Cập nhật thông tin chi tiết về Chủ Sở Hữu Và Nội Dung Quyền Sở Hữu Công Nghiệp mới nhất trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
I. Chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp
1. Chủ sở hữu sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí là tổ chức, cá nhân được cơ quan có thẩm quyền cấp văn bằng bảo hộ các đối tượng sở hữu công nghiệp tương ứng.
2. Chủ sở hữu nhãn hiệu là tổ chức, cá nhân được cơ quan có thẩm quyền cấp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu hoặc có nhãn hiệu đã đăng ký quốc tế được cơ quan có thẩm quyền công nhận hoặc có nhãn hiệu nổi tiếng.
3. Chủ sở hữu tên thương mại là tổ chức, cá nhân sử dụng hợp pháp tên thương mại đó trong hoạt động kinh doanh.
4. Chủ sở hữu bí mật kinh doanh là tổ chức, cá nhân có được bí mật kinh doanh một cách hợp pháp và thực hiện việc bảo mật bí mật kinh doanh đó. Bí mật kinh doanh mà bên làm thuê, bên thực hiện nhiệm vụ được giao có được trong khi thực hiện công việc được thuê hoặc được giao thuộc quyền sở hữu của bên thuê hoặc bên giao việc, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
5. Chủ sở hữu chỉ dẫn địa lý của Việt Nam là Nhà nước. Nhà nước trao quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý cho tổ chức, cá nhân tiến hành việc sản xuất sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý tại địa phương tương ứng và đưa sản phẩm đó ra thị trường. Nhà nước trực tiếp thực hiện quyền quản lý chỉ dẫn địa lý hoặc trao quyền quản lý chỉ dẫn địa lý cho tổ chức đại diện quyền lợi của tất cả các tổ chức, cá nhân được trao quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý.
II. Quyền của chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp
1. Chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp có các quyền tài sản sau đây:
a) Sử dụng, cho phép người khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp và chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp;
b) Ngăn cấm người khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp;
c) Định đoạt đối tượng sở hữu công nghiệp.
2. Tổ chức, cá nhân được Nhà nước trao quyền sử dụng, quyền quản lý chỉ dẫn địa lý có các quyền sau đây:
a) Tổ chức được trao quyền quản lý chỉ dẫn địa lý có quyền cho phép người khác sử dụng chỉ dẫn địa lý đó theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều này;
b) Tổ chức, cá nhân được trao quyền sử dụng hoặc tổ chức được trao quyền quản lý chỉ dẫn địa lý có quyền ngăn cấm người khác sử dụng chỉ dẫn địa lý đó theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều này.
III. Sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp
1. Sử dụng sáng chế là việc thực hiện các hành vi sau đây:
a) Sản xuất sản phẩm được bảo hộ;
b) Áp dụng quy trình được bảo hộ;
c) Khai thác công dụng của sản phẩm được bảo hộ hoặc sản phẩm được sản xuất theo quy trình được bảo hộ;
đ) Nhập khẩu sản phẩm quy định tại điểm c khoản này.
2. Sử dụng kiểu dáng công nghiệp là việc thực hiện các hành vi sau đây:
a) Sản xuất sản phẩm có hình dáng bên ngoài là kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ;
c) Nhập khẩu sản phẩm quy định tại điểm a khoản này.
3. Sử dụng thiết kế bố trí là việc thực hiện các hành vi sau đây:
a) Sao chép thiết kế bố trí; sản xuất mạch tích hợp bán dẫn theo thiết kế bố trí được bảo hộ;
c) Nhập khẩu bản sao thiết kế bố trí, mạch tích hợp bán dẫn sản xuất theo thiết kế bố trí hoặc hàng hóa chứa mạch tích hợp bán dẫn sản xuất theo thiết kế bố trí được bảo hộ.
4. Sử dụng bí mật kinh doanh là việc thực hiện các hành vi sau đây:
a) Áp dụng bí mật kinh doanh để sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ, thương mại hàng hóa;
5. Sử dụng nhãn hiệu là việc thực hiện các hành vi sau đây:
a) Gắn nhãn hiệu được bảo hộ lên hàng hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch trong hoạt động kinh doanh;
c) Nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu được bảo hộ.
7. Sử dụng chỉ dẫn địa lý là việc thực hiện các hành vi sau đây:
a) Gắn chỉ dẫn địa lý được bảo hộ lên hàng hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, giấy tờ giao dịch trong hoạt động kinh doanh;
c) Nhập khẩu hàng hóa có mang chỉ dẫn địa lý được bảo hộ.
IV. Quyền ngăn cấm người khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp
1. Chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp và tổ chức, cá nhân được trao quyền sử dụng hoặc quyền quản lý chỉ dẫn địa lý có quyền ngăn cấm người khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp nếu việc sử dụng đó không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.
2. Chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp và tổ chức, cá nhân được trao quyền sử dụng hoặc quyền quản lý chỉ dẫn địa lý không có quyền cấm người khác thực hiện hành vi thuộc các trường hợp sau đây:
a) Sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí nhằm phục vụ nhu cầu cá nhân hoặc mục đích phi thương mại hoặc nhằm mục đích đánh giá, phân tích, nghiên cứu, giảng dạy, thử nghiệm, sản xuất thử hoặc thu thập thông tin để thực hiện thủ tục xin phép sản xuất, nhập khẩu, lưu hành sản phẩm;
b) Lưu thông, nhập khẩu, khai thác công dụng của sản phẩm được đưa ra thị trường, kể cả thị trường nước ngoài một cách hợp pháp, trừ sản phẩm không phải do chính chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc người được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu đưa ra thị trường nước ngoài;
c) Sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí chỉ nhằm mục đích duy trì hoạt động của các phương tiện vận tải của nước ngoài đang quá cảnh hoặc tạm thời nằm trong lãnh thổ Việt Nam;
d) Sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp do người có quyền sử dụng trước thực hiện;
đ) Sử dụng sáng chế do người được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thực hiện;
e) Sử dụng thiết kế bố trí khi không biết hoặc không có nghĩa vụ phải biết thiết kế bố trí đó được bảo hộ;
g) Sử dụng nhãn hiệu trùng hoặc tương tự với chỉ dẫn địa lý được bảo hộ nếu nhãn hiệu đó đã đạt được sự bảo hộ một cách trung thực trước ngày nộp đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý đó;
h) Sử dụng một cách trung thực tên người, dấu hiệu mô tả chủng loại, số lượng, chất lượng, công dụng, giá trị, nguồn gốc địa lý và các đặc tính khác của hàng hóa, dịch vụ.
3. Chủ sở hữu bí mật kinh doanh không có quyền cấm người khác thực hiện các hành vi sau đây:
a) Bộc lộ, sử dụng bí mật kinh doanh thu được khi không biết và không có nghĩa vụ phải biết bí mật kinh doanh đó do người khác thu được một cách bất hợp pháp;
b) Bộc lộ dữ liệu bí mật nhằm bảo vệ công chúng;
c) Sử dụng dữ liệu bí mật không nhằm mục đích thương mại;
d) Bộc lộ, sử dụng bí mật kinh doanh được tạo ra một cách độc lập;
đ) Bộc lộ, sử dụng bí mật kinh doanh được tạo ra do phân tích, đánh giá sản phẩm được phân phối hợp pháp với điều kiện người phân tích, đánh giá không có thỏa thuận khác với chủ sở hữu bí mật kinh doanh hoặc người bán hàng.
Quyền Sở Hữu Và Quyền Năng Của Chủ Sở Hữu
1. Tài sản trong quan hệ pháp luật về quyền sở hữu
Pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật của các quốc gia trên thế giới luôn xác định sở hữu, quyền sở hữu là vấn đề quan trọng nhất của pháp luật dân sự. Các quan hệ tài sản luôn xuất phát từ quan hệ sở hữu và cũng vì quan hệ sở hữu, quan hệ sở hữu là tiền đề, là xuất phát điểm cho tính hợp pháp của các quan hệ khác. Tài sản và quyền sở hữu tài sản đóng vai trò quan trọng trong BLDS., nó vừa là đối tượng vừa là khách thể của quan hệ sở hữu.Yêu cầu cơ bản nhất đặt ra đối với tài sản trong BLDS là tài sản đó phải giao dịch được và được phép đưa vào giao dịch dân sự, Nú là đối tượng phổ biến được điều chỉnh bởi các quy định của cả hệ thống pháp luật; Vì vậy, việc qui định về tài sản và phân loại tài sản trong BLDS là cần thiết để phân biệt tài sản trong quan hệ dân sự với tài sản trong quan niệm thông thường.
