Xem Nhiều 6/2023 #️ Đại Cương Về Bào Chế Đông Y # Top 7 Trend | Tvzoneplus.com

Xem Nhiều 6/2023 # Đại Cương Về Bào Chế Đông Y # Top 7 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Đại Cương Về Bào Chế Đông Y mới nhất trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Bào chế học là môn khoa học chuyên nghiên cứu về kỹ thuật điều chế các dạng thuốc nhằm mục đích phòng và chữa bệnh cho người

 

NỘI DUNG

 

I – KHÁI NIỆM VỀ BÀO CHẾ, CHẾ BIẾN ĐÔNG DƯỢC.

 

1.1. Định nghĩa

 

Theo y học hiện đại:

 

Bào chế học là môn khoa học chuyên nghiên cứu về kỹ thuật điều chế các dạng thuốc nhằm mục đích phòng và chữa bệnh cho người

 

Môn bào chế cung cấp những kiến thức và kỹ năng cơ bản về kỹ thuật điều chế, kiểm tra, bảo quản các dạng thuốc.

 

Tuy nhiên, bào chế đông dược không chỉ bao gồm các dạng thuốc mà còn bao gồm cả các vị thuốc.

 

Bào chế đông dược là sử dụng chế hoá cơ học, chế hoá lý hoá hoặc sinh tổng hợp nhằm thay đổi hình dạng, lý tính, dược tính của các nguyên liệu có nguồn gốc tự nhiên từ động vật, thực vật hoặc khoáng vật để đáp ứng yêu cầu của quá trình sản xuất, bảo quản, kinh doanh, nâng cao hiệu quả phòng bệnh, điều trị bệnh và nâng cao thể trạng con người.

 

Bản chất của bào chế chủ yếu gồm chế hoá lý hoá và chế hoá cơ học.

 

Bản chất chế hoá cơ học là lực tác động như: Thái, bào, tán, rây… nhằm thay đổi hình dạng, kích thước, hình dáng, bề mặt tiếp xúc, hình khối v.v.. của thuốc

 

Bản chất chế hoá lý hoá là quá trình tác động của các yếu tố vật lý như nhiệt độ, áp suất, ánh sáng kèm theo đó là các quá trình hoá học xảy ra (pH, thuỷ phân, bay hơi, thăng hoa, loại trừ, tổng hợp v.v..). Hoả chế, thuỷ chế, thuỷ hoả hợp chế, rán dầu, khúc, chế sương thuộc chế hoá lý hoá. Nó bao gồm các phương pháp bào chế như: Sao trực tiếp, sao có thêm chất trung gian truyền nhiệt, trích ( tẩm rượu, giấm, gừng, mật, muối, đồng tiện, nước vo gạo, hoàng thổ, nước đậu đen…), thuỷ phi (nghiền dược liệu trong nước), thuỷ bào, hơ, chích, đốt, lùi, nung, sắc, ngâm, hãm, hầm, nấu, đồ, chưng, ủ, làm trong v.v…

 

Tuy nhiên trong quá trình bào chế, hai cơ chế chế hoá lý hoá và chế hoá cơ học thường được sử dụng xen kẽ với nhau.

 

Nói chung bào chế, chế biến thuốc là công việc biến đổi tính chất thiên nhiên của dược liệu thành những vị thuốc có giá trị phòng bệnh và trị bệnh tốt nhất

 

Tóm lại: Chế biến thuốc cổ truyền là phương pháp tổng hợp của việc dùng nước – lửa, phụ liệu để làm cho vị thuốc từ trạng thái thiên nhiên trở thành trạng thái có thể sử dụng để phòng, trị bệnh và nâng cao thể trạng cho con người.

 

1.2. Nội dung nghiên cứu môn bào chế

 

Nội dung nghiên cứu của môn Bào chế Đông dược là tất cả những vấn đề đặt ra trong quá trình chế biến của các dược liệu thành các chế phẩm và dạng thuốc, sao cho các thành phẩm đó dễ bảo quản, kinh doanh, tiện sử dụng và phát huy tối đa phòng bệnh và chữa bệnh

 

Như vậy, nội dung nghiên cứu của môn bào chế là rất rộng và dựa trên các vấn đề cơ bản sau đây:

 

– Nâng cao kỹ thuật trên cơ sở cải tiến phương pháp bào chế cổ điển dựa trên những thành tựu của khoa học, công nghệ

 

– Nghiên cứu triển khai từ qui mô phòng thí nghiệm đến qui mô công nghiệp

 

– Nghiên cứu để tìm ra các tác dụng mới, các dạng thuốc mới, bảo quản thuốc tốt hơn.

 

– Nghiên cứu về kiểm nghiệm và bảo quản các dạng thuốc nhằm bảo đảm chất lượng thuốc.

 

 

 

 II – MỤC ĐÍCH BÀO CHẾ, CHẾ BIẾN ĐÔNG DƯỢC.

 

2.1. Làm thuốc sạch và đảm bảo vệ sinh an toàn dược phẩm

 

Các tạp chất vô cơ và hữu cơ lẫn lộn trong dược liệu cần phải loại bỏ bao gồm: nấm mốc, mối mọt, cát, sỏi, đất, xác thực vật chết v.v…..

 

Các loại không phải là dược liệu (tinh chế dược liệu) và những thành phần hoá học được đưa vào khi trồng trọt và bảo quản thuốc men; các vi sinh vật luôn phải loại trừ trong quá trình sơ chế, bào chế, chế biến dược liệu và thuốc.

 

Bỏ bớt các bộ phận không cần thiết của dược liệu để vị thuốc tinh khiết hơn,

 

lựa chọn được đúng bộ phận dùng: Mạch môn bỏ lõi; Ve sầu bỏ đầu, chân; Ngưu tất bỏ đầu, Kim anh bỏ hạt, Bỏ vỏ tang bạch bì, bỏ rễ phụ tử……

 

Hơn nữa, trong cùng một dược liệu có thể phải tách ra các bộ phận dùng khác nhau với tác dụng thậm chí trái ngược nhau như Ma hoàng (rễ và thân), Trắc bá

 

diệp (lá và hạt); Câu kỷ tử (vỏ rễ và quả)….

 

   Ngoài ra để dễ sử dụng, tránh được các mùi vị khó chịu, giúp cho việc chiết xuất (hãm, ngâm, sắc…) thuận lợi, nâng cao chất lượng dược liệu, chất lượng thuốc và hiệu quả điều trị.

 

2.2. Tạo vị thế hàng hoá đặc biệt cho thuốc

 

Thuốc là hàng hoá đặc biệt. Việc bào chế, chế biến thuốc giúp đạt những tiêu chuẩn qui định.

 

– Tạo ra vị thuốc có hình dáng, màu sắc đẹp, mùi vị thơm ngon hơn;

 

– Tạo tính hấp dẫn của vị thuốc, tính tiện lợi, tính hiệu quả trong việc sử dụng và lưu chuyển.

 

– Xây dựng vị thế cho thuốc cao hơn trong lòng ngưòi tiêu dùng, thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng, biến nó trở thành một hàng hoá đặc biệt trên thương trường, có tính cạnh tranh cao, được y học hiện đại công nhận.

 

Ví dụ: Nhân xâm đóng hộp, Tam thất, Linh chi tán, Lục vị ẩm, một số chế phẩm khác

 

Có thể phân chia vị thuốc đến kích thước, hình dáng hợp lý, tiện lợi, phù hợp với thói quen người tiêu dùng. Ví dụ: Thuốc dạng phiến, dạng khúc, dạng bột…

 

2.3. Tạo ra tác dụng chữa bệnh mới cho thuốc.

 

Bào chế, chế biến một số vị thuốc có thể thay đổi tác dụng tạo ra các tác dụng mới ngoài tác dụng vốn có của nó. Ngoài ra còn một số thuốc khi ở dạng nguyên liệu thì không có tác dụng trị bệnh, chỉ có tác dụng trị bệnh và đưa làm thuốc sau khi đã bào chế theo phương pháp riêng. Đó chính là biện pháp làm tăng hoặc giảm

 

tính âm, tính dương của thuốc.

 

Ví dụ:

 

– Bồ hoàng sống có tác dụng hoạt huyết, thán sao có tác dụng chỉ huyết.

 

– Táo nhân, Tâm sen để sống gây mất ngủ; sao đen có tác dụng an thần gây ngủ.

 

– Sài hồ có tác dụng (khuynh hướng) thăng đề, sau khi chế với dấm có tác dụng giáng.

 

– Sinh địa (sống) vị đắng, ngọt, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt lương huyết; sau khi chế biến thành Thục địa. Thục địa này có vị ngọt, tính ôn, có tác dụng bổ âm, bổ huyết (thay đổi cả khí và vị).

 

– Tóc chỉ làm thuốc cầm máu sau khi đốt tồn tính.

 

– Mẫu lệ, Cửu khổng, Trân châu mẫu nung hoặc tôi trong dấm có tác dụng cố tinh sáp niệu.

 

– Xuyên sơn giáp sao cách cát hoặc nướng đến khi chín phồng đều được dùng để hoạt huyết, giải độc, tiêu mủ.

 

– Thạch cao sống có tác dụng sinh tân chỉ khát, thanh nhiệt tả hoả nhưng sau khi nung chủ yếu chỉ được dùng ngoài.

 

2.4. Tăng hiệu lực chữa bệnh của thuốc

 

Đây là mục đích trọng tâm của bào chế.

 

 

– Tăng tác dụng của thuốc ở tỳ, vị thì chế biến để vị thuốc có màu vàng, vị ngọt, mùi thơm. Để tăng tác dụng kiện tỳ: Chế biến thuốc sao vàng, sao với Cám gạo, sao với Hoàng thổ, Bích thổ, nước vo gạo, chích Mật ong, chích đường, chích nước Cam thảo…Ví như tăng tác dụng kiện tỳ của Bạch truật thì chế với cám, hoàng thổ hoặc sao vàng. Hoài sơn sao vàng; Hoàng kỳ trích mật….

 

– Tăng tác dụng của thuốc ở thận, bàng quang thì chế biến để vị thuốc có màu đen, vị mặn. Qui kinh Thận: Chế biến thuốc với nước Muối, nước Đậu đen. Ví dụ : Tăng tác dụng bổ thận của Hà thủ ô thì chế biến với nước đậu đen, Đỗ trọng và Cẩu tích với muối.; Thục địa chưng; Hoa hoa thán và Trắc bách diệp thán sao để cầm máu với ý nghĩa “đen chỉ huyết”….

 

– Tăng tác dụng của thuốc ở phế thì chế để vị thuốc có vị cay, màu trắng. Qui kinh Phế: Chế biến thuốc với nước Gừng, nước Phèn chua, nước Cam thảo… Ví dụ: Bán hạ, đẳng sâm chế dịch nước gừng. Rễ dâu bóc lấy vỏ, bỏ vỏ ngoài tạo Tang bạch bì…

 

– Tăng tác dụng của thuốc ở tâm thì chế biến để vị thuôc có vị đắng, màu đỏ. Qui kinh Tâm: Chế biến thuốc với nước Đồng tiện.

 

– Tăng tác dụng của thuốc ở can, đởm thì chế biến để vị thuốc có vị chua, màu xanh. Qui kinh Can: Chế biến thuốc với Dấm. Ví dụ Hương phụ, Sài hồ, Huyền hồ chế dấm….

 

 

– Để dẫn thuốc phía trên để thăng đề, cần chế biến thuốc với rượu (như chế Xuyên khung, Đại hoàng, Thăng ma…)

 

   Một số chú ý quan trọng:

 

a/ Việc sử dụng các phụ liệu để chế biến thuốc phải phù hợp với tính qui kinh bản thân vốn có của thuốc, không bừa bãi làm thay đổi tính chất qui kinh. Ví dụ: Bạch truật qui vào kinh tỳ, vị. Chế biến để tăng tác dụng kiện tỳ vị, không thể chế biến để bổ can thận.

 

b/ Việc sử dụng các phụ liệu để chế biến thuốc phải phù hợp với tính qui kinh bản thân vốn có của thuốc, không bừa bãi làm thay đổi tính chất qui kinh.

 

Ví dụ: Bạch truật qui vào kinh tỳ, vị. Chế biến để tăng tác dụng kiện tỳ vị,

 

không thể chế biến để bổ can thận.

 

c/ Người ta thường không dùng các phụ liệu làm ảnh hưởng tới tác dụng của thuốc.

 

Ví dụ: Thuốc bổ thận dương tẩm Cam thảo sẽ hạn chế các thuốc đó qui kinh thận; Ngưu tất là thuốc cố hạ, đi xuống phía dưới cơ thể nếu tẩm với nước Cam thảo là thuốc cố trung sẽ làm cho Ngưu tất không phát huy tác dụng ở hạ tiêu.

 

d/ Có thể làm giao tính qui kinh của vị thuốc.

 

Ví dụ: Để giúp cho tâm thận giao nhau thì chế Hoàng liên với nước Nhục quế hoặc ngược lại và nhằm mục đích dẫn dương vào âm, để tâm thận giao nhau giúp vị thuốc có thêm tác dụng an thần gây ngủ.

 

e/ Để tăng thêm “vị” cho các thuốc về khí, về dương như thuốc bổ khí kiện tỳ, thuốc bổ thận dương … thường phải chế biến về vị.

 

Ví dụ: – Thuốc bổ thận dương thường tẩm thêm với muối ăn có “vị mặn” để chúng có đủ cả khí lẫn vị cho thận làm cho tăng tác tác dụng của chúng đối với thận.

 

– Các thuốc bổ khí kiện tỳ cần bổ sung thêm vị nên chúng thường được chích Mật ong, chích đường, sữa để có thêm vị ngọt.

 

Như vậy, khí và vị thường hỗ trợ nhau để tăng sức cho vị thuốc

 

2. 5. Giảm độc tính và tạo đường dùng mới cho thuốc

 

Hầu hết các dược liệu độc phải bào chế để giảm độc trước khi dùng cho người bệnh.

