Cập nhật thông tin chi tiết về Chuyên Ngành Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học mới nhất trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
(Ban hành kèm theo Quyết định số 3037/QĐ-HVBCTT-ĐT ngày 28/9/2015 của Giám đốc Học viện Báo chí và Tuyên truyền)
Ngành đào tạo : Triết học
Chuyên ngành : Chủ nghĩa xã hội khoa học
Trình độ đào tạo : Đại học thứ hai
Mã số : 52 22 03 01
Loại hình đào tạo : Chính quy tập trung
1. Mục tiêu đào tạo
1.1. Mục tiêu tổng quát
Đào tạo trình độ đại học cho đội ngũ cán bộ làm công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học, có năng lực tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và có khả năng phát triển lên trình độ cao hơn về lĩnh vực chuyên môn.
1.2. Mục tiêu cụ thể
- Về kiến thức
+ Được trang bị những kiến thức cơ bản, hệ thống về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đồng thời am hiểu rộng các khoa học xã hội và nhân văn.
+ Có tri thức chuyên sâu về giảng dạy Chủ nghĩa xã hội khoa học, có phương pháp tư duy khoa học, có năng lực vận dụng các kiến thức đã học vào công tác chuyên môn, đủ khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ giảng dạy và trực tiếp tham gia giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra thuộc chuyên môn đào tạo.
+ Có kiến thức, năng lực và phương pháp đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, đi ngược lợi ích dân tộc, đối lập với hệ tư tưởng Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
–Về kỹ năng
+ Có kỹ năng sư phạm, kỹ năng xử lý các tình huống sư phạm và tình huống lãnh đạo, quản lý các cấp.
+ Có năng lực độc lập nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn trong giảng dạy môn Chủ nghĩa xã hội khoa học.
+ Có nhãn quan chính trị nhạy bén, năng lực nắm bắt, phân tích, đánh giá và chủ động xử lý có hiệu quả các vấn đề thực tiễn trong công tác giảng dạy.
+ Có khả năng tham mưu, đề xuất, tư vấn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp hoạch định chủ trương, chính sách và tổ chức thực hiện có hiệu quả trong thực tiễn.
– Về phẩm chất chính trị, đạo đức:
+ Có bản lĩnh chính trị vững vàng, có lòng yêu nước nồng nàn, trung thành với lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội của dân tộc .
+ Có đạo đức của người cán bộ cách mạng: cần, kiệm, liêm, chính, chính, chí công vô tư, trung thực. Có phẩm chất đạo đức của nhà giáo chân chính, có lối sống trong sáng, khiêm tốn, giản dị, gần gũi quần chúng, lời nói đi đôi với việc làm, có ý thức tổ chức, kỷ luật và tinh thần trách nhiệm trong công tác, có lòng yêu nghề nghiệp.
- Các vị trí công tác có thể đảm nhận sau khi tốt nghiệp:
+ Giảng dạy môn CNXH KH, môn đường lối cách mạng Việt Nam, Các nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin và môn chính trị học nói chung cho các trường đại học, cao đẳng và trung cấp.
+ Giảng dạy môn giáo dục công dân tại các trường PTTH.
+ Giảng dạy môn CNXHKH ở hệ thống các trường Chính trị, trung tâm giáo dục chính trị của các tỉnh thành và các địa phương trong cả nước.
+ Nghiên cứu tại các viện nghiên cứu chính trị, triết học, CNXH KH.
+ Công tác tại các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan Đảng từ cấp trung ương tới địa phương trong hệ thống chính trị (hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, tuyên giáo, Đảng ủy, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ…).
– Trình độ ngoại ngữ:
Người học tốt nghiệp từ năm 2017 trở đi đạt trình độ ngoại ngữ B1 khung châu Âu (tương đương 450 điểm TOEIC hoặc 470 điểm TOEFL hoặc 4.5 điểm IELTS).
– Trình độ Tin học:
Người học sau khi tốt nghiệp có kiến thức tin học văn phòng trình độ A, có khả năng ứng dụng công nghệ thông tin trong thực tiễn công tác.
2. Thời gian đào tạo: 2 năm
3. Khối lượng kiến thức toàn khóa: 65 tín chỉ
4. Đối tượng tuyển sinh:
Mọi công dân Việt Nam không phân biệt dân tộc, tôn giáo, giới tính đều có thể dự thi vào ngành Triết học, chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học nếu có đủ các điều kiện sau:
– Đã tốt nghiệp đại học;
– Có đủ sức khỏe sức khỏe để học tập theo quy định tại Thông tư liên Bộ Y tế – Đại học, Trung học chuyên nghiệp và Dạy nghề (nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo) số 10/TTLB ngày 18-8-1989 và Công văn hướng dẫn số 2445/TS ngày 20-8-1990 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, không trong thời gian can án hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, đã có bằng tốt nghiệp đại học.
Thí sinh là người nước ngoài được tuyển sinh theo quy định hiện hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
5. Quy trình đào tạo, điều kiện tốt nghiệp
Thực hiện theo Quyết định số 22/2001/QĐ-BGD&ĐT ngày 26-6-2001 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy định về đào tạo để cấp bằng tốt nghiệp đại học thứ hai; Quy định đào tạo đại học chính quy theo hệ thống tín chỉ (Ban hành kèm theo Quyết định số 3307/QĐ-HVBCTT ngày 12 tháng 9 năm 2014 của Giám đốc Học viện Báo chí và Tuyên truyền).
6. Thang điểm
Điểm đánh giá bộ phận và điểm thi kết thúc học phần được chấm theo thang điểm 10 (từ 0 đến 10), làm tròn đến một chữ số thập phân.
Điểm trung bình chung học kỳ và điểm trung bình chung tích lũy được tính theo công thức và cách thức quy định tại Điều 24 Quy định đào tạo đại học chính quy theo hệ thống tín chỉ (Ban hành kèm theo Quyết định số 3307/QĐ-HVBCTT ngày 12 tháng 9 năm 2014 của Giám đốc Học viện Báo chí và Tuyên truyền).