Tài sản với tính cách là khách thể của quyền sở hữu đã được qui định tại Điều 163 BLDS năm 2005. Nhưng những qui định này chỉ mang tính chất liệt kê, xác định những loại vật thể và quyền tài sản được coi là tài sản.
“Tài sản” là thuật ngữ có nguồn gốc Hán Việt. Theo nguồn gốc này, thì tài sản là những của cải vật chất tồn tại khách quan, nằm trong sự chiếm hữu và chi phối của con người, được con người khai thác và mang lại lợi ích vật chất hoặc lợi ích tinh thần
Thuật ngữ tài sản có thể được hiểu trên hai phương diện:
Theo quan niệm thông thường: Tài sản là của cải vật chất tồn tại dướidạng cụ thể, được con người sử dụng và được nhận biết bằng giác quan tiếp xúc như giường, tủ, bàn ghế, xe mô tô, tờ tiền … hiểu theo nghĩa thông thường rộng hơn thì tài sản là: “Của cải vật chất hoặc tinh thần có giá trị đối với chủ sở hữu”. Với nghĩa này tài sản luôn gắn với một chủ thể xác định trong một xã hội nhất định. Do đó quan niệm về tài sản cũng thay đổi theo xã hội đối với của cải trong xã hội đó.
Theo phương diện pháp lý: Tài sản là của cải được con người sử dụngđể mang lại lợi ích. Của cải là một khái niệm luôn luôn có sự biến đổi về giá trị vật chất và được pháp luật qui định về chế độ pháp lý đối với nó.
Luật Dân sự Việt Nam thừa nhận tài sản theo nghĩa rộng, theo đó, tài sản bao gồm các vật và quyền tài sản trên các vật đó (vật quyền). Mặc dù không đưa ra định nghĩa về tài sản nhưng Điều 163 Bộ luật Dân sự xác định tài sản bao gồm vật, tiền, các giấy tờ có giá và các quyền tài sản.
BLDS năm 2005 phân loại tài sản thành động sản – bất động sản, tài sản hữu hình – tài sản vô hình, đó là những phân loại mang tính truyền thống và phù hợp với thông lệ quốc tế. Bài viết này tập trung đề cập đến cách phân loại tài sản ở cách phân loại thú hai – Bất động sản và động sản. Để phân biệt động sản – bất động sản Bộ luật Dân sự đã dùng phương pháp loại trừ để xác định một tài sản là động sản hay bất động sản. Khoản 1 Điều 174 BLDS liệt kê các tài sản được coi là bất động sản,
1. Bất động sản là các tài sản bao gồm:
a) Đất đai;
b) Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đó;
c) Các tài sản khác gắn liền với đất đai;
d) Các tài sản khác do pháp luật quy định.
2. Động sản là những tài sản không phải là bất động sản
Việc phân biệt động sản và bất động sản chủ yếu dựa trên tính chất vật lý không di dời được về mặt cơ học và giá trị kinh tế. Trên thực tế thì những tài sản không di, dời được thường là những tài sản có giá trị lớn, như ruộng vườn, nhà cửa, ao chuôm. Việc phân biệt động sản và bất động sản nhằm mục đích qui định hai quy chế pháp lý khác nhau cho hai loại tài sản này. Hai qui chế pháp lý này ảnh hưởng trực tiếp đến những qui định của BLDS khi qui định về quyền của chủ sở hữu thực quyền đòi lại động sản, bất động sản từ người chiếm hữư không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình theo qui định tại Điều 256,257,258 của BLDS
Theo qui định tại Điều 174 BLDS, có thể thấy luật tài sản Việt Nam thừa nhận các loại bất động sản sau đây:
– Bất động sản không thể di, dời được do bản chất tự nhiên vốn có của nó, bao gồm : Đất đai; Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai; Cây cối, hoa màu và các tài sản khác trên đất.
– Các động sản trở thành bất động sản vì mục đích sử dụng chúng: Đó là các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đều được coi là bất động sản. Ví dụ như hệ thống điện được lắp đặt trong tường nhà, hệ thống đường nước trong nhà, bể cá, tủ bày các vật dụng gắn vào hốc tường một cách kiên cố.
– Bất động sản do pháp luật quy định: Ngoài những tài sản là bất động sản kể trên, khi cần thiết, bằng các văn bản pháp luật cụ thể, pháp luật có thể quy định những tài sản khác là bất động sản. Điểm d, khoản 1 Điều 174 BLDS đã quy định “…bất động sản có thể còn là các tài sản khác do pháp luật quy định”. Ví dụ quyền sử dụng đất được xác định là bất động sản, đây chính là việc thừa nhận khái niệm quyền có tính chất bất động sản.
2. Giá trị pháp lý của việc phân biệt động sản- bất động sản
– Phân biệt động sản và bất động sản là cơ sở cho việc qui định về quyền của chủ sở hữu thực quyền đòi lại động sản, bất động sản từ người chiếm hữư không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình theo qui định tại Điều 256,257, 258 của BLDS
– Việc phân biệt động sản – bất động sản có giá trị trong việc qui định xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu. Theo Điều 247 BLDS, người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó kể từ thời điểm chiếm hữu, trừ trường hợp tài sản chiếm hữu là tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước.
– Việc phân biệt này có giá trị quan trọng trong việc tuân thủ hình thức khi các chủ thể xác lập các giao dịch dân sự có đối tượng là bất động sản, thông thường phải xác lập thông qua giao dịch dân sự bằng hình thức văn bản có công chứng hoặc chứng thực của cơ quan Nhà Nước thẩm quyền, giao dịch loại này chỉ có hiệu lực kể từ thời điểm được công chứng hoặc chứng nhận hoặc thời điểm đăng ký.
– Dưới góc độ tố tụng, việc xác định một tài sản là động sản hay bất động sản có giá trị xác định thẩm quyền của Toà án nhân dân trong việc giải quyết tranh chấp. Theo quy định tại Điều 35 Bộ luật Tố tụng Dân sự, các tranh chấp về bất động sản thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nơi có bất động sản.
3. Quyền sở hữu
Quyền sở hữu là vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội cũng như trong pháp luật dân sự. Nó là một trong những tiền đề vật chất cho sự phát triển kinh tế, vì quyền sở hữu chính là mức độ xử sự mà pháp luật cho phép một chủ thể được thực hiện trong quá trình, chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản. Mức độ xử sự ấy qui định giới hạn và khả năng thực hiện của họ trong quá trình học tập, nghiên cứu khoa học, tham gia lao động sản xuất, kinh doanh… Điều đó tác động trực tiếp đến nền kinh tế, thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế.