 

Thuốc độc trong y học cổ truyền được chia làm hai loại: Loại có tác dụng mạnh gây nguy hiểm đến tính mạng người dùng (tương đương như độc bảng A và các thuốc gây nghiện) như Phụ tử, Hoàng nàn, Mã tiền… và loại khác gây kích ứng ngứa, nôn… như Bán hạ, Nam tinh, Ráy…

 

Giảm độ độc tức là giảm mức độ độc gây nguy hiểm cho tính mạng, hoặc gây kích ứng gây ngứa, buồn nôn.v.v… cho người sử dụng.

 

Muốn đạt điều đó, người ta phải sử dụng các phương pháp chế biến như:

 

2.5.1. Hoả chế

 

Dùng nhiệt độ để giảm độc tính của vị thuốc

 

Ví dụ: Sử dụng nhiệt độ cao từ 200˚C – 250˚C để phân huỷ chất độc trong dược liệu như đối với Mã tiền…, sấy ở nhiệt độ trên 190˚C Bán hạ sẽ mất vị ngứa.

 

Chất độc bị phân huỷ theo 3 cơ chế sau:

 

– Nhiệt phân: Do độ cao phân huỷ một số thành phần hoá học cấu tạo nên vị thuốc; các chất khác nhau sẽ bị phân huỷ ở mức độ khác nhau; men sinh học bị giảm hoặc mất hoặt tính khi nhiệt độ tăng cao tới 100°C.

 

– Bay hơi: Một số chất dễ bay hơi như tinh dầu, một số chất có cấu tạo ester

 

– Thăng hoa: Antranoid, một số chất trong nhóm alcaloid (cafein…)

 

2.5.2. Thuỷ chế

 

Dùng nước hoặc phụ liệu ngâm, tẩm…. vị thuốc sẽ hạn chế được tác dụng bất lợi theo cơ chế loại trừ hoặc thuỷ phân.

 

– Loại trừ: Sử dụng nước hoặc dịch phụ liệu hoà tan hoạt chất độc và một số thành phần khác.

 

Độ tan của thành phần hoá học phụ thuộc vào độ pH của dịch ngâm. Alcaloid dạng muối tan trong dịch có pH acid, coumarin tan tốt trong dịch có pH kiềm.

 

Ví dụ: Dịch ngâm nước vo gạo làm giảm hàm lượng alcaloid độc trong Hoàng nàn, giảm ngứa của Ráy, giảm tanin và antranoid trong Hà thủ ô đỏ.

 

– Thuỷ phân: Nhiều thành phần có cấu trúc dễ bị thuỷ phân bởi nước (khi ngâm hoặc ủ) thành chất khác.

 

Ví dụ: Thông qua các phương pháp bào chế, chất Aconitin trong Ô đầu (độc bảng A) bị thuỷ phân thành Benzoylaconin có độ độc giảm 400 – 500 lần so với Aconin, riêng Aconin có hàm lượng giảm 1000 – 2000 lần.

 

Sau khi bào chế sẽ tạo thêm hai vị thuốc mới là Phụ tử gồm Bạch phụ tử và Hắc phụ tử (độc bảng B).

 

 

 

2.5.3. Thuỷ hoả hợp chế:

 

Ở nhiệt độ cao có dịch phụ liệu (chưng, cất, nấu…. để giảm nhanh độc tính) dễ chuyển hoá thành phần chất độc trong dược liệu như đối với Phụ tử, Bán hạ.

 

Các phụ liệu được sử dụng bào chế với các vị thuốc độc để giảm độc như Cam thảo, Đậu đen, Đậu xanh, Magie clorid ( MgCl2), nước đảm ba…;

 

Các phụ liệu dùng bào chế để giảm vị ngứa trong thuốc như nước vôi, nước Tro bếp, Gừng tươi , nước vo gạo, nước phèn chua..;

 

Các phụ liệu dùng bào chế để làm giảm tác dụng gây nê trệ, đầy bụng như Sa nhân, Sinh khương, rượu;

 

Các phụ liệu dùng bào chế để làm giảm tác dụng gây táo bón như nước vo gạo, Mật ong.

 

Tuy nhiên, chế biến không hợp lý có thể làm giảm hoạt chất dẫn tới làm giảm chất lượng vị thuốc và giảm hiệu lực chữa bệnh của thuốc.

 

2. 6. Giảm tác dụng không mong muốn của thuốc.

 

Một số vị thuốc có thành phần hoá học gây tác dụng không có lợi cho người bệnh như antranoid, saponin triterpenic, chất nhầy … Các chất này thường gây ỉa chảy ở người đang rối loạn tiêu hoá, một số tinh dầu gây kích ứng dạ dày. Thậm chí một số chất gây tác dụng ngược lại với tác dụng của hoạt chất. Việc chế biến có thể làm giảm hoặc mất tác dụng này là cần thiết để tăng hiệu lực trị bệnh, tăng độ an toàn cho người bệnh.

 

Ví dụ: Quyết minh tử dùng sống sẽ gây ỉa chảy, liều cao có thể tả hạ, sau khi sao vàng thì thuốc có tác dụng nhuận hạ và giáng áp, sao cháy có tác dụng an thần. Đó là do quá trình sao thuốc, một số hoạt chất mang tính dương, dạng ô xy hoá, tồn tạo tự do. Dạng này, các hoạt chất có tác dụng kích thích thành ruột. Sau khi sao, chúng chuyển sang dạng khử, dạng liên kết và mang tính âm nên giảm hoặc mất tác dụng kích thích thành ruột.

 

Mỗi vị thuốc thường có nhiều tác dụng khác nhau, trong bệnh cảnh của người

 

bệnh này thì nó là tốt, nhưng trong bệnh cảnh của bệnh nhân khác trở thành tác dụng bất lợi, chế biến có thể làm giảm tác dụng bất lợi này.

 

Ví dụ: Thục địa bổ âm, bổ huyết sinh tân dịch. Khi dùng cho người bệnh tâm, tỳ hư thì sẽ gây đầy chướng bụng, rối loạn tiêu hoá. Nếu sao khô thì sẽ hạn chế tác dụng này (giảm bớt tuỷ trong thuốc để tránh hiện tượng tương thừa).

 

Bạch truật có tác dụng kiện tỳ táo thấp. Khi dùng cho người âm hư nội nhiệt, nếu chế với nước vo gạo sẽ giảm tính ” ráo” của thuốc.

 

2.7. Thay đổi tính (khí) vị, từ đó thay đổi tác dụng của thuốc

 

Tính vị là hai đặc trưng của vị thuốc và biểu hiện xu hướng và cường độ tác dụng của thuốc. Các yếu tố có thể gây ra thay đổi khí vị của thuốc như nhiệt độ (sao, nướng…), phụ liệu (tính chất của phụ liệu…)

 

– Tăng tính ấm, giảm tính hàn bằng phương pháp hoả chế, thuỷ hoả hợp chế hoặc dùng các phụ liệu tính ôn như sa nhân, gừng, rượu…

 

Ví dụ: Sinh địa vị đắng, hơi hàn, tác dụng thanh nhiệt lương huyết. Thục địa (chế từ Sinh địa) vị ngọt, tính hơi ôn, tác dụng bổ âm, bổ huyết.

 

– Giảm tính đại nhiệt, đại hàn có thể chế bằng cách ngâm trong dịch nước vo gạo, nước cam thảo hoặc sao đen…

 

2. 8. Ổn định tác dụng của thuốc

 

Phương pháp sao, sấy khô (nhiệt độ khoảng 50 – 70°C) làm giảm độ ẩm tránh phân huỷ thành phần hoạt chất của thuốc và tiêu diệt được men, nấm mốc gây hại cho thuốc.

 

Ví dụ: Hoa hoè sao qua, có thể hạn chế sự phân huỷ Rutin trong hoa, duy trì tốt tác dụng lương huyết, hạ huyết áp.

 

Tương tự đối với vị thuốc Hoàng cầm

 

Ngoài ra, để ổn định các dược liệu có chứa Glycozid (tránh Enzym tác động xấu), người ta thường áp dụng phương pháp này.

 

2. 9. Giảm tính bền vững cơ học, tăng khả năng giải phóng hoạt chất

 

Điều đó có nghĩa là tăng hiệu lực của thuốc, thuận lợi cho việc sử dụng.

 

Ví dụ: Cửu khổng, mẫu lệ nung ở nhiệt độ cao (vô cơ hoá) để tán bột.

 

Nhiệt độ có thể làm giảm độ bền cơ học.

 

2.10. Bảo quản thuốc được tốt hơn

 

Do qua chế biến, thuốc có thể tránh được mối mọt, men mốc. Cụ thể:

 

– Làm khô hoặc giảm độ ẩm của vị thuốc.

 

– Làm thay đổi tính chất của một số thành phần hoá học dễ gây nấm mốc như pectin, chấy nhầy, tinh bột, chất đường, chất béo… và diệt nấm mốc

 

– Diệt men (làm mất hoạt tính của men ở nhiệt độ cao) có trong thuốc để ổn định thuốc. Ví dụ: Nhiệt độ cao làm mất hoạt tính của men glycosidase, bảo vệ thành phần glycosid

 

– Tạo thành lớp bảo vệ (Hoàng kỳ chích mật ta được ra lớp màng caramen hoá ở bên ngoài tạo thành lớp bảo vệ ngăn hạn chế vi khuẩn, ký sinh, côn trùng xâm nhập).

 

 

 

III. MỘT SỐ YÊU CẦU CỦA BÀO CHẾ, CHẾ BIẾN ĐÔNG DƯỢC

 

3.1. .Các yêu cầu cơ bản của bào chế, chế biến đông dược

 

* Theo Trần Gia Mô (1562) đời Minh (Trung Quốc) có nói:” Bào chế cốt ở chỗ vừa chừng, non quá thì khó kiến hiệu, già quá thì mất khí vị”.

 

Do đó, người bào chế phải thực hiện bào chế đúng kỹ thuật, thích hợp.

 

* Phải đảm bảo hình thức mẫu mã, chất lượng (phẩm chất) sản phẩm.

 

* Người bào chế phải nắm vững về tính dược của thuốc, tương tác thuốc, tương tác giữa thuốc và phụ liệu, yêu cầu trạng thái phẩm chất của từng sản phẩm (vị thuốc, bài thuốc) đáp ứng yêu cầu điều trị.

 

3.2. Các trường hợp tương tác của dược liệu cần nhớ trong quá trình bào chế cũng như sử dụng thuốc

 

   3.2.1. Đơn hành

 

Dùng riêng một vị thuốc cũng có thể phát huy được hiệu quả chữa bệnh của nó. Ví dụ bài Độc sâm thang

 

3.2..2. Tương tu (tác dụng hiệp đồng)

 

Nhiều vị thuốc có tính vị tương tự nhau, khi phối hợp thì tác dụng điều trị tốt hơn.

 

– Kim ngân hoa phối hợp với Liên kiều tăng tác dụng sức thanh nhiệt, giải độc dùng tốt hơn trong các bệnh mụn nhọt, mẩn ngứa, dị ứng…

 

– Sinh địa phối hợp với Huyền sâm sẽ làm tăng tác dụng lương huyết, chỉ huyết, tư âm.

 

– Hoàng liên dùng cùng Liên tâm tăng tác dụng thanh tâm hoả.

 

– Đại hoàng dùng cùng Mang tiêu tăng tác dụng tả hạ lên nhiều lần so với dùng riêng từng vị.

 

– Hoàng bá dùng cùng Tri mẫu thì tác dụng tư thận giáng hoả được chắc chắn.

 

– Hoàng kỳ dùng cùng Bạch linh làm tác dụng bổ ích tỳ khí được tăng cường.

 

– Đại hoàng dùng cùng Hoàng cầm làm tăng tác dụng tiết nhiệt.

 

– Bạch truật phối hợp với hoàng cầm để tăng hiệu lực an thai

 

– Thương truật phối hợp với Hoàng bá để tăng tác dụng thanh nhiệt táo thấp.

 

– Hoàng kỳ phối hợp với phòng phong tăng công hiệu củng cố vệ khí

 

– Bán hạ giúp sài hồ dẫn thuốc vào kinh thiếu dương

 

– Hương phụ giúp đào nhân để tán ứ huyết giảm đau….

 

3.2.3. Tương uý

 

Vị thuốc này ức chế độc tính của vị thuốc kia

 

Ví dụ: Bán hạ uý Sinh khương.

 

Bản thân Bán hạ có độc, uống gây ngứa cổ muốn kêu to, nôn lợm.

 

Bán hạ dùng với Sinh khương thì Sinh khương làm mất tính kích thích họng của Bán hạ, đồng thời làm hết tác dụng phụ của Bán hạ như buồn nôn, lợm giọng, trừ đờm. Chính vì vậy, trong chế biến người ta dùng Sinh khương để chế Bán hạ (Khương bán hạ).

 

– Nhân sâm uý Ngũ linh chi;

 

Tuy nhiên, dùng Đảng sâm phối ngũ với Ngũ linh chi sẽ có tác dụng ích khí kiện tỳ, hoá ứ hành trệ để chữa viêm teo dạ dày mạn kèm sa niêm mạc dạ dày (thể tỳ hư huyết ứ) đều thu kết quả cao.

 

– Hoàng liên (vị hàn) phối hợp với Nhục quế (vị nhiệt), tuy đối lập nhau nhưng lại có tác dụng giao lưu giữa tâm và thận.

 

– Đinh hương uý Uất kim;

 

Mang tiêu (Nha tiêu, Huyền minh phấn) uý Tam lăng, Lưu huỳnh

 

Thuỷ ngân uý Thạch tín, Ba đậu ;  

 

Ô đầu (thảo ô) uý Tê giác;

 

Lang lộc uý Mật đà tăng;    

 

Quan quế uý Thạch chi

 

Tuy nhiên có một số tương uý vẫn dùng được như Phòng phong và Hoàng kỳ nhằm tăng khả năng miễn dịch của cơ thể.