7. Nội dung chương trình:
TT
Mã học phần
Học phần
Số tín chỉ
Phân bổ
Học phần tiên quyết
Phân kỳ
Lý thuyết
Thực hành
7.1. Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
10
1
TM01011
Triết học Mác-Lênin
2.0
1.5
0.5
1
2
KT01011
Kinh tế chính trị Mác – Lênin
2.0
1.5
0.5
1
3
CN01011
Chủ nghĩa xã hội khoa học
2.0
1.5
0.5
2
4
LS01002
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
2.0
1.5
0.5
2
5
TH01001
Tư tưởng Hồ Chí Minh
2.0
1.5
0.5
3
Kiến thức giáo dục chuyên nghiệp
55
7.2. Kiến thức cơ sở ngành
10
Bắt buộc
6
6
CN01003
Lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
2.0
1.5
0.5
1
7
CN02043
Lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa
2.0
1.5
0.5
1
8
CN02051
Lịch sử tư tưởng Việt Nam
2.0
1.5
0.5
1
Tự chọn
4/9
9
TT01002
Cơ sở văn hóa Việt Nam
2.0
1.5
0.5
1
10
TG01005
Tâm lý học lãnh đạo, quản lý
2.0
1.5
0.5
1
11
TM01005
Mỹ học
2.0
1.5
0.5
1
12
TM01007
Lôgíc hình thức
2.0
1.5
0.5
1
Kiến thức chuyên ngành
35
Bắt buộc
29
13
CN03053
Học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
3.0
2.0
1.0
1
14
CN03420
Lý luận về hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa
2.0
1.5
0.5
CN03053
2
15
CN03055
Cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực chính trị
2.0
1.5
0.5
CN03053
2
16
CN03056
Cách mạng XHCN trên lĩnh vực văn hóa – xã hội
2.0
1.5
0.5
CN03055
3
17
CN03057
Lý luận dân tộc và chính sách dân tộc ở Việt Nam
2.0
1.5
0.5
CN03053 CN03420
3
18
CN03058
Lý luận Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam
2.0
1.5
0.5
CN03053 CN03420
3
19
CN03059
Lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
2.0
1.5
0.5
CN03053 CN03420
3
20
CN03060
Tác phẩm C. Mác & Ph.Ăngghen về CNXHKH
4.0
3.0
1.0
CN03053
2
21
CN03061
Tác phẩm V.I Lênin về chủ nghĩa xã hội khoa học
3.0
2.0
1.0
CN03053 CN03060
3
22
CN03062
Tác phẩm Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội khoa học
2.0
1.5
0.5
CN03060
3
23
CN03063
Phương pháp giảng dạy CNXHKH
2.0
1.5
0.5
2
24
CN03064
Thực hành giảng dạy CNXHKH
3.0
1.0
2.0
CN03063
3
Tự chọn
6/12
25
CN03065
Lý luận về thời đại ngày nay và phong trào cách mạng thế giới
2.0
1.5
0.5
CN03053
2
26
CN03066
Lý luận nghiệp vụ công tác dân vận
2.0
1.5
0.5
CN03053
2
27
CN03426
Phê phán các trào lưu xã hội phi Mác-xít
2.0
1.5
0.5
CN03053
2
28
CN03068
Nguồn lực con người trong cách mạng XHCN
2.0
1.5
0.5
CN03053
2
29
CN03070
Lý luận gia đình, Bình đẳng giới và Xây dựng gia đình ở Việt Nam
2.0
1.5
0.5
CN03053
2
30
CN03067
Lý luận liên minh giai cấp của GCCN trong cách mạng XHCN
2.0
1.5
0.5
CN03053
2
31
CN03074
Thực tập nghề nghiệp
3.0
0.5
2.5
4
32
CN04002
Khóa luận
7.0
0.5
6.5
4
Học phần thay thế khóa luận tốt nghiệp
7.0
4
33
CN03075
Toàn cầu hóa với chủ nghĩa xã hội
3.0
2.0
1.0
CN03053
4
34
CN03076
Cách mạng XHCN trên lĩnh vực kinh tế – xã hội
2.0
1.5
0.5
CN03053
4
35
CN03077
Chủ nghĩa xã hội hiện thực: khủng hoảng, đổi mới và triển vọng
2.0
1.5
0.5
CN03053
4
Tổng số
65
GIÁM ĐỐC
Đã ký
PGS, TS. Trương Ngọc Nam
Chuyên Ngành Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học (Áp Dụng Cho Khóa 38)
CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO
(Ban hành theo Quyết định số 4949-QĐ/HVBCTT-ĐT ngày 26 tháng 10 năm 2018
củaGiám đốc Học viện Báo chí và Tuyên truyền)
Cơ sở giáo dục : Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Chứng nhận kiểm định chất lượng giáo dục:
Tên văn bằng : Cử nhân Chủ nghĩa xã hội khoa học
Tên chương trình : Chủ nghĩa xã hội khoa học
Trình độ đào tạo : Đại học
Ngành đào tạo : Chủ nghĩa xã hội khoa học; Mã số: 729008
1. Mục tiêu
1.1. Mục tiêu chung:
Đào tạo trình độ cử nhân cho đội ngũ cán bộ làm công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học trên cơ sở nền tảng chủ của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng Cộng sản để hình thành năng lực tư duy khoa học, phương pháp giảng dạy, kỹ năng truyền đạt và định hướng chính trị cho người học.
1.2.Mục tiêu cụ thể:
+ Được trang bị những kiến thức cơ bản, hệ thống về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đồng thời am hiểu rộng các khoa học xã hội và nhân văn.
+ Có tri thức chuyên sâu về giảng dạy Chủ nghĩa xã hội khoa học, có phương pháp tư duy khoa học, có năng lực vận dụng các kiến thức đã học vào công tác chuyên môn, đủ khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ giảng dạy và trực tiếp tham gia giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra thuộc chuyên môn đào tạo.
+ Có kiến thức, năng lực và phương pháp đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, đi ngược lợi ích dân tộc, đối lập với hệ tư tưởng Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
– Có đủ trình độ ngoại ngữ đáp ứng nhu cầu việc làm và học tập ở bậc sau đại học
1.2.2. Về kỹ năng
– Kỹ năng gắn với khối kiến thức giáo dục chuyên nghiệp
+ Có kỹ năng giảng dạy, kỹ năng xử lý các tình huống sư phạm và tình huống lãnh đạo, quản lý các cấp.
+ Có năng lực độc lập nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn trong giảng dạy môn Chủ nghĩa xã hội khoa học.
+ Có nhãn quan chính trị nhạy bén, năng lực nắm bắt, phân tích, đánh giá và chủ động xử lý có hiệu quả các vấn đề thực tiễn trong công tác giảng dạy.
+ Có khả năng tham mưu, đề xuất, tư vấn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp hoạch định chủ trương, chính sách và tổ chức thực hiện có hiệu quả trong thực tiễn.
– Kỹ năng khác
– Có kỹ năng giao tiếp, ứng xử sư phạm;
– Có kỹ năng thuyết trình, làm việc nhóm, làm việc độc lập;
– Có kỹ năng tổng hợp, phân tích và xử lý tình huống chính tri – xã hội;
– Có kỹ năng sử dụng ngoại ngữ, tin học trong công việc chuyên môn.
1.2.3. Về phẩm chất chính trị, đạo đức:
+ Có bản lĩnh chính trị vững vàng, có lòng yêu nước nồng nàn, trung thành với lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội của dân tộc .