Xuất phát từ vai trò chi phối của cơ sở kinh tế hạ tầng đối với pháp luật, BLDS ra đời khẳng định vị trí trung tâm của chế định “tài sản và quyền sở hữu”. Trước đây khi chưa có BLDS, vấn đề tài sản và quyền sở hữu được qui định trong Hiến pháp và trong các văn bản pháp luật khác như Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Công ty, Luật Đất đai, Pháp lệnh hợp đồng dân sự, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, Pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả, Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, PLTK… Những qui định về quyền sở hữu trong các văn bản pháp luật này đóng vai trò chủ đạo, là cơ sở định hướng cho các quan hệ kinh tế, các quan hệ dân sự . BLDS ra đời, chế định tài sản và quyền sở hữu đóng vai trò trung tâm, tạo cơ sở pháp lý cho các chế định khác trong Bộ luật cũng như các văn bản pháp luật khác về quan hệ tài sản. Bởi lẽ, quyền sở hữu là cơ sở, là mục đích của rất nhiều quan hệ pháp luật dân sự. Vì thế, quyền sở hữu còn là tiền đề, là xuất phát điểm cho tính hợp pháp của các quan hệ đó. Mục đích cuối cùng của đa phần các hành vi dân sự và giao dịch dân sự là nhằm hướng tới xác lập hoặc chấm dứt quyền sở hữu của cỏc ch? th?. Vì vậy, quyền sở hữu là nội dung hết sức quan trọng trong pháp luật dân sự. Về mặt lý luận, quyền sở hữu là quyền tuyệt đối của các chủ thể trong Luật Dân sự, pháp luật luôn ghi nhận và bảo vệ quyền sở của chủ sở hữu. Việc bảo vệ này phải dựa trên cơ sở pháp lý nhất định, trong đó, vấn đề mấu chốt, căn bản là những căn cứ để xác định một tài sản hay một tập hợp tài sản thuộc sở hữu của ai? Ai là người có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt nó.
Mặt khác, quyền sở hữu còn được xem xét dưới góc độ là một quan hệ pháp luật dân sự. Bởi thế, nó cũng được phát sinh khi có những sự kiện pháp lý nhất định. Những sự kiện pháp lý này chính là những căn cứ xác lập quyền sở hữu đối với tài sản của cá nhân.
Có thể khẳng định: Các căn cứ xác lập quyền sở hữu và các quan hệ pháp luật dân sự có mối quan hệ phụ thuộc, chi phối lẫn nhau. Giao dịch dân sự là một trong những căn cứ phổ biến để xác lập quyền sở hữu đối với tài sản thông qua thoả thuận và thống nhất ý chí của các bên, trong khi đó, muốn tham gia giao dịch dân sự thì chính các chủ thể đó phải có tài sản, và tài sản đó phải được xác lập dựa trên những căn cứ do pháp luật qui định. Vì vậy, việc qui định đầy đủ và chi tiết các căn cứ xác lập quyền sở hữu là hết sức cần thiết để xác định quyền sở hữu tài sản của công dân cũng như các chủ thể khác. Đồng thời, đáp ứng nhu cầu đòi hỏi khách quan trong lý luận cũng như trong thực tiễn xét xử.
Tuỳ thuộc vào pháp luật của mỗi chế độ chính trị khác nhau mà các căn cứ làm phát sinh quyền sở hữu trong các chế độ đó cũng được qui định khác nhau. Các căn cứ này phản ánh bản chất và xu thế phát triển của mỗi chế độ xã hội. Nội dung các căn cứ có bao quát hay hạn hẹp, cụ thể hay khái lược đều thể hiện quan điểm của giai cấp thống trị và phù hợp với thực tế của xã hội ở thời điểm nhất định.
Tính chất, nội dung của từng sự kiện pháp lý qui định từng hình thức sở hữu khác nhau. Khi một sự kiện pháp lý xảy ra nó có thể xuất hiện quyền sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu của pháp nhân, hoặc sở hữu của cá nhân… Quyền sở hữu của mỗi cá nhân chỉ được xác lập dựa trên những căn cứ do pháp luật qui định đặc trưng cho chủ thể và khách thể của quyền sở hữu cá nhân. Những căn cứ đó là những khả năng xảy ra trong thực tế cuộc sống mà BLDS ghi nhận và nâng lên thành qui định chung, dựa vào đó chủ sở hữu có được tài sản thuộc quyền sở hữu của mình.
Tại Điều 170 BLDS, quyền sở hữu được xác lập đối với tài sản dựa trên những căn cứ sau đây:
– Do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp: Công dân đã bằng sức lao động của mình tạo ra các sản phẩm, các thành quả lao động thì họ hoàn toàn có quyền sở hữu đối với những tài sản được tạo ra bằng chính lao động của họ.
– Được chuyển giao quyền sở hữu theo thoả thuận hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền: Thoả thuận là cơ sở của hợp đồng, việc thoả thuận này của các bên với mục đích hợp pháp là chuyển giao tài sản và quyền sở hữu tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác thông qua các hợp đồng mua bán, tặng cho, trao đổi, cho vay… là cách thức thực hiện hành vi pháp lý phổ biến nhất làm phát sinh quyền sở hữu của chủ thể. Người được chuyển giao tài sản thông qua các hợp đồng dân sự hợp pháp thì có quyền sở hữu tài sản đó kể từ thời điểm nhận tài sản nếu không có thoả thuận hoặc pháp luật không có qui định khác.
– Thu hoa lợi, lợi tức: Chủ sở hữu, người sử dụng tài sản có quyền sở hữu đối với hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản mà họ có quyền sở hữu. Đó là hoa lợi do cây cối, hoa màu, súc vật… mang lại theo mối liên hệ nguồn gốc phụ thuộc giữa vật chủ ban đầu với hoa lợi đó. Các món lợi bằng tiền hoặc hiện vật thu được do việc chủ sở hữu cho người khác sử dụng tài sản hoặc chính chủ sở hữu thực hiện quyền tài sản đối với tài sản (cho thuê, cho vay tài sản…).
– Tạo thành vật mới do sáp nhập, trộn lẫn, chế biến. Do có các sự kiện này mà tài sản của nhiều chủ sở hữu tạo thành vật mới: Vật mới có thể là chung hay riêng của từng sở hữu chủ được xác định theo các Điều 236, 237, 238 của BLDS.
– Được thừa kế tài sản: Người được thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật là chủ sở hữu tài sản được thừa kế do người chết để lại.
– Chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai phù hợp với thời hiệu do pháp luật qui định.
– Các trường hợp khác do pháp luật qui định.
Khái niệm này chỉ xuất hiện khi Nhà nước ban hành pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội về sở hữu. Lúc này trong xã hội có giai cấp, bản năng chiếm hữu của con người được Nhà nước quy định thành luật thích ứng với các thể chế của một xã hội nhất định.
Như vậy, theo nghĩa khách quan. Quyền sở hữu là một phạm trù pháp lý phản ánh các quan hệ sở hữu trong một chế độ sở hữu nhất định, bao gồm tổng hợp các qui phạm pháp luật nhằm điều chỉnh nhũng quan hÖ sở hữu trong một chế độ xã hội. Với chức năng, thừa nhận và bảo vệ quyền lợi của các chủ sở hữu trong việc chiếm hữu , sử dụng, định đoạt tài sản.
Quyền sở hữu theo nghĩa hẹp: được hiểu là mức độ xử sự mà pháp luật cho phép một chủ thể thực hiện các quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt trong những điều kiện nhất định. Theo nghĩa này quyền sở hữu chính là quyền năng dân sự của chủ thể sở hữu đối với một tài sản cụ thể và xuất hiện trên cơ sở nội dung qui định của qui phạm pháp luật khách quan
4. Các quyền năng của chủ sở hữu
Luật dân sự Việt Nam xác định chiếm hữu là một quyền năng của quyền sở hữu cụ thể, Điều 182 BLDS qui định quyền chiếm hữu là quyền nắm giữ, quản lý tài sản. Nắm giữ tài sản là việc người chiếm hữu giữ vật trong phạm vi kiểm soát làm chủ và chi phối tài sản đó theo ý chí của mình, ví dụ, cất tiền vào túi, quần áo, trang sức để vào trong tủ
Trong chiếm hữu theo luật Việt Nam, xét dưới góc độ chủ thể chiếm hữu, có thể tồn tại hai khả năng sau đây:
Người chiếm hữu tài sản đồng thời là chủ sở hữu tài sản và người chiếm hữu không phải là chủ sở hữu của tài sản;
Xét theo việc chiếm hữu có căn cứ hay không có căn cứ, có thể chia chiếm hữu thành chiếm hữu có căn cứ pháp luật và chiếm hữu không có căn cứ pháp luật.