 

Tư­ơng uý hay đư­ợc áp dụng trong việc bào chế thuốc độc và ngay trong điều trị bệnh.

 

3.2.4. Tương ác

 

Là vị thuốc này kiềm chế tính năng, tác dụng của vị thuốc kia.

 

Ví dụ: Hoàng cầm vị đắng tính hàn tương ác Sinh khương vị cay tính ấm

 

Khi dùng chung tính hàn của Hoàng cầm sẽ kiềm chế tính ấm của Sinh khương….

 

Sa sâm ố Phòng phong;      

 

Sơn thù ố Cát cánh

 

3.2.5. Tương sử

 

Là tổ hợp tác dụng hiệp đồng của hai vị thuốc khác nhau về tính vị. Ví dụ: Hoàng

 

Liên vị đắng tính hàn tương sử Ngô thù vị cay tính ấm chỉ nôn; Mộc hương vị cay tính ấm tương sử với hoàng liên vị đắng tính lạnh

 

– Liên kiều vị đắng tính hàn t­ương sử (dùng chung) Ngô thù du vị cay tính ấm để chỉ nôn (cầm nôn) tăng lên. Đó chính là do chúng có khả năng hạn chế tiết dịch nước bọt và dịch vị. Trên cơ sở đó có thể chữa chứng ợ chua của bệnh đau dạ dày.

 

– Hoàng kỳ dùng cùng Bạch linh làm tác dụng bổ ích tỳ khí và lợi tiểu được tăng cường.

 

– Đại hoàng dùng cùng Hoàng cầm làm tăng tác dụng tiết nhiệt.

 

– Xuyên khung, thương truật giúp Ô dược thuận

 

3.2.6. Tương sát

 

Là sự triệt tiêu tính độc của nhau. Chủ yếu áp dụng để giải độc.

 

   Phòng phong trừ độc của Thạch tín,

 

   Đậu xanh trừ độc của Ba đậu.

 

   Ngũ vị tử sát Ô đầu; dùng chung tạo ra chất độc mới

 

   Bạch chỉ sát Hùng hoàng

 

   Hoạt thạch sát Hùng hoàng….

 

   Vì vậy, vận dụng tương sát để giải độc khi bị ngộ độc Asen hoặc Ba đậu…

 

3.2.7. Tương phản

 

Là tổ hợp tương tác giữa hai vị thuốc gây ra phản ứng không tốt hoặc gây thêm độc tính cho cơ thể.

 

Hai vị thuốc khi dùng riêng thì lành, dùng chung thì phản nhau mãnh liệt.

 

Các cặp vị thuốc tương phản cần ghi nhớ.

 

Ba đậu phản Khiên ngưu (Hắc sửu, Bạch sửu);

 

Cam thảo phản Cam toại; Đại kích, Nguyên hoa, Hải tảo.

 

Hải tảo, Bạch cập phản Bán hạ;

 

Bối mẫu, Qua lâu nhân, Bán hạ, Bạch cập, Bạch liễm phản Ô đầu;

 

Đại kích phản Nguyên hoa.

 

Các loại sâm (Nhân sâm, Sa sâm, Đan sâm, Huyền sâm, Khổ sâm…) và các vị thuốc Tế tân, Bạch thược đều phản khắc vị Lê lô (Veratrum nigrum).

 

Về nguyên tắc các vị thuốc tương phản nhau thì không thể dùng chung với nhau được.  

 

Điều đó cần hết sức chú ý và nắm vững.

 

Ví dụ: Dùng Tế tân với Lê nô sẽ gây mù mắt cho ngư­ời bệnh, hoặc Nguyên hoa là vị thuốc có khả năng lợi thuỷ nhưng khi dùng với Cam thảo không những không có tác dụng lợi thuỷ mà lại làm tăng tính độc của Nguyên hoa.

 

Ngũ vị tử khi dùng chung với Ô đầu sẽ tạo ra chất độc mới có hại.

 

Tuy nhiên, trong thực tế một số người có kinh nghiệm đã lợi dụng tính chất tương phản của một số vị thuốc để chữa bệnh.

 

Ví dụ: Cam thảo phản Cam toại song người ta đã dùng chính hai vị thuốc này (trong bài Cam toại tán) với mục đích trục đờm ẩm.

 

Tóm lại, khi tiến hành phối hợp các vị thuốc trong một đơn thuốc cần lưu ý tới bảy tình huống trên. Cần khai thác mặt tốt của chúng vào việc chữa bệnh và chế biến thuốc; đồng thời phải hết sức tránh các trường hợp tương phản, tương ác…. để tránh các hậu quả có thể xảy ra khi dùng thuốc cũng như tác dụng kém của thuốc

 

Trong thực tế nên phối ngũ thuốc theo tương tu, tương sử, nếu có vị độc phải khử độc dùng phép tương ố (tương ác), tương sát, tương uý (huý).

 

DS. Nguyễn Thị Hải

TS. Nguyễn Văn Quân

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Trung Hoà, Đông y toàn tập, Nhà xuất bản Thuận Hoá năm 2000

2. Nguyễn Xuân Sinh, Phùng Hoà Bình, Dược học cổ truyền – Giáo trình Đại học Dược Hà Nội, NXB Y học 1999 và 2006

3. Đỗ Tất Lợi, Các cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – NXB Y học năm 2000Bào chế học là môn khoa học chuyên nghiên cứu về kỹ thuật điều chế các dạng thuốc nhằm mục đích phòng và chữa bệnh cho người

 

 

NỘI DUNG

 

I – KHÁI NIỆM VỀ BÀO CHẾ, CHẾ BIẾN ĐÔNG DƯỢC.

 

1.1. Định nghĩa

 

Theo y học hiện đại:

 

Bào chế học là môn khoa học chuyên nghiên cứu về kỹ thuật điều chế các dạng thuốc nhằm mục đích phòng và chữa bệnh cho người

 

Môn bào chế cung cấp những kiến thức và kỹ năng cơ bản về kỹ thuật điều chế, kiểm tra, bảo quản các dạng thuốc.

 

Tuy nhiên, bào chế đông dược không chỉ bao gồm các dạng thuốc mà còn bao gồm cả các vị thuốc.

 

Bào chế đông dược là sử dụng chế hoá cơ học, chế hoá lý hoá hoặc sinh tổng hợp nhằm thay đổi hình dạng, lý tính, dược tính của các nguyên liệu có nguồn gốc tự nhiên từ động vật, thực vật hoặc khoáng vật để đáp ứng yêu cầu của quá trình sản xuất, bảo quản, kinh doanh, nâng cao hiệu quả phòng bệnh, điều trị bệnh và nâng cao thể trạng con người.

 

Bản chất của bào chế chủ yếu gồm chế hoá lý hoá và chế hoá cơ học.

 

Bản chất chế hoá cơ học là lực tác động như: Thái, bào, tán, rây… nhằm thay đổi hình dạng, kích thước, hình dáng, bề mặt tiếp xúc, hình khối v.v.. của thuốc

 

Bản chất chế hoá lý hoá là quá trình tác động của các yếu tố vật lý như nhiệt độ, áp suất, ánh sáng kèm theo đó là các quá trình hoá học xảy ra (pH, thuỷ phân, bay hơi, thăng hoa, loại trừ, tổng hợp v.v..). Hoả chế, thuỷ chế, thuỷ hoả hợp chế, rán dầu, khúc, chế sương thuộc chế hoá lý hoá. Nó bao gồm các phương pháp bào chế như: Sao trực tiếp, sao có thêm chất trung gian truyền nhiệt, trích ( tẩm rượu, giấm, gừng, mật, muối, đồng tiện, nước vo gạo, hoàng thổ, nước đậu đen…), thuỷ phi (nghiền dược liệu trong nước), thuỷ bào, hơ, chích, đốt, lùi, nung, sắc, ngâm, hãm, hầm, nấu, đồ, chưng, ủ, làm trong v.v…

 

Tuy nhiên trong quá trình bào chế, hai cơ chế chế hoá lý hoá và chế hoá cơ học thường được sử dụng xen kẽ với nhau.

 

Nói chung bào chế, chế biến thuốc là công việc biến đổi tính chất thiên nhiên của dược liệu thành những vị thuốc có giá trị phòng bệnh và trị bệnh tốt nhất

 

Tóm lại: Chế biến thuốc cổ truyền là phương pháp tổng hợp của việc dùng nước – lửa, phụ liệu để làm cho vị thuốc từ trạng thái thiên nhiên trở thành trạng thái có thể sử dụng để phòng, trị bệnh và nâng cao thể trạng cho con người.

 

1.2. Nội dung nghiên cứu môn bào chế

 

Nội dung nghiên cứu của môn Bào chế Đông dược là tất cả những vấn đề đặt ra trong quá trình chế biến của các dược liệu thành các chế phẩm và dạng thuốc, sao cho các thành phẩm đó dễ bảo quản, kinh doanh, tiện sử dụng và phát huy tối đa phòng bệnh và chữa bệnh

 

Như vậy, nội dung nghiên cứu của môn bào chế là rất rộng và dựa trên các vấn đề cơ bản sau đây:

 

– Nâng cao kỹ thuật trên cơ sở cải tiến phương pháp bào chế cổ điển dựa trên những thành tựu của khoa học, công nghệ

 

– Nghiên cứu triển khai từ qui mô phòng thí nghiệm đến qui mô công nghiệp

 

– Nghiên cứu để tìm ra các tác dụng mới, các dạng thuốc mới, bảo quản thuốc tốt hơn.

 

– Nghiên cứu về kiểm nghiệm và bảo quản các dạng thuốc nhằm bảo đảm chất lượng thuốc.

 

 

 

 II – MỤC ĐÍCH BÀO CHẾ, CHẾ BIẾN ĐÔNG DƯỢC.

 

2.1. Làm thuốc sạch và đảm bảo vệ sinh an toàn dược phẩm

 

Các tạp chất vô cơ và hữu cơ lẫn lộn trong dược liệu cần phải loại bỏ bao gồm: nấm mốc, mối mọt, cát, sỏi, đất, xác thực vật chết v.v…..

 

Các loại không phải là dược liệu (tinh chế dược liệu) và những thành phần hoá học được đưa vào khi trồng trọt và bảo quản thuốc men; các vi sinh vật luôn phải loại trừ trong quá trình sơ chế, bào chế, chế biến dược liệu và thuốc.

 

Bỏ bớt các bộ phận không cần thiết của dược liệu để vị thuốc tinh khiết hơn,

 

lựa chọn được đúng bộ phận dùng: Mạch môn bỏ lõi; Ve sầu bỏ đầu, chân; Ngưu tất bỏ đầu, Kim anh bỏ hạt, Bỏ vỏ tang bạch bì, bỏ rễ phụ tử……

 

Hơn nữa, trong cùng một dược liệu có thể phải tách ra các bộ phận dùng khác nhau với tác dụng thậm chí trái ngược nhau như Ma hoàng (rễ và thân), Trắc bá

 

diệp (lá và hạt); Câu kỷ tử (vỏ rễ và quả)….

 

   Ngoài ra để dễ sử dụng, tránh được các mùi vị khó chịu, giúp cho việc chiết xuất (hãm, ngâm, sắc…) thuận lợi, nâng cao chất lượng dược liệu, chất lượng thuốc và hiệu quả điều trị.

 

2.2. Tạo vị thế hàng hoá đặc biệt cho thuốc

 

Thuốc là hàng hoá đặc biệt. Việc bào chế, chế biến thuốc giúp đạt những tiêu chuẩn qui định.

 

– Tạo ra vị thuốc có hình dáng, màu sắc đẹp, mùi vị thơm ngon hơn;

 

– Tạo tính hấp dẫn của vị thuốc, tính tiện lợi, tính hiệu quả trong việc sử dụng và lưu chuyển.

 

– Xây dựng vị thế cho thuốc cao hơn trong lòng ngưòi tiêu dùng, thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng, biến nó trở thành một hàng hoá đặc biệt trên thương trường, có tính cạnh tranh cao, được y học hiện đại công nhận.

 

Ví dụ: Nhân xâm đóng hộp, Tam thất, Linh chi tán, Lục vị ẩm, một số chế phẩm khác

 

Có thể phân chia vị thuốc đến kích thước, hình dáng hợp lý, tiện lợi, phù hợp với thói quen người tiêu dùng. Ví dụ: Thuốc dạng phiến, dạng khúc, dạng bột…

 

2.3. Tạo ra tác dụng chữa bệnh mới cho thuốc.

 

Bào chế, chế biến một số vị thuốc có thể thay đổi tác dụng tạo ra các tác dụng mới ngoài tác dụng vốn có của nó. Ngoài ra còn một số thuốc khi ở dạng nguyên liệu thì không có tác dụng trị bệnh, chỉ có tác dụng trị bệnh và đưa làm thuốc sau khi đã bào chế theo phương pháp riêng. Đó chính là biện pháp làm tăng hoặc giảm

 

tính âm, tính dương của thuốc.

 

Ví dụ:

 

– Bồ hoàng sống có tác dụng hoạt huyết, thán sao có tác dụng chỉ huyết.

 

– Táo nhân, Tâm sen để sống gây mất ngủ; sao đen có tác dụng an thần gây ngủ.

 

– Sài hồ có tác dụng (khuynh hướng) thăng đề, sau khi chế với dấm có tác dụng giáng.

 

– Sinh địa (sống) vị đắng, ngọt, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt lương huyết; sau khi chế biến thành Thục địa. Thục địa này có vị ngọt, tính ôn, có tác dụng bổ âm, bổ huyết (thay đổi cả khí và vị).

 

– Tóc chỉ làm thuốc cầm máu sau khi đốt tồn tính.