+ Có đạo đức của người cán bộ cách mạng: cần, kiệm, liêm, chính, chính, chí công vô tư, trung thực. Có phẩm chất đạo đức của nhà giáo chân chính, có lối sống trong sáng, khiêm tốn, giản dị, gần gũi quần chúng, lời nói đi đôi với việc làm, có ý thức tổ chức, kỷ luật và tinh thần trách nhiệm trong công tác, có lòng yêu nghề nghiệp.
+ Có niềm tin khoa học vào hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác- Lênin, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước.
1.2.4. Các vị trí công tác có thể đảm nhận sau khi tốt nghiệp:
+ Giảng dạy môn Chủ nghĩa xã hội khoa học cho các trường đại học, cao đẳng và trung cấp.
+ Giảng dạy môn CNXHKH ở hệ thống các trường Chính trị, trung tâm giáo dục chính trị của các tỉnh thành và các địa phương trong cả nước.
+Có thể giảng dạy các môn học lý luận chính trị cho các trường đại học, cao đẳng và trung cấp.
+ Có thể giảng dạy môn giáo dục công dân tại các trường PTTH.
+ Nghiên cứu tại các viện nghiên cứu về chính trị, triết học, CNXH KH.
+ Công tác tại các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan Đảng từ cấp trung ương tới địa phương trong hệ thống chính trị (hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, tuyên giáo, Đảng ủy, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ…).
+ Có khả năng nâng cao trình độ ở các bậc cao hơn sau khi tốt nghiệp đại học.
– Trình độ ngoại ngữ:
Người học tốt nghiệp đạt trình độ ngoại ngữ B1 khung châu Âu (tương đương 450 điểm TOEIC hoặc 470 điểm TOEFL hoặc 4.5 điểm IELTS).
– Trình độ Tin học:
Người học sau khi tốt nghiệp có kiến thức tin học văn phòng trình độ A, có khả năng ứng dụng công nghệ thông tin trong thực tiễn công tác.
2. Căn cứ xây dựng chương trình
2.1.1. Các chương trình đào tạo được sử dụng để tham khảo
– Các chương trình đào tạo trình độ đại học theo hệ thống tín chỉ hiện hành tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền;
– Chương trình đào tạo cử nhân Triết học chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học của trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn. Ban hành năm 2014.
– Chương trình đào tạo cử nhân Lý luận chính trị chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học của trường Đại học Sư phạm Hà Nội.Ban hành năm 2015
– Chương trình đào tạo cao cấp và trung cấp lý luận chính trị của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Ban hành năm 2017.
– Căn cứ kết quả khảo sát nhu cầu thực tiễn của xã hội đối với ngành nghề đào tạo.
2.1.2. Kết quả khảo sát
* Khảo sát nhu cầu xã hôi
Thời điểm khảo sát: từ tháng 9 đến tháng 11 năm 2017
Hình thức khảo sát: phỏng vấn
* Khảo sát chất lượng đào tạo với đối tượng là sinh viên trước tốt nghiệp năm 2017, 2018 (báo cáo kết quả khảo sát lưu tại Trung tâm Khảo thí và Đảm bảo chất lượng đào tạo).
– Quyết định số 17/VBHN-BGDĐT ngày 15/5/2014 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ;
– Thông tư số 07/2015/TT-BGDĐT ngày 16/4/2015 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về khối lượng kiến thức tối thiểu, yêu cầu về năng lực mà người học đạt được sau khi tốt nghiệp đối với mỗi trình độ đào tạo của giáo dục đại học và quy trình xây dựng, thẩm định, ban hành chương trình đào tạo trình độ đại học, thạc sĩ, tiến sĩ;
– Thông tư số 04/2016/TT-BGDĐT ngày 14/3/2016 của Bộ trường Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng chương trình đào tạo các trình độ của giáo dục đại học;
– Thông tư số 22/2017/TT-BGDĐT ngày 06/9/2017 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định điều kiện, trình tự, thủ tục mở ngành đào tạo và đình chỉ tuyển sinh, thu hồi quyết định mở ngành đào tạo trình độ đại học;
– Quyết định số 3777/QĐ-HVBCTT-ĐT ngày 18/10/2017 của Giám đốc Học viện Báo chí và Tuyên truyền ban hành Quy định đào tạo đại học hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ của Học viện Báo chí và Tuyên truyền;
– Công văn số 769/QLCL-KĐCLGD ngày 20/4/2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Về việc sử dụng tài liệu hướng dẫn đánh giá theo tiêu chuẩn đánh giá chất lượng chương trình đào tạo các trình độ của giáo dục đại học.
3. Chuẩn đầu ra
3.1. Kiến thức
Khối kiến thức giáo dục đại cương
CĐR 1. Nắm được các nội dung cơ bản của của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của ĐCS Việt Nam.
CĐR 3. Vận dụng được phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn trong nghiên cứu.
CĐR 4: Vận dụng được ngoại ngữ cơ bản và tin học văn phòng trong học tập, nghiên cứu và đời sống hàng ngày.
Kiến thức cơ sở ngành
CĐR 5: Phân tích được cơ bản tâm lý người và cơ sở tâm lý của hoạt động dạy học.
CĐR 6: Xác định được bản chất của quá trình dạy hoc; biết vận dụng các nguyên tắc và phương pháp dạy học cơ bản; biết cách lập kế hoạch dạy học.
CĐR 7: Xác định được quy luật hình thành và phát triển của đạo đức, kinh tế phát triển; phương pháp tư duy khoa học, biện chứng.
CĐR 8: Phân tích được quá trình hình thành và phát triển của lịch sử tư tưởng; lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
CĐR 9: Phân tích được các cơ sở khoa học của quá trình xây dựng phát triển chính sách công.
CĐR 10: Xác định được mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Phân tích được những vấn đề cơ bản của kinh tế phát triển.
Kiến thức ngành
CĐR 12: Kết nối được những tư tưởng XHCN không tưởng với chủ nghĩa xã hội khoa học.
CĐR 13: Thẩm định được các nội dung tư tưởng, lý luận của CNXHKH qua nghiên cứu các tác phẩm kinh điển của Mác, Ănghen, Lênin, Hồ Chí Minh về CNXHKH.
CĐR 14: Phân tích được đặc điểm của thời đại ngày nay và phong trào cách mạng thế giới; những vấn đề của thực tế chính trị – xã hội.
CĐR 16: Liên kết được lý luận hình thái kinh tế xã hội CSCN của chủ nghĩa Mác – Lênin và các mô hình CNXH hiện thực.
CĐR 17: Vận dụng được các nguyên tắc phương thức giải quyết các tình huống dân vận cơ bản.
CĐR 19: Xác định được cách ứng xử với truyền thông.
CĐR 20: Kiến tạo được những kỹ năng nghề nghiệp cơ bản của người giảng viên lý luận chính trị tương lai.
