Cập nhật thông tin chi tiết về Đại Cương Về Người Cao Tuổi mới nhất trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Published on
1. 1 chúng tôi NGUYỄN ĐỨC CÔNG Giám đốc Bệnh viện Thống Nhất chúng tôi Chủ nhiệm Bộ môn Lão khoa-ĐHYK Phạm Ngọc Thạch
2. 1. Nắm được dịch tễ học về người cao tuổi 2. Hiểu khái niệm về lão học, lão khoa, cơ chế tích tuổi. 3. Hiểu được những đặc điểm tâm lý và xã hội của người cao tuổi. 2
3. 3 DỊCH TỄ HỌC VỀ NGƯỜI CAO TUỔI
6. 6 NGUYÊN NHÂN TỬ VONG HÀNG ĐẦU SAU 65 TUỔI
7. 7 NGUYÊN NHÂN TỬ VONG HÀNG ĐẦU THEO NHÓM TUỔI
10. 4.8 3.8 2.23 2.09 2.03 1.99 0 1 2 3 4 5 1979 1989 1999 2006 2009 2011 TRF 10 Đạt mức sinh thay thế
11. 36 42.3 36.7 16 15.5 0 10 20 30 40 50 1979 1989 1999 2009 2011 11 Tỷ lệ chết trẻ em (%o) Nguồn: Tổng điều tra dân số và nhà ở 1979, 89, 99, 09
12. 91 85 85 80 75.1 75 69 60 70 80 90 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2009 12 Tỷ lệ tử vong mẹ/100 ngàn trẻ sinh ra sống Niên giám thống kê Y tế 2002-2009
13. 66 68 69.3 72.8 73 65 67 69 71 73 75 1979 1989 1999 2009 2011 13 Tuổi thọ trung bình lúc sinh: Sau 50 năm tăng thêm 33 tuổi (TG tăng 21 tuổi)
14. 3.71 4.64 6.19 7.45 8.15 8.65 2 4 6 8 10 1979 1989 1999 2009 2010 2011 14 Số người 60+ (triệu người)
15. 0.54 0.7 0.93 1.47 0 0.5 1 1.5 2 1979 1989 1999 2009 15 Tỷ lệ người trên 80 tuổi (%)
16. 1.5 2 2.5 0 1 2 3 60+ 80+ 85+ Số nữ /nam 16
17. 11 11 9 8 5 4 3 4 3 3 3 3 2 3 2 1 14 11 0 3 6 9 12 15 M alaysia Philippine Vietnam Indonesia Thailand Singapore U SA France Japan 2010 2050 17
18. QUÁ TRÌNH TÍCH TUỔI 18
19. Tích tuổi: là quá trình biến đổi của cơ thể song song với sự tích lũy tuổi tác. Quá trình này bắt đầu khi con người mới sinh ra, liên tục tiến triển song song với quá trình sống của con người và kết thúc khi sự sống kết thúc. 19
20. Lão học là một môn khoa học tập hợp nhiều ngành khoa học khác nhau hoặc những phân môn của các ngành khoa học quan tâm tới sự già hóa và nghiên cứu quá trình lão hóa như: sinh học, sinh lý học, nhân chủng học, xã hội học, tâm lý học, triết học, kinh tế học.
21. Đối tượng là quá trình tích tuổi. Nghiên cứu: ◦ Các biểu hiện, hình thái của tích tuổi. ◦ Cách tiến triển của các biểu hiện trên. ◦ Các quy luật trong sự tiến triển đó. ◦ Nội dung, thực chất của quá trình tích tuổi. ◦ Cơ chế của tích tuổi. ◦ Các yếu tố tác động đến quá trình tích tuổi 21
23. Quá trình già hóa: tác động của thời gian lên một cơ thể sống. ◦ Thời gian vật lý: tháng, năm ◦ Thời gian sống: ngày sinh, gia đình, xã hội, tôn giáo, trình độ văn hóa xã hội, quá trình đào tạo, nghề nghiệp, hành vi và các biến cố… Trạng thái già xuất hiện ở từng người với từng thời điểm khác nhau. Có người trẻ lâu, có người già sớm Già không bắt buộc đồng nghĩa với tuổi cao
24. Thời điểm bắt đầu: từ 60 (TCYYTG) – Tuổi về hưu (dấu chỉ điểm về xã hội) Thuật ngữ – Người cao tuổi, – Người già, – Lứa tuổi thứ ba, – Lứa tuổi thứ tư, “panthères grises”, “hermanos ancianos “
25. Cá nhân: trưởng thành sau đó sẽ già đi. Gia đình: Vị trí của người cao tuổi trong gia đình. Xã hội: Vị trí của người cao tuổi trong xã hội. Chăm sóc y tế: tác động của người cao tuổi đến hệ thống chăm sóc.
29. Chi phí y tế cho người già cao gấp 7-10 lần người trẻ NCT sử dụng đến 50% tổng lượng thuốc Xu hướng tử vong trong các cơ sở y tế tăng lên cũng làm gia tăng chi phí y tế. Tại Nhật: 90% người cao tuổi tử vong tại cơ sở y tế. 30
30. Tỷ lệ phụ nữ tham gia lao động cao. Có sự khác biệt về việc làm, thu nhập, an sinh xã hội, quyền lực chính trị… Phụ nữ sống lâu hơn, nguy cơ tàn phế cao hơn Tỷ lệ phụ nữ già góa chồng (56.8%)/nam giới già góa vợ (16.1%) Tỷ lệ phụ nữ già sống đơn độc (17.7%)/nam giới già sống đơn độc (8.6%) 31
31. Mạng lưới y tế cho người già chưa hoàn thiện. Quá tải tại bệnh viện. Các dịch vụ y tế và xã hội cho người già tại cộng đồng còn hạn chế Ngân sách y tế có hạn, trong khi chi phí CSYT cho người già rất tốn kém 32
32. Thiếu bác sỹ chuyên khoa Lão khoa. Thiếu điều dưỡng lão khoa Chăm sóc người già tại gia đình và cộng đồng chủ yếu dựa vào người nhà và những người chăm sóc không được đào tạo: nguồn nhân lực này ngày càng giảm. 33
33. 1. Quá trình lão hoá thành công không có bệnh với ít nguy cơ để tiếp tục sống và độc lập trong cuộc sống hàng ngày. 2. Quá trình lão hoá ” bình thường ” : không có bệnh nhưng có nguy cơ mắc bệnh 3. Lão hoá ” bệnh lý” : có nhiều yếu tố nguy cơ, mắc bệnh và/hoặc sớm bị giảm khả năng. 34
34. Chủ đề phức tạp Nhiều cơ chế được giải thích CƠ CHẾ LÃO HÓA Cơ chế ngoại sinh – Tác động của các sự kiện của cuộc đời – Hoạt động thể lực và trí óc – Dinh dưỡng – Nhiễm độc, tia xạ Cơ chế nội sinh – Gen – Gốc tự do – Sự glycat hóa
35. Chức năng sinh lý tốt mặc dù có bệnh Chức năng sinh lý kém hơn nhưng có cải thiện tốt hơn trong giai đoạn sau. Thích nghi với những việc cần làm và dự định làm
36. VAI TRÒ Cá nhân-Gia đình- Xã hội với quá trình lão hóa
37. Bản thân từng cá nhân cảm nhận những biến đổi trong cơ thể: Sức lực, Khả năng dung nạp với gắng sức Trí nhớ, tinh thần. Nhìn, nghe, đau. Cần giúp đỡ…. Hãy là người thấu hiểu những biến đổi thông thường của quá trình lão hoá.