 

– Mẫu lệ, Cửu khổng, Trân châu mẫu nung hoặc tôi trong dấm có tác dụng cố tinh sáp niệu.

 

– Xuyên sơn giáp sao cách cát hoặc nướng đến khi chín phồng đều được dùng để hoạt huyết, giải độc, tiêu mủ.

 

– Thạch cao sống có tác dụng sinh tân chỉ khát, thanh nhiệt tả hoả nhưng sau khi nung chủ yếu chỉ được dùng ngoài.

 

2.4. Tăng hiệu lực chữa bệnh của thuốc

 

Đây là mục đích trọng tâm của bào chế.

 

 

– Tăng tác dụng của thuốc ở tỳ, vị thì chế biến để vị thuốc có màu vàng, vị ngọt, mùi thơm. Để tăng tác dụng kiện tỳ: Chế biến thuốc sao vàng, sao với Cám gạo, sao với Hoàng thổ, Bích thổ, nước vo gạo, chích Mật ong, chích đường, chích nước Cam thảo…Ví như tăng tác dụng kiện tỳ của Bạch truật thì chế với cám, hoàng thổ hoặc sao vàng. Hoài sơn sao vàng; Hoàng kỳ trích mật….

 

– Tăng tác dụng của thuốc ở thận, bàng quang thì chế biến để vị thuốc có màu đen, vị mặn. Qui kinh Thận: Chế biến thuốc với nước Muối, nước Đậu đen. Ví dụ : Tăng tác dụng bổ thận của Hà thủ ô thì chế biến với nước đậu đen, Đỗ trọng và Cẩu tích với muối.; Thục địa chưng; Hoa hoa thán và Trắc bách diệp thán sao để cầm máu với ý nghĩa “đen chỉ huyết”….

 

– Tăng tác dụng của thuốc ở phế thì chế để vị thuốc có vị cay, màu trắng. Qui kinh Phế: Chế biến thuốc với nước Gừng, nước Phèn chua, nước Cam thảo… Ví dụ: Bán hạ, đẳng sâm chế dịch nước gừng. Rễ dâu bóc lấy vỏ, bỏ vỏ ngoài tạo Tang bạch bì…

 

– Tăng tác dụng của thuốc ở tâm thì chế biến để vị thuôc có vị đắng, màu đỏ. Qui kinh Tâm: Chế biến thuốc với nước Đồng tiện.

 

– Tăng tác dụng của thuốc ở can, đởm thì chế biến để vị thuốc có vị chua, màu xanh. Qui kinh Can: Chế biến thuốc với Dấm. Ví dụ Hương phụ, Sài hồ, Huyền hồ chế dấm….

 

 

– Để dẫn thuốc phía trên để thăng đề, cần chế biến thuốc với rượu (như chế Xuyên khung, Đại hoàng, Thăng ma…)

 

   Một số chú ý quan trọng:

 

a/ Việc sử dụng các phụ liệu để chế biến thuốc phải phù hợp với tính qui kinh bản thân vốn có của thuốc, không bừa bãi làm thay đổi tính chất qui kinh. Ví dụ: Bạch truật qui vào kinh tỳ, vị. Chế biến để tăng tác dụng kiện tỳ vị, không thể chế biến để bổ can thận.

 

b/ Việc sử dụng các phụ liệu để chế biến thuốc phải phù hợp với tính qui kinh bản thân vốn có của thuốc, không bừa bãi làm thay đổi tính chất qui kinh.

 

Ví dụ: Bạch truật qui vào kinh tỳ, vị. Chế biến để tăng tác dụng kiện tỳ vị,

 

không thể chế biến để bổ can thận.

 

c/ Người ta thường không dùng các phụ liệu làm ảnh hưởng tới tác dụng của thuốc.

 

Ví dụ: Thuốc bổ thận dương tẩm Cam thảo sẽ hạn chế các thuốc đó qui kinh thận; Ngưu tất là thuốc cố hạ, đi xuống phía dưới cơ thể nếu tẩm với nước Cam thảo là thuốc cố trung sẽ làm cho Ngưu tất không phát huy tác dụng ở hạ tiêu.

 

d/ Có thể làm giao tính qui kinh của vị thuốc.

 

Ví dụ: Để giúp cho tâm thận giao nhau thì chế Hoàng liên với nước Nhục quế hoặc ngược lại và nhằm mục đích dẫn dương vào âm, để tâm thận giao nhau giúp vị thuốc có thêm tác dụng an thần gây ngủ.

 

e/ Để tăng thêm “vị” cho các thuốc về khí, về dương như thuốc bổ khí kiện tỳ, thuốc bổ thận dương … thường phải chế biến về vị.

 

Ví dụ: – Thuốc bổ thận dương thường tẩm thêm với muối ăn có “vị mặn” để chúng có đủ cả khí lẫn vị cho thận làm cho tăng tác tác dụng của chúng đối với thận.

 

– Các thuốc bổ khí kiện tỳ cần bổ sung thêm vị nên chúng thường được chích Mật ong, chích đường, sữa để có thêm vị ngọt.

 

Như vậy, khí và vị thường hỗ trợ nhau để tăng sức cho vị thuốc

 

2. 5. Giảm độc tính và tạo đường dùng mới cho thuốc

 

Hầu hết các dược liệu độc phải bào chế để giảm độc trước khi dùng cho người bệnh.

 

Thuốc độc trong y học cổ truyền được chia làm hai loại: Loại có tác dụng mạnh gây nguy hiểm đến tính mạng người dùng (tương đương như độc bảng A và các thuốc gây nghiện) như Phụ tử, Hoàng nàn, Mã tiền… và loại khác gây kích ứng ngứa, nôn… như Bán hạ, Nam tinh, Ráy…

 

Giảm độ độc tức là giảm mức độ độc gây nguy hiểm cho tính mạng, hoặc gây kích ứng gây ngứa, buồn nôn.v.v… cho người sử dụng.

 

Muốn đạt điều đó, người ta phải sử dụng các phương pháp chế biến như:

 

2.5.1. Hoả chế

 

Dùng nhiệt độ để giảm độc tính của vị thuốc

 

Ví dụ: Sử dụng nhiệt độ cao từ 200˚C – 250˚C để phân huỷ chất độc trong dược liệu như đối với Mã tiền…, sấy ở nhiệt độ trên 190˚C Bán hạ sẽ mất vị ngứa.

 

Chất độc bị phân huỷ theo 3 cơ chế sau:

 

– Nhiệt phân: Do độ cao phân huỷ một số thành phần hoá học cấu tạo nên vị thuốc; các chất khác nhau sẽ bị phân huỷ ở mức độ khác nhau; men sinh học bị giảm hoặc mất hoặt tính khi nhiệt độ tăng cao tới 100°C.

 

– Bay hơi: Một số chất dễ bay hơi như tinh dầu, một số chất có cấu tạo ester

 

– Thăng hoa: Antranoid, một số chất trong nhóm alcaloid (cafein…)

 

2.5.2. Thuỷ chế

 

Dùng nước hoặc phụ liệu ngâm, tẩm…. vị thuốc sẽ hạn chế được tác dụng bất lợi theo cơ chế loại trừ hoặc thuỷ phân.

 

– Loại trừ: Sử dụng nước hoặc dịch phụ liệu hoà tan hoạt chất độc và một số thành phần khác.

 

Độ tan của thành phần hoá học phụ thuộc vào độ pH của dịch ngâm. Alcaloid dạng muối tan trong dịch có pH acid, coumarin tan tốt trong dịch có pH kiềm.

 

Ví dụ: Dịch ngâm nước vo gạo làm giảm hàm lượng alcaloid độc trong Hoàng nàn, giảm ngứa của Ráy, giảm tanin và antranoid trong Hà thủ ô đỏ.

 

– Thuỷ phân: Nhiều thành phần có cấu trúc dễ bị thuỷ phân bởi nước (khi ngâm hoặc ủ) thành chất khác.

 

Ví dụ: Thông qua các phương pháp bào chế, chất Aconitin trong Ô đầu (độc bảng A) bị thuỷ phân thành Benzoylaconin có độ độc giảm 400 – 500 lần so với Aconin, riêng Aconin có hàm lượng giảm 1000 – 2000 lần.

 

Sau khi bào chế sẽ tạo thêm hai vị thuốc mới là Phụ tử gồm Bạch phụ tử và Hắc phụ tử (độc bảng B).

 

 

 

2.5.3. Thuỷ hoả hợp chế:

 

Ở nhiệt độ cao có dịch phụ liệu (chưng, cất, nấu…. để giảm nhanh độc tính) dễ chuyển hoá thành phần chất độc trong dược liệu như đối với Phụ tử, Bán hạ.

 

Các phụ liệu được sử dụng bào chế với các vị thuốc độc để giảm độc như Cam thảo, Đậu đen, Đậu xanh, Magie clorid ( MgCl2), nước đảm ba…;

 

Các phụ liệu dùng bào chế để giảm vị ngứa trong thuốc như nước vôi, nước Tro bếp, Gừng tươi , nước vo gạo, nước phèn chua..;

 

Các phụ liệu dùng bào chế để làm giảm tác dụng gây nê trệ, đầy bụng như Sa nhân, Sinh khương, rượu;

 

Các phụ liệu dùng bào chế để làm giảm tác dụng gây táo bón như nước vo gạo, Mật ong.

 

Tuy nhiên, chế biến không hợp lý có thể làm giảm hoạt chất dẫn tới làm giảm chất lượng vị thuốc và giảm hiệu lực chữa bệnh của thuốc.

 

2. 6. Giảm tác dụng không mong muốn của thuốc.

 

Một số vị thuốc có thành phần hoá học gây tác dụng không có lợi cho người bệnh như antranoid, saponin triterpenic, chất nhầy … Các chất này thường gây ỉa chảy ở người đang rối loạn tiêu hoá, một số tinh dầu gây kích ứng dạ dày. Thậm chí một số chất gây tác dụng ngược lại với tác dụng của hoạt chất. Việc chế biến có thể làm giảm hoặc mất tác dụng này là cần thiết để tăng hiệu lực trị bệnh, tăng độ an toàn cho người bệnh.

 

Ví dụ: Quyết minh tử dùng sống sẽ gây ỉa chảy, liều cao có thể tả hạ, sau khi sao vàng thì thuốc có tác dụng nhuận hạ và giáng áp, sao cháy có tác dụng an thần. Đó là do quá trình sao thuốc, một số hoạt chất mang tính dương, dạng ô xy hoá, tồn tạo tự do. Dạng này, các hoạt chất có tác dụng kích thích thành ruột. Sau khi sao, chúng chuyển sang dạng khử, dạng liên kết và mang tính âm nên giảm hoặc mất tác dụng kích thích thành ruột.

 

Mỗi vị thuốc thường có nhiều tác dụng khác nhau, trong bệnh cảnh của người

 

bệnh này thì nó là tốt, nhưng trong bệnh cảnh của bệnh nhân khác trở thành tác dụng bất lợi, chế biến có thể làm giảm tác dụng bất lợi này.

 

Ví dụ: Thục địa bổ âm, bổ huyết sinh tân dịch. Khi dùng cho người bệnh tâm, tỳ hư thì sẽ gây đầy chướng bụng, rối loạn tiêu hoá. Nếu sao khô thì sẽ hạn chế tác dụng này (giảm bớt tuỷ trong thuốc để tránh hiện tượng tương thừa).

 

Bạch truật có tác dụng kiện tỳ táo thấp. Khi dùng cho người âm hư nội nhiệt, nếu chế với nước vo gạo sẽ giảm tính ” ráo” của thuốc.

 

2.7. Thay đổi tính (khí) vị, từ đó thay đổi tác dụng của thuốc

 

Tính vị là hai đặc trưng của vị thuốc và biểu hiện xu hướng và cường độ tác dụng của thuốc. Các yếu tố có thể gây ra thay đổi khí vị của thuốc như nhiệt độ (sao, nướng…), phụ liệu (tính chất của phụ liệu…)

 

– Tăng tính ấm, giảm tính hàn bằng phương pháp hoả chế, thuỷ hoả hợp chế hoặc dùng các phụ liệu tính ôn như sa nhân, gừng, rượu…

 

Ví dụ: Sinh địa vị đắng, hơi hàn, tác dụng thanh nhiệt lương huyết. Thục địa (chế từ Sinh địa) vị ngọt, tính hơi ôn, tác dụng bổ âm, bổ huyết.

 

– Giảm tính đại nhiệt, đại hàn có thể chế bằng cách ngâm trong dịch nước vo gạo, nước cam thảo hoặc sao đen…

 

2. 8. Ổn định tác dụng của thuốc

 

Phương pháp sao, sấy khô (nhiệt độ khoảng 50 – 70°C) làm giảm độ ẩm tránh phân huỷ thành phần hoạt chất của thuốc và tiêu diệt được men, nấm mốc gây hại cho thuốc.

 

Ví dụ: Hoa hoè sao qua, có thể hạn chế sự phân huỷ Rutin trong hoa, duy trì tốt tác dụng lương huyết, hạ huyết áp.

 

Tương tự đối với vị thuốc Hoàng cầm

 

Ngoài ra, để ổn định các dược liệu có chứa Glycozid (tránh Enzym tác động xấu), người ta thường áp dụng phương pháp này.

 

2. 9. Giảm tính bền vững cơ học, tăng khả năng giải phóng hoạt chất

 

Điều đó có nghĩa là tăng hiệu lực của thuốc, thuận lợi cho việc sử dụng.

 

Ví dụ: Cửu khổng, mẫu lệ nung ở nhiệt độ cao (vô cơ hoá) để tán bột.

 

Nhiệt độ có thể làm giảm độ bền cơ học.

 

2.10. Bảo quản thuốc được tốt hơn

 

Do qua chế biến, thuốc có thể tránh được mối mọt, men mốc. Cụ thể:

 

– Làm khô hoặc giảm độ ẩm của vị thuốc.