Kiến thức chuyên ngành
CĐR 21: Giải thích được sứ mệnh lịch sử thế giới của GCCN hiện đại; con đường đi lên CNXH của Việt Nam.
CĐR 22: Đánh giá được tính ưu việt và tất yếu của nền dân chủ cùng với hệ thống chính trị XHCN trong tiến trình cách mạng XHCN.
CĐR 23: Tổ chức thực hiện được hoạt động dạy học chuyên ngành CNXHKH theo chương trình Đại học, Trung cấp lý luận chính trị.
CĐR 24: Phân loại và đánh giá được các trào lưu tư tưởng XHCN phi Mác xít, các lý thuyết phát triển trong thế giới đương đại; lựa chọn được các phương pháp, xây dựng các biện pháp đấu tranh, bảo vệ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, xây dựng và phát triển CNXH.
3.2. Về kỹ năng
Kỹ năng chung
CĐR 25: Kỹ năng nghiên cứu và giảng dạy Chủ nghĩa xã hội khoa học
CĐR 26: Kỹ năng tư duy: kỹ năngphân tích, đánh giá những sự kiện chính trị-xã hội, đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước Việt Nam từ thế giới quan khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác- Lênin.
CĐR 27: Kỹ năng xử lý thông tin và định hướng chính trị; Kỹ năng tuyên truyền,diễn thuyết; kỹ năng biên tập báo, tạp chí khoa học(lý luận)
CĐR 28: Kỹ năng giao tiếp sử dụng ngoại ngữ bậc 3/6 theo mô tả trong Khung trình độ ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam, ban hành kèm Thông tư 01/2014/TT-BGDĐT.
CĐR 29. Kỹ năng sử dụng CNTT và truyền thông trình độ cơ bản theo mô tả trong Chuẩn kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin ban hành kèm thông tư 03/2014/TT-BTTT.
Kỹ năng chuyên biệt
CĐR 30: Kỹ năng giao tiếp và ứng xử sư phạm
CĐR 31: Kỹ năng lập kế hoạch và tổ chức thực hiện.
CĐR 32. Kỹ năng sử dụng công cụ, trang thiết bị, phần mềm dạy học.
CĐR 33. Kỹ năng tổ chức, phát triển đào tạo.
CĐR 34. Kỹ năng đánh giá chất lượng, hiệu quả trong công tác giáo dục.
3.3. Về năng lực tự chủ và trách nhiệm
CĐR 35. Năng lực làm việc độc lập và làm việc nhóm.
CĐR 36. Năng lực tổ chức và thực hiện các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ.
CĐR 37. Năng lực tự học và tự nghiên cứu.
CĐR 38. Năng lực lập kế hoạch, quản lý các nguồn lực và đánh giá hiệu quả công việc.
4. Thời gian đào tạo: 4 năm.
Tuỳ theo năng lực và điều kiện cụ thể mà sinh viên có thể sắp xếp để rút ngắn tối đa 2 học kỳ chính hoặc kéo dài tối đa 4 học kỳ chính so với thời gian đào tạo quy định trên. Các đối tượng được hưởng chính sách ưu tiên theo quy định tại Quy chế tuyển sinh đại học, cao đẳng hệ chính quy hiện hành không bị hạn chế về thời gian tối đa để hoàn thành chương trình.
5. Khối lượng kiến thức toàn khoá: 130 tín chỉ (chưa bao gồm Giáo dục thể chất và Giáo dục quốc phòng)
6. Đối tượng, tiêu chí tuyển sinh:
Mọi công dân Việt Nam không phân biệt dân tộc, tôn giáo, giới tính, nguồn gốc gia đình, hoàn cảnh kinh tế đều có thể dự thi vào ngành chủ nghĩa xã hội khoa học nếu có đủ các điều kiện sau:
– Có kết quả xếp loại học lực từng năm học trong 3 năm THPT đạt 6,0 trở lên;
– Hạnh kiểm 3 năm THPT xếp loại Khá trở lên.
– Có đủ sức khỏe để học tập và lao động theo các quy định hiện hành của Nhà nước;
– Đạt điểm xét tuyển theo quy định của Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
Đối tượng là người nước ngoài được tuyển sinh theo quy định hiện hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
7. Quy trình đào tạo, điều kiện tốt nghiệp
Quy trình đào tạo thực hiện theo học chế tín chỉ theo Quy định đào tạo đại học chính quy theo hệ thống tín chỉ, được ban hành kèm theo Quyết định số 3777/QĐ-HVBCTT-ĐT ngày 18/10/2017 của Giám đốc Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
Điều kiện xét tốt nghiệp và công nhận tốt nghiệp được thực hiện theo Điều 27 Quy định nêu trên.
8. Cách thức đánh giá
Điểm đánh giá bộ phận và điểm thi kết thúc học phần được chấm theo thang điểm 10 (từ 0 đến 10), làm tròn đến một chữ số thập phân. Điểm học phần được làm tròn đến một chữ số thập phân, được chuyển thành thang điểm 4 và điểm chữ theo quy định tại điều 23; điểm trung bình chung học kỳ và điểm trung bình chung tích luỹ được tính theo công thức và cách thức quy định tại Điều 24 Quy định đào tạo đại học chính quy theo hệ thống tín chỉ, được ban hành kèm theo Quyết định số 3777/QĐ-HVBCTT-ĐT ngày 18/10/2017 của Giám đốc Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
9. Nội dung chương trình
9.1. Cấu trúc chương trình: 130 tín chỉ (chưa bao gồm 12 tín chỉ Giáo dục thể chất và Giáo dục Quốc phòng – An ninh), trong đó:
10. Hướng dẫn thực hiện:
10.1. Kế hoạch đào tạo dự kiến
10.2. Các điều kiện đảm bảo thực hiện chương trình
* Chương trình dành cho hệ đại học chính quy tập trung, thực hiện từ năm học 2018-2019 cho khóa K38. Trong giai đoạn chuyển tiếp, sinh viên từ khóa trước chuyển xuống khóa sau được công nhận các học phần tương đương, học phần thay thế.
* Về cơ sở vật chất, phòng học, trang thiết bị đào tạo
Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện đã có những cơ sở vật chất hiện đại phục vụ cho công tác giáo dục và đào tạo. Đối với việc đào tạo ngành CNXHKH cần có những cơ sở vật chất cơ bản như giảng đường, trang thiết bị hỗ trợ giảng dạy như máy tính, máy chiếu, loa, mic, hệ thống mạng internet tốc độ cao và ổn định, bảng từ, nam châm… Ngoài ra cần có hệ thống các đầu sách, tư liệu tham khảo cập nhật và đa dạng.