Các loại chiếm hữu
· Chiếm hữu có căn cứ pháp luật
Chiếm hữu có căn cứ pháp luật được hiểu là các trường hợp người chiếm hữu thực sự có quyền chiếm hữu đối với tài sản của mình dựa trên những căn cứ do pháp luật qui định. Đó là hình thức chiếm hữu hợp pháp, theo Điều 183 , sự chiếm hữu hợp pháp trứơc hết đó là sự chiếm hữu tài sản của một chủ sở hữu được pháp luật công nhận.
Người không phải là chủ sở hữu mà chiếm hữu tài sản thì chỉ được coi là chiếm hữu hợp pháp khi rơi vào các trường hợp sau: người được chủ sở hữu uỷ quyền quản lý tài sản, người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự; người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu, bị chìm đắm; người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc, chiếm hữu của cơ quan, tổ chức theo chức năng và thẩm quyền có quyền thu giữ và chiếm hữu tài sản…
Đối với các trường hợp người được chủ sở hữu uỷ quyền quản lý tài sản hoặc được giao tài sản thông qua giao dịch dân sự, người chiếm hữu không thể xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu (Điều 185,186).
Người chiếm hữu tài sản của người khác có căn cứ pháp luật chỉ thực hiện quyền chiếm hữu trong phạm vi, theo cách thức và thời hạn do chủ sở hữu xác định. Hay nói khác đi, người không phải là chủ sở hữu thực hiện các quyền năng chủ yếu không mang tính độc lập.( Khoản 1 Điêù 185) .
Trong trường hợp quyền chiếm hữu bị xâm phạm, người chiếm hữu tài sản của người khác nhưng có căn cứ pháp luật được pháp luật bảo vệ theo các quy định về bảo vệ quyền sở hữu (từ Điều 255 đến Điều 260 BLDS). Lẽ dĩ nhiên, người này phải chứng minh được tính hợp pháp của việc chiếm hữu, chẳng hạn bằng việc xuất trình hợp đồng thuê tài sản.
· Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật
Người chiếm hữu trong tình trạng chiếm hữu không dựa vào các trường hợp được liệt kê tại Điều 190 BLDS đều bị xem là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật. Thực chất, chiếm hữu không có căn cứ pháp luật là trường hợp một người thực hiện quyền chiếm hữu của chủ sở hữu đối với một tài sản tức là xử sự như chính mình là chủ sở hữu trong khi thực chất chủ sở hữu đích thực của tài sản lại là người khác. Có hai trường hợp xảy ra: chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, chiếm hữu không có căn cứ pháp luật và không ngay tình.
Người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật và không ngay tình không được pháp luật bảo vệ và không được hưởng quy chế xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu.
Trái lại, người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình được pháp luật bảo vệ trong nhiều trường hợp và được xác lập quyền sở hữu tài sản theo thời hiệu.
Quyền sử dụng
Điều 192 BLDS định rõ: quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Khai thác công dụng của tài sản được hiểu là việc dùng tài sản để phục vụ nhu cầu, sở thích của bản thân hoặc để khai thác lợi ích kinh tế của tài sản. Chẳng hạn, sử dụng môtô làm phương tiện để đi lại, đeo nữ trang hay đồng hồ để làm đẹp…Hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản là việc chủ sở hữu thu nhận các sản vật tự nhiên mà tài sản mang lại như trái cây, gia súc sinh con, gia cầm đẻ trứng… hoặc thu các khoản lợi từ việc khai thác tài sản như tiền cho thuê nhà, lợi tức cổ phiếu, lợi tức cho vay… Việc sử dụng các tài sản là vật tiêu hao, đặc biệt là các vật tiêu hao hết sau một lần sử dụng như việc sử dụng thức ăn, đồ uống, tiêu tiền … cũng đồng nghĩa với việc chủ sở hữu sử dụng quyền định đoạt đối với tài sản.
Như vậy, sử dụng tài sản là một trong những quyền năng quan trọng và có ý nghĩa thực tế của chủ sở hữu. Chủ sở hữu hoàn toàn có toàn quyền hác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức của tài sản theo cách thức và mục đích sử dụng tài sản theo ý chí của mình: sử dụng hoặc không sử dụng tài sản, trực tiếp khai thác công dụng tự nhiên của tài sản hoặc để cho người khác sử dụng thông qua các giao dịch dân sự như hợp đồng cho thuê, cho mượn. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, việc sử dụng tài sản phải trên nguyên tắc không được làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Thông thường, chủ sở hữu là người có quyền sử dụng tài sản nhưng pháp luật cũng ghi nhận ba trường hợp người không phải chủ sở hữu cũng có quyền sử dụng tài sản.
Trường hợp thứ nhất, người được chủ sở hữu chuyển giao quyền sử dụng tài sản thông qua hợp đồng. Trong trường hợp này, người sử dụng được quyền khai thác tài sản theo cách thức và thời hạn đã được thoả thuận với chủ sở hữu.
Trường hợp thứ hai, người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình cũng có quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Vì vậy, người này chỉ phải hoàn trả hoa lợi, lợi tức thu được từ thời điểm họ biết hoặc buộc phải biết việc chiếm hữu tài sản là không có căn cứ pháp luật (Khoản 2 Điều 194 BLDS ).
Trường hợp thứ ba, cơ quan hay tổ chức nào đó cũng có quyền sử dụng tài sản của người khác trên cơ sở một văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc sử dụng tài sản trong tình thế cấp thiết phù hợp với qui định của pháp luật.
Về nguyên tắc, chủ sở hữu có toàn quyền định đoạt số phận thực tế hay số phận pháp lý tài sản của mình. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhăm bảo đảm hài hoà giữa lợi ích của chủ sở hữu và lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng hoặc lợi ích của người khác, quyền định đoạt có thể bị hạn chế theo những điều kiện cụ thể do pháp luật quy định. Được thể hiện trong một số trương hợp sau:
Khi tài sản đem bán là cổ vật, là di tích lịch sử, văn hoá thì Nhà nước có quyền ưu tiên mua;
Trong trường hợp tổ chức, cá nhân có quyền ưu tiên mua một tài sản theo quy định của pháp luật thì khi bán tài sản, chủ sở hữu phải dành quyền ưu tiên mua cho các tổ chức, cá nhân đó. Ví dụ, thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ có thể chuyển nhượng phần vốn góp của mình cho người ngoài nếu các thành viên khác của công ty không mua hoặc mua không hết((Điều 43 Luật Doanh nghiệp);
Bán nhà ở đang cho thuê thì bên thuê được quyền ưu tiên mua trước( Điều 94 Luật nhà ở năm 2005) .
Trong trường hợp pháp luật có quy định trình tự, thủ tục định đoạt tài sản thì phải tuân theo trình tự, thủ tục đó. Điều 450 BLDS quy định hợp đồng mua bán nhà ở phải được lập thành văn bản, có công chứng hoặc chứng thực trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Như vậy, nếu A bán nhà cho B nhưng hợp đồng không được công chứng thì hợp đồng này có nguy cơ bị xem là vô hiệu (Điều 122, 124 và 127 BLDS.
Có những trường hợp tuy không phải là chủ sở hữu, cũng không được chủ sở hữu uỷ quyền, nhưng theo qui định của pháp luật những người có thẩm quyền vẫn có quyền định đoạt tài sản.( Trung tâm bán đấu giá tài sản theo qui định của pháp luật; hiệu cầm đồ được quyền bán tài sản, nếu hết thời hạn đã thoả thuận mà người vay không trả được tiền vay…).
· Ngưòi được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật được xác định là người chiếm hữư hợp pháp hay bất hợp pháp? Hay chỉ xác định là người chiếm hữu không có căn cú pháp luật? để từ đó xác định tư cách chủ thể trong việc áp dụng biện pháp bảo vệ quyền sở hữu.
· Có nên bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu?
· Trường hợp người chiếm hữu tài sản ban đầu có căn cứ pháp luật nhưng sau đó lại rơi vào tình trạng chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình. Chẳng hạn thuê nhà của người không phải là chủ sở hữu, sau đó bị chủ sở hữu kiện đòi nhà, thuê nhà của người được chia thừa kê của người bị Toà án tuyên bố chết, sau đó người này quay trở vê… Trong các trường hợp này có được xem xét ” quyền của người thuê nhà khi nhà cho thuê thay đổi chủ sở hữu theo qui định tại Điều 104 Luật nhà ở năm 2005 không?