 

– Làm thay đổi tính chất của một số thành phần hoá học dễ gây nấm mốc như pectin, chấy nhầy, tinh bột, chất đường, chất béo… và diệt nấm mốc

 

– Diệt men (làm mất hoạt tính của men ở nhiệt độ cao) có trong thuốc để ổn định thuốc. Ví dụ: Nhiệt độ cao làm mất hoạt tính của men glycosidase, bảo vệ thành phần glycosid

 

– Tạo thành lớp bảo vệ (Hoàng kỳ chích mật ta được ra lớp màng caramen hoá ở bên ngoài tạo thành lớp bảo vệ ngăn hạn chế vi khuẩn, ký sinh, côn trùng xâm nhập).

 

 

 

III. MỘT SỐ YÊU CẦU CỦA BÀO CHẾ, CHẾ BIẾN ĐÔNG DƯỢC

 

3.1. .Các yêu cầu cơ bản của bào chế, chế biến đông dược

 

* Theo Trần Gia Mô (1562) đời Minh (Trung Quốc) có nói:” Bào chế cốt ở chỗ vừa chừng, non quá thì khó kiến hiệu, già quá thì mất khí vị”.

 

Do đó, người bào chế phải thực hiện bào chế đúng kỹ thuật, thích hợp.

 

* Phải đảm bảo hình thức mẫu mã, chất lượng (phẩm chất) sản phẩm.

 

* Người bào chế phải nắm vững về tính dược của thuốc, tương tác thuốc, tương tác giữa thuốc và phụ liệu, yêu cầu trạng thái phẩm chất của từng sản phẩm (vị thuốc, bài thuốc) đáp ứng yêu cầu điều trị.

 

3.2. Các trường hợp tương tác của dược liệu cần nhớ trong quá trình bào chế cũng như sử dụng thuốc

 

   3.2.1. Đơn hành

 

Dùng riêng một vị thuốc cũng có thể phát huy được hiệu quả chữa bệnh của nó. Ví dụ bài Độc sâm thang

 

3.2..2. Tương tu (tác dụng hiệp đồng)

 

Nhiều vị thuốc có tính vị tương tự nhau, khi phối hợp thì tác dụng điều trị tốt hơn.

 

– Kim ngân hoa phối hợp với Liên kiều tăng tác dụng sức thanh nhiệt, giải độc dùng tốt hơn trong các bệnh mụn nhọt, mẩn ngứa, dị ứng…

 

– Sinh địa phối hợp với Huyền sâm sẽ làm tăng tác dụng lương huyết, chỉ huyết, tư âm.

 

– Hoàng liên dùng cùng Liên tâm tăng tác dụng thanh tâm hoả.

 

– Đại hoàng dùng cùng Mang tiêu tăng tác dụng tả hạ lên nhiều lần so với dùng riêng từng vị.

 

– Hoàng bá dùng cùng Tri mẫu thì tác dụng tư thận giáng hoả được chắc chắn.

 

– Hoàng kỳ dùng cùng Bạch linh làm tác dụng bổ ích tỳ khí được tăng cường.

 

– Đại hoàng dùng cùng Hoàng cầm làm tăng tác dụng tiết nhiệt.

 

– Bạch truật phối hợp với hoàng cầm để tăng hiệu lực an thai

 

– Thương truật phối hợp với Hoàng bá để tăng tác dụng thanh nhiệt táo thấp.

 

– Hoàng kỳ phối hợp với phòng phong tăng công hiệu củng cố vệ khí

 

– Bán hạ giúp sài hồ dẫn thuốc vào kinh thiếu dương

 

– Hương phụ giúp đào nhân để tán ứ huyết giảm đau….

 

3.2.3. Tương uý

 

Vị thuốc này ức chế độc tính của vị thuốc kia

 

Ví dụ: Bán hạ uý Sinh khương.

 

Bản thân Bán hạ có độc, uống gây ngứa cổ muốn kêu to, nôn lợm.

 

Bán hạ dùng với Sinh khương thì Sinh khương làm mất tính kích thích họng của Bán hạ, đồng thời làm hết tác dụng phụ của Bán hạ như buồn nôn, lợm giọng, trừ đờm. Chính vì vậy, trong chế biến người ta dùng Sinh khương để chế Bán hạ (Khương bán hạ).

 

– Nhân sâm uý Ngũ linh chi;

 

Tuy nhiên, dùng Đảng sâm phối ngũ với Ngũ linh chi sẽ có tác dụng ích khí kiện tỳ, hoá ứ hành trệ để chữa viêm teo dạ dày mạn kèm sa niêm mạc dạ dày (thể tỳ hư huyết ứ) đều thu kết quả cao.

 

– Hoàng liên (vị hàn) phối hợp với Nhục quế (vị nhiệt), tuy đối lập nhau nhưng lại có tác dụng giao lưu giữa tâm và thận.

 

– Đinh hương uý Uất kim;

 

Mang tiêu (Nha tiêu, Huyền minh phấn) uý Tam lăng, Lưu huỳnh

 

Thuỷ ngân uý Thạch tín, Ba đậu ;  

 

Ô đầu (thảo ô) uý Tê giác;

 

Lang lộc uý Mật đà tăng;    

 

Quan quế uý Thạch chi

 

Tuy nhiên có một số tương uý vẫn dùng được như Phòng phong và Hoàng kỳ nhằm tăng khả năng miễn dịch của cơ thể.

 

Tư­ơng uý hay đư­ợc áp dụng trong việc bào chế thuốc độc và ngay trong điều trị bệnh.

 

3.2.4. Tương ác

 

Là vị thuốc này kiềm chế tính năng, tác dụng của vị thuốc kia.

 

Ví dụ: Hoàng cầm vị đắng tính hàn tương ác Sinh khương vị cay tính ấm

 

Khi dùng chung tính hàn của Hoàng cầm sẽ kiềm chế tính ấm của Sinh khương….

 

Sa sâm ố Phòng phong;      

 

Sơn thù ố Cát cánh

 

3.2.5. Tương sử

 

Là tổ hợp tác dụng hiệp đồng của hai vị thuốc khác nhau về tính vị. Ví dụ: Hoàng

 

Liên vị đắng tính hàn tương sử Ngô thù vị cay tính ấm chỉ nôn; Mộc hương vị cay tính ấm tương sử với hoàng liên vị đắng tính lạnh

 

– Liên kiều vị đắng tính hàn t­ương sử (dùng chung) Ngô thù du vị cay tính ấm để chỉ nôn (cầm nôn) tăng lên. Đó chính là do chúng có khả năng hạn chế tiết dịch nước bọt và dịch vị. Trên cơ sở đó có thể chữa chứng ợ chua của bệnh đau dạ dày.

 

– Hoàng kỳ dùng cùng Bạch linh làm tác dụng bổ ích tỳ khí và lợi tiểu được tăng cường.

 

– Đại hoàng dùng cùng Hoàng cầm làm tăng tác dụng tiết nhiệt.

 

– Xuyên khung, thương truật giúp Ô dược thuận

 

3.2.6. Tương sát

 

Là sự triệt tiêu tính độc của nhau. Chủ yếu áp dụng để giải độc.

 

   Phòng phong trừ độc của Thạch tín,

 

   Đậu xanh trừ độc của Ba đậu.

 

   Ngũ vị tử sát Ô đầu; dùng chung tạo ra chất độc mới

 

   Bạch chỉ sát Hùng hoàng

 

   Hoạt thạch sát Hùng hoàng….

 

   Vì vậy, vận dụng tương sát để giải độc khi bị ngộ độc Asen hoặc Ba đậu…

 

3.2.7. Tương phản

 

Là tổ hợp tương tác giữa hai vị thuốc gây ra phản ứng không tốt hoặc gây thêm độc tính cho cơ thể.

 

Hai vị thuốc khi dùng riêng thì lành, dùng chung thì phản nhau mãnh liệt.

 

Các cặp vị thuốc tương phản cần ghi nhớ.

 

Ba đậu phản Khiên ngưu (Hắc sửu, Bạch sửu);

 

Cam thảo phản Cam toại; Đại kích, Nguyên hoa, Hải tảo.

 

Hải tảo, Bạch cập phản Bán hạ;

 

Bối mẫu, Qua lâu nhân, Bán hạ, Bạch cập, Bạch liễm phản Ô đầu;

 

Đại kích phản Nguyên hoa.

 

Các loại sâm (Nhân sâm, Sa sâm, Đan sâm, Huyền sâm, Khổ sâm…) và các vị thuốc Tế tân, Bạch thược đều phản khắc vị Lê lô (Veratrum nigrum).

 

Về nguyên tắc các vị thuốc tương phản nhau thì không thể dùng chung với nhau được.  

 

Điều đó cần hết sức chú ý và nắm vững.

 

Ví dụ: Dùng Tế tân với Lê nô sẽ gây mù mắt cho ngư­ời bệnh, hoặc Nguyên hoa là vị thuốc có khả năng lợi thuỷ nhưng khi dùng với Cam thảo không những không có tác dụng lợi thuỷ mà lại làm tăng tính độc của Nguyên hoa.

 

Ngũ vị tử khi dùng chung với Ô đầu sẽ tạo ra chất độc mới có hại.

 

Tuy nhiên, trong thực tế một số người có kinh nghiệm đã lợi dụng tính chất tương phản của một số vị thuốc để chữa bệnh.

 

Ví dụ: Cam thảo phản Cam toại song người ta đã dùng chính hai vị thuốc này (trong bài Cam toại tán) với mục đích trục đờm ẩm.

 

Tóm lại, khi tiến hành phối hợp các vị thuốc trong một đơn thuốc cần lưu ý tới bảy tình huống trên. Cần khai thác mặt tốt của chúng vào việc chữa bệnh và chế biến thuốc; đồng thời phải hết sức tránh các trường hợp tương phản, tương ác…. để tránh các hậu quả có thể xảy ra khi dùng thuốc cũng như tác dụng kém của thuốc

 

Trong thực tế nên phối ngũ thuốc theo tương tu, tương sử, nếu có vị độc phải khử độc dùng phép tương ố (tương ác), tương sát, tương uý (huý).

 

DS. Nguyễn Thị Hải

TS. Nguyễn Văn Quân

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Trung Hoà, Đông y toàn tập, Nhà xuất bản Thuận Hoá năm 2000

2. Nguyễn Xuân Sinh, Phùng Hoà Bình, Dược học cổ truyền – Giáo trình Đại học Dược Hà Nội, NXB Y học 1999 và 2006

3. Đỗ Tất Lợi, Các cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – NXB Y học năm 2000

Tìm Hiểu Về Bào Chế Đông Dược

1. BÀO CHẾ LÀ GÌ?

Bào có nghĩa là dùng sức nóng để thay đổi lý tính và dược tính của thuốc, tiện cho việc chế biến và điều trị.

Chế có nghĩa là dùng công phu thay đổi hình dạng, tính chất của dược liệu.

Nói chung, bào chế là công việc biến đổi tính thiên nhiên (thiên tính) của dược liệu thành những vị thành thuộc để phòng và trị bệnh. Trong tiếng Việt thường dùng danh từ thuốc chín đối nghĩa với danh từ thuốc sống, chữ chín có đủ nghĩa của 2 chữ Bào chế.

Tài liệu xưa để lại lâu đời nhất là quyển Bào chế luận của Lôi Hiệu (Trung Quốc) vào khoảng năm 420-479 và sau đổi là Lôi công bào chế. Quyển này vẫn có giá trị cho đến ngày nay.

– Bỏ các tạp chất lộn trong dược liệu: mốc, sâu mọt.

– Để dễ thái miếng, dễ bảo quản, dễ tán ra bột hoặc dễ nấu cao để chế thành thuốc.

– Bỏ bớt vài bộ phận không cần thiết của dược liệu và làm cho vị đó tinh khiết thêm lên (Mạch môn bỏ lõi, Ngưu tất bỏ đầu).

– Giảm bớt độc tính của dược liệu (Mã tiền, Bán hạ, Hoàng nàn…)

– Thay đổi tính năng của vị thuốc bằng cách tẩm sao cho dễ tan vào nước, để dễ đồng hoá, dễ thấm hút (Quy, Hoàng bá, Bạch thược, tẩm rượu).

3. YÊU CẦU CỦA VIỆC BÀO CHẾ

Trần Gia Mô (1562) đời Minh có nói: Bào chế cốt ở chỗ vừa chừng, non quá thì khó kiến hiệu, già quá thì mất khí vị.

Câu này là một cách ngôn mấu chốt cho tất cả mọi người làm công tác bào chế Đông dược. Nhưng bào chế nào gọi là vừa chừng. Đạt được danh từ này thật là khó: Cắt, thái nên dày hay mỏng, sao nên già hay non…

Kỹ thuật bào chế đông dược trông qua thật là đơn sơ, nhưng nó đòi hỏi ở người bào chế nhiều kinh nghiệm, đã làm lâu năm trong nghề. Có 2 yêu cầu chính sau đây:

– Bảo đảm chất thuốc (phẩm chất), kỹ thuật đúng.

– Người bào chế giỏi, ngoài sự hiểu biết về dược tính, còn phải tuỳ trạng thái phẩm chất của vị thuốc, tuỳ từng yêu cầu của bài thuốc mà định việc bào chế cho được vừa chừng.

4. CÁC DẠNG THUỐC BÀO CHẾ

Thuốc thang: Thuốc thang là hỗn hợp các vị thuốc, cho vào siêu, đổ nước, sắc, lược bỏ xác, lấy nước

Thuốc cao: Là loại thuốc chiết xuất hoạt chất qua dung môi rồi cô đặc lại. Có nhiều loại: Cao lỏng, cao mềm, cao dẻo, cao khô dùng để uống trong và có loại dùng ngoài như cao dán, cao xoa.