Bên cạnh đó, để tăng cường gắn lý luận với thực tiễn phù hợp với đặc thù của ngành đào tạo, cần phải tổ chức cho sinh viên đi thực tế ở các cơ sở văn hóa, các di tích lịch sử, truyền thống. Để thực hiện được chuyến đi này cần có sự hỗ trợ của Học viện về thủ tục, giấy tờ khi liên hệ làm việc, hỗ trợ công tác phí đối với giảng viên, hỗ trợ kinh phí cho sinh viên và sự đóng góp của sinh viên khi tham dự chuyến đi.
* Về đội ngũ giảng viên
Đội ngũ giảng viên giảng dạy ngành CNXHKH của Học viện Báo chí và Tuyên truyền có: 01 Phó giáo sư – Tiến sỹ, 03 Tiến sỹ, 01 Nghiên cứu sinh, 1 Thạc sĩ đúng chuyên ngành, cùng với sự cộng tác của một số lượng đông đảo các nhà khoa học, các phó giáo sư và tiến sĩ chuyên ngành CNXHKH ở các Học viện và trường Đại học trên địa bàn Hà Nội.
Giảng viên giảng dạy chương trình đào tạo cử nhân ngành CNXHKH được tuyển chọn từ đội ngũ những giảng viên có năng lực và nhiệt huyết với nghề, có kiến thức nền tảng vững chắcđược đào tạo cơ bản từ các trường có uy tín của đất nước, có nhiều năm kinh nghiệm giảng dạy và rất tâm huyết với ngề nghiệp.
* Về thư viện
Nhà trường cũng có Thư viện điện tử hiện đại trang bị hệ thống sách, giáo trình tài liệu tham khảo phong phú đa dạng với 3608 tài liệu. Trong đó có, 362 đề tài khoa học; 249 giáo trình; 33 khóa luận tốt nghiệp; 37 luận án tiến sĩ; 1982 luận văn thạc sĩ; 899 sách tham khảo; 24 tạp chí; 22 thông tin. Bạn đọc có thể đọc toàn văn tài liệu số theo điạ chỉ: thuvien.ajc.edu.vn:8080/dspace.
10.3. Kế hoạch điều chỉnh chương trình
Chương trình được đánh giá định kỳ 2 năm/lần, được đổi mới, hoàn thiện theo định kỳ 4 năm/lần hoặc khi có sự thay đổi về chức năng, nhiệm vụ và nhu cầu xã hội đối với ngành nghề đào tạo, những yêu cầu mới về phẩm chất, năng lực lao động của cơ quan sử dụng nguồn lực đào tạo.
Giáo Trình Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học
Những định hướng cơ bản xây dựng gia đình mới ở nước ta hiện nay
Xây dựng gia đình mới ở nước ta hiện nay phải trên cơ sở kế thừa, giữ gìn và phát huy các giá trị tốt đẹp của gia đình truyền thống Việt Nam, đồng thời tiếp thu những giá trị tiến bộ của thời đại về gia đình
Bên cạnh tính chất phụ quyền, gia trưởng, gia đình truyền thống có những giá trị tốt đẹp cần được kế thừa, phát huy trong điều kiện mới. Trong số các giá trị đó phải kể đến truyền thống vừa cố kết trong gia đình lại vừa đoàn kết tình làng nghĩa xóm; tình yêu gia đình gắn chặt với tình yêu dân tộc. Những giá trị ấy của nhân dân ta đã được hun đúc, phát triển thêm trong suốt hơn 70 năm đấu tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Tuy nhiên trong quá trình xây dựng gia đình mới cũng cần chú ý từng bước khắc phục, loại bỏ các giá trị không còn hợp lý của gia đình truyền thống: tính cục bộ theo họ tộc, địa phương, những nghi lễ rườm rà, tốn kém trong ma chay, cưới hỏi, sự bất bình đẳng về giới, bất bình đẳng giữa các thế hệ…
Trong điều kiện hiện nay, sự chuyển đổi hệ giá trị từ gia đình truyền thống sang gia đình hiện đại đang đòi hỏi phải tiếp thu chọn lọc các giá trị văn hoá của nhân loại. Những giá trị văn hoá ấy chỉ có thể được chọn lọc, được tiếp thu một khi các giá trị tốt đẹp của gia đình truyền thống được bảo tồn, được phát huy dung nạp những nội dung giá trị mới phù hợp với văn hoá và đạo lý làm người của dân tộc Việt Nam.
Xây dựng gia đình mới ở nước ta hiện nay được thực hiện trên cơ sở quan hệ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, bảo đảm quyền tự do kết hôn và ly hôn
Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ là hôn nhân được xây dựng chủ yếu dựa trên tình yêu chân chính giữa nam và nữ. Tình yêu chân chính là quan hệ tình cảm nẩy sinh trong quá trình gặp gỡ, hiểu biết và cảm thông lẫn nhau, tìm thấy ở nhau những điểm tương đồng, mong muốn chia sẻ những khó khăn, sẵn sàng cùng nhau xây dựng cuộc sống chung hạnh phúc, thương yêu nhau, không thể thiếu nhau.
Hôn nhân tự nguyện tiến bộ là bước phát triển tự nhiên của tình yêu chân chính. Từ chỗ yêu thương nhau và thấy cần gắn bó với nhau xây dựng cuộc sống gia đình một cách tự nguyện, họ tình nguyện đến với nhau và được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Sự thừa nhận của pháp luật, một mặt giúp cho mỗi người khi bước vào hôn nhân, ý thức rõ hơn trách nhiệm công dân của mình trong cuộc sống gia đình; đồng thời pháp luật bảo vệ mỗi người khỏi những sự cám dỗ, lợi dụng đối với những người thiếu chín chắn, nhẹ dạ. Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ không hề bác bỏ sự quan tâm, hướng dẫn, chia sẻ tâm tư tình cảm của các bậc cha mẹ. Sự quan tâm đúng mức của cha mẹ thường là giúp cho con cái có trách nhiệm hơn, sống đúng mực hơn trong tình yêu, ý thức được đầy đủ hơn về trách nhiệm mỗi người trong hôn nhân và gia đình.
Hôn nhân tự nguyện tiến bộ bao giờ cũng gồm haimặt tự do kết hôn và tự do ly hôn. Nếu tự do kết hôn được xây dựng và là sự phát triển của tình yêu chân chính, thì ly hôn là kết cục khó tránh khỏi khi tình yêu không còn nữa. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, ly hôn dù bất cứ lý do nào, thì hậu quả xã hội của nó cũng hết sức nặng nề. Hơn thế, hôn nhân dựa trên tình yêu chân chính, nhưng tình yêu chân chính bao hàm cả nghĩa vụ trách nhiệm cùng nhau chia sẻ khó khăn, cùng nhau vượt qua những thử thách, những trở ngại… trong cuộc sống chung. Vì vậy, ly hôn chính đáng là cần thiết, nhưng cần có sự bảo đảm của pháp lý, có sự hỗ trợ, hoà giải của các đoàn thể xã hội, của cộng đồng làng xóm, dân phố.