38. – Lối sống: cùng gia đình hay sống một mình? – Vai trò trong gia đình? – Tình trạng sức khoẻ? – Có những lo lắng gì? Có tình cảm như thế nào? – Những phản ứng trong gia đình? – Có những căng thẳng? – Đoàn kết trong gia đình?
40. VAI TRÒ XÃ HỘI Thay đổi về nhân khẩu học Bùng nổ người già trên thế giới. Đồng nhất về hoàn cảnh và về tốc độ chuyển dịch nhân khẩu học Vai trò của người cao tuổi trong xã hội Đoàn kết : Nguồn tài chính y tế Mỗi chúng ta cần có nhận thức về thay đổi của xã hội.
41. Các nhân viên y tế: ◦ Bác sỹ, ◦ Điều dưỡng, ◦ Kỹ thuật viên PHCN, ◦ Nhà tâm lý học, ◦ Cán sự xã hội, ◦ Bác sỹ dinh dưỡng… Hãy là người biết nghĩ tới các điều kiện chăm sóc tốt cho người cao tuổi.
42. Trang thiết bị cần thiết: ◦ Khoa lão nằm ngắn ngày trong bệnh viện, ◦ Khoa PHCN và tái thích nghi, ◦ Bệnh viện ban ngày, ◦ Đơn vị lão khoa lưu động, ◦ Nhà dưỡng lão có y tế: các chuỗi liên kết lão khoa Các quy trình quản lý chất lượng Hãy là người biết nghĩ tới các điều kiện chăm sóc tốt cho người cao tuổi
43. HÀNH VI THÍCH HỢP 1. Phát hiện và dự phòng bắt đầu từ lúc nghỉ hưu những yếu tố nguy cơ lão hoá. 2. Cải thiện chế độ dinh dưỡng cân bằng để giữ được vóc dáng sau 55 tuổi 3. Cải thiện hoạt động thể lực và thể thao. 4. Phát hiện và dự phòng những yếu tố nguy cơ để phòng tránh những nguy cơ mắc bệnh ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống Khuyến cáo chính tại Pháp
44. HÀNH VI THÍCH HỢP 5. Nâng cao chất lượng sử dụng thuốc. 6. Cải thiện sự gắn kết giữa các thế hệ. 7. Phát triển “sống khoẻ khi về già” tại địa phương 8. Phát triển nghiên cứu và đổi mới để sống khoẻ Khuyến cáo chính tại Pháp
46. 49 Kết luận – Cơ chế của lão hóa phức tạp bao gồm các yếu tố nội sinh và ngoại sinh. – Quá trình lão hóa có vai trò tác động của nhiều yếu tố: cá nhân, gia đình, xã hội. – Cần có thái độ và hành vi ứng xử thích hợp.
47. Nguyễn Thiện Thành (2002).”Tích tuổi học cơ sở”. Những bệnh thường gặp ở người có tuổi- Nhà xuất bản Y học: 7-22. Bệnh học người cao tuổi (2012) Nguyễn Đức Công-Nhà xuất bản Y học Bệnh học người cao tuổi (2013) Nguyễn Văn Trí -Nhà xuất bản Y học Hazzard’s Geriatric Medicine and Gerontology (2004). Jeffrey B. Halter, sixth edition. Mc Grow Hill.
Người Cao Tuổi Là Gì? Những Điều Bạn Chưa Biết Về Người Cao Tuổi
1. Những kiến thức chung nhất về người cao tuổi cho bạn
Cũng không quá khó khăn để xác định được khái niệm của người cao tuổi. Đó là một trong những định nghĩa khá cơ bản mà mỗi chúng ta cũng có thể tự liên tưởng ra. Tuy nhiên khái niệm người cao tuổi trên thế giới và tại Việt Nam cũng có rất nhiều và đa dạng.
Người cao tuổi là gì? Chúng ta có thể hiểu chính xác hơn về định nghĩa này thông qua khái niệm về người cao tuổi của wikipedia, người cao tuổi hay người cao niên được hiểu là những người lớn tuổi, thường có độ tuổi trung bình từ 60 tuổi trở lên.
Trong pháp lệnh về người cao tuổi tại Việt Nam, được ban hành vào ngày 28/04/2000 cũng có những nhận định căn bản về vấn đề này như sau: ” Người cao tuổi có công sinh thành, nuôi dưỡng, giáo dục con cháu về nhân cách và vai trò quan trọng trong gia đình và xã hội”.
Đúng vậy, chúng ta thường nghĩ rằng, người cao tuổi là những người già và họ là những người có thể có nhiều kinh nghiệm trong nhiều lĩnh vực khác nhau, tuy nhiên, câu gọi thông thường như “người già” thì thường không phổ biến bằng người cao tuổi.
Tại Việt Nam hiện nay cũng có những quy định rất cụ thể, tất cả những người có độ tuổi 60 tuổi, là công dân của đất nước Việt Nam thì có thể được gọi là người cao tuổi. tuy nhiên một số nước trên thế giới, những người cao tuổi được chính thức thừa nhận khi họ có những cống hiến nhất định cho đất nước của họ.
Tất cả những người thuộc độ tuổi này có thể được gia nhập một cơ quan hay một tổ chức chung được gọi là hội dành cho những người cao tuổi hay là hội người cao tuổi. ở đó họ có thể tự do trao đổi và chia sẻ những vấn đề trong cuộc sống và hội này được thành lập một cách chính thức và hợp pháp.
Một số kiến thức về hội này cho bạn, như đây là một trong những tổ chức xã hội, đại diện cho những ý chí nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp của tất cả những người trong độ tuổi thuộc đối tượng người cao tuổi của Việt Nam.
Hoạt động của tổ chức này cũng được các tổ chức khác như các gia đình và cá nhân có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực hiện tối đa vai trò của mình đối với xã hội và đất nước, nâng cao vị trí và tầm quan trọng của họ trong sự phát triển của nền kinh tế và khoa học công nghệ như hiện nay.
Tất nhiên cùng với sự phát triển của xã hội, người cao tuổi cũng luôn thực hiện tốt những vai trò của mình từ trước đến nay. Chúng ta có thể tìm hiểu những vai trò của họ đơn giản như:
1.3.1. Là một trong những tấm gương sáng về đạo đức
Người cao tuổi là gì? Họ luôn là một trong những thế hệ soi đường và dẫn lối, họ có thể hiện được những kinh nghiệm của mình trong lối sống, trong những công lao về việc xây dựng tổ ấm hạnh phúc gia đình. Có biết bao người cha, người mẹ phải đổ mồ hôi và nước mắt của mình để đánh đổi với những hạnh phúc của con em.
Cũng có biết bao thế hệ người cao tuổi tu dưỡng đạo đức và tạo cho con của mình những lối sống và sự lành mạnh, đổi lấy đó, chúng ta có thể chung sống đoàn kết và ổn định như ngày nay. Đó là một trong những tấm gương lớn điển hình cho tất cả những thế hệ sau này, những mầm non tương lai còn trẻ của đất nước để có thể học hỏi và noi theo… chính vì vậy chúng ta có thể khẳng định đây là một trong những tấm gương mẫu mực mà đời đời chúng ta cần phải biết ơn họ rất nhiều.
Người cao tuổi với sự trải nghiệm dạn dày về cuộc đời đã trở thành trụ cột tinh thần vững chãi trong gia đình trong hoàn cảnh hiện tại, với việc nêu gương sáng về đạo đức, lối sống để giáo dục cho con cháu những giá trị gia đình truyền thống từ những sinh hoạt và việc làm nhỏ nhất hằng ngày trong gia đình.