Thuốc tễ: Là dạng thuốc mềm dẻo, hình cầu, lớn bằng hạt nhãn gồm thuốc và mật (mật ong, mật mía hoặc mạch nha).

Thuốc tán (bột): Là loại thuốc thể rắn, rời. Điều chế bằng cách tán dược liệu từ động vật, khoáng vật, thực vật thành bột vừa hay bột mịn để uống trong hoặc để xoa ngoài

Thuốc rượu: Là dùng rượu để rút hoạt chất của thuốc, như đem các vị thuốc ngâm vào rượu hoặc đun cách thủy, sau đó bỏ bã lấy rượu uống hay để xoa bóp bên ngoài.

5. CÁC PHƯƠNG PHÁP BÀO CHẾ DƯỢC THẢO

Thuỷ chế: Là phương pháp dùng nước rửa hoặc rượu để tẩy, mục đích làm sạch, mềm dược liệu, tiện cho việc thái mỏng, giảm độc tính hoặc thay đổi tính năng. Ngoài ra, còn dùng rượu, giấm, muối, gừng.. tẩm vào để thay đổi tính chất của dược liệu.

Hoà chế: Là cách để dược liệu tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp với lửa, làm cho thuốc khô ráo, xám vàng, hoặc thành than với mục đích bảo quản hoặc để thay đổi tính chất và tăng hiệu lực của thuốc. Trước khi sao, dược liệu cần được phân loại to, nhỏ để khi sao vàng già và đều. Có 2 cách sao: Sao không thêm chất khác và sao có thêm chất khác.

Dùng cả lửa và nước (Thuỷ hoả hợp chế): Tức kết hợp lửa và nước để thay đổi tính chất của dược liệu.

6. ĐỊA CHỈ HỌC BÀO CHẾ ĐÔNG DƯỢC UY TÍN

Tại Trường Cao đẳng Lê Qúy Đôn, học viên tham gia lớp bào chế Đông dược sẽ được cung cấp các kiến thức đại cương chung và các kiến thức cơ sở của quá trình bào chế đông dược.

+ Học viên được thực hành trên các thiết bị đầy đủ, hiện đại phục vụ cho các kỹ thuật trong bài học.

+ Cam đoan sau khi hoàn thành khóa học 100% học viên sẽ làm được các kỹ thuật trong nội dung bài học.

+ Được cấp chứng chỉ tốt nghiệp ” Thực hành bào chế đông dược” theo quy định.

Hồ sơ để tham gia lớp bào chế Đông dược tại Cao đẳng Lê Qúy Đôn

Học viên tham gia lớp bào chế Đông dược tại Trường Cao đẳng Lê Qúy Đôn cần chuẩn bị những giấy tờ như sau:

+ Đơn đăng ký học (theo mẫu) – download tại website: www.lqd.edu.vn

+ 02 tấm hình 3×4 (ghi rõ họ và tên, ngày tháng năm sinh tại mặt đằng sau mỗi hình)

+ Chứng minh nhân dân (căn cước) photo công chứng

Địa chỉ nộp hồ sơ lớp Bào chế đông dược? Phòng Tuyển Sinh – Trường Cao Đẳng Lê Quý Đôn

Cơ sở TP.HCM: Số 485 Phạm Văn Chiêu, P.13, Gò Vấp, TP.HCM

Điện thoại: 0286.6816.856 – 0904.725.678

Cơ sở Đồng Nai: Số 538 Quốc lộ 51, KP3, chúng tôi Bình Tân, Tp.Biên Hòa, Đồng Nai

Điện thoại: 0251.3938.222 – 0989.895.537 – 0989.052.255 – 0988.557.476

Website: lqd.edu.vn

Email: info@lqd.edu.vn

Thí sinh có thể đăng ký trực tuyến: TẠI ĐÂY.

Đại Cương Về Thuốc Y Học Cổ Truyền

Rate this post

Thuốc cổ truyền là một vị thuốc sống hoặc chín hay một chế phẩm thuốc được phối ngũ lập phương và bào chế theo phương pháp của y học cổ truyền từ một hay nhiều vị thuốc có nguồn gốc từ động vật hoặc thực vật, khoáng vật có tác dụng chữa bệnh hoặc có lợi đối với sức khỏe của con người

Cố phương là phương thuốc được sử dụng giống như trong sách vở cũ đã ghi về số vị thuốc lượng của từng vị, cách chế liều dùng cách dùng và chỉ định của thuốc.

Cố phương gia giảm là thuốc có cấu trúc khác với cố phương về: số lượng vị thuốc lượng vị thuốc cách chế liều dùng cách dùng theo biện chứng của thầy thuốc trong đó cố phương vẫn là cơ bản.

Thuốc gia truyền là những bài thuốc nhóm thuốc trị một chứng bệnh nhất định, có hiệu quả điều trị nổi tiếng một vùng hay một địa phương, được sản xuất lưu truyền trong gia đình.

Tân phương là thuốc cổ truyền mới, là thuốc có cấu trúc hoàn toàn khác với cổ phương về số lượng vị thuốc lượng của từng vị, liều dùng cách chế cách dùng và chỉ định.

Thuốc cổ truyền có tứ khí

Đó là hàn lương ôn nhiệt: tứ khí chỉ mức độ lạnh và nóng khác nhau của vị thuốc, đương nhiên tính hàn có mức độ lạnh hơn tính lương, tương tự tính nhiệt có tính nóng hơn tính ôn. Ở giữa mức độ của hàn lương ôn nhiệt còn có tính bình, như vậy tính của vị thuốc tồn tại một cách khác quan và tương đối, tính của mỗi vị thuốc được quyết định bởi tác dụng của chúng với những bệnh có tính đối lập.

Những vị thuốc có tính hàn hoặc lương trên thực tế có thể sử dụng để chữa những bệnh thuộc chứng nhiệt, ví dụ như thạch cao có tính hàn nên có tác dụng với bệnh sốt cao, hoàng liên cũng có tính hàn vì hoàng liên có tác dụng thanh tâm hỏa. Mạch môn, kim tiền thảo lại là những vị thuốc có tính lương, thuốc có tác dụng chữa ho do nhiệt, còn kim tiền thảo thì chữa bàng quang thấp nhiệt dẫn đến tiểu tiện vàng đỏ, tóm lại những thuốc hàn lương có tác dụng thanh nhiệt tả hỏa, lương huyết tức là làm mát máu, giải độc lới tiểu… thường được dùng để chũa chứng sốt âm hư gây nóng trong cơ thể hoặc mụn nhọt mẩn ngứa.

Nói một cách khác các thuốc nhóm này có khả năng ức chế sự hưng phấn quá mức của cơ năng toàn bộ hay cục bộ. Ví dụ ức chế trung khu điều hòa nhiệt độ, ức chế hệ thống thần kinh, giảm trương lực hay nhu động ruột. Về thành phần hóa học các vị thuốc lang tính hàn lương phần lớn trong vị thuốc có chứa các hoạt chất như hợp chất glycozid, alcaloid, chất đắng..

Những vị thuốc được coi là nhiệt nóng thường được dùng để điều trị các bệnh thuộc chứng hàn, ví dụ quế nhục, phụ tử có tính nhiệt vì chúng có tác dụng với chứng hàn, trong khi đó thì ma hoàng tía tô kinh giới có tính ôn vì bản thân chúng chữa các bệnh mang chứng hàn, song mức độ thấp hơn. Nói cách khác những thuốc này hưng phấn đối với sự suy nhược của cơ năng toàn bộ hay cục bộ,.

Đại Cương Về Hệ Thống Y Tế Và Tổ Chức Mạng Lưới Y Tế Việt Nam

ĐẠI CƯƠNG VỀ HỆ THỐNG Y TẾ VÀ TỔ CHỨC MẠNG LƯỚI Y TẾ VIỆT NAM

Hệ thống y tế

Khái niệm hệ thống

Hệ thống là khái niệm được sử dụng để chỉ những chỉnh thể tức là những sự vật và hiện tượng có cấu trúc thống nhất, hoàn chỉnh được sắp xếp theo những nguyên tắc, những mối liên hệ nhất định, đồng thời cũng chịu chi phối của một số quy luật chung. Hệ thống là khái niệm được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau và là cơ sở cho hoạt động hệ thống hoá các hiện tượng sự vật của thiên nhiên và xã hội.

Hệ thống y tế

Hệ thống y tế (health system) có thể được mô tả như sau (Hình 1.1):

Là một hệ các niềm tin về khía cạnh văn hoá về sức khoẻ và bệnh tật hình thành nên cơ sở của các hành vi nâng cao sức khoẻ tìm kiếm dịch vụ y tế.

Là những sắp xếp về thể chế mà trong đó diễn ra các hành vi nói trên.

Là bối cảnh tự nhiên, chính trị, kinh tế, xã hội của các niềm tin và thể chế vừa nêu.

Khi chăm sóc sức khoẻ theo quan điểm y sinh học hiện đại còn là mới, người dân có thể chấp nhận dịch vụ nhưng lòng tin và kiến thức hỗ trợ cho những hành vi này chưa được phát triển đầy đủ. Nhân viên y tế do đó phải biết và lưu ý về những cách lý giải bệnh tật sẵn có trong dân gian để rồi đưa ra những cách giải thích “y sinh học” hiện tại mà vẫn thích ứng được với những quan niệm dân gian vốn đã bắt rễ vào lòng người dân.

Những sắp xếp về thể chế mà theo đó các hành vi sức khoẻ diễn ra có phạm vi rất rộng và không chỉ là việc cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe thông qua hệ thống y tế Nhà nước. Chúng bao gồm tất cả các cá nhân, các nhóm và các cơ quan trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào các hoạt động y tế. Những thành phần này không thể không hoàn toàn giống nhau ở tất cả các quốc gia song nhìn chung thường bao gồm:

Cá nhân, gia đình và cộng đồng

Cá nhân, gia đình và cộng đồng chịu trách nhiệm cực kỳ to lớn trong việc nâng cao sức khỏe cũng như chăm sóc chữa trị bệnh cho mọi thành viên trong cộng đồng. Trong bất kỳ xã hội nào, có khoảng 70-90% các hoạt động điều trị xảy ra trong hệ thống này. Hiện đã có các nghiên cứu tiến hành tại phương Tây cũng như phương Đông khẳng định điều này.

Các dịch vụ chăm sóc sức khỏe

Bao gồm cả dịch vụ chăm sóc sức khoẻ thuộc khu vực Nhà nước cũng như tư nhân.

Dịch vụ y tế Nhà nước bao gồm:

Nhân viên y tế thôn bản, các đội y tế lưu động, trạm y tế xã và các phòng khám đa khoa khu vực trực thuộc (ví dụ: y sỹ, nữ hộ sinh, đội vệ sinh phòng dịch…).

Phòng y tế địa phương, Trung tâm y tế dự phòng địa phương, bệnh viện địa phương, bệnh viện thành phố và khu vực, bệnh viện đa khoa lớn cùng với các dịch vụ hỗ trợ như phòng thí nghiệm, khoa X.quang, khoa dược v.v…

Các cơ quan c hịu trách nhiệm về nhân lực và cán bộ quản lý y tế, tài chính y tế và vật tư, trang thiết bị, cơ sở hạ tầng.

Số lượng, chủng loại phân bổ và chất lượng dịch vụ của các đơn vị kể trên ảnh hưởng rất nhiều đến sức khỏe và thể chất của con người.

Dịch vụ chăm sóc sức khỏe thuộc khu vực tư nhân bao gồm:

Y học dân gian cổ truyền (truyền thống) với những bà mụ vườn, thầy lang, thầy cúng, thầy mo, người bán thảo dược, các nhà tiên tri, thầy bói. Những người này thường xác định rằng bệnh tật chịu ảnh hưởng của các lực lượng tự nhiên, siêu nhiên và rồi tìm các cách tương ứng để chữa trị.

Hệ thống chữa bệnh chuyên nghiệp cổ truyền phương Đông hết sức đa dạng.

Dịch vụ chăm sóc sức khỏe theo y học hiện đại được sự cấp phép của Nhà nước hoặc các dịch vụ làm “chui” không hợp pháp.

Các dịch vụ y tế theo y học hiện đại của các tổ chức phi chính phủ (các tổ chức nhà thờ, Hội chữ thập đỏ quốc tế,… ).

Tầm quan trọng của các khu vực này còn tuỳ thuộc vào từng xã hội cụ thể.

Ví dụ như:

Nông nghiệp và phân phối lương thực.

Giáo dục (chính thống và không chính thống).

Các cơ quan cấp thoát nước và vệ sinh.

Giao thông vận tải và thông tin truyền thông.

Tất cả những lĩnh vực kể trên đều tham gia trực tiếp hay gián tiếp vào các hoạt động trong hệ thống y tế.

Ngoài ra còn có thể có các ban lãnh đạo hay hội đồng nhân dân, ban điều hành ở các cấp làng xã, địa phương, tỉnh có thể tăng cường sự cộng tác giữa các ban ngành đoàn thể khác nhau nhằm thúc đẩy mọi hoạt động nâng cao sức khỏe.

Khu vực y tế tư nhân Khu vực y tế Nhà nước

Khu vực quốc tế

Mỗi người dân và người thân của mình tạo nên lực lượng phối hợp quan trọng của hệ thống y tế. Họ tự chọn và phối hợp các hoạt động mà họ tin rằng sẽ giúp tăng cường sức khoẻ của mình. Họ có thể quyết định sử dụng loại hình này mà không sử dụng loại hình khác. Không nhất thiết lúc nào người dân cũng phải chọn những dịch vụ y tế Nhà nước. Tại nhiều nước, người ta đã có rất nhiều nỗ lực nhằm tăng cường sự phối hợp giữa các dịch vụ công cộng khác nhau và giữa các dịch vụ Nhà nước, của các tổ chức phi chính phủ và các hệ thống khám chữa bệnh khác nhằm nâng cao sức khỏe người dân.