Gia đình mới ở Việt Nam được xây dựng, trên cơ sở các quan hệ bình đẳng, thương yêu, có trách nhiệm cùng chia sẻ, gánh vác công việc của các thành viên để thực hiện các chức năng cơ bản của gia đình và nghĩa vụ xã hội
Trong số các quan hệ giữa các thành viên gia đình, cần đề cập hai quan hệ cơ bản nhất: quan hệ vợ chồng, quan hệ cha mẹ – các con. Việc hình thành và từng bước phát triển gia đình mới, cần đặc biệt chú ý đến bình đẳng trong quan hệ vợ – chồng. Kết hợp nhiều giải pháp, biện pháp, trong đó sự đồng bộ của việc đề ra và thực hiện các chính sách kinh tế, văn hoá, giáo dục… góp phần quan trọng tạo ra và từng bước củng cố quan hệ bình đẳng vợ – chồng trong tham gia quyết định các vấn đề trọng đại của gia đình cũng như tham gia các hoạt động xã hội.
Cùng với quan hệ vợ chồng, trong xây dựng gia đình mới cần chú ý đến quan hệ cha, mẹ – con cái, quan hệ giữa anh, chị – em, quan hệ ông, bà – các cháu trong các gia đình nhiều thế hệ. Trong xây dựng các quan hệ này, sự tác động của xã hội đóng vai trò hết sức quan trọng, thông qua các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế – xã hội, văn hoá – giáo dục, tuyên truyền vận động. Trong đó cần lưu ý là những tác động ấy sao cho trở thành các nhân tố và điều kiện khách quan, bên ngoài cho quá trình thực hiện tốt các chức năng cơ bản của gia đình (chứ không thể và không được thay thế việc thực hiện các chức năng đó) và làm tốt trách nhiệm xã hội.
Xây dựng gia đình mới ở Việt Nam hiện nay gắn liền với hình thành và củng cố từng bước các quan hệ gắn bó với cộng đồng, với các thiết chế, tổ chức ngoài gia đình
Đoàn kết, tương trợ thương yêu đùm bọc nhau là một giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam và con người Việt Nam, của gia đình truyền thống Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay, xây dựng gia đình mới cần chú ý trân trọng, giữ gìn và phát huy truyền thống ấy. Các gia đình đoàn kết động viên giúp đỡ nhau cùng thực hiện các chủ trương chính sách mới, thực hiện những quy ước, phong tục tiến bộ của gia đình, làng xóm, thực hiện từng bước quy chế dân chủ trong mỗi làng, xã, trong mỗi gia đình… đó chính là một phương hướng quan trọng của xây dựng gia đình mới ở nước ta.
Một số nội dung chủ yếu của xây dựng gia đình ở Việt Nam hiện nay
a) Mỗi một địa phương, vùng lãnh thổ, thành phần dân tộc cần vận dụng sáng tạo những định hướng cơ bản trong xây dựng gia đình, cụ thể hoá những định hướng ấy thành các tiêu chí cụ thể, thích hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể, điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội cụ thể, phù hợp với từng hình thức gia đình hiện có. Trong mỗi thời kỳ nhất định lại đề ra các tiêu chí nhất định, cụ thể sát hợp trong từng nội dung xây dựng gia đình, tránh tình trạng đề ra tiêu chuẩn chung chung, không cụ thể. Đồng thời chú ý rút kinh nghiệm sau mỗi thời kỳ, mỗi phong trào vận động của mỗi thời kỳ ấy.
b) Nội dung cơ bản, trực tiếp của xây dựng gia đình ở Việt Nam hiện nay là xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc. Đây chính là mục tiêu, là chuẩn mực cơ bản mà chúng ta cần xây dựng, là đích hướng tới hiện nay của mỗi gia đình ở nước ta. No ấm, được hiểu là sự thoả mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần cơ bản phù hợp với khả năng lao động cống hiến của mỗi gia đình, mỗi thành viên gia đình, là kết quả của sự lao động cần cù, sáng tạo, chính đáng của gia đình và thành viên gia đình. Trong gia đình, cần chú trọng xây dựng quan hệ dân chủ, bình đẳng giữa các thành viên, nhất là dân chủ, bình đẳng giữa nam – nữ, giữa cha, mẹ – con cái, tạo nên sự nề nếp, hoà thuận, kỷ cương mới trong gia đình. Sự tiến bộ của gia đình về mọi mặt dựa trên sự tiến bộ của mỗi thành viên và gắn liền với sự phát triển về mọi mặt của xã hội. Gia đình hạnh phúc không chỉ là no ấm, dân chủ, bình đẳng, tiến bộ, mà còn là tổng thể những nét đẹp trong đời sống văn hoá tinh thần mỗi gia đình, trong quan hệ cộng đồng, quan hệ xã hội, quan hệ giữa các thành viên trong từng gia đình.
Các Khái Niệm Về Tâm Lý Học Khoa Học, Xã Hội Học, Chủ Nghĩa Thực Chứng Và Chủ Nghĩa Xã Hội / Tâm Lý Học Xã Hội
Xã hội học là gì
Khái niệm tâm lý học khoa học
Khái niệm tích cực
Xã hội học xây dựng là gì
Xã hội học là gì
Khái niệm tâm lý học khoa học
Trước khi đi vào các khái niệm về Tâm lý học Khoa học, Chủ nghĩa thực chứng, Chủ nghĩa xã hội, một nỗ lực đã được thực hiện để thiết lập một định nghĩa về Khái niệm khoa học.
Cũng đã có cuộc nói chuyện về “Câu lạc bộ tự xưng là tinh hoa của các nhà tư tưởng”, áp đặt một số quy tắc chung – phương pháp khoa học – xác định và đăng ký một quỹ đạo để hành động trong bối cảnh mà chúng được đặt, sử dụng một loạt các công cụ do chính chúng tạo ra để hợp thức hóa chúng hoạt động như vậy.
Như bạn có thể thấy, về cơ bản, câu trả lời cho câu hỏi ¿Khoa học cho bạn là gì? nó đã được rằng nó là một cách để có được kiến thức, người trở thành nhà khoa học và thuộc về Khoa học, khi nó được trích ra từ thực tế với các phương pháp và công cụ chính xác, tích hợp chính nó vào một hệ thống các khái niệm, lý thuyết và luật: một hệ thống các mệnh đề được ra lệnh từ các nguyên tắc. Mặc dù rõ ràng là tất cả các kiến thức liên kết các thủ tục (chủ quan) với các hoạt động thực tế (khách quan), khoa học tìm kiếm ưu thế của mục tiêu thông qua giải thích phù hợp, dự đoán và kiểm soát các hiện tượng tự nhiên. Do đó, kiến thức khoa học có thể được khái quát và dự đoán. Kiến thức này sẽ chống lại sự đối đầu với thực tế, loại bỏ những giải thích siêu hình và sử dụng các nguồn đầu tay.