Chắc chắn, trong một gia đình nếu chúng ta có những thế hệ như ông bà đã có tuổi thì đó hẳn là một niềm hạnh phúc của bản thân. Người cao tuổi đóng vai trò như một chiếc trụ vững chắc mà chúng ta có thể học hỏi rất nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống hàng ngày của bản thân. Họ có thể có những kỹ năng thuyết phục con cháu với những cách làm đơn giản mà không tạo căng thẳng hay áp lực.
Người cao tuổi có thể thực hiện và tác động từ bên ngoài để hình thành nhân cách tốt đẹp và hướng thiện đến những suy nghĩ hay hành động của con cháu để noi theo.
Không chỉ vậy, những mối quan hệ trong gia đình có thể được người cao tuổi hài hòa và quản lý nó một cách tốt đẹp sao cho trong ấm, ngoài êm, thúc đẩy sự phát triển của xã hội với những người có tư cách đạo đức tốt.
Nếu tính về trình độ học vấn có thể chúng ta thấy họ sẽ không có sự nhanh nhạy như những giới trẻ hiện nay. Tuy nhiên xét về việc phát huy và gìn giữ những truyền thống hay những điều cốt lõi của dân tộc thì không ai có thể làm tốt bằng họ.
Người cao tuổi tiếp bước những gì còn dang dở, gìn giữ và dạy bảo cho người đời sau những giá trị tinh thần, làm cho nó không bị mai một và tích trữ được các giá trị tài sản tinh thần quý báu.
Ngoài ra, đối với xã hội, cộng đồng và trên toàn thế giới nói chung, người cao tuổi là những người đáng để chúng ta kính trọng, yêu quý và học hỏi.
2. Người cao tuổi được hưởng quyền và nghĩa vụ gì?
Nhà nước cũng dành những chính sách và sự ưu ái đối với những người cao tuổi, theo các văn bản pháp luật về người cao tuổi, đặc biệt theo luật người cao tuổi năm 2009, quy định về quyền lợi của người cao tuổi là gì như sau:
a) Được bảo đảm đầy đủ các quyền lợi cơ bản về nhu cầu ăn, ở, đi lại một cách thuận tiện nhất.
b) Được tự mình đưa ra những quyết định về việc chung sống với các thế hệ như con, cháu hoặc sống riêng theo ý muốn của bản thân mà không bị ép buộc;
c) Được quyền lợi về sự ưu tiên khi sử dụng các dịch vụ và những quy định về pháp luật;
d) Họ cũng có thể được tham gia hoạt động văn hoá, thể thao, giáo dục, du lịch,…
đ) Được tìm kiếm những công việc và nhu cầu về việc làm phù hợp với sức khỏe, nghề nghiệp của bản thân, từ đó, phát huy tối đa sức mạnh của người cao tuổi.
e) Đối với những khoản đóng góp cho các hoạt động xã hội thì người cao tuổi hoàn toàn được miễn giảm,vnhững trường hợp tự nguyện đóng góp thì có thể được công nhận, nhưng đây là trên tinh thần và không có sự ép buộc;
g) Những dịch vụ về chăm sóc sức khỏe, những khó khăn khi cần đến đội ngũ cứu trợ cũng được giúp đỡ và quan tâm tận tình, họ cũng có thể được tự gia Hội người cao tuổi Việt Nam theo quy định ban đầu đặt ra.
Giờ đây, có lẽ những người cao tuổi của nước ta sẽ là một trong những lực lượng chiếm một tỷ lệ động trong phần trăm dân số. Tuy nhiên, không phải như vậy mà họ sẽ bị mất đi những chế độ quyền lợi cho riêng mình. Họ hoàn toàn có thể lên tiếng khi quyền lợi của mình không được đáp ứng.
Quyền lợi và nghĩa vụ luôn là hai yếu tố song hành với nhau trong mọi vấn đề. Bên cạnh những quyền lợi mà họ được hưởng thì người cao tuổi cũng cần thực hiện những nghĩa vụ như sau:
+ Phải nêu cao tấm gương sáng về đạo đức, có những lối sống mẫu mực; giáo dục thế hệ trẻ phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, không quên giữ gìn những điều quý báu;
+ Gương mẫu chấp hành và thực hiện đúng với những chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước;
+ Truyền đạt và phát huy những thế hệ trẻ trong tương lai, giúp họ sống đúng với tư cách là những mầm xanh tương lai của đất nước.
Thực hiện những nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật ban hành và nghiêm chỉnh. Tránh việc truyền bá những tư tưởng đạo đức lối sống không lành mạnh.
3. Cách chăm sóc người cao tuổi dễ dàng nhất
Trước khi tìm hiểu cách chăm sóc chúng ta cần hiểu về định nghĩa này. Từ đó bạn sẽ biết được những cách chăm sóc tốt nhất cho những người trong độ tuổi đó.
Có thể hiểu đây là vấn đề về tình trạng cơ thể của những người trong độ tuổi già hóa. Là toàn bộ hoạt động ổn định hay bất thường so với các hoạt động thường ngày. Có thể đây là các vấn đề về tim mạch, xương khớp, tay chân,…
Những người cao tuổi như bạn biết đấy họ là những người rất dễ bị hay tủi thân. Họ cũng phải thường xuyên đối mặt với những thay đổi về sinh lý, tâm lý. Vì vậy, tâm trạng có thể trở nên bất ổn và, cáu gắt, nhiều khi họ thấy mình không được tôn trọng và muốn được sự chú ý nhiều hơn đối với tất cả mọi người.
Vì vậy, để giảm bớt những áp lực về tâm lý hay đem lại cho người cao tuổi những suy nghĩ tích cực trong cuộc sống, chúng ta cần thường xuyên trò chuyện, hỏi han, quan tâm, bàn luận những vấn đề họ quan tâm; luôn lắng nghe và thấu hiểu những ý kiến của người cao tuổi để hiểu hơn về tâm lý của họ một cách thấu đáo nhất.
Một trong những điều đáng quan tâm đó là việc ăn uống không ngon miệng, hấp thu kém, làm cho sức khỏe của người cao tuổi dễ bị suy giảm. Vì vậy khi chăm sóc sức khỏe người cao tuổi bạn cũng cần chú ý sao cho thực đơn trong mỗi bữa ăn hàng ngày cân đối và phù hợp.
Hãy chia bữa ăn của họ thành nhiều bữa nhỏ, những chất dinh dưỡng có thể dễ được hấp thu hơn. Thực phẩm cũng cần được đa dạng, không quá mặn hay quá nhạt và cũng không nên chứa nhiều dầu mỡ trong đồ ăn hàng ngày.
Thể trạng mỗi người là khác nhau, do vậy nhu cầu về chế độ dinh dưỡng cũng rất khác nhau. Khi chăm sóc người cao tuổi chúng ta cũng nên bổ sung những thực phẩm tốt cho tim mạch; bổ sung nhiều chất xơ nhằm giúp cho hệ tiêu hóa được thuận tiện; Bên cạnh đó cũng nên bổ sung nhiều vitamin D và vitamin A giúp chắc xương và sáng mắt mỗi ngày.
Chúng ta cũng biết, đối với người bình thường yêu cầu phải kiểm tra sức khỏe 6 tháng 1 lần, người cao tuổi cũng vậy, chăm sóc sức khỏe người cao tuổi thì yêu cầu khám sức khỏe lại càng cần thiết hơn. Phòng ngừa những căn bệnh và rủi ro không đáng có.
Khám sức khỏe định kỳ có thể là một trong những liều thuốc tinh thần mang đến sự an tâm cho người chăm sóc và cả người được chăm sóc. Bởi nếu chúng ta hay lo lắng và suy nghĩ về một vấn đề nào đó thì liệu cuộc sống của bạn có còn được yên vui.