Các thành phần của hệ thống y tế hoạt động ra sao phụ thuộc phần lớn vào các nhân tố kinh tế xã hội, chính trị, văn hoá, tự nhiên, dịch tễ học và những nhân tố ngoại cảnh khác. Ví dụ: khủng hoảng hoặc bùng nổ kinh tế sẽ ảnh hưởng đến tình trạng sức khỏe và dinh dưỡng của các cá thể cũng như ngân sách quốc gia dành cho y tế.

Hình 1.2. Những lĩnh vực quan tâm chính trong hệ thống y tế (theo Purola,1986)

Hình 1.3. Các kiến thức đa ngành cần thiết trong nghiên cứu hệ thống y tế

Nguyên tắc cơ bản trong tổ chức mạng lưới y tế Việt Nam

Phục vụ nhân dân tốt nhất và hiệu quả cao

Các cơ sở y tế gần dân, rộng khắp ở mọi khu vực: Thành thị, nông thôn, miền núi, hải đảo… Thực hiện đa dạng hoá các loại hình dịnh vụ chăm sóc sức khỏe (công, tư, bán công, lưu động, tại nhà… ). Với đặc điểm này các cơ sở y tế Việt Nam có khả năng đáp ứng được nhu cầu chăm sóc sức khoẻ nhân dân, cụ thể là đảm bảo phục vụ chăm sóc sức khỏe nhân dân kịp thời, hiệu quả và công bằng, thực hiện các nội dung và nguyên lý của chăm sóc sức khỏe ban đầu.

Xây dựng theo hướng dự phòng chủ động và tích cực

Mạng lưới y tế Việt Nam xây dựng theo hướng dự phòng chủ động và tích cực được thể hiện trong các nội dung hoạt động sau:

Mạng lưới y tế làm tham mưu tốt công tác vệ sinh môi trường: Vệ sinh ăn, ở, sinh hoạt, lao động… Tích cực tuyên truyền giáo dục sức khỏe, vận động nhân dân thực hiện các biện pháp dự phòng. Việc kết hợp chặt chẽ giữa ngành y tế

với các ngành khác, với các tổ chức xã hội nhằm thực hiện dự phòng theo hướng xã hội hoá.

Thực hiện kiểm tra, giám sát công tác vệ sinh môi trường như vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh ở các cơ quan, xí nghiệp… Việc tham gia đánh giá tác động môi trường ở các khu công nghiệp, cơ sở sản xuất v.v…

Tổ chức công tác phòng chống dịch, phòng chống các bệnh xã hội, bệnh nghề nghiệp, bệnh lưu hành ở địa phương. Từ Trung ương tới địa phương có tổ chức màng lưới y tế dự phòng ngày càng phát triển.

Đảm bảo phát hiện sớm bệnh tật, xử lý kịp thời nhanh chóng, theo dõi lâu dài tình hình sức khỏe và bệnh tật của nhân dân. Điều trị tích cực, giảm tỷ lệ tai biến, tỷ lệ tử vong.

Tổ chức tốt công tác khám chữa bệnh ngoại trú (tại các cơ sở y tế lưu động và tại nhà) các bệnh thông thường, không phức tạp để giảm bớt khó khăn cho người bệnh.

Các cơ sở y tế xây dựng phù hợp với tình hình kinh tế địa phương

Quy mô cơ sở y tế hợp lý (số giường bệnh, kinh phí, cơ sở vật chất…). Địa điểm của các cơ sở thuận lợi cho nhân dân trong quá trình sử dụng: Thuận tiện giao thông, trung tâm của các điểm dân cư, đảm bảo bán kính ngắn cho nhân dân đi lại được dễ dàng. Cán Bộ Y tế phù hợp về số lượng và chất lượng (loại cán bộ, trình độ chuyên môn). Thực hiện phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm từ khi bắt đầu xây dựng cũng như suốt trong quá trình sử dụng. Động viên cộng đồng tham gia xây dựng màng lưới về mọi mặt. Phát triển cân đối giữa các khu vực phổ cập và chuyên sâu, phòng bệnh và chữa bệnh, y và dược, chuyên môn và hành chính, hậu cần.

Các cơ sở y tế xây dựng phù hợp trình độ khoa học kỹ thuật, khả năng quản lý

Đủ trang thiết bị y tế thông thường và hiện đại để thực hiện những kỹ thuật điều trị theo tuyến quy định, có tính đến khả năng sử dụng trang thiết bị của nhân viên y tế tại cơ sở y tế. Diện tích sử dụng phù hợp, có thể đáp ứng được các yêu cầu hiện tại và các yêu cầu mới về quy hoạch và phát triển kinh tế trong tương lai.

Đảm bảo không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ

Chất lượng phục vụ bao gồm chất lượng về chuyên môn kỹ thuật, chất lượng quản lý ngành y tế và đạo đức phục vụ. Chất lượng phục vụ được đánh giá thông qua đo lường 3 yếu tố: yếu tố mang tính cấu trúc (yếu tố đầu vào), quá trình thực hiện và kết quả đạt được (đầu ra ). Yếu tố cấu trúc được đo lường thông qua tính sẵn có của nguồn lực; yếu tố quá trình được đo lường thông qua các chức năng của nhân viên y tế thể hiện trong hoạt động chăm sóc sức khỏe nhân dân; còn yếu tố đầu ra là kết quả cuối cùng của một quá trình thực hiện đúng các hoạt động chăm sóc sức khỏe và tính sẵn có kịp thời của đầu vào.

Chất lượng phục vụ còn được hiểu là hoạt động chăm sóc sức khỏe nhân dân phải có hiệu quả trên cả 3 mặt y học, xã hội và kinh tế.

Để không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ cần:

Phát huy mọi tiềm lực về cơ sở, trang thiết bị, nhân lực trong các cơ sở y tế Nhà nước, liên doanh và tư nhân để ngày càng nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ nhân dân: lồng ghép các hoạt động phòng bệnh và chữa bệnh, khám chữa bệnh và đào tạo, nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến trong nước và trên thế giới.

Tăng cường hợp tác trong khu vực và quốc tế, kêu gọi đầu tư để phát triển khoa học kỹ thuật, xây dựng cơ sở vật chất, nâng cao trình độ chuyên môn nhằm nâng cao chất lượng phục vụ.

Đổi mới và hiện đại hóa công tác quản lý, trang thiết bị y tế; tăng cường đào tạo, thực hiện đào tạo liên tục để nâng cao chất lượng phục vụ.

Mô hình chung của tổ chức mạng lưới y tế ở Việt Nam

Mạng lưới y tế được tổ chức theo tổ chức hành chính Nhà nước

Y tế tuyến Trung ương. Y tế địa phương bao gồm:

Y tế tuyến Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương.

Y tế tuyến cơ sở: Phòng y tế huyện, quận, thị xã; Trạm y tế xã, phường, cơ quan, trường học…

Mạng lưới y tế tổ chức theo theo thành phần kinh tế

Cơ sở y tế Nhà nước.

Cơ sở y tế Tư nhân.

Mạng lưới y tế tổ chức theo theo các lĩnh vực hoạt động

Lĩnh vực khám chữa bệnh, điều dưỡng, phục hồi chức năng

Lĩnh vực này bao gồm các cơ sở KCB, điều dưỡng, phục hồi chức năng từ Trung ương đến địa phương, kể cả các cơ sở y tế của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và các ngành khác. Theo Niên giám thống kê y tế 2003 của Bộ Y tế, cả nước có 13 102 cơ sở KCB, điều dưỡng, phục hồi chức năng với 184 440 giường bệnh (chưa kể các cơ sở của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và các cơ sở điều dưỡng thương binh nặng do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quản lý). Tỷ lệ giường bệnh chung của Việt Nam là 22,80/10 000 dân.

Lĩnh vực y tế dự phòng, y tế công cộng

Tại tuyến Trung ương, lĩnh vực này gồm có các viện Trung ương, viện khu vực, phân viện và trung tâm. Tại địa phương, ở tất cả các tỉnh/thành phố đều có Trung tâm Y tế dự phòng. Một số tỉnh còn có Trung tâm phòng chống bệnh xã hội, Trung tâm phòng chống sốt rét, Trung tâm phòng chống AIDS. Ngoài ra còn có các Trung tâm y tế các ngành: công nghiệp, giao thông, xây dựng, nông nghiệp và bưu điện.

Lĩnh vực đào tạo nhân lực y tế

Hệ thống đào tạo nhân lực y tế cả nước gồm có hệ thống các Trường Đại học Y-Dược (15 Trường Đại học Y, Dược, Y tế Công cộng, Điều dưỡng); hệ thống các Trường Cao đẳng Y tế (04 trường) và hệ thống các Trường Trung học và dạy nghề ( 58 Trường Trung học Y tế, 01 Trường Kỹ thuật thiết bị Y tế, 04 Trung tâm đào tạo cán Bộ Y tế, 04 Lớp trung học Y tế)

Lĩnh vực giám định, kiểm định, kiểm nghiệm

Về giám định: Có 2 Viện nghiên cứu là Viện giám định Y khoa Trung ương và Viện Y pháp Trung ương. Viện giám định Y khoa Trung ương và các Hội đồng giám định Y khoa (Trung ương và Tỉnh) trực tiếp làm nhiệm vụ giám định sức khoẻ, bệnh tật cho nhân dân. Viện Y pháp Trung ương là một viện nghiên cứu về y pháp trong Ngành Y tế, giám định mức độ tổn thương, mức độ tổn hại sức khỏe, giám định tử thi, hài cốt, giám định nguyên nhân gây chết. Tại các tỉnh đều có hệ thống mạng lưới về giám định Y khoa, giám định Y pháp và giám định Tâm thần.

Về kiểm nghiệm, kiểm định: Có một Viện kiểm nghiệm, một phân viện kiểm nghiệm, một Trung tâm kiểm định quốc gia sinh phẩm y học và Trung tâm kiểm nghiệm vệ sinh an toàn thực phẩm thuộc Cục quản lý chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm.

Lĩnh vực dược – thiết bị y tế

Ngành y tế hiện có 5 đơn vị bao gồm 2 Viện (Viện kiểm nghiệm, Viện trang thiết bị và công trình Y tế), 2 Tổng công ty (Tổng công ty dược, Tổng công ty dược thiết bị y tế) và Hội đồng dược điển Việt Nam. Hệ thống này còn có 14 doanh nghiệp dược Trung ương, 132 công ty, xí nghiệp dược địa phương, các doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, các dự án đầu tư liên doanh sản xuất dược (đã được cấp giấy phép).

Lĩnh vực giáo dục, truyền thông và chính sách y tế

Lĩnh vực này có 2 viện (Viện Thông tin – Thư viện Y học Trung ương và Viện Chiến lược – Chính sách Y tế), một trung tâm (Trung tâm Truyền thông Giáo dục sức khỏe, tại các tỉnh/ thành phố cũng có Trung tâm Truyền thông Giáo dục sức khỏe), một tờ báo (Báo sức khỏe và đời sống) và một số tạp chí (Tạp chí y học thực hành, dược học, tạp chí vệ sinh phòng dịch, tạp chí thông tin y học, tạp chí nghiên cứu y học, AIDS …).

Mạng lưới y tế tổ chức theo theo 2 khu vực và các tuyến (Hình 1.4)

Mạng lưới tổ chức y tế Việt Nam được phân thành 2 khu vực: Y tế phổ cập và chuyên sâu.

Khu vực y tế phổ cập có nhiệm vụ đảm bảo đáp ứng mọi nhu cầu chăm sóc sức khỏe cho nhân dân hàng ngày. Cụ thể là đáp ứng được các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu, sử dụng các kỹ thuật thông thường, phổ biến nhưng có tác dụng tốt. Khu vực y tế phổ cập bao gồm từ tuyến y tế Tỉnh/ Thành phố trực thuộc Trung ương trở xuống. Hiện nay tuyến y tế tỉnh còn đảm nhiệm cả nhiệm vụ của khu vực y tế chuyên sâu.

Khu vực y tế chuyên sâu có nhiệm vụ sử dụng các kỹ thuật cao mũi nhọn, tập trung vào các hoạt động NCKH, chỉ đạo khoa học kỹ thuật và hỗ trợ cho tuyến trước.

Mạng lưới tổ chức y tế Việt Nam còn được phân thành 3 tuyến kỹ thuật: Y tế tuyến Trung ương, y tế tuyến tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và y tế tuyến Cơ sở (y tế huyện/ quận/ thành phố thuộc tỉnh/ thị xã; y tế xã/ phường và y tế thôn bản). Ngoài ra còn hệ thống tổ chức y tế của các lực lượng vũ trang (quân đội và công an) và các ngành như y tế ngành năng lượng, ngành giao thông vận tải, ngành bưu điện v.v…

Hình 1.4. Mô hình chung hệ thống tổ chức Ngành Y tế Việt Nam.

Mối quan hệ giữa mạng lưới tổ chức y tế với các tổ chức hành chính

(Hình 1.5)

Mỗi cấp hành chính Nhà nước đều có cơ sở y tế phục vụ sức khỏe nhân dân. Các cấp tổ chức hành chính có tham gia chỉ đạo công tác y tế là Trung ương (Chính phủ), tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (ủy ban nhân dân cấp Tỉnh), huyện/ quận (ủy ban nhân dân cấp huyện) và xã/ phường (ủy ban nhân dân cấp xã). Ngoài chỉ đạo công tác y tế, tất cả các cấp tổ chức hành chính đều có thể tham gia vào các hoạt động chăm sóc bảo vệ sức khỏe nhân dân dưới các góc độ khác nhau.

Hình 1.5. Mô hình về quan hệ giữa mạng lưới y tế và tổ chức hành chính.