Không thể phủ nhận rằng khoa học là một ý tưởng vĩnh cửu có thể được coi là một nội dung vĩnh viễn và vĩnh cửu của thế giới. Các khoa học không phải là vĩnh cửu, mà bản thân chúng là cấu hình lịch sử. Chúng cũng không đồng nhất, vì có nội dung, định mức, thể chế rất đa dạng, v.v …
Vào đầu cuộc Cách mạng Công nghiệp, trong đó các nội dung và thể chế mới bắt đầu tuân thủ, khoa học xuất hiện theo nghĩa hiện đại của nó, được coi là Khoa học theo nghĩa chặt chẽ. Khoa học ra đời trong thế kỷ thứ mười tám và mười chín, và trong thế kỷ XX, sẽ được công nhận là một nội dung cơ bản của thế giới chúng ta.
Khái niệm tích cực
Đó là vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, khi Chủ nghĩa thực chứng, trong một lĩnh vực được thụ tinh bởi những thay đổi công nghệ của Cách mạng Công nghiệp, và sự suy đồi của ý thức siêu hình và tôn giáo của tri thức. Đó là một học thuyết mà Comte tóm tắt thông qua Định luật Ba giai đoạn của ông, đánh dấu sự khởi đầu của Lịch sử tri thức loài người. Thuật ngữ thực chứng được sử dụng lần đầu tiên bởi Auguste Comte, tuy nhiên, một số khái niệm thực chứng có thể được theo đuổi rõ ràng từ Hume, Kant và Saint-Simon.
Thực tế là thực tế khoa học duy nhất và kinh nghiệm và cảm ứng các phương pháp Khoa học độc quyền. Đặc quyền phương pháp thực nghiệm và thống kê là một yếu tố đảm bảo nắm bắt thực tế một cách thuần túy, không bao gồm sự tham gia của tính chủ quan của nhà khoa học. Những gì không được nắm bắt bởi các giác quan, không hữu hình, sẽ là làm siêu hình học. Quan niệm của khoa học “trung tính”, bằng cách loại bỏ tính chủ quan, trở thành nhà khoa học lý tưởng là người phân phối với nhân loại của mình.
Là đặc điểm đặc biệt nhất của Chủ nghĩa thực chứng, giả định về tính hợp lý, nỗ lực để đo lường mọi thứ, dữ liệu là biểu hiện tối đa của sự thật khoa học, các thử nghiệm như là thẩm phán duy nhất, với định hướng thực dụng rõ ràng. Là một ý tưởng trung tâm rằng khoa học nên sử dụng các lý thuyết làm công cụ để dự đoán các hiện tượng có thể quan sát được và từ bỏ việc tìm kiếm lời giải thích. Chỉ có khả năng nghiên cứu một cách khoa học các sự kiện, hiện tượng, dữ liệu thực nghiệm, có thể quan sát được, có thể kiểm chứng được, được xem xét trong nỗ lực xác định nó theo cách khách quan nhất có thể, độc lập với tính chủ quan của các nhà nghiên cứu, về nguồn gốc và điều kiện tâm lý xã hội. -social, sử dụng xác minh mọi lúc trong kinh nghiệm và quan sát các hiện tượng.Quan niệm này mở rộng ra tất cả các nhánh kiến thức, bao gồm cả hướng tới các sự kiện xã hội cũng được coi là sự vật.
Theo khái niệm khoa học, tuyên bố biến kiến thức khoa học thành kiến thức hợp lệ duy nhất và xứng đáng được coi là điều đó đã thúc đẩy Tâm lý học cố gắng tìm cách thực hiện hoạt động của mình trong các thông số được chấp nhận là khoa học, như Đó là chủ nghĩa thực chứng. Trong bối cảnh này, khía cạnh văn hóa và lịch sử, mà chúng ta không thể phủ nhận, đã làm xáo trộn tâm lý và gây ra sự nhầm lẫn.
Như Heidbreder E .: ” Tại mọi thời điểm, đặc biệt là ở Hoa Kỳ, tâm lý học đã cố gắng bằng mọi cách để trở thành khoa học; và về nguyên tắc, khoa học kiêng tất cả các suy đoán không được thâm nhập và củng cố bởi các sự kiện. Tuy nhiên, trong tất cả các ngành khoa học tâm lý không có đủ sự thật để tìm ra một hệ thống duy nhất và vững chắc“(” Tâm lý học của thế kỷ XX, “trang 17.).
Theo cách này, Tâm lý học Khoa học Nhà tích cực, được thiết lập về mặt kiến thức thực sự như nó đã được nêu ra trong cuộc tranh luận, đã từ chối bất kỳ khái niệm nào không xuất phát từ kinh nghiệm, là làm cho thực tế khoa học duy nhất. Thông qua quan sát và thử nghiệm, ông cố gắng giải thích thực tế bằng cách xây dựng các định luật, thiết lập các kết nối có thể khái quát giữa các biến, sử dụng phương pháp suy diễn giả thuyết. Theo tôi, một trong những đặc điểm rất chỉ trích của Tâm lý học khoa học tích cực, là thực tế phủ nhận nội dung xã hội của các đối tượng nghiên cứu, theo hướng dẫn về tính hợp lý khoa học mà tính đặc thù và điều cụ thể không tồn tại, trong một tìm kiếm giải thích tổng quát.
Nó không đối phó với cảm xúc, động lực hoặc lương tâm, với một trọng lượng chủ quan và không thể quan sát được, bị loại bỏ như một đối tượng của nghiên cứu. Tất cả những loại bỏ này có thể được hiểu là một phương tiện để thiết lập một phương pháp như “nhà khoa học” có thể hoặc gần với những gì được gọi là “nhà khoa học” trong cuộc đấu tranh để thành lập chính nó như là một khoa học thực nghiệm.
Như một ví dụ về tâm lý học khoa học thực chứng, chúng tôi đã đề cập đến tâm lý khách quan của phản xạ Nga của Pavlov và Bejterev, Throndike với định luật về hiệu ứng và lý thuyết về phản ứng kích thích, hành vi của ông. Một nhà hành vi sẽ nói: ” những gì tôi không thể giải thích bằng thuật ngữ thực nghiệm (về mặt khoa học) không phải là một phần của yêu cầu của tôi với tư cách là một nhà khoa học“.