Không phải người già là chỉ ăn và nghỉ, họ cũng phải có những chế độ vận động đi lại nhẹ nhàng để cơ thể khỏe mạnh. Người Việt chúng ta cũng có rất nhiều người quan niệm rằng, để người lớn tuổi là những người được hưởng an nhàn, không được cho họ làm bất kỳ một công việc nào cả.
Nhưng mọi người cũng biết đấy, thường xuyên vận động trí não và thân thể là một trong những liều thuốc bổ giúp sức khỏe của người cao tuổi ổn định hơn. Không hoạt động thường xuyên có thể sẽ bị ảnh hưởng đến xương khớp, gây suy giảm về trí nhớ cũng như dễ dẫn đến các bệnh về đãng trí.
Thay vì những bộ môn vận động mạnh của lớp trẻ, bạn có thể để ông bà, cha mẹ được làm những việc phù hợp mà họ yêu thích. Khuyến khích tham gia những bộ môn như thể dục, đi bộ, cũng có thể tham gia các hoạt động về dưỡng sinh, các bộ môn về yoga, đi bộ, chơi cờ,…Theo một số chuyên gia, nếu người cao tuổi thường xuyên đi bộ từ 1-2 tiếng vào mỗi ngày, họ có thể phòng ngừa được những căn bệnh như suy giảm huyết áp, tim mạch, xơ vữa động mạch,…
Với những cách trên chắc chắn bạn sẽ nắm được những cách chăm sóc người thân của mình nói riêng và những người cao tuổi nói chung một cách đơn giản nhất và an toàn nhưng cũng rất hiệu quả.
Đại Cương Về Gãy Xương
PHẦN 1: CƠ CHẾ GÃY XƯƠNG
Gãy xương là sự phá hủy đột ngột các cấu trúc bên trong của xương do nguyên nhân cơ học.
Cấc cấu trúc bao gồm:
a. Các cấu trúc chính của xương:
– Màng xương và hệ thống các mạch máu của màng xương.
– Xương (xương cứng và xương xốp).
– Ống tủy (tủy xương, hệ thống mạch máu trong ống tủy).
b. Các mô mềm bao quanh xương: Chủ yếu là các cơ là nguồn cung cấp mạch máu màng xương.
Từ định nghĩa đầy đủ trên chúng ta có thể giải thích được:
– Các tổn thương giải phẫu các thành phần kể trên có ảnh hưởng đến tiến triển liền xương.
– Các biến chứng do gãy xương gây ra.
Tuyệt đại đa số các gãy xương thường ngày là gãy xương chấn thương. Nguyên nhân là lực bên ngoài tác động lên xương lành mạnh bình thường. Lực gây chấn thương (gọi là tác nhân gây chấn thương) có thể tạo ra:
– Gãy xương trực tiếp nếu nơi gãy ở chính ngay nơi điểm đặt của tác nhân gây chấn thương. Thí dụ: xe cán qua đùi gây gãy xương đùi, ngã chống gót chân xuống đất gây gãy xương gót.
– Gãy xương gián tiếp nếu nơi gãy xương ở xa điểm đặt của tác nhân gây chấn thương. Thí dụ: gãy xương do tác nhân gây uốn bẻ kiểu đòn bẩy, gãy xương do bị vặn xoắn. Cũng có khi nguyên nhân làm gãy xương là lực giằng kéo gây ra mẻ xương. Có hai kiểu gây ra giằng kéo:
+ Tác nhân gây chấn thương bên ngoài tác động làm cho cơ căng thẳng ra và co kéo mạnh làm mẻ xương nơi bám tận của gân. Đó là trường hợp mẻ xương mỏm khuỷu nơi bám tận của cơ ba đầu cánh tay.
+ Tác nhân gây chấn thương bên ngoài làm căng quá mức dây chằng và chính dây chằng căng thẳng đã giằng mẻ xương ở nơi bám tận của dây chằng. Đó là trường hợp mẻ xương nơi bám của dây chằng bên chày của khớp gối.
3. CƠ CHẾ VÀ CÁC LOẠI ĐƯỜNG GÃY
– Cơ chế trực tiếp gây tác động uốn bẻ thường tạo ra đường gãy ngang (nghĩa là thẳng góc với trục dọc của thân xương).
– Cơ chế ưỡn bẻ gián tiếp (kiểu đòn bẩy) thường gây ra đường gãy chéo.
– Cơ chế vặn xoắn, tạo ra đường gãy xoắn.
– Cơ chế ép, đồn nén có thể gây gãy nát hoặc làm lún xương.
– Vừa cơ chế uốn bẻ, vặn xoắn và đồn nén sẽ gây ra gãy xoắn có mảnh gãy thứ ba hình chêm (hình 1.1).
4. ẢNH HƯỞNG CỦA GIỚI TÍNH VÀ TUỔI TÁC ĐẾN LOẠI GÃY XƯƠNG
Nói chung cả hai giới nam và nữ và mọi lứa tuổi đều bị gãy xương chấn thương như nhau. Song do sự phát triển của bộ xương có một vài khác biệt theo lứa tuổi, nên có một số loại gãy xương đặc thù:
Ở trẻ em, bộ xương đang tăng trưởng, màng xương dầy nên có thể gặp các loại gãy xương sau đây ở thân xương:
– Gãy xương cành tươi (fracture en bois vert).
– Gãy xương cong tạo hình (traumatic bowing, fracture plastique).
Ở đầu xương còn sụn tiếp hợp nên cũng chỉ ở trẻ em mới thấy loại “bong sụn tiếp hợp” (xem bài gãy xương ở trẻ em).
Ở người già, có trạng thái loãng xương, nên một số các xương xốp yếu dễ bị gãy xương dù chấn thương rất nhẹ:
– Lún đốt sống (còng lưng ở người già)
– Gãy cổ xương đùi, cổ phẫu thuật xương cánh tay, gãy đầu dưới xương quay,…
Ở giới nữ, từ sau tuổi mãn kinh: sự loãng xương xuất hiện sớm hơn (so với nam giới cùng lứa tuổi) do đó gặp gãy xương nhiều hơn.
5. CÁC HÌNH THỨC GÃY XƯƠNG
5.1. Gãy không hoàn toàn (gãy thân xương hầu hết ở trẻ em)
a. Gãy cong tạo hình
b. Gãy phình vỏ xương cứng
c. Gãy cành tươi
a. Gãy xương giản đơn (làm 2 đoạn)
b. Gãy xương hai tầng
c. Gãy nhiều mảnh (có mảnh thứ ba, gãy nát).
a. Gãy có gài
b. Gãy lún mất xương (depression)
c. Gãy nén ép (compression)
d. Gãy vùng sụn tiếp hợp ở trẻ em
6. CÁC THỂ DI LỆCH ĐIỂN HÌNH CỦA GÃY XƯƠNG
Các đoạn xương gãy có thể nằm yên ở vị trí cũ, ta gọi là gãy xương không có di lệch. Song không ít các trường họp gãy xương sẽ bị di chuyển, ta gọi là gãy xương có di lệch. Có thể phân biệt 5 thể di lệch sau đây:
Đoạn gãy di lệch thẳng góc với trục dọc của xương.
6.2. Di lệch dọc trục chồng ngắn
Các đoạn gãy di lệch dọc theo trục xương tiến sát lại nhau. Gọi tắt là di lệch chồng.
6.3. Di lệch dọc trục xa nhau
Các đoạn gãy di lệch dọc trục rời xa nhau. Gọi tắt là di lệch xa.
Trục hai đoạn gãy tạo nên một góc (thường tính bằng góc nhọn).