· Khoản 2 Điều 194 và Điều 190 có mâu thuẫn khi qui định về tính liên tục quyền chiếm hữu của chủ sở hữu?
· Có câu trả lời cho trường hợp “Ngưòi chiếm hữu hợp pháp có quyền đòi lại tài sản theo Điều 257, 258 không?
· Điều 257 sử dụng cụm từ “hợp đồng có đền bù” là chưa bao quát hết mọi trường hợp tài sản được chuyển giao thông qua giao dịch dân sự. Bởi lẽ, việc dịch chuyển này không chỉ thông qua hợp đồng dân sự.
· Không nên hiểu ” tài sản cứ thông qua bán đấu giá” là đương nhiên có hiệu lực và người mua tài sản từ cuộc bán đấu giá là được xác lập quyền sở hữu một cách đương nhiên.
Xâm Phạm Quyền Sở Hữu Công Nghiệp
Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là gì?
Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là các hành vi trái phép xâm phạm quyền và lợi ích của chủ thể sở hữu đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ.
Các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp?
Hành vi xâm phạm quyền đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí (Điều 126 Luật Sở hữu trí tuệ)
Sử dụng sáng chế được bảo hộ, kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ hoặc kiểu dáng công nghiệp không khác biệt đáng kể với kiểu dáng đó, thiết kế bố trí được bảo hộ hoặc bất kỳ phần nào có tính nguyên gốc của thiết kế bố trí đó trong thời hạn hiệu lực của văn bằng bảo hộ mà không được phép của chủ sở hữu;
Sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mà không trả tiền đền bù theo quy định về quyền tạm thời quy định tại Điều 131 của Luật Sở hữu trí tuệ.
Hành vi xâm phạm quyền đối với bí mật kinh doanh (Điều 127 Luật Sở hữu trí tuệ)
Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của người kiểm soát hợp pháp bí mật kinh doanh đó; Người kiểm soát hợp pháp bí mật kinh doanh bao gồm chủ sở hữu bí mật kinh doanh, người được chuyển giao hợp pháp quyền sử dụng bí mật kinh doanh, người quản lý bí mật kinh doanh.
Bộc lộ, sử dụng thông tin thuộc bí mật kinh doanh mà không được phép của chủ sở hữu bí mật kinh doanh đó;
Vi phạm hợp đồng bảo mật hoặc lừa gạt, xui khiến, mua chuộc, ép buộc, dụ dỗ, lợi dụng lòng tin của người có nghĩa vụ bảo mật nhằm tiếp cận, thu thập hoặc làm bộc lộ bí mật kinh doanh;
Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh của người nộp đơn theo thủ tục xin cấp phép kinh doanh hoặc lưu hành sản phẩm bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của cơ quan có thẩm quyền;
Không thực hiện nghĩa vụ bảo mật quy định tại Điều 128 của Luật Sở hữu trí tuệ.
Hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý (Điều 129 Luật Sở hữu trí tuệ)
Các hành vi sau đây được thực hiện mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu thì bị coi là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu:
Mọi hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại trùng hoặc tương tự với tên thương mại của người khác đã được sử dụng trước cho cùng loại sản phẩm, dịch vụ hoặc cho sản phẩm, dịch vụ tương tự, gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, cơ sở kinh doanh, hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại đó đều bị coi là xâm phạm quyền đối với tên thương mại.
Các hành vi sau đây bị coi là xâm phạm quyền đối với chỉ dẫn địa lý được bảo hộ:
Sử dụng chỉ dẫn địa lý được bảo hộ cho sản phẩm mặc dù có nguồn gốc xuất xứ từ khu vực địa lý mang chỉ dẫn địa lý, nhưng sản phẩm đó không đáp ứng các tiêu chuẩn về tính chất, chất lượng đặc thù của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý;
Sử dụng chỉ dẫn địa lý được bảo hộ cho sản phẩm tương tự với sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý nhằm mục đích lợi dụng danh tiếng, uy tín của chỉ dẫn địa lý;
Sử dụng bất kỳ dấu hiệu nào trùng hoặc tương tự với chỉ dẫn địa lý được bảo hộ cho sản phẩm không có nguồn gốc từ khu vực địa lý mang chỉ dẫn địa lý đó làm cho người tiêu dùng hiểu sai rằng sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực địa lý đó;
Sử dụng chỉ dẫn địa lý được bảo hộ đối với rượu vang, rượu mạnh cho rượu vang, rượu mạnh không có nguồn gốc xuất xứ từ khu vực địa lý tương ứng với chỉ dẫn địa lý đó, kể cả trường hợp có nêu chỉ dẫn về nguồn gốc xuất xứ thật của hàng hóa hoặc chỉ dẫn địa lý được sử dụng dưới dạng dịch nghĩa, phiên âm hoặc được sử dụng kèm theo các từ loại, kiểu, dạng, phỏng theo hoặc những từ tương tự như vậy.
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh (Điều 130 Luật Sở hữu trí tuệ)
Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, hoạt động kinh doanh, nguồn gốc thương mại của hàng hóa, dịch vụ;
Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về xuất xứ, cách sản xuất, tính năng, chất lượng, số lượng hoặc đặc điểm khác của hàng hóa, dịch vụ; về điều kiện cung cấp hàng hóa, dịch vụ;
Sử dụng nhãn hiệu được bảo hộ tại một nước là thành viên của điều ước quốc tế có quy định cấm người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu sử dụng nhãn hiệu đó mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng là thành viên, nếu người sử dụng là người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu và việc sử dụng đó không được sự đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu và không có lý do chính đáng;
Đăng ký, chiếm giữ quyền sử dụng hoặc sử dụng tên miền trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, tên thương mại được bảo hộ của người khác hoặc chỉ dẫn địa lý mà mình không có quyền sử dụng nhằm mục đích chiếm giữ tên miền, lợi dụng hoặc làm thiệt hại đến uy tín, danh tiếng của nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý tương ứng.
Lưu ý:
Chỉ dẫn thương mại là các dấu hiệu, thông tin nhằm hướng dẫn thương mại hàng hóa, dịch vụ, bao gồm nhãn hiệu, tên thương mại, biểu tượng kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng bao bì của hàng hóa, nhãn hàng hóa.
Tự bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp?
Áp dụng biện pháp công nghệ nhằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp;
Yêu cầu tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp phải chấm dứt hành vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường thiệt hại;
Khởi kiện ra tòa án hoặc trọng tài để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Các biện pháp xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp?
Tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của tổ chức, cá nhân khác thì tùy theo tính chất, mức độ xâm phạm, có thể bị xử lý bằng biện pháp dân sự , hành chính (Nghị định số 99/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp) hoặc hình sự (Điều 226 Văn bản hợp nhất Bộ luật Hình sự số 01/VBHN-VPQH).
Khái Quát Về Bảo Vệ Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Và Các Biện Pháp Bảo Vệ Quyền Sở Hữu Công Nghiệp
1. Khái niệm về bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp
Để làm rõ khái niệm bảo vệ QSHCN, trước hết chúng ta cần làm rõ khái niệm về bảo hộ, thực thi QSHCN và mối liên hệ giữa chúng.
Trong Công ước Paris, bảo hộ QSHCN bao gồm các đối tượng là sáng chế, mẫu hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ, tên thương mại, chỉ dẫn xuất xứ hoặc tên gọi xuất xứ hàng hóa, cũng như việc ngăn chặn cạnh tranh không lành mạnh.
Theo Từ điển tiếng Việt, thuật ngữ “bảo hộ” được hiểu theo nghĩa thông thường là “che chở, không để bị hư hỏng, tổn thất”. Việc bảo hộ luôn được gắn với sự quản lý của nhà nước thông qua các giải pháp để bảo vệ, giúp đỡ, hỗ trợ bằng chính sách, pháp luật mà mỗi quốc gia dành cho công dân hoặc tổ chức, cá nhân nước ngoài hoạt động, cư trú ở nước đó.