Một ví dụ, Watson khẳng định cần phải loại bỏ hoàn toàn các khái niệm như lương tâm và tâm trí vì thiếu ý nghĩa về các yêu cầu của phương pháp khoa học và thay thế chúng bằng các khái niệm khác đã tuân thủ chúng, như hành vi; Tôi nói: ” Nếu tâm lý học muốn trở thành một khoa học, nó phải theo gương của các ngành khoa học vật lý, nghĩa là trở thành vật chất, cơ học, xác định và khách quan.“Cách nghiên cứu hành vi này phủ nhận các yếu tố thực sự quan trọng trong sự hiểu biết về hành vi của con người, làm trống kiến thức về sự phản ánh và chuyển nó thành một môn học mô tả với mục đích duy nhất là được áp dụng..
Từ các lĩnh vực này, điển hình là nhà thực chứng và nhà thực nghiệm, bản chất của khoa học bị từ chối phân tâm học (và các biến thể của nó), tâm lý học hiện tượng, toàn diện, nhân văn và xuyên thời gian. Tất cả mọi thứ không đáp ứng đúng với các thông số về tính khoa học của chủ nghĩa thực chứng, đều có đủ điều kiện chung, từ quan điểm cụ thể này, như “đầu cơ”, “một tiên nghiệm”, “không theo kinh nghiệm” và “không thể kiểm chứng”.
Đã có cuộc nói chuyện trong cuộc tranh luận rằng kết quả “logic” để vẫn là một nhà khoa học thực chứng, trong số những người khác, vì lý do công nhận chuyên môn và được coi là thực sự khoa học. Trong chủ nghĩa thực chứng không có các biến ẩn hoặc không thể đo lường được nên hội các nhà khoa học chỉ thừa nhận những sự thật này là đúng, có giá trị và độ tin cậy khi bạn có thể lặp lại thử nghiệm với kết quả tương tự. Tâm lý học định lượng đơn giản hơn nhiều so với tâm lý học định tính, nhưng con người không chỉ bao gồm các hệ thống toán học hoặc logic và thực nghiệm, mà nó còn đi xa hơn nhiều. Theo nghĩa này, đã có sự đồng thuận.
Xã hội học xây dựng là gì
các Chủ nghĩa xã hội, Điều đó không được trình bày trong bài viết của Tomás Ibáñez, được định nghĩa bởi Kenneth Gergen là một “di chuyển”, một tập hợp các yếu tố lý thuyết trong tiến trình, lỏng lẻo, mở và với các đường viền thay đổi và không chính xác, thay vì như một học thuyết lý thuyết mạch lạc và ổn định mạnh mẽ. Nó đặc quyền kích thước của nó vượt ra ngoài kích thước được thiết lập, đặc tính quá trình của nó đối với đặc tính sản phẩm của nó, ít nhiều đã hoàn thành.
Kiến thức không nằm trong suy nghĩ của cá nhân, cũng không phải là từ ngữ phản ánh tâm trí hoặc bản chất có từ trước. Theo dõi Gergen, ” Nguồn chính của những từ chúng ta sử dụng về thế giới nằm trong mối quan hệ xã hội. Từ góc độ này, cái mà chúng ta gọi là kiến thức không phải là sản phẩm của tâm trí cá nhân, mà là trao đổi xã hội; nó không phải là thành quả của cá nhân mà là sự phụ thuộc lẫn nhau “. (Gergen, 1989, tr.19).
Vậy, thực tế sẽ được xây dựng trên sự tương tác có ý nghĩa mà con người tạo ra và, vì lý do đó, nó tránh xa chủ nghĩa thực chứng giới hạn việc sử dụng, như tôi đã nhận xét trước đây, một phương pháp dựa trên quan sát, thử nghiệm, tương phản, v.v. Thực tế được xây dựng này, một cách năng động, được các cá nhân nội tâm hóa thông qua xã hội hóa. Nó giới thiệu yếu tố lịch sử và đặc điểm diễn giải của con người. Ngôn ngữ như một nhà xây dựng mạnh mẽ của thực tế.
Như đã được giải thích trong cuộc tranh luận và theo Tomás Ibáñez, quan điểm của nhà xây dựng là từ chối thực tế đó chỉ ra những diễn ngôn về thực tế và những người chọn những điều phù hợp. Kiến thức chỉ đơn giản là tương đối. Chủ nghĩa xây dựng đến hòa tan sự phân đôi đối tượng / đối tượng, khẳng định rằng cả hai thực thể này không tồn tại độc lập với nhau, chúng không tạo thành các thực thể riêng biệt, đặt câu hỏi về chính khái niệm khách quan. Chủ nghĩa xã hội học nổi lên như một cách tiếp cận phê phán, quan tâm đến việc chủ nghĩa quyết định khoa học chiếm ưu thế ảnh hưởng đến kiến thức và mời chúng ta phản ánh phê phán, thay đổi lăng kính và quan sát thế giới theo cách hoàn toàn khác với những gì đã được dạy cho chúng ta và phá vỡ các đặc điểm của những gì đã được dạy cho chúng ta và phá vỡ các đặc điểm của những gì thể chế hóa.
Những gì chúng tôi đã nhấn mạnh nhất trong bài viết của Ibáñez là lập luận phê phán trong đó nhận ra tất cả các huyền thoại phổ biến cũng như đặt cược rủi ro của nó nằm ở phần phức tạp nhất. Ưu đãi quan điểm mới cho khoa học, với sự công nhận tính chủ quan.
Bằng cách kết luận, đã có sự đồng thuận chung trong tất cả các khía cạnh nêu lên của cuộc tranh luận.
Chúng ta đắm chìm trong một xã hội củng cố một hình thức lý luận chính thống và cứng nhắc hơn, vì vậy điều quan trọng là mỗi cá nhân bắt đầu đặt ống kính của riêng mình. Không có sự thật duy nhất và chỉ có một cách nhìn thế giới.
Để làm cho cách tiếp cận mới này có thể, phong trào xã hội chủ nghĩa là hoàn hảo, vì nó mở ra những quan điểm và nhìn rộng và phê phán..
Nhà nghiên cứu bị ảnh hưởng, nhất thiết, bởi môi trường, niềm tin, giá trị, thái độ của họ, v.v. Không thể phủ nhận thực tế xã hội hay tính cách lịch sử.
Cuối cùng, theo ý kiến của tôi, đa ngành là cơ bản và Tâm lý học không phải loại bỏ hoặc từ bỏ các biến không thể chứng minh theo cách thức, để có thể bằng với các ngành khoa học khác và đạt được theo cách này “Khoa học”.
Bài viết này hoàn toàn là thông tin, trong Tâm lý học trực tuyến, chúng tôi không có khoa để chẩn đoán hoặc đề nghị điều trị. Chúng tôi mời bạn đi đến một nhà tâm lý học để điều trị trường hợp của bạn nói riêng.
Bạn đang xem bài viết Chuyên Ngành Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!