Đoạn gãy xa di lệch xoay quanh trục dọc của xương.
Một gãy xương có thể có một hoặc nhiều thể di lệch (nhiều nhất là 4). Khi mô tả di lệch thì qui ước nói sự di lệch của đoạn gãy xa.
Đại Cương Về Dược Lực Học
Đại cương về Dược lực học
Dược lực học nghiên cứu tác dụng của thuốc lên cơ thể sống, giải thích cơ chế của các tác dụng sinh hóa và sinh lý của thuốc. Phân tích càng đầy đủ được các tác dụng, càng cung cấp được những cơ sở cho việc dùng thuốc hợp lý trong điều trị. Đây là nhiệm vụ cơ bản nhất và cũng là khó khăn lớn nhất của dược lực học.
Cơ chế tác dụng của thuốc
Receptor
Tác dụng của phần lớn các thuốc là kết quả của sự tương tác giữa thuốc với receptor (thể thụ cảm). Receptor là một thành phần đại phân tử (macromolécular) tồn tại với một lượng giới hạn trong một số tế bào đích, có thể nhận biết một cách đặc hiệu chỉ một phân tử “thông tin” tự nhiên (hormon, chất dẫn truyền thần kinh), hoặc một tác nhân ngoại lai (chất hóa học, thuốc) để gây ra một tác dụng sinh học đặc hiệu, là kết quả của tác dụng tương hỗ đó.
Thành phần đại phân tử của receptor thường là protein vì chỉ có protein mới có cấu trúc phức tạp để nhận biết đặc hiệu của một phân tử có cấu trúc 3 chiều.
Receptor có 2 chức phận:
Nhận biết các phân tử thông tin (hay còn gọi là ligand) bằng sự gắn đặc hiệu các phân tử này vào receptor theo các liên kết hóa học:
Liên kết ion: các chất hóa học mang điện tích (như nhóm amoni bậc 4 cuả acetylcholin có điệntích dương), sẽ gắn vào vùng mang điện tích trái dấu của receptor theo liên kết này, với lực liên kết khoảng 5- 10 kcal/ mol.
Liên kết hydro: do sự phân bố không đồng đều electron trong phân tử nên có mối liên kết giữa nguyên tử hydro với các nguyên tử có điện tích âm cao như oxy, nitơ và fluor. Lực liên kết khoảng 2- 5 kcal/ mol
Liên kết Van- der- Waals: là lực liên kết của mối tương hỗ giữa các electron với các nhân của các phân tử sát bên. Lực liên kết phụ thuộc vào khoảng cách giữa các phân tử, lực này tương đối yếu, khoảng 0,5 kcal/ mol. Các thuốc có vòng benzen, có mật độ electron phân bố đồng đều thường có mối liên kết này.
Các lực liên kết trên đều là thuận nghịch.
Liên kết cộng hóa trị: là lực liên kết giữa các nguyên tử bằng những cặp điện tử chung. Vì là lực liên kết lớn 50- 150 kcal/ mol nên là liên kết không thuận nghịch ở nhiệt độ cơ thể, không có chất xúc tác. Loại liên kết này ít gặp. Thí dụ liên kết giữa chất alkyl hóa với tế bào ung thư, các thuốc ức chế enzym mono- amin oxydase (MAOI), thuốc trừ sâu lân hữu cơ với cholinesterase.
Một phân tử thuốc có thể gắn vào receptor theo nhiều kiểu liên kết. Thí dụ: acetylcholin gắn vào receptor M- cholinergic:
Hình 2.1. Phức hợp acetylcholin- receptor M
Acetylcholin gắn vào receptor M theo đường nối sau:
Hai O của chức ester tạo liên kết hydro với receptor
Nhóm CH2- CH2 gắn với receptor bằng liên kết phân tử (lực Van – der- Waals)
Hai gốc CH3 của amin bậc 4 gắn vào các khoang của vị trí anion cũng bằng lực Van- der- Waals
Chuyển tác dụng tương hỗ giữa ligand và receptor thành một tín hiệu để gây ra được đáp ứng tế bào. Các receptor nằm ở nhân tế bào được hoạt hóa bởi các ligand gắn trên các vị trí đặc hiệu của ADN nằm trong các vùng điều hòa gen, gây ra sự sao chép các gen đặc hiệu (receptor của hormon steroid, vitamin D3…). Các receptor nằm ở màng tế bào vì ở xa nhân nên không tham gia trực tiếp vào các chương trình biểu hiện của gen. Khi các ligand tác động lên receptor sẽ làm sản xuất ra các phân tử trung gian- “người truyền tin thứ 2” (AMPv, GMPv, IP 3, Ca2+, diacetyl glycerol…)- Những chất này sẽ gây ra một loạt phản ứng trong tế bào, dẫn tới một thay đổi chuyển hóa trong tế bào, cùng với hoặc không có sự thay đổi về biểu hiện gen (receptor của adrenalin, của benzodiazepin…).
Như vậy, khi thuốc gắn vào receptor của tế bào thì gây ra được tác dụng sinh lý. Nhưng có khi thuốc gắn vào tế bào mà không gây ra tác dụng gì, nơi gắn thuốc được gọi là nơi tiếp nhận (acceptor) hoặc receptor câm, (silent receptor) như thuốc mê gắn vào tế bào mỡ, digitalis gắn vào gan, phổi, thận…
Thuốc gắn vào receptor phụ thuộc vào ái lực (affinity) của thuốc với receptor. Hai thuốc có cùng receptor, thuốc nào có ái lực cao hơn sẽ đẩy được thuốc khác ra. Còn tác dụng của thuốc là do hiệu lực (efficacy) của thuốc trên receptor đó. ái lực và hiệu lực không phải lúc nào cũng đi cùng nhau: acetylcholin là chất dẫn truyền thần kinh của hệ phó giao cảm, khi gắn vào receptor M, gây hiệu lực làm tăng tiết nước bọt, co đồng tử, chậm nhịp tim…; atropin có ái lực trên receptor M mạnh hơn acetylcholin rất nhiều nên đẩy được acetylcholin ra khỏ i receptor M, nhưng bản thân nó lại không có hiệu lực gì. ở lâm sàng, tác dụng của atropin quan sát được chính là tác dụng của sự thiếu vắng acetylcholin trên receptor M: khô miệng (giảm tiết nước bọt), giãn đồng tử, nhịp tim nhanh…
Các cơ chế tác dụng của thuốc
Tác dụng của thuốc thông qua receptor
Thuốc tác dụng trực tiếp trên các receptor của các chất nội sinh (hormon, chất dẫn truyền thần kinh): nhiều thuốc tác dụng trên các receptor sinh lý và thường mang tính đặc hiệu. Nếu tác dụng của thuốc lên receptor giống với chất nội sinh, gọi là chất đồng vận hay chất chủ vận (agonists), như pilocarpin trên receptor M- cholinergic. Nếu thuốc gắn vào receptor, không gây tác dụng giống chất nội sinh, trái lại, ngăn cản chất nội sinh gắn vào receptor, gây tác dụn g ức chế chất đồng vận, được gọi là chất đối kháng (antagonists), như d- tubocurarin tranh chấp với acetylcholin tại receptor N của cơ vân.