Theo TS. Nguyễn Thanh Tâm: bảo hộ QSHCN được hiểu là việc nhà nước, bằng những quy định của pháp luật, xác lập QSHCN, xác định những hành vi bị coi là xâm phạm QSHCN và quy định những biện pháp xử lý những hành vi vi phạm đó. Trong Luật SHTT, nội dung nhà nước bảo hộ đối với QSHCN là các quy định về việc bảo hộ QSHCN tại các cơ quan quản lý nhà nước như: các điều kiện bảo hộ, nội dung quyền SHCN, giới hạn QSHCN, thời hạn bảo hộ QSHCN, chuyển giao QSHCN, chứng nhận QSHCN…qua đó nhà nước đảm bảo quyền sở hữu với các đối tượng của QSHCN cho các cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác đã được cơ quan có thẩm quyền cấp văn bằng bảo hộ hoặc được thừa nhận. Hoạt động bảo hộ dưới góc độ của quản lý nhà nước đó chính là việc xác lập quyền cho các chủ sở hữu QSHCN theo quy định của pháp luật. QSHCN được nhà nước bảo hộ bằng các chính sách và hệ thống pháp luật về QSHCN.
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học của trường Đại học Luật Hà Nội thì: bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp là bảo hộ sản phẩm trí tuệ, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể QSHCN như tác giả, chủ văn bằng bảo hộ và người sử dụng hợp pháp đối tượng QSHCN.
Do vậy, bảo hộ QSHCN được hiểu là nhà nước, bằng những quy định của pháp luật xác lập QSHCN (cấp văn bằng bảo hộ), xác định những hành vi bị coi là xâm phạm QSHCN và quy định những biện pháp xử lý những hành vi vi phạm đó.
Thực thi QSHCN là việc thực hiện pháp luật về SHCN, thông qua sự bắt buộc các chủ thể phải hoàn toàn tuân thủ, chấp hành pháp luật dù muốn hay không muốn. Nói tới thực thi QSHCN là nói tới trình tự, thủ tục mà các chủ thể phải tuân theo, cũng như các biện pháp xử lý, các chế tài do các cơ quan có thẩm quyền áp dụng khi có hành vi vi phạm.
Xét về bản chất, nội dung quan trọng nhất của QSHCN là độc quyền sử dụng, khai thác đối tượng thuộc quyền. Vì vậy, thực thi QSHCN cũng có nghĩa là đảm bảo quyền khai thác, sử dụng đối tượng QSHCN của chủ thể nắm giữ quyền đó sao cho khi tiến hành việc khai thác sử dụng, người nắm giữ quyền không gặp phải sự cản trở từ phía người thứ ba. Nói cách khác, bản chất của việc bảo đảm điều kiện cần thiết để các chủ thể QSHCN thực hiện các quyền của mình là ngăn chặn mọi hành vi cản trở việc sử dụng, khai thác đối tượng QSHCN của chủ thể quyền.
Hiện nay, trong các văn bản quy phạm pháp luật và thực tiễn thi hành, vấn đề thực thi QSHCN được tiếp cận và giải quyết theo hướng bảo đảm các điều kiện ngăn ngừa và ngăn chặn việc người thứ ba (người không nắm giữ quyền) khai thác, sử dụng các đối tượng QSHCN đang trong thời hạn bảo hộ nhằm mục đích kinh doanh mà không được phép của người nắm giữ quyền và không thuộc các trường hợp pháp luật cho phép sử dụng. Như vậy, mục đích của thực thi QSHCN là ngăn ngừa và xử lý các hành vi bị coi là xâm phạm QSHCN, tạo ra sức sống trên thực tế cho các quy phạm pháp luật về SHCN.
Tóm lại, bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp được hiểu là bằng những quy định của pháp luật, Nhà nước xác định những hành vi bị coi là xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp và quy định các biện pháp xử lý những hành vi vi phạm đó, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác trong hoạt động sở hữu công nghiệp.
Bảo vệ QSHCN hiện nay là đòi hỏi khách quan, không chỉ nhằm bảo vệ quyền của người sáng tạo, mà còn là cơ chế bảm bảo sự công bằng, thúc đẩy hoạt động sáng tạo tìm tòi của con người, góp phần bảo đảm một nền thương mại bình đẳng, dựa trên nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh; góp phần thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ hợp pháp, qua đó nâng cao sự phát triển của toàn xã hội.
Ý nghĩa của việc bảo vệ QSHCN
Mục tiêu cuối cùng của hệ thống bảo vệ QSHCN chính là chống lại nguy cơ bị lợi dụng hoặc chiếm đoạt kết quả đầu tư sáng tạo và bảo vệ các cơ hội cho người đã đầu tư để tạo ra các kết quả sáng tạo đó, nhờ vậy mà kích thích, thúc đẩy các nỗ lực sáng tạo trong nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh. Hiển nhiên, mục tiêu nói trên sẽ không đạt được nếu không khắc phục được tệ nạn xâm phạm QSHCN. Hệ thống bảo vệ QSHCN chính là đảm bảo ngăn ngừa và xử lý các hành vi bị coi là xâm phạm QSHCN. Vì vậy, bảo vệ QSHCN chính là bảo đảm hiệu lực QSHCN của chủ thể quyền, khuyến khích hoạt động đầu tư sáng tạo, phát triển sản xuất, buôn bán trong nước.
Trong quan hệ thương mại quốc tế, việc QSHCN không được bảo vệ và thực thi thoả đáng, hiệu quả thì sẽ bị coi là thực tiễn thương mại thiếu lành mạnh và là rào cản đối với thị trường tự do và mở cửa. Vì, khi các đối thủ cạnh tranh trên thị trường đó không cần đầu tư cho nghiên cứu và triển khai (R&D), có thể bắt chước, sao chép và bán các sản phẩm với giá rẻ hơn nhiều, và vì thế chiếm chỗ và loại các sản phẩm hợp pháp và chính hiệu ra khỏi thị trường đó. Kết quả là các nhà sản xuất chân chính không có khả năng thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận cần thiết để tiếp tục duy trì hoạt động cải tiến và sáng tạo, bao gồm cả việc tạo ra các sản phẩm mới, làm thiệt hại đối với các quyền lợi thương mại và đầu tư của họ. Hiện nay, nhiều nước, đặc biệt là các nước phát triển, đã coi việc bảo vệ các tài sản trí tuệ của họ như là điều kiện không thể thiếu được trong việc thiết lập các quan hệ thương mại (ví dụ như Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ). Tại Điều 7 của Hiệp định TRIPs quy định rằng, việc bảo vệ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ sẽ “góp phần thúc đẩy cải tiến, chuyển giao và phổ biến công nghệ, mang lại lợi ích cho cả người sáng tạo và người sử dụng công nghệ, cũng như lợi ích kinh tế – xã hội nói chung và bảo đảm sự cân bằng giữa quyền và nghĩa vụ”. Do đó, nếu hệ thống thực thi quyền sở hữu công nghiệp không hiệu quả thì sẽ làm tổn hại đến chính sách hội nhập quốc tế và đầu tư nước ngoài của quốc gia cho sự phát triển của mình.
Hiện nay, với sự phát triển nhanh chóng của hệ thống thương mại toàn cầu, sự bùng nổ của công nghệ thông tin đã kích thích nhu cầu của người tiêu dùng tăng lên nhanh chóng và ngày càng đa dạng. Điều đó đòi hỏi các nhà sản xuất phải nhanh chóng đưa ra thị trường các sản phẩm mới có sự thay đổi về kiểu dáng, mẫu mã, cũng như sự hoàn thiện về tính năng, tác dụng. Có thể khẳng định rằng, hiện nay không có hàng hoá có giá trị nào được thị trường chấp nhận mà lại không chứa các đối tượng sở hữu công nghiệp được bảo hộ và bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp là một điều kiện không thể thiếu để các nhà sản xuất có thể duy trì và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó, có thể nói, các đối tượng sở hữu công nghiệp được tạo ra để đáp ứng nhu cầu nhất định của người tiêu dùng và việc đảm bảo thực thi quyền sở hữu công nghiệp cũng chính là bảo đảm cho người tiêu dùng được sử dụng sản phẩm chính hiệu, đảm bảo chất lượng đúng bản chất của nó. Và như vậy, hệ thống bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp không chỉ bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu, mà còn là phương tiện để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng. Tức là hệ thống thực thi quyền sở hữu công nghiệp còn có ý nghĩa nhất định đối với xã hội.
Hiểu rõ vai trò của việc bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp trong phát triển kinh tế – xã hội, Việt Nam đang chú trọng tạo dựng một hệ thống thực thi có hiệu quả trong hệ thống bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở hữu công nghiệp nói riêng để đạt được sự phát triển kinh tế đất nước nhanh chóng trong xu thế hội nhập với chính sách phát huy nội lực và tranh thủ sự đầu tư nước ngoài.
2. Các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp
Tuỳ theo tính chất, mức độ xâm phạm, vi phạm hoặc tranh chấp về sở hữu công nghiệp, có thể áp dụng một hoặc một số trong ba loại trình tự pháp luật sau đây với mục đích nhằm bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp: bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự (tiến hành các vụ kiện theo thủ tục dân sự); bảo vệ QSHCN bằng biện pháp hành chính (đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính) và bảo vệ QSHCN bằng biện pháp hình sự (xét xử tội phạm về sở hữu công nghiệp). Cụ thể từng loại trình tự đó như sau:
2.1. Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính
Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp theo trình tự hành chính (bằng biện pháp hành chính) là thủ tục xử lý hành chính các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp bằng việc áp dụng các hình thức xử phạt vi phạm hành chính đối với các tổ chức, cá nhân có hành vi bị coi là xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp luật.
Hình thức xử phạt vi phạm hành chính về sở hữu công nghiệp gồm các hình thức sau:
(i) Hình thức xử phạt chính là: Cảnh cáo hoặc phạt tiền;
(iii) Các biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc tiêu huỷ vật phẩm, hàng hoá vi phạm; buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên sản phẩm, hàng hoá, phương tiện kinh doanh…
2.2. Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp dân sự
Như phần trên đã đề cập, các đối tượng sở hữu công nghiệp được coi là một loại tài sản và quyền sở hữu công nghiệp có bản chất là một loại quyền sở hữu tài sản. Bởi vậy, quyền sở hữu công nghiệp trước hết và chủ yếu là một loại quyền dân sự. Pháp luật bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp cũng theo các nguyên tắc bảo vệ các quyền dân sự khác. Theo nguyên tắc này, người chiếm giữ quyền sở hữu công nghiệp có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm quyền phải tự chấm dứt vi phạm, yêu cấu các cơ quan có thẩm quyền bảo vệ quyền của mình khi người xâm phạm nhận được yêu cầu xong không chấm dứt hành vi vi phạm. Để nhận được sự bảo vệ như vậy, người nắm giữ quyền phải chỉ ra người xâm phạm, phải chứng minh hành vi xâm phạm và có quyền đưa ra các yêu cầu về hình thức xử lý, nhưng trước hết bản thân người nắm giữ quyền phải chủ động tự mình tiến hành việc theo dõi, giám sát thị trường để phát hiện người và nơi đã thực hiện hành vi xâm phạm để cung cấp thông tin cho các cơ quan có thẩm quyền xử lý. Cơ quan có thẩm quyền chỉ chấp nhận xử lý theo yêu cầu của người nắm giữ quyền sở hữu công nghiệp khi hành vi xâm phạm quyền được người đó chứng minh thông qua việc cung cấp chứng cứ.
Trong các loại tranh chấp dân sự về sở hữu công nghiệp được giải quyết tại Toà án có các tranh chấp về việc sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp, tức là về việc xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Việc giải quyết tranh chấp có thể được khái quát như sau:
– Quyền khởi kiện dân sự: Theo nguyên tắc thông thường, người nào chứng minh được rằng mình là người có quyền hợp pháp theo quy định của pháp luật đều có quyền khởi kiện với lý do quyền của mình không được tôn trọng hoặc bị xâm phạm. Theo nguyên tắc đó, người có quyền khởi kiện về việc xâm phạm quyền của mình là người được cấp Văn bằng bảo hộ hoặc có căn cứ để chứng minh là người nắm giữ quyền.
Hầu hết quyền sở hữu công nghiệp đều có phạm vi (khối lượng) xác định và có thời hạn. Do vậy, quyền khởi kiện cũng chỉ giới hạn tương ứng với phạm vi và thời hạn đó. Theo quy định về tố tụng dân sự, quyền khởi kiện có đặc tính thời hiệu, nếu quá thời hiệu đó, quyền khởi kiện bị coi như mất.
Khi khởi kiện, người khởi kiện (nguyên đơn) phải chứng minh quyền khởi kiện của mình bằng cách xuất trình các chứng cứ cần thiết như: Văn bằng bảo hộ, các tài liệu chứng minh sự phát sinh quyền…
Nghĩa vụ chứng minh trong các vụ kiện xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp: bên khởi kiện (nguyên đơn) có nghĩa vụ phải chỉ ra tên, địa chỉ người bị kiện, mô tả và chứng minh hành vi hoặc sự kiện là đối tượng của vụ kiện. Để làm được điều đó, nguyên đơn phải xuất trình các chứng cứ nhằm chứng minh cho các yêu cầu của mình. Nguyên đơn phải tự tiến hành điều tra, xác minh để phát hiện người xâm phạm quyền, thu thập chứng cứ để chứng minh về hành vi xâm phạm, đánh giá thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền đó gây ra. Nếu không có hoặc không đủ chứng cứ đáng tin cậy để chứng minh được hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp của mình, Toà án sẽ bác bỏ yêu cầu của nguyên đơn.
Các biện pháp xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo trình tự dân sự: Tuỳ theo tính chất, nội dung và mức độ xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp của mình, người nắm giữ quyền có thể yêu cầu Toà án áp dụng và thực hiện một hoặc một số biện pháp xử lý sau:
(i) Bắt buộc người xâm phạm (bị đơn) chấm dứt hành vi xâm phạm, kể cả các biện pháp ngăn ngừa việc đưa các sản phẩm xâm phạm vào các kênh thương mại, nếu sản phẩm đó đã được nhập khẩu và hoàn tất thủ tục hải quan;
(ii) Bắt buộc bị đơn phải bồi thường thiệt hại, kể cả khoản lợi nhuận đáng lẽ mình thu được khi không xảy ra hành vi xâm phạm của bị đơn;
(iii) Bắt buộc bị đơn phải trả cho mình chi phí tham gia vụ kiện, kể cả chi phí hợp lý để thuê luật sư.
Nhằm đối phó với tình trạng tẩu tán, tiêu huỷ tang vật xâm phạm hoặc tẩu tán tài sản dùng để thi hành lệnh xử lý hoặc bồi thường trong các tình huống đặc biệt, người có quyền sở hữu công nghiệp bị xâm phạm có thể yêu cầu Toà án ra lệnh áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Nội dung của biện pháp tạm thời có thể là:
(i) Tạm giữ hàng hoá, sản phẩm bị coi là xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp khi có căn cứ để nghi ngờ rằng bên xâm phạm có thể tẩu tán hoặc tiêu huỷ các hàng hoá, sản phẩm đó;
(ii) Lục soát nơi tàng trữ hàng hoá bị coi là xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp hoặc nơi mà bị đơn kiểm soát với điều kiện là có cơ sở để tin rằng ở đó có tàng trữ chứng cứ và có nguy cơ chứng cứ đó bị thủ tiêu;
(iii) Tạm thời niêm phong thiết bị, phương tiện được dùng để thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp;
(iv) Tạm thời phong toả tài khoản của bị đơn nhằm bảo đảm tài chính để khắc phục hậu quả hoặc đền bù thiệt hại do việc xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp gây ra.
Tuy nhiên, để thuyết phục Toà án thực hiện việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, thì người yêu cầu phải chứng minh nguy cơ mà nếu không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sẽ đe doạ việc tiến hành xét xử hoặc cản trở việc thi hành các biện pháp xử lý, khắc phục hậu quả thi hành án sau này và phải cam kết đền bù mọi thiệt hại cho bên bị áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời nếu việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là không xác đáng hoặc bị lạm dụng. Thông thường, người yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời phải nộp một khoản tiền bảo chứng đủ để đền bù thiệt hại và bảo vệ lợi ích của bên bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời một cách thoả đáng khi yêu cầu đó không xác đáng. Và quyền buộc người đã yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời phải bồi thường thiệt hại do việc áp dụng các biện pháp đó gây ra cho người đã bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nếu biện pháp đó bị huỷ bỏ hoặc đình chỉ do bất kỳ lý do nào thuộc về người yêu cầu, thuộc về cơ quan tư pháp.
2.3. Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hình sự
Trong trường hợp việc xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp gây tác hại nghiêm trọng cho xã hội và việc sử dụng chế tài hành chính không đủ để trừng phạt và răn đe người xâm phạm thì phải áp dụng biện pháp có chế tài mạnh hơn. Biện pháp hình sự, tức là coi người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đó là tội phạm và việc điều tra, xét xử loại tội phạm này phải tuân theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự.
Tuỳ theo mức độ nghiêm trọng của việc phạm tội, mức phạt có thể được áp dụng là phạt tiền hoặc phạt tù tương ứng với hành vi phạm tội quy định tại Bộ luật hình sự.
Đối với bảo vệ quyền SHCN theo thủ tục hình sự, khi xác định chủ thể của hành vi phải là cá nhân cụ thể để truy cứu trách nhiệm hình sự; còn theo thủ tục hành chính thì chủ thể của hành vi có thể là cá nhân hoặc tổ chức.
Biện pháp hình sự mặc dù có tác dụng ngăn chặn và răn đe lớn đối với các hành vi xâm phạm quyền SHCN vì hình phạt của biện pháp hình sự thường nặng hơn rất nhiều so với hai biện pháp còn lại là dân sự và hành chính song biện pháp này cũng có những khó khăn riêng.
Ví dụ, theo quy định hiện hành thì việc chứng minh “gây hậu quả nghiêm trọng” là dấu hiệu bắt buộc: Tại mục 2.1 của Thông tư liên tịch 01/2008/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP thì yếu tố “gây hậu quả nghiêm trọng” dựa trên các trường hợp: đã thu được lợi nhuận từ 10 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; gây thiệt hại về vật chất cho chủ sở hữu nhãn hiệu từ 50 triệu đồng đến dưới 150 triệu đồng; hàng hóa vi phạm có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 150 triệu đồng.
Trong thực tế, việc chứng minh lợi nhuận của người có hành vi xâm phạm quyền SHCN là khó khăn vì những đối tượng này thường ít sử dụng giấy tờ, sổ sách phục vụ thu thập chứng cứ chứng minh lợi nhuận.
3. Lựa chọn biện pháp dân sự hay hành chính trong bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp
Thông qua việc giải quyết các tranh chấp về QSHCN, Tòa án sẽ bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong quan hệ pháp luật về SHCN. Thông thường, việc giải quyết các tranh chấp về QSHCN tại Tòa án là cơ chế bảo hộ hữu hiệu nhất bởi QSHCN với bản chất là quyền dân sự, do vậy tranh chấp phát sinh từ QSHCN là các tranh chấp dân sự. Bảo vệ QSHCN không chỉ bảo vệ quyền tài sản mà còn gắn liền với việc bảo vệ quyền nhân thân của chủ sở hữu QSHCN. Trong đó quyền nhân thân là quyền thể hiện mối liên hệ không thể tách rời giữa tác giả với các đối tượng của QSHCN, còn quyền tài sản là quyền được hưởng những lợi ích vật chất từ việc cho phép sử dụng các đối tượng QSHCN thuộc sở hữu của mình.
Như trên đã đề cập, nói đến QSHCN là nói đến sự công nhận từ phía nhà nước đối với một quyền dân sự của các cá nhân, tổ chức. Bởi vậy, QSHCN trước hết và chủ yếu là một loại quyền dân sự, pháp luật về bảo vệ QSHCN cũng theo các nguyên tắc bảo vệ các quyền dân sự khác. Theo nguyên tắc này, người chiếm giữ QSHCN có quyền yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền bảo vệ quyền của mình khi có sự xâm phạm.
So với bảo vệ QSHCN bằng biện pháp hành chính, chúng ta thấy: đặc điểm quan trọng của việc bảo vệ QSHCN bằng biện pháp hành chính chính là ý nghĩa trừng phạt đối với hành vi xâm phạm quyền. Mọi hành vi xâm phạm, người thực hiện hành vi xâm phạm mà có gây tổn hại cho xã hội thì đều bị coi là vi phạm pháp luật và bị xử lý hành chính. Bên cạnh đó, biện pháp hành chính có tính tới đến tăng nặng mức phạt đối với các tình tiết tăng nặng như: vi phạm có tổ chức, vi phạm nhiều lần hoặc tái phạm, tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm khi người có thẩm quyền đã yêu cầu chấm dứt hành vi đó, sau khi vi phạm đã có hành vi trốn tránh, che dấu vi phạm…Tuy nhiên, biện pháp hành chính không thể buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại cho chủ thể quyền. Đây là hạn chế của việc thực thi quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính. Trong quá trình thụ lý và xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính, cơ quan hành chính có thẩm quyền thường chỉ xử phạt hành vi xâm phạm quyền, còn phần yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại của chủ thể quyền đề nghị tách riêng và thực hiện theo trình tự dân sự.
Ngược lại, cơ chế dân sự điều chỉnh quan hệ giữa chủ sở hữu quyền và người xâm phạm quyền. Chẳng hạn, việc đền bù thiệt hại đã khắc phục tác hại của hành vi xâm phạm quyền gây ra cho người nắm giữ quyền, mà không đền bù thiệt hại cho người thứ ba và xã hội. Các biện pháp xử lý do biện pháp dân sự đưa ra về căn bản, giúp lặp lại thế cân bằng lợi ích cho người có quyền bị xâm phạm. Đối với người thực hiện hành vi xâm phạm, sau khi bị xử lý bằng biện pháp dân sự sẽ trở về trạng thái ban đầu trước khi thực hiện hành vi xâm phạm và không phải chịu trách nhiệm nặng hơn khi tiếp tục có hành vi xâm phạm. Chính vì vậy, việc thực hiện bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp dân sự sẽ đạt được mục tiêu là ngăn chặn hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp của chủ thể quyền.
Tuy nhiên, hiện nay nhiều ý kiến cho rằng: ý nghĩa trừng phạt của biện pháp hành chính đối với hành vi xâm phạm quyền thì việc bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính có tác dụng răn đe và phòng ngừa cao và chính vì vậy nó bảo đảm khắc phục phần nào khiếm khuyết trong việc thực thi quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp dân sự. Mặt khác, việc xâm phạm QSHCN nếu muốn xử lý theo thủ tục dân sự, thì bản thân chủ thể quyền hoặc đại diện của chủ thể quyền (nguyên đơn) phải gửi đơn khiếu kiện đến Toà án và phải đáp ứng yêu cầu tự chứng minh (tự cung cấp các chứng cứ để chứng minh hành vi xâm phạm quyền đối với bị đơn). Việc xử lý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo thủ tục hành chính trong trường hợp là hàng hóa giả mạo thì không bắt buộc chủ sở hữu quyền phải có đơn đề nghị xử lý, nếu được dư luận phát hiện hoặc do chính cơ quan có thẩm quyền biết được, thì đều có thể dẫn tới việc áp dụng các biện pháp hành chính đối với hành vi xâm phạm đó. Bên cạnh đó, cơ quan hành chính có thẩm quyền có thể tự thu thập chứng cứ để xác minh làm rõ đối với hành vi xâm phạm quyền cho quyết định xử lý của mình.
Bạn đang xem bài viết Chủ Sở Hữu Và Nội Dung Quyền Sở Hữu Công Nghiệp trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!