một người tiều phu đi bán hàng Giáo đâm gì cũng thủng Mộc thì không có gì đâm thủng 3. Quy luật loại trừ cái thứ ba a. Nội dung quy luật Khi xem xét một đối tượng cùng thời gian, điều kiện xác định là không thể có hai phán đoán mâu thuẫn nhau cùng sai nhất thiết có một đúng không có phán đoán thứ ba…..

Cho Mình Hỏi,”Ln” Trong Toán Học Nghĩa Là Gì Vậy?

hic hic .mình gặp nó trong một số công thức tính toán hóa học nhưng mình chẳng hiểu gì cả.

Em hỏi câu này thì biết chắc là chưa học đến 12 rồi, nó được gọi logarit nêpe, hay logarit tự nhiên.

Giải thích cho dể hiểu thế này:

*muốn biết “ai” nhân với 3 được 6: ta làm phép tính: “ai” = 6 : 3 = 2

Hiểu phép chia là “phép toán ngược” của nhân

*muốn biết “ai” bình phương ra 9 ta tính “ai” là (+-)căn9

*nâng cao hơn:

Ta biết 2mũ3 = 8, hỏi ngược lại: 2 mũ “mấy” bằng 8

Số “mấy” ở đây được tính theo phép toán ngược của mũ: được gọi là logarit

ở trên ta có: “mấy” = log_cơ số2 (của 8) = 3

Vài VD cho dể hình dung:

Log_cơ số2 (của 16) = 4 (vì 2^4 = 16)

Log_cơ số10(của 100) = 2 (vì 10^2 = 100)

Log_cơ số10(của 1 / 10) = -1 (vì 10 mũ -1 bằng 1 / 10)

Loga cơ số10 (còn gọi là logarit thập phân) dùng nhiều trong thực tế nên để tiện ta không thèm ghi cơ số nữa mà ghi là lg (của n) (hiểu là loga cơ số 10 của n) trên máy tính fx500: ghi là log. cái logarit thập phân chắc chắn bạn sẽ gặp khi tính PH của dd.

Nếu là logarit cơ số e (e là số vô tỉ gần bằng 2,7) thì ta kí hiệu là ln(của n) (hiểu là logarit cơ số e), ta còn gọi là logarit tự nhiên vì nó có ứng dụng nhiều trong lí thuyết toán học.

VD: có M(g) một chất phóng xạ, sau thời gian t thì nó còn lại là m(g)

Ta cm được rằng nó giãm theo qui luật hàm mũ:

m = M*e^(-λt)

nếu cho m, M, λ cần tính thời gian t: thì

e^(-λt) = m / M

Giải thích như vậy hổng biết bạn hiểu được mấy phần, mình hổng quen làm gia sư nên chẳng biết giải thích sao cho dể hiểu hơn, mình tốn công một chút vì rất trân trọng những ngời ham học hỏi, hơn nữa lại rất thích lan rừng….

Đó là ký hiệu của logarit cơ số e, hay “loga-nêpe”, thường đọc tắt là “len”, khi nào em học lên lớp 12 thì mới được học cái này (chương 2, học kỳ I). Ở chương trình cũ thì nó nằm ở chương 3, học kỳ 2, nên nếu em đang học lớp 11 và đọc cách sách cũ thì sẽ không hiểu nó đâu.

ln (trong toán học ) là từ viết tắt của logarit cơ số e đó mà

Still have questions? Get your answers by asking now.

Ask Question

Join Yahoo Answers and get 100 points today.

Join

Logic Học (Logics) Là Gì? Đối Tượng, Phương Pháp Nghiên Cứu Của Logic Học

Logic học trong tiếng Anh là Logics.

Thuật ngữ logic được dùng với hai nghĩa chính:

– Logic khách quan, dùng để chỉ tính qui luật cụ thể là mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng; hoặc mối liên hệ nội tại của mỗi sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan. Các khoa học cụ thể (như vật lí, hóa học, triết học) chủ yếu nghiên cứu logic khách quan – tìm ra các qui luật tất nhiên giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan.

– Logic chủ quan, dùng để chỉ mối liên hệ có tính tất yếu, có qui luật giữa các tư tưởng của con người, xem như phản ánh chân thực hiện thực khách quan. Logic chủ quan được các môn logic học và toán học nghiên cứu.