Tổ chức y tế tuyến Trung ương

Vị trí, chức năng

Y tế tuyến Trung ương là tuyến cao nhất trong tổ chức mạng lưới y tế, có chức năng tham mưu cho Chính phủ về công tác y tế và thực hiện nhiệm vụ lập kế hoạch, xây dựng các chính sách y tế, thực hiện việc quản lý toàn bộ ngành Y tế cả nước. Y tế tuyến Trung ương thuộc sự chỉ đạo trực tiếp về mọi mặt của Bộ trưởng Bộ Y tế qua các Thứ trưởng và các Vụ, Cục, Ban chuyên môn giúp việc cho Bộ trưởng. Hoạt động của y tế tuyến Trung ương do ngân sách của Nhà nước đài thọ.

Bộ Y tế là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân.

Nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Y tế

Bộ Y tế có trách nhiệm thực hiện 23 nhiệm vụ, quyền sau đây:

Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các dự án luật, pháp lệnh và dự thảo văn bản quy phạm pháp luật khác về chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân.

Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chiến lược, quy hoạch, kế hoạch dài hạn, năm năm và hàng năm về lĩnh vực chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân và các công trình, dự án quan trọng của Bộ Y tế.

Ban hành theo thẩm quyền các quyết định, chỉ thị, thông tư thuộc phạm vi quản lý Nhà nước của Bộ.

Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra và chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các chương trình quốc gia sau khi được phê duyệt và các văn bản pháp luật khác thuộc phạm vi quản lý của Bộ; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và thông tin về các lĩnh vực chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân;

Về y tế dự phòng:

Trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch, phân tuyến kỹ thuật hệ thống y tế dự phòng và hệ thống kiểm dịch y tế biên giới.

Quy định tiêu chuẩn ngành về chuyên môn, kỹ thuật thuộc các lĩnh vực: các bệnh nhiễm trùng, các bệnh không nhiễm trùng, HIV/AIDS; tai nạn thương tích, sức khỏe trường học, sức khỏe lao động và bệnh nghề nghiệp; về dinh dưỡng cộng đồng; về vệ sinh an toàn nước uống, nước sinh hoạt; về vaccin và sinh phẩm y tế; về các loại hoá chất, chế phẩm diệt khuẩn, diệt côn trùng trong lĩnh vực y tế; về chăm sóc sức khỏe ban đầu và về truyền thông giáo dục sức khỏe; về điều kiện sản xuất, kinh doanh vaccin, sinh phẩm y tế. Chỉ đạo và kiểm tra việc thực hiện.

Trình Thủ tướng Chính phủ quyết định hoặc quy định theo thẩm quyền và tổ chức thức hiện những biện pháp đặc biệt để dập tắt dịch.

Chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành để phòng chống, cấp cứu và điều trị nạn nhân trong thiên tai thảm họa.

Làm thường trực về lĩnh vực HIV/AIDS của ủy ban Quốc gia phòng chống HIV/AIDS, phòng chống tệ nạn ma tuý, mại dâm.

Về khám, chữa bệnh, phục hồi chức năng:

Trình Thủ tướng Chính phủ quy hoạch, phân tuyến kỹ thuật mạng lưới khám, chữa bệnh, phục hồi chức năng, giám định (giám định y khoa, y pháp, tâm thần);

Trình Thủ tướng Chính phủ quy định điều kiện, tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục thành lập, sáp nhập, giải thể các bệnh viện công;

Chủ trì, phối hợp với bộ, ngành và ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thẩm định các đề án thành lập và nâng cấp các bệnh viện thuộc các bộ, ngành và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo quy định của pháp luật để bộ, ngành, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đó quyết định;

Quy định các điều kiện, tiêu chuẩn, quy chế chuyên môn, kỹ thuật về khám, chữa bệnh, chăm sóc, điều dưỡng, phục hồi chức năng, chỉnh hình, thẩm mỹ, giám định (giám định y khoa, giám định y pháp, giám định tâm thần), về y học cổ truyền, về bảo vệ sức khỏe các đối tượng ưu tiên theo quy định của pháp luật; về chăm sóc sức khoẻ sinh sản và thực hiện dịch vụ kế hoạch hoá gia đình. Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra các cơ sở khám chữa bệnh, phục hồi chức năng;

Quy định điều kiện, tiêu chuẩn hành nghề khám chữa bệnh tư nhân. Thống nhất quản lý việc cấp và thu hồi chứng chỉ hành nghề khám chữa bệnh, giấy chứng nhận đủ điều kiện hành nghề cho các cơ sở khám, chữa bệnh tư nhân, bán công, dân lập, có vốn đầu tư nước ngoài theo quy định của pháp luật;

Chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính quy định khung mức đóng và mức hưởng bảo hiểm y tế tự nguyện.

Về y học cổ truyền:

Quy định các biện pháp củng cố mạng lưới dịch vụ y tế bằng y học cổ truyền, kết hợp y học cổ truyền với y học hiện đại trong phòng bệnh, khám chữa bệnh, phục hồi chức năng, đào tạo cán bộ, nghiên cứu khoa học và sản xuất thuốc y học cổ truyền.

Quy định các quy chế chuyên môn, kỹ thuật chăm sóc sức khỏe bằng y học cổ truyền.

Quy định điều kiện, tiêu chuẩn hành nghề y dược cổ truyền. Thống nhất quản lý việc cấp và thu hồi chứng chỉ hành nghề y dược cổ truyền tư nhân và giấy chứng nhận đủ điều kiện hành nghề cho các cơ sở hành nghề y dược cổ truyền tư nhân, dân lập, bán công, có vốn đầu tư của nước ngoài.

Về thuốc và mỹ phẩm:

Quy định tiêu chuẩn và điều kiện đối với các tổ chức, tư nhân được sản xuất, lưu thông và nhập khẩu thuốc, nguyên liệu làm thuốc.

Quy định chế độ sản xuất, lưu thông, sử dụng, tồn trữ các loại thuốc độc, thuốc và chất dễ gây nghiện, gây hưng phấn và ức chế tâm thần.

Chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra việc quản lý mỹ phẩm có ảnh hưởng đến sức khỏe con người.

Xây dựng dược điển và dược thư quốc gia.

Thống nhất quản lý việc cấp và thu hồi chứng chỉ hành nghề dược tư nhân, giấy chứng nhận đủ điều kiện hành nghề đối với các cơ sở sản xuất, lưu thông, phân phối thuốc.

Về an toàn vệ sinh thực phẩm:

Ban hành theo thẩm quyền các tiêu chuẩn về an toàn vệ sinh thực phẩm, các quy trình, quy phạm kỹ thuật bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm;

Thống nhất quản lý việc cấp và thu hồi giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm;

Chịu trách nhiệm trong việc chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm.

Phối hợp với Bộ Xây dựng ban hành thiết kế mẫu các công trình y tế theo phân tuyến kỹ thuật.

Thẩm định theo thẩm quyền các dự án đầu tư xây dựng các công trình y tế.

Quyết định các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ.

Quy định về điều kiện sản xuất trang thiết bị y tế.

Về đào tạo cán Bộ Y tế:

Chỉ đạo việc biên soạn chương trình, giáo trình đào tạo cán Bộ Y tế bao gồm cả nội dung, chương trình giảng dạy chuyên môn, kỹ thuật của các Trường cao đẳng, Trung học y tế địa phương và quản lý thống nhất nội dung chương trình đó theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Quản lý các Trường Đại học Y, Đại học Dược theo quy định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ

Tổ chức và chỉ đạo việc thực hiện kế hoạch nghiên cứu khoa học, ứng dụng nghiên cứu khoa học, công nghệ trong lĩnh vực y, dược và trang thiết bị y tế.

Thực hiện hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực về chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân theo quy định của pháp luật.

Thẩm định và kiểm tra việc thực hiện các dự án đầu tư thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ theo quy định của pháp luật.

Quyết định các chủ tr-ơng, biện pháp cụ thể và chỉ đạo việc thực hiện cơ chế hoạt động của các tổ chức dịch vụ công trong các lĩnh vực về chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân.

Quản lý, chỉ đạo hoạt động đối với các tổ chức sự nghiệp trực thuộc Bộ.

Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể thuộc quyền đại diện chủ sở hữu phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp có vốn Nhà nước trong lĩnh vực y tế thuộc Bộ quản lý theo quy định của pháp luật.

Quản lý Nhà nước đối với các hoạt động của hội và tổ chức phi Chính phủ trong các lĩnh vực về chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân theo quy định của pháp luật.

Thanh tra, kiểm tra công tác y tế dự phòng, khám, chữa bệnh, phục hồi chức năng, trang thiết bị và công trình y tế, thực hiện các quy định của pháp luật về an toàn vệ sinh thực phẩm; giải quyết khiếu nại, tố cáo; chống tham nhũng, chống tiêu cực, chống lãng phí và xử lý các vi phạm pháp luật trong các lĩnh vực về chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân thuộc thẩm quyền của Bộ.

Quyết định và chỉ đạo thực hiện chương trỡnh cải cỏch hành chớnh của Bộ theo mục tiêu và nội dung chương trình cải cách hành chính Nhà nước đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Quản lý về tổ chức bộ máy, biên chế; bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước thuộc phạm vi quản lý của Bộ; đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ đối với cán bộ, công chức, viên chức trong các lĩnh vực về chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân.

Quản lý tài chính, tài sản được giao và tổ chức thực hiện ngân sách được phân bổ theo quy định của pháp luật.

Quyết định và chỉ đạo thực hiện chương trình cải cách hành chính của Bộ theo mục tiêu và nội dung chương trình cải cách hành chính Nhà nước đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Quản lý về tổ chức bộ máy, biên chế; bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước thuộc phạm vi quản lý của Bộ; đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ đối với cán bộ, công chức, viên chức trong các lĩnh vực về chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân.

Quản lý tài chính, tài sản được giao và tổ chức thực hiện ngân sách được phân bổ theo quy định của pháp luật.

Cơ cấu tổ chức của Bộ Y tế

Bộ Y tế có một Bộ trưởng và các Thứ trưởng. Các Thứ trưởng đặc trách về các lĩnh vực: Điều trị, y tế dự phòng, dược- trang thiết bị, nhân sự và hợp tác quốc tế… Bộ trưởng do Quốc hội bổ nhiệm còn các Thứ trưởng do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm.

Các tổ chức giúp Bộ trưởng y tế thực hiện chức năng quản lý Nhà nước gồm có

Văn phòng Bộ. Vụ Y học cổ truyền.

Thanh tra Bộ. Vụ Sức khỏe sinh sản.

Vụ Kế hoạch – Tài chính. Vụ Trang thiết bị và Công trình Y tế.

Vụ Tổ chức cán bộ. Cục Quản lý Dược Việt Nam.

Vụ Khoa học và Đào tạo. Cục An toàn vệ sinh thực phẩm.

Vụ Pháp chế. Cục Y tế dự phòng và phòng chống

HIV/ AIDS. Vụ Hợp tác quốc tế.

Vụ Điều trị.

Văn phòng Bộ phụ trách quản lý nội bộ, văn thư, hành chính, quản trị, tổng hợp các vấn đề lớn, giao dịch với nước ngoài.

Vụ chuyên môn: Vụ Kế hoạch; Vụ Tổ chức cán bộ; Vụ Khoa học – Đào tạo; Vụ Tài chính – Kế toán; Vụ Pháp chế; Vụ Hợp tác quốc tế; Vụ Điều trị; Vụ Y tế dự phòng; Vụ Bảo vệ bà mẹ trẻ em – Kế hoạch hoá gia đình; Vụ Y học cổ truyền dân tộc; Vụ Trang thiết bị công trình y tế; Thanh tra Bộ; Cục quản lý dược Việt Nam.

Các tổ chức quần chúng: Công đoàn y tế Việt Nam; Tổng hội y dược học Việt Nam; Hội đồng khoa học kỹ thuật Bộ.

Các cơ quan/ cơ sở trực thuộc Bộ Y tế

Các đơn vị trực thuộc Bộ Y tế gồm có các bệnh viện Trung ương, viện nghiên cứu có giường và không có giường, các trường đào tạo, nhà xuất bản… ( xem mục 3.3).

Các Viện, phân viện nghiên cứu có giường và không có giường

Viện sốt rét- ký sinh trùng- côn trùng Trung ương và 4 phân viện Sài Gòn, Tây Nguyên, Quy Nhơn, Nha Trang.

Viện chống lao Trung ương, Viện Y học nhiệt đới.

Viện Mắt, Viện Tai Mũi Họng; Viện Răng Hàm Mặt (Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh).

Viện Y học cổ truyền dân tộc (Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh).

Viện Bảo vệ sức khoẻ trẻ em Việt Nam – Thụy Điển.

Viện Bảo vệ bà mẹ và Trẻ sơ sinh.

Viện Nội tiết, Viện Châm cứu Hà Nội.

Viện Dược liệu.

Viện Kiểm nghiệm, Viện Giám định y khoa.

Viện Y học lao động.

Viện Da liễu, Viện Dinh dưỡng.

Trung tâm quốc gia kiểm nghiệm vaccin.

Các bệnh viện đa khoa và chuyên khoa Trung ương

Bệnh viện Bạch mai; Việt Đức; Việt Xô; K; Tâm thần; E, G1; 74, 71; Đa khoa Thái Nguyên; C Đà Nẵng; Tâm thần Biên Hoà; Huế; Chợ Rẫy; Thống Nhất; Quốc tế; Đồng Hới; Uông Bí.

Điều dưỡng: Sầm Sơn Thanh Hoá, A Ba Vì.

Khu điều trị phong: Quỳnh Lập, Quy Hoà.

Nhà xuất bản y học, Trung tâm GDSK, Viện thông tin, thư viện y học.

Các Trường Đại học, Cao đẳng, Trung học y dược.

Tổng công ty dược Việt Nam.

Tổng công ty trang thiết bị, các công trình y tế.

Bạn đang xem bài viết Đại Cương Về Bào Chế Đông Y trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!