Một số thuốc thông qua việc giải phóng các chất nội sinh trong cơ thể để gây tác dụng:amphetamin giải phóng adrenalin trên thần kinh trung ương, nitrit làm giải phóng NO gây giãn mạch…
Xét trên nhiều mặt, protein là một nhóm quan trọng của receptor – thuốc. Do đó, ngoài receptor tế bào, các receptor của thuốc còn là:
Các enzym chuyển hóa hoặc điều hòa các quá trình sinh hóa có thể bị thuốc ức chế hoặc hoạt hóa:
Thuốc ức chế enzym: captopril ức chế enzym chuyển angiotensin I không hoạt tính thành angiotensin II có hoạt tính dùng chữa cao huyết áp; các thuốc chống viêm phi steroid ức chế cyclooxygenase, làm giảm tổng hợp prostaglandin nên có tác dụng hạ sốt, chống viêm; thuốc trợ tim digitalis ức chế Na+- K+ ATPase…
Thuốc hoạt hóa enzym: các yếu tố vi lượng như Mg 2+, Cu2+, Zn2+ hoạt hóa nhiều enzym protein kinase, phosphokinase tác dụng lên nhiều quá trình chuyển hóa của tế bào.
Các ion: thuốc gắn vào các kênh ion, làm thay đổi sự vận chuyển ion qua màng tế bào.Novocain cản trở Na+ nhập vào tế bào thần kinh, ngăn cản khử cực nên có tác dụng gây tê; benzodiazepin làm tăng nhập Cl- vào tế bào, gây an thần.
Tác dụng của thuốc không qua receptor
Một số thuốc có tác dụng không phải do kết hợp với receptor.
Thuốc có tác dụng do tính chất lý hóa, không đặc hiệu:
Các muối chứa các ion khó hấp thu qua màng sinh học như MgSO 4, khi uống sẽ “gọi nước” ở thành ruột vào lòng ruột và giữ nước trong lòng ruột nên có tác dụng tẩy; khi tiêm vào tĩnh mạch sẽ kéo nước từ gian bào vào máu nên được dùng chữa phù não.
Isosorbid, mannitol dùng liều tương đối cao, làm tăng áp lực thẩm thấu trong huyết tương. Khi lọc qua cầu thận, không bị tái hấp thu ở ống thận, làm tăng áp lực thẩm thấu trong ống thận, có tác dụng lợi niệu.
Những chất tạo chelat hay còn gọi là chất “càng cua” do có các nhóm có cực như -OH, -SH, -NH2, dễ tạo phức với các ion hóa trị 2, đẩy chúng ra khỏi cơ thể. Các c hất “càng cua” như EDTA
(ethyl diamin tetra acetic acid), BAL (British anti lewisit – dimercaprol), d- penicilamin thường được dùng để chữa ngộ độc kim loại nặng như Cu 2+, Pb2+, Hg2+ hoặc thải trừ Ca2+ trong ngộ độc digital.
Than hoạt hấp phụ được các hơi, các độc tố nên dùng chữa đầy hơi, ngộ độc.
Các base yếu làm trung hòa dịch vị acid dùng để chữa loét dạ dày (kháng acid), như hydroxyd nhôm, magnesi oxyd.
Thuốc có cấu trúc tương tự như những chất sinh hóa bình thường, có thể thâm nhập vào các thành phần cấu trúc của tế bào, làm thay đổi chức phận của tế bào. Thuốc giống purin, giống pyrimidin, nhập vào acid nucleic, dùng chống ung thư, chống virus. Sulfamid gần giống paraamino benzoic acid (PABA), làm vi khuẩn dùng “nhầm”, không phát triển được.
Các cách tác dụng của thuốc
Khi vào cơ thể, thuốc có thể có 4 cách tác dụng sau:
Tác dụng tại chỗ và toàn thân:
Tác dụng tại chỗ là tác dụng ngay tại nơi thuốc tiếp xúc, khi thuốc chưa được hấp thu vào máu:thuốc sát khuẩn ngoài da, thuốc làm săn niêm mạc (tani n), thuốc bọc niêm mạc đường tiêu hóa (kaolin, hydroxyd nhôm).
Tác dụng toàn thân là tác dụng xẩy ra sau khi thuốc đã được hấp thu vào máu qua đường hô hấp, đường tiêu hóa hay đường tiêm: thuốc mê, thuốc trợ tim, thuốc lợi niệu. Như vậy, tác dụng toàn thân không có nghĩa là thuốc tác dụng khắp cơ thể mà chỉ là thuốc đã vào máu để “đi” khắp cơ thể.
Tác dụng tại chỗ hoặc toàn thân có thể gây hiệu quả trực tiếp hoặc gián tiếp: tiêm d tubocurarin vào tĩnh mạch, thuốc trực tiếp tác dụng lên bản vận động làm liệt cơ vân và gián tiếp làm ngừng thở do cơ hoành và cơ liên sườn bị liệt chứ không phải thuốc ức chế trung tâm hô hấp.
Mặt khác, tác dụng gián tiếp còn có thể thông qua phản xạ: khi ngất, ngửi ammoniac, các ngọn dây thần kinh trong niêm mạc đường hô hấp bị kích thích, gây phản xạ kích thích trung tâm hô hấp và vận mạch ở hành tủy, làm người bệnh hồi tỉnh.
Tác dụng chính và tác dụng phụ
Tác dụng chính là tác dụng để điều trị
Thí dụ: aspirin là thuốc hạ sốt, giảm đau, chống viêm (tác dụng chính), nhưng gây chảy máu tiêu hóa (tác dụng độc hại). Nifedipin, thuốc chẹn kênh calci dùng điều trị tăng huyết áp (tác dụng chính), nhưng có thể gây nhức đầu, nhịp tim nhanh (tác dụng phụ), ho, phù chân, tăng enzym gan, tụt huyết áp (tác dụng độc hại).
Trong điều trị, thường phối hợp thuốc để làm tăng tác dụng chính và giảm tác dụng không mong muốn. Thí dụ uống thuốc chẹn β giao cảm cùng với nifedipin sẽ làm giảm được tác dụng làm tăng nhịp tim, nhức đầu của nifedipin. Cũng có thể thay đổi đường dùng thuốc như dùng thuốc đặt hậu môn để tránh tác dụng khó uống, gây buồn nôn.
Tác dụng hồi phục và không hồi phục
Tác dụng hồi phục: sau tác dụng, thuốc bị thải trừ, chức phận của cơ quan lại trở về bình thường. Sau gây mê để phẫu thuật, người bệnh lại có trạng thái bình thường, tỉnh táo.
Tác dụng không hồi phục: thuốc làm mất hoàn toàn chức phận của tế bào, cơ quan. Thí dụ: thuốc chống ung thư diệt tế bào ung thư, bảo vệ tế bào lành; thuốc sát khuẩn bôi ngoài da diệt vi khuẩn nhưng không ảnh hưởng đến da; kháng sinh cloramphenicol có tai biến gây suy tủy xương.
Tác dụng chọn lọc
Tác dụng chọn lọc là tác dụng điều trị xẩy ra sớm nhất, rõ rệt nhất. Thí dụ aspirin uống liều 1 – 2 g/ ngày có tác dụng hạ sốt và giảm đau, uống liều 4 – 6 g/ ngày có cả tác dụng chống viêm; digitalis gắn vào tim, não, gan, thận… nhưng với liều điều trị, chỉ có tác dụng trên tim; albuterol (Salbutamol- Ventolin) kích thích chọn lọc receptor β2 adrenergic…
Thuốc có tác dụng chọn lọc làm cho việc điều trị trở nên dễ dàng hơn, hiệu quả hơn, tránh được nhiều tác dụng không mong muốn.
Những yếu tố ảnh huởng đến tác dụng của thuốc:
Về thuốc
Thay đổi cấu trúc làm thay đổi dược lực học của thuốc.