Khoa học nghiên cứu logic chủ quan và sự chi phối giữa logic khách quan và chủ quan là logic học.

Vì vậy có thể định nghĩa logic học như sau:

Logic học là khoa học nghiên cứu những qui luật và hình thức cấu tạo chính xác của tư duy.

Đối tượng của logic học

Logic học nghiên cứu các hình thức logic của tư duy, vạch ra những qui tắc, qui luật của quá trình tư duy. Qua đó khẳng định tính đúng đắn của tư duy. Tuân theo các qui tắc, qui luật là điều kiện cần để đạt tới chân lí trong quá trình phản ánh hiện thực.

Phương pháp nghiên cứu của logic học

Đối tượng của logic học là nghiên cứu hình thức, qui luật, các qui tắc tư duy đúng đắn. Muốn hiểu biết đúng đắn các hình thức, các qui luật, các qui tắc của tư duy, chúng ta phải phân tích kết cấu logic của tư tưởng được thể hiện trong đó, nghĩa là phải chỉ ra được các bộ phận, các yếu tố cấu thành và các kiểu liên kết đúng của tư tưởng.

Việc phân chia một sự vật phức tạp thành các mặt phải dùng các kí hiệu để chỉ các thành phần, các yếu tố và các kiểu liên kết. Việc kí hiệu hóa một quá trình tư tưởng phức tạp, làm rõ kết cấu của nó như vậy được gọi là sự hình thức hóa kết cấu logic của tư tưởng.

Vậy phương pháp cơ bản mà người ta sử dụng trong logic học là phương pháp phân tích và hình thức hóa.

Ngoài phương pháp trên, chúng ta còn sử dụng các phương pháp khác như: Phương pháp so sánh, phương pháp trừu tượng hóa, khái quát hóa… thậm chí sử dụng cả những phương pháp của bản thân môn logic như diễn dịch, qui nạp…

Ý nghĩa của việc học tập logic học

Học tập và nghiên cứu logic học góp phần nâng cao trình độ tư duy của mỗi người. Logic rèn luyện tính hệ thống trong quá trình tư duy của mỗi người.

Ngoài tính hệ thống nó rèn luyện cho chúng ta biết tư duy theo đúng những qui tắc, qui luật vốn có của tư duy, đồng thời nó còn rèn luyện tính chính xác của tư duy, giúp chúng ta có thói quen chính xác hóa các khái niệm, quan tâm tới ý nghĩa của các từ, các câu được sử dụng trong ngôn ngữ hàng ngày.

Đối Tượng Của Logic Học

NHẬP MÔN LOGIC HỌC

ĐỐI TƯỢNG CỦA LOGIC HỌC

PHẠM ĐÌNH NGHIỆM

Phạm Đình Nghiệm. Nhập môn Logic học. Nxb. Đại học quốc gia, Tp. Hồ Chí Minh, 2008, tr. 11-19. Bản đăng trên chúng tôi đã được tác giả cho phép.

Logic học là khoa học xuất hiện rất sớm trong lịch sử. Nó xuất hiện vào thế kỷ thứ IV trước công nguyên, khi sự phát triển của khoa học nói riêng và tư duy nói chung đã đòi hỏi phải trả lời câu hỏi: làm thế nào để đảm bảo suy ra được kết luận đúng đắn, chân thực từ các tiền đề chân thực?

I. KHOA HỌC LOGIC

Từ “logic” có nguồn gốc từ Hy Lạp “Logos”, có rất nhiều nghĩa, trong đó hai nghĩa ngày nay được dùng nhiều nhất như sau. Thứ nhất, nó được dùng để chỉ tính quy luật của sự tồn tại và phát triển của thế giới khách quan. Thứ hai, từ “logic” dùng để chỉ những quy luật đặc thù của tư duy. Khi ta nói “Logic của sự vật là như vậy”, ta đã sử dụng nghĩa thứ nhất. Còn khi nói “Anh ấy suy luận hợp logic lắm”, ta dùng nghĩa thứ hai của từ logic.

Theo quan điểm phổ biến nhất hiện nay thì logic học là khoa học về các hình thức, các quy luật của tư duy. Nhưng khác với các khoa học khác cũng nghiên cứu về tư duy như tâm lý học, sinh lý học thần kinh, …, logic học nghiên cứu các hình thức và quy luật của tư duy để đảm bảo suy ra các kết luận chân thực từ các tiền đề, kiến thức đã có, và đưa ra các phương pháp để có được các suy luận đúng đắn. Để hiểu cặn kẽ hơn về đối tượng của logic học, ta phải tìm hiểu các đặc điểm của giai đoạn nhận thức lý tính và trả lời cho câu hỏi thế nào là hình thức và quy luật của tư duy.

1. Các đặc điểm của tư duy trừu tượng

Nếu nói một cách giản lược nhất thì nhận thức là quá trình tìm hiểu, xác định đối tượng. Triết học Mác-Lênin hiểu nhận thức là quá trình phản ánh thực tại khách quan. Nhận thức là hoạt động phản ánh được phát triển trong lịch sử, được đảm bảo và quy định về mặt xã hội.

Quá trình nhận thức bao giờ cũng bắt đầu bởi sự tác động trực tiếp của thực tại khách quan lên các giác quan của con người. Đây là giai đoạn đầu của quá trình nhận thức, gọi là giai đoạn nhận thức cảm tính, hay là giai đoạn nhận thức trực tiếp. Trong giai đoạn này ta thu nhận được tri thức nhờ sự tác động trực tiếp của đối tượng lên các giác quan. Nhận thức cảm tính gồm những hình thức: cảm giác, tri giác, biểu tượng.

Cảm giác là sự phản ánh những mặt, những khía cạnh riêng lẻ của đối tượng vào đầu óc con người khi nó tác động trực tiếp lên các giác quan. Ví dụ, ta thấy màu trắng của viên phấn, thấy sự mát mẻ của căn phòng rộng, ngửi thấy hương thơm của hoa hồng, …

Tri giác là sự phản ánh thành một thể thống nhất, tương đối trọn vẹn nhiều mặt, nhiều khía cạnh, hoặc toàn bộ các mặt, các khía cạnh của đối tượng vào đầu óc con người khi đối tượng tác động trực tiếp lên giác quan. Các mặt, các đối tượng ở đây không phải được phản ánh một cách riêng lẻ như trong hình thức cảm giác, mà chúng liên kết với nhau thành một thể thống nhất, giúp ta có được hình ảnh khá trọn vẹn về đối tượng. Tri giác không phải là phép cộng đơn thuần các cảm giác. Ví dụ, ta thấy quyển sách nằm trên bàn, thấy cái đèn, bàn ghế, … Quyển sách, cái bàn, cái đèn ở đây được ta cảm thụ một cách nguyên vẹn, chứ không phải là ta mang cộng bốn cái chân bàn, với cái mặt bàn để được cái bàn. Cũng vậy, ta thấy bông hoa hồng, chứ không phải là cộng từng nét riêng biệt của nó, như số lượng cánh, màu nào, lớn hay nhỏ, tươi hay héo, …

Biểu tượng là hình ảnh được hình thành từ những cảm giác và tri giác vốn được hình thành từ trước, khi đối tượng tác động trực tiếp lên các giác quan, và lưu giữ trong đầu óc con người. Khác với tri giác là hình ảnh chỉ có được khi có tác động trực tiếp của đối tượng lên giác quan, biểu tượng là hình ảnh của đối tượng khi không có sự tác động trực tiếp đó. Biểu tượng có thể bao gồm cả những hình ảnh của thế giới khách quan, cả những hình ảnh do ta tưởng tượng ra mà, xét đến cùng, có nguồn gốc từ thực tại khách quan.

Đặc điểm của nhận thức cảm tính là tính trực tiếp, cụ thể và không cần đến ngôn ngữ. Ởgiai đoạn này ta chỉ nhận thức được từng mặt, từng khía cạnh riêng rẽ hay hình ảnh bềngoài của đối tượng mà không thấy được bản chất của đối tượng, không thấy được các quy luật vận động và phát triển của nó. Thật vậy, nếu quan sát một chiếc máy đang chạy, ta sẽ có hình ảnh đang chạy của nó, nhưng không thể biết vì sao nó chạy, thậm chí tốc độ chính xác của nó ta cũng không biết. Thêm vào đó, tính khái quát không cao. Ví dụ, ta không thể có tri giác về một thành phố, một đất nước được vì nó quá lớn, bằng giác quan ta không thể bao quát hết được.

Logic học không nghiên cứu giai đoạn cảm tính của quá trình nhận thức, mà chỉ nghiên cứu giai đoạn thứ hai của quá trình đó, là giai đoạn nhận thức lý tính.

Nhận thức lý tính là sự phản ánh gián tiếp thực tại khách quan. Nhận thức lý tính phản ánh thực tại khách quan một cách trừu tượng, nghĩa là bằng các khái niệm, phạm trù, phán đoán, suy luận, lý thuyết, giả thuyết. Nhờ đó ta đó thể nhận thức được những mối liên hệ bên trong, bản chất, những quy luật của sự tồn tại và phát triển của thực tại khách quan.

Ví dụ: Bằng giác quan ta chỉ có thể nhận thấy màu sắc xanh, đỏ, tím, vàng … của ánh sáng. Nhưng bằng các phân tích sâu sắc, các nhà vật lý đã khám phá ra bản chất sóng điện từ của ánh sáng. Vì nhận thức lý tính chỉ có thể thấy được nhờ các khái niệm, phạm trù, giả thuyết, lý thuyết … là những hình thức trừu tượng, nên nó còn được gọi là tư duy trừu tượng.

Nhận thức lý tính có đặc trưng là trừu tượng và khái quát. Từ những dữ liệu do hiện thực khách quan cung cấp, ta tách riêng ra những nét, những tính chất chung, rồi khái quát chúng lên, và nhờ đó tách ra các đối tượng cùng có tính chất chung nhất định thành một kiểu, một lớp riêng. Trong quá trình này, cùng với việc tách riêng các tính chất chung của các đối tượng, ta bỏ qua những tính chất khác của đối tượng, và đó chính là quá trình trừu tượng hóa.

Một đặc trưng nữa của nhận thức lý tính là nó gắn liền với ngôn ngữ. Ngôn ngữ là phương tiện của tư duy. Nhờ có ngôn ngữ, tư tưởng mới hình thành được và mới được củng cố, được lưu giữ. Cũng nhờ ngôn ngữ, con người mới có thể trao đổi với nhau các tư tưởng của mình. Ngôn ngữ ở đây được hiểu theo nghĩa rộng: ngôn ngữ là một hệ thống ký hiệu.

Nhận thức lý tính phản ánh hiện tượng khách quan một cách tích cực. Để nhận thức, tìm hiểu một vấn đề, con người hướng tư duy của mình vào đó, chuẩn bị sẵn các điều kiện cho quá trình nhận thức. Ví dụ, khi nhà bác học muốn nghiên cứu cấu tạo của nguyên tử, ông ta bắn phá nó bằng chùm hạt như Rutherford đã làm. Tính chất này giải thích tại sao cùng nghiên cứu một đối tượng như nhau, mà người này nhận ra quy luật, người khác thì không.

Nhận thức lý tính gồm các hình thức cơ bản như khái niệm, phán đoán, lý thuyết, suy luận, giả thuyết. Trong các hình thức này của nhận thức lý tính, ba hình thức đầu là các hình thức hình thành và biểu thị tri thức, còn hai hình thức sau là các hình thức thu nhận và phát triển kiến thức từ những kiến thức đã có. Logic học nghiên cứu các hình thức đó của tư duy. Trong chương trình này chúng ta sẽ nghiên cứu cặn kẽ từng hình thức đó, vì vậy ở đây chúng tôi chỉ nêu ra định nghĩa khái quát của chúng để góp phần làm rõ đối tượng của logic học.

Khái niệm là hình thức của tư duy trong đó phản ánh một lớp các đối tượng bằng một hoặc một số các dấu hiệu chung của các đối tượng thuộc lớp đó. Để ý rằng lớp các đối tượng ở đây có thể chỉ bao gồm một đối tượng[1]. Khái niệm là điểm bắt đầu của tư duy trừu tượng. Trong quá trình tư duy trừu tượng, để có thể nhận biết, xác định được đối tượng, ta tách các sự vật có cùng một số đặc điểm chung nào đó ra khỏi các sự vật khác. Lớp các sự vật đã được tách riêng ra như vậy được biểu thị bằng một khái niệm. Ví dụ: khái niệm ” học sinh” biểu thị một lớp người có đặc điểm chung là đi học; khái niệm ” tội phạm” biểu thị lớp các sự vật có đặc điểm chung – theo Bộ luật hình sự của Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam – là ” hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong bộluật hình sự, do người có năng lực, trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý …”[2].

Phán đoán phản ánh quan hệ giữa các đối tượng với nhau hoặc giữa đối tượng với tính chất của nó. Phán đoán có được nhờ liên kết các khái niệm. Một phán đoán có thể khẳng định hay phủ định quan hệ giữa các đối tượng nhất định hay giữa đối tượng với tính chất nào đó của nó. Ví dụ, trong phán đoán ” Ánh sáng có tính chất sóng” khẳng định tính chất sóng của ánh sáng; phán đoán ” Tài sản, vốn đầu tư và lợi nhuận hợp pháp của chủ đầu tư không bị quốc hữu hóa“[3] phủ nhận tính chất có thể bị quốc hữu hóa của tài sản, vốn đầu tư và lợi nhuận hợp pháp của chủ đầu tư.

Suy luận là hình thức của tư duy, trong đó từ một hay nhiều phán đoán đã có suy ra các phán đoán mới. Nó là hình thức nhận được các kiến thức mới từ những kiến thức đã có. Những phán đoán đã có gọi là các tiền đề, còn phán đoán mới thu được gọi là kết luận. Trong suy luận sau đây ” Bất cứ phương trình bậc ba nào cũng có ít nhất một nghiệm thực, phương trình 6x3 + 3x2 – 4x + m = 0 là phương trình bậc ba, vậy phương trình này có ít nhất một nghiệm thực “, hai phán đoán đầu là tiền đề, còn phán đoán thứ ba, sau cùng, là kết luận. Kết luận đó được rút ra một cách tất yếu từ hai phán đoán tiền đề.

2. Hình thức của tưtưởng và quy luật của tư duy

Khi xem xét một tư tưởng, logic hình thức không quan tâm đến nội dung của tư tưởng ấy, mà chỉ quan tâm đến hình thức của nó mà thôi.

Hình thức logic của tư tưởng là cấu trúc của tư tưởng, là phương pháp liên kết các thành phần khác nhau của tư tưởng lại với nhau, là thứ tự sắp xếp trước sau của các thành phần trong tư tưởng.

Ví dụ, xét các suy luận:

(1). Con người phải chết

Socrate là người

Vậy Socrate phải chết;

(2). Sinh viên là những người rất tích cực và sáng tạo

Quang là sinh viên

Vậy Quang là người rất tích cực và sáng tạo;

Ta thấy rằng nội dung các suy luận đó rất khác nhau, thế nhưng cấu trúc của chúng lại rất giống nhau. Nếu ở suy luận thứ nhất ta đặt ” con người” = S, ” phải chết” = P, ” Socrate ” = X thì ta có (1) dưới dạng:

Dễ thấy là nếu bây giờ thay S = ” Sinh viên“, P = ” tích cực và sáng tạo”, X = ” Quang ” thì suy luận (2) cũng biến thành (1′).

Người ta gọi (1′) là cấu trúc logic của suy luận (1), rõ ràng (1′) cũng là cấu trúc logic của suy luận (2).

Vì các suy luận (1) và (2) có cấu trúc như nhau, nghĩa là có hình thức như nhau, nên mặc dù chúng có nội dung rất khác nhau, khi đọc lên ta vẫn thấy chúng từa tựa như nhau.

Rõ ràng cấu trúc, hình thức của một suy luận hay tư tưởng không hề chứa bất cứ nội dung cụ thể nào. Vì vậy, ta có thể coi rằng hình thức của tư tưởng hay của một suy luận là cái mà ta thu được khi lược bỏ những nội dung cụ thể của tư tưởng hay suy luận đó.

Quy luật của tư duy là những mối liên hệ phổ biến, bên trong, bản chất, lặp đi lặp lại của các tư tưởng trong quá trình tư duy. Khi xét các mối liên hệ như vậy trong quá trình tư duy nếu bỏ qua nội dung cụ thể của nó thì ta được quy luật hình thức. Các quy luật này còn được gọi là quy luật logic. Tuân theo quy luật logic là điều kiện cần thiết để đạt tới chân lý trong tư duy. Một quá trình tư duy, lập luận được gọi là hợp logic, hợp lý, chặt chẽ (hay ngắn gọn hơn là đúng), nếu nó tuân thủ các quy tắc logic. Logic hình thức chỉ nghiên cứu các quy luật hình thức mà thôi.

Các quy luật của tư duy là sự phản ánh các quy luật của hiện thực khách quan vào tư duy. Chính vì vậy mà chúng giúp ta nghiên cứu, nhận thức được thế giới khách quan. Con người phát hiện ra các quy luật của tư duy trong hoạt động nhận thức thực tiễn của mình, ” hoạt động thực tiễn của con người phải làm cho ý thức của con người lặp đi lặp lại hàng nghìn triệu lần những hình tượng logic khác nhau, đểcho những hình tượng này có thể có được ý nghĩa những công lý“[4]. Đối với mỗi cá nhân, các quy luật này không phải bẩm sinh đã biết, mà chỉ biết thông qua quá trình học tập – nghĩa là biết qua các thế hệ đi trước -, hoặc biết do tự nghiên cứu hoạt động nhận thức.

II. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA LOGIC HỌC

Với tư cách là một khoa học, logic học ra đời vào thế kỷ IV trước công nguyên. Người sáng lập ra logic học là nhà triết học Hy Lạp vĩ đại Aristote (384 – 322 tr. CN). Mặc dù trước Aristote đã có nhiều nhà triết học – chẳng hạn Pythagor, Democrite, Socrate, Platon – sử dụng và nghiên cứu một số kiểu suy luận, một số kiểu phán đoán, nhưng chính Aristote mới là người khai sinh ra logic học như là một khoa học. Aristote được coi là người khai sinh ra logic học ” không phải vì ông là người đầu tiên đã hệ thống hoá được các thao tác suy luận vốn trước ông chỉ tồn tại riêng rẽ, chưa rõ ràng, mà chính là vì ông là người đầu tiên đã làm cho các thao tác đó trở thành đối tượng nghiên cứu, làm thành đối tượng nghiên cứu chính các thao tác suy luận đó, với tư cách là các chỉnh thể, chứ không chỉ là thành tố này hay thành tố khác của suy luận“[5]. Nghĩa là ở Aristote các thao tác suy luận đã là các đối tượng nghiên cứu độc lập, chứ không chỉ được nghiên cứu trong mối quan hệ với các suy luận. Ông đã nghiên cứu một cách hệ thống về khái niệm, phán đoán, phép chứng minh và bác bỏ, ông đã nêu lên ba quy luật cơ bản của tư duy. Ông đã xây dựng hoàn chỉnh lý thuyết tam đoạn luận. Ông cũng là người đầu tiên phân loại các sai lầm logic. Vấn đề trung tâm trong logic học của Aristote là vấn đề suy luận diễn dịch, trong đó có các phép chứng minh, được xây dựng như thế nào. Các vấn đề khác xoay quanh vấn đề này. Các công trình của ông về logic học về sau được tập hợp lại trong bộ Organon.

Ở thời cổ đại, logic học của Aristote được các học trò của ông tiếp tục phát triển sau khi ông mất. Nhưng người ta chỉ nêu ra thêm một số quy tắc suy luận với tiền đề là phán đoán điều kiện và phán đoán lựa chọn nghiêm ngặt mà thôi. Các nhà triết học thuộc trường phái Megat và trường phái Khắc kỷ, đặc biệt là Chrysippus (279-206 tr. CN) – người cho rằng các mệnh đề chỉ có thể đúng hoặc sai và là người đã nghiên cứu các quy tắc xác định tính đúng sai của mệnh đề phức dựa vào tính đúng sai của các mệnh đề thành phần tạo nên nó -, đi xa hơn. Họ đã nghiên cứu quan hệ suy diễn, nghĩa là quan hệgiữa các tiền đề và kết luận của suy luận. Để nghiên cứu vấn đề này, họ đưa ra khái niệm bao hàm (implication). Họ đã đưa ra hình thức đầu tiên của định lý diễn dịch – định lý làm cơ sở cho các phép chứng minh trong các hệ thống hình thức hóa: một suy luận là hợp logic khi và chỉ khi công thức biểu thị nó là một công thức hằng đúng. Công thức biểu thị một suy luận có được khi ta liên kết các tiền đề của nó với nhau thành phần tiền đề bằng các dấu toán hội, rồi liên kết phần tiền đềvới kết luận bằng dấu toán kéo theo (dấu implication).

Các thành tựu quan trọng nhất của logic học ở thời La Mã cổ đại là: hệ thống các thuật ngữ logic được sử dụng đến ngày nay; hình vuông logic (sau này được Boethius hoàn thiện); lý thuyết về tam đoạn luận phức hợp và tam đoạn luận với tiền đề là phán đoán quan hệ.

Ở thời trung cổ, logic học của Aristote được nghiên cứu phát triển bởi các nhà triết học kinh viện. Các thành quả thời kỳ này chủyếu là các nghiên cứu về khái niệm và ngữ nghĩa học. Các nhà logic học có đóng góp lớn nhất ở thời kỳ này là P. Abelard (1079-1142) – người đã xây dựng lại logic Aristote, đã phân biệt các suy luận đúng về hình thức và đúng về nội dung và cho rằng chỉ các suy luận đúng về hình thức mới là loại suy luận có giá trị thật sự-, và W. Occam (1285-1349) – người dành một sự quan tâm lớn đến logic hình thái, xây dựng học thuyết về siêu ngôn ngữ (metalanguage), nghiên cứu toàn diện về tam đoạn luận đơn của Aristote, phân định các kiểu đúng và không đúng.

Vào thời Phục hưng logic học truyền thống bị chỉ trích mạnh mẽ. Một số nhà tư tưởng tiến bộ của thời kỳ này buộc tội logic học là chỗ dựa cho tư tưởng kinh viện.

Nhà triết học người Anh F. Bacon (1561-1626) cho rằng tam đoạn luận của Aristote hoàn toàn vô ích, vì nó không cho phép tìm ra các thông tin mới từ các tiền đề đã có, vậy nên khoa học sử dụng nó không thể phát hiện được các quy luật mới thông qua việc nghiên cứu các sự kiện thực nghiệm đã biết. Ông xây dựng nên logic quy nạp. Logic này về sau được một nhà triết học và logic học Anh khác là S. Mill (1806 – 1873) phát triển.

Về phần logic diễn dịch thì phải đến thếkỷ XVII nó mới được nhà toán học và triết học như R. Descates (1596 – 1650) người Pháp thanh minh và bảo vệ. Ông muốn xây dựng nó thành phương pháp nhận thức tổng hợp. Công lao rất lớn trong việc phát triển logic diễn dịch thuộc về nhà triết học, toán học và logic học người Đức Leibniz (1646 – 1716). Ông được coi là người đầu tiên đặt nền tảng cho logic ký hiệu. Ông đưa ra tư tưởng sử dụng các ký hiệu và phương pháp toán học vào logic học. Ông chỉ ra rằng khi sử dụng các ký hiệu thay cho lời nói, không những chúng ta làm cho tưtưởng được trởnên rõ ràng hơn và chính xác hơn, mà còn làm cho tư tưởng trở nên đơn giản hơn. Ông muốn xây dựng logic học thành phép tính (calculus rationator) – ngôn ngữ nhân tạo tổng quát, trong đó các suy luận được hình thức hóa giống như các phép tính được hình thức hóa trong đại sốvậy. Thậm chí ông còn mơ đến một ngày kia nếu các nhà triết học bất đồng ý kiến với nhau thì họ không cần phải tranh cãi nữa, mà chỉ cần sử dụng một hệ thống logic như vậy mà tính toán xem ai đúng, ai sai. Tư tưởng của Leibniz về sau được các nhà toán học và logic học J. Boole (1815 – 1864) người Anh, và De Moorgan phát triển. Họ đã xây dựng các hệ đại sốlogic.

Sự phát triển của logic học kể từ Leibniz đã bước sang một giai đoạn mới hẳn về chất. Nếu như trong suốt cả ngàn năm trước đó logic học chỉ xác định được một sốlượng rất hạn chế – tính được bằng hàng chục – các dạng thức suy luận đúng, và các dạng thức suy luận này tìm được chủ yếu nhờ phương pháp kinh nghiệm, thì bây giờ, trong một khoảng thời gian tương đối ngắn, logic học đã xác lập được một khối lượng dạng thức đúng nhiều hơn rất nhiều lần, và nhiều phương pháp hiện đại, như phương pháp tiên đề, phương pháp hình thức hóa, … được áp dụng thay cho kinh nghiệm.

Ngày nay logic học hình thức bao gồm rất nhiều nhánh khác nhau như logic cổ điển, logic tình thái, logic thời gian, logic kiến thiết, logic relevant, logic không đơn điệu, logic mờ, logic xác suất, logic quy nạp, logic lượng tử, logic đa trị,…

Cuối thế kỷXVIII, đầu thế kỷ thứ XIX nhà triết học người Đức Hegel xây dựng nên logic biện chứng. Logic biện chứng cũng nghiên cứu các hình thức và quy luật của tư duy, tuy nhiên, khác với logic hình thức, – là khoa học nghiên cứu các hình thức và quy luật của tư duy khi tư duy phản ánh trạng thái xác định, ổn định của sự vật và hiện tượng -, logic biện chứng nghiên cứu tư duy khi nó phản ánh sự vật và hiện tượng trong sự vận động và phát triển của chúng, trong mối liên hệ của chúng với các sự vật và hiện tượng khác. Logic hình thức nghiên cứu các hình thức phản ánh lý tưởng hóa trong tư duy. Các hình thức phản ánh hiện thực khách quan trong tư duy mà logic biện chứng nghiên cứu không lý tưởng hóa như vậy. Logic biện chứng của Hegel là logic duy tâm. C. Mác và Ph. Ăngghen đã xây dựng lại logic biện chứng của Hegel trên cơ sở duy vật. V. I. Lênin và các nhà triết học mác-xít đã nghiên cứu phát triển sâu thêm logic học biện chứng. Ngày nay logic biện chứng vừa là cơ sở phương pháp luận, vừa là công cụ nhận thức, công cụ phát hiện quy luật mới, tri thức mới của các khoa học.

III. CÔNG DỤNG CỦA LOGIC HỌC

Tư duy của con người bao giờ cũng diễn ra trong các hình thức nhất định và phải tuân theo các quy luật logic, dù cho chủ thể tư duy có biết điều đó hay không. Thế nhưng không phải bẩm sinh con người đã biết về các hình thức và quy luật đó. Muốn biết, và quan trọng hơn, muốn sử dụng chính xác và sáng tạo các hình thức và quy luật này thì phải nghiên cứu và ứng dụng thường xuyên. Con đường ngắn nhất để thực hiện điều đó là nghiên cứu logic học. Nghiên cứu logic học giúp cho sự hình thành, củng cố và hoàn thiện tư duy logic. Nó giúp hình thành thói quen lập luận tuân theo các quy luật, sử dụng khái niệm và phạm trù một cách chuẩn xác, giúp tránh được các sai lầm trong tư duy của bản thân và phát hiện nhanh chóng sai lầm trong lập luận của người khác. Nghiên cứu logic học là bỏ ra một khoảng thời gian tương đối nhỏ mà có thể nâng cao được trình độ tư duy. Nhà logic nổi tiếng S. Mill nói: “Sau khi thấy rõ lý thuyết suy luận đơn giản đến thế nào, thấy được khoảng thời gian cần thiết để có được tri thức hoàn chỉnh về các nguyên lý, quy tắc cơ bản của nó và thậm chí còn có được những kinh nghiệm đáng kể trong việc sử dụng chúng nhỏ đến thế nào thì tôi thấy chẳng có một lý do nào để biện hộ cho những người muốn hoạt động tri thức có kết quả mà lại không nghiên cứu logic. Logic học là người truy đuổi vĩ đại đối với tư duy nhầm lẫn và đen tối; nó làm tan sương mù bao phủ sự kém hiểu biết của chúng ta, làm cho chúng ta nghĩ rằng mình hiểu đối tượng trong khi thật ra không hiểu. Tôi tin rằng trong giáo dục hiện đại không gì có thể mang lại nhiều lợi ích hơn cho sự hình thành các tư tưởng chính xác, những tư tưởng sử dụng chính xác ý nghĩa của câu chữ và chống lại các thuật ngữ không chính xác, nhiều nghĩa như là logic học.“[7]

Cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, logic học ngày càng được ứng dụng rộng rãi. Người ta sử dụng logic học để giúp giải quyết các vấn đề nan giải của toán học, của điều khiển học, của các khoa học máy tính, … Người ta sử dụng logic vị từ để làm các ngôn ngữ lập trình cho trí tuệ nhân tạo (ví dụ ngôn ngữ lập trình PROLOG – PROgraming in LOGic); ứng dụng logic mờ (Fuzzy logic) để phát triển công nghệ mờ, …

Bạn đang xem bài viết Cho Mình Hỏi Về Logic Học ? trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!