Như ta đã biết, thuốc muốn có tác dụng, phải gắn được vào receptor (ái lực với receptor) và sau đó là hoạt hóa được receptor đó (có hiệu lực hay tác dụng dược lý). Receptor mang tính đặc hiệu cho nên thuốc cũng phải có cấu trúc đặc hiệu. Receptor được ví như ổ khóa và thuốc là chìa khóa. Một sự thay đổi nhỏ về cấu trúc hóa học (hình dáng phân tử của thuốc) cũng có thể gây ra những thay đổi lớn về tác dụng.
Như vậy việc tổng hợp các thuốc mới thường nhằm:
Làm tăng tác dụng điều trị và giảm tác dụng không mong muốn. Khi thêm F vào vị trí 9 và CH 3 vào vị trí 16 của corticoid (hormon vỏ thượng thận), ta được betametason có tác dụng chống viêm gấp 25 lần và không có tác dụng giữ Na + như corticoid, tránh phải ăn nhạt.
Làm thay đổi tác dụng dược lý: thay đổi cấu trúc của isoniazid (thuốc chống lao), ta đượciproniazid, có tác dụng chống trầm cảm, do gắn vào receptor hoàn toàn khác.
Sulfanilamid PABA (para amino benzoic acid)
Kháng histamin H1 có công thức gần giống với histamin, tranh chấp với histamin tại receptor H 1.
Các đồng phân quang học hoặc đồng phân hình học của thuốc cũng làm thay đổi cường độ tác dụng, hoặc làm thay đổi hoàn toàn tác dụng của thuốc.
I. isoprenalin có tác dụng kích thích receptor β adrenergic 500 lần mạnh hơn d. isoprenalin.
I. quinin là thuốc chữa sốt rét, d. quinin (quinidin) là thuốc chữa loạn nhịp tim.
Càng ngày người ta càng hiểu rõ được siêu cấu trúc của receptor và sản xuất các thuốc rất đặc hiệu, gắn được vào dưới typ của receptor: receptor adrenergic α1, α2, β1, β2, β3, receptor cholinergic M1, M2, M3, receptor dopaminergic D1, D2, … D7.
Thay đổi cấu trúc thuốc, làm thay đổi dược động học của thuốc
Khi cấu trúc của thuốc thay đổi, làm tính chất lý hóa của thuốc thay đổi, ảnh hưởng đến sự hòa tan của thuốc trong nước hoặc trong lipid, ảnh hưởng đến sự gắn thuốc vào protein, độ ion hóa của thuốc và tính vững bền của thuốc. Một số ví dụ:
Dopamin không qua được hàng rào máu não, nhưng l. dopamin (Levo dopa), chất tiền thân của dopamin thì qua được.
Estradiol thiên nhiên không uống được vì bị chuyển hóa mạnh ở gan. dẫn xuất ethinyl estradiol(-C ≡ CH gắn ở vị trí 17) rất ít bị chuyển hóa nên uống được.
Tolbutamid bị microsom gan oxy hóa gốc CH 3 ở vị trí para, có t/2 huyết tương là 4- 8 h. Thay gốc CH3 bằng Cl (Clorpropamid) sẽ rất khó bị chuyển hóa, làm t/2 của thuốc kéo dài tới 35 h.
Các thiobarbituric ít bị phân ly hơn barbituric ở pH của ống thận nên bị thải trừ chậm hơn.
Qua đây ta có thể nhận thấy rằng, khi thuốc gắn vào receptor để gây hiệu lực, không phải toàn bộ phân tử thuốc mà chỉ có những nhóm chức phận gắn vào receptor. Khi thay đổi cấu trúc của nhóm hoặc vùng chức phận, dược lực học của thuốc sẽ thay đổi. Còn khi thay đổi cấu trúc ở ngoài vùng chức phận, có thể thay đổi dược động học của thuốc.
Dạng thuốc
Dạng thuốc là hình thức trình bày đặc biệt của dược chất để đưa dược chất vào cơ thể. Dạng thuốc phải được bào chế sao cho tiện bảo quản, vận chuyển, sử dụng và phát huy tối đa hiệu lực chữa bệnh của thuốc.
Có thể tóm tắt quá trình hình thành và phát huy tác dụng của một dạng thuốc trong cơ thể như sau:
Qua sơ đồ, ta thấy từ 1 dược chất, các nhà bào chế có thể đưa ra thị trường nhiều loại biệt dược (dạng thuốc) khác nhau, có sinh khả dụng khác nhau do đó có ảnh hưởng khác nhau tới hiệu quả điều trị.
Trạng thái của dược chất
Độ tán nhỏ: thuốc càng mịn, diện tiếp xúc càng tăng, hấp thu thuốc càng nhanh.
Dạng vô định hình và dạng tinh thể: thuốc rắn ở dạng vô định hình dễ tan, dễ hấp thu.
Tá dược
Tá dược không phải chỉ là “chất độn” để bao gói thuốc mà còn ảnh hưởng đến độ hòa tan, khuếch tán…của thuốc. Khi thay calci sulfat (thạch cao, tá dược cổ điển) bằng lactose để dập viên diphenylhydantoin, đã gây hàng loạt ngộ độc diphenylhydantoin do lượng thuốc được hấp thu nhiều hơn (úc, 1968). Nguyên nhân là tá dược calci sulfat chỉ đóng vai trò một khung mang, không tiêu và xốp, làm dược chất được giải phóng từ từ trong ống tiêu hóa. Còn lactose lại làm dược chất dễ tan, nên được hấp thu nhanh trong thời gian ngắn.
Kỹ thuật bào chế và dạng thuốc
Kỹ thuật bào chế là một yếu tố không kém phần quan trọng có tác động trực tiếp đến sinh khả dụng của thuốc, có thể kiểm soát được sự giải phóng dược chất và vị trí để thuốc giải phóng ( giải phóng tại đích). Vì vậy nó thường được các nhà sản xuất giữ bí mật.
Hiện có rất nhiều dạng thuốc khác nhau được sản xuất theo các kỹ thuật khác nhau để sao cho:
Hoạt tính của thuốc được vững bền
Dược chất được giải phóng với tốc độ ổn định
Dược chất được giải phóng tại nơi cần tác động (giải phóng tại đích, targetting medication)
Thuốc có sinh khả dụng cao.
Về người dùng thuốc
Đặc điểm về tuổi (xin xem phần “dược động học”)
Trẻ em:
“Trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ lại”, nghĩa là không phải chỉ giảm liều thuốc của người lớn thì thành liều của trẻ em, mà trẻ em còn có những đặc điểm riêng của sự phát triển, đó là:
Sự gắn thuốc vào protein huyết tương còn ít, mặt khác, một phần protein huyết tương còn gắn bilirubin, dễ bị thuốc đẩy ra, gây ngộ độc bilirubin.
Hệ enzym chuyển hóa thuốc chưa phát triển
Hệ thải trừ thuốc chưa phát triển
Hệ thần kinh chưa phát triển, myelin còn ít, hàng rào máu – não chưa đủ bảo vệ nên thuốc dễ thấm qua và tế bào thần kinh còn dễ nhạy cảm (như với morphin) – Tế bào chứa nhiều nước, không chịu được thuốc gây mất nước.
Mọi mô và cơ quan đang phát triển, hết sức thận trọng khi dùng các loại hormon.
Một số tác giả đã đưa ra các công thức để tính liều lượng cho trẻ em:
Công thức của Young: dùng cho trẻ từ 2- 12 tuổi
Công thức của Cowling: Dùng cho trẻ em từ 2 – 12 tuổi
Thí dụ: liều cho người lớn là 2,0. Liều cho trẻ 4 tuổi là
4 + 1
24
Công thức của Fried: dùng cho nhũ nhi
Tuổi TE (tháng)
150 (Trọng lượng trung bình của người lớn)
Công thức của Clark
Trọng lượng TE (pounds)
150
Tuy nhiên tính liều theo diện tích cơ thể thì tốt hơn. Khi đó dùng công thức:
BSA (m2) của trẻ em
1.7
BSA: Body Surface Area-Diện tích cơ thể (tra monogram)
1.7: BSA trung bình của người lớn
Người cao tuổi
Người cao tuổi cũng có những đặc điểm riêng cần lưu ý:
Các hệ enzym đều kém hoạt động vì đã “lão hóa”
Các tế bào ít giữ nước nên cũng không chịu được thuốc gây mất n ước
Người cao tuổi thường mắc nhiều bệnh (cao huyết áp, xơ vữa mạch, thấp khớp, tiểu đường…)nên phải dùng nhiều thuốc một lúc. Cần rất chú ý tương tác thuốc khi kê đơn (xin xem phần”tương tác thuốc”)
Đặc điểm về giới
Nhìn chung, không có sự khác biệt về tác dụng và liều lượng của thuốc giữa nam và nữ. Tuy nhiên, với nữ giới, cần chú ý đến 3 thời kỳ:
Thời kỳ có kinh nguyệt
Không cấm hẳn thuốc. Nếu phải dùng thuốc dài ngày, có từng đợt ngừng thuốc thì nên sắp xếp vào lúc có kinh.
Thời kỳ có thai
Trong 3 tháng đầu, thuốc dễ gây dị tật bẩm sinh, tạo ra quái thai. Trong 3 tháng giữa thuốc có thể ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của bào thai, đến chức phận phát triển của các cơ quan. Trong 3 tháng cuối, thuốc có thể gây xảy thai, đẻ n on.
Vì vậy, khi cần chỉ định thuốc cho phụ nữ có thai, cần cân nhắc thật kỹ giữa lợi ích cho người mẹ và mức nguy hại cho bào thai. Nói chung, trong 3 tháng đầu, tuyệt đối tránh dùng mọi loại thuốc.
Đối với người mẹ, khi có thai, lượng nước giữ lại trong c ơ thể tăng, thể tích máu tăng, hàm lượng protein huyết tương có thể giảm, lượng lipid có thể tăng… làm ảnh hưởng đến động học của thuốc.
Thời kỳ cho con bú
Rất nhiều thuốc khi dùng cho người mẹ sẽ thải trừ qua sữa và như vậy có thể gây độc hại c ho con. Các nghiên cứu về các loại thuốc này nói chung còn chưa được đầy đủ, do đó tốt nhất là chỉ nên dùng những loại thuốc thật cần thiết cho mẹ. Tuyệt đối không dùng những thuốc có chứa thuốc phiện và dẫn xuất của thuốc phiện (thuốc ho, codein, viên rửa ) vì thuốc thải trừ qua sữa và trung tâm hô hấp của trẻ rất nhạy cảm, có thể bị ngừng thở. Không dùng các loại corticoid (làm suy thượng thận trẻ), các kháng giáp trạng tổng hợp và iod (gây rối loạn tuyến giáp), cloramphenicol và thuốc phối hợp sulfametoxazol + trimethoprim (Co- trimoxazol) vì có thể gây suy tuỷ xương. Cần rất thận trọng khi dùng các thuốc ức chế thần kinh trung ương (meprobamat, diazepam), thuốc chống động kinh, đều gây mơ màng và li bì cho trẻ.
Những trạng thái tác dụng đặc biệt của thuốc
Trong quá trình sử dụng thuốc, ngoài tác dụng điều trị, đôi khi còn gặp những tác dụng “không mong muốn” do sự phản ứng khác nhau của từng cá thể với thuốc.
Phản ứng có hại của thuốc (Adverse drug reactions – ADR)
“Một phản ứng có hại của thuốc là một phản ứng độc hại, không định được trước và xuất hiện ở liều lượng thường dùng cho người” (Định nghĩa của Chương trình giám sát thuốc quốc tế – WHO).
ADR là tên gọi chung cho mọi triệu chứng bất thường xẩy ra khi dùng thuốc đúng liều. Có thể chỉ là những triệu chứng rất nhẹ như nhức đầu, buồn nôn… cho đến những triệu chứng rất nặng dẫn đến tử vong như sốc, phản vệ, suy tuỷ xương. Tuỳ theo nước và tuỳ theo tác giả, ADR có thể xẩy ra khoảng 8- 30% số người dùng thuốc.
Phản ứng dị ứng
Dị ứng thuốc cũng là 1 ADR.
Do thuốc là 1 protein lạ (insulin, thyroxin lấy từ súc vật), là đa peptid, polysaccharid có phân tử lượng cao, mang tính kháng nguyên. Tuy nhiên, những thuốc có phân tử lượng thấp hoặc chính sản phẩm chuyển hóa của nó cũng có thể gây dị ứng, chúng được gọi là bán kháng nguyên hay “hapten”. Vào cơ thể, hapten có khả năng gắn với một protein nội sinh theo đường nối cộng hóa trị và tạo thành phức hợp kháng nguyên.
Những thuốc có mang nhóm NH 2 ở vị trí para, như benzocain, procain, sulfonamid, sulfonylurea… là những thuốc dễ gây mẫn cảm vì nhóm NH 2 dễ bị oxy hóa và sản phẩm oxy hóa đó sẽ dễ gắn với nhóm SH của protein nội sinh để thành kháng nguyên.
Phản ứng miễn dịch dị ứng được chia thành 4 typ dựa trên cơ sở của cơ chế miễn dịch:
Typ I hay phản ứng phản vệ (anaphylactic reactions) do sự kết hợp của kháng nguyên với kháng thể IgE, gắn trên bạch cầu ưa base tuần hoàn hoặc các dưỡng bào. Phản ứng làm giải phóng nhiều chất hóa học trung gian như histamin, leucotrien, prostaglandin, gây giãn mạch, phù và vi êm. Các cơ quan đích của phản ứng này là đường tiêu hóa (dị ứng thức ăn), da (mày đay, viêm da dị ứng), đường hô hấp (viêm mũi, hen) và hệ tim- mạch (sốc phản vệ) Các phản ứng này thường xẩy ra ngay sau khi dùng thuốc.
Các thuốc dễ gây phản ứng typ I: thuốc tê procain, lidocain, kháng sinh nhóm β lactam, aminoglycosid, huyết thanh, globulin, vaccin, vitamin B1 tiêm tĩnh mạch.
Typ II hay phản ứng huỷ tế bào (cytolytic reactions) xẩy ra khi có sự kết hợp kháng nguyên với kháng thể IgG và IgM đồng thời có sự hoạt hóa hệ bổ thể. Mô đích của phản ứng này là các tế bào của hệ tuần hoàn. Thí dụ: thiếu máu tan máu do penicilin, thiếu máu tan máu tự miễn do methyl dopa, ban xuất huyết giảm tiểu cầu do quinidin, giảm bạch cầu hạt do sulfamid, luput ban đỏ hệ thống do procainamid.
Typ III hay phản ứng Arthus, trung gian chủ yếu qua IgG có sự tham gia của bổ thể. Phản ứnggiữa kháng nguyên và kháng thể tạo thành phức hợp miễn dịch. Phức hợp này lắng đọng vào nội mạc mạch, gây tổn thương viêm huỷ hoại, được gọi là bệnh huyết thanh. Biểu hiện lâm sàng thường là: mày đay, ban đỏ, đau, viêm khớp, nổi hạch, sốt. Thường xẩy ra sau 6 – 12 ngày.
Các thuốc có thể gặp là sulfonamid, penicilin, một số thuốc chống co giật, iod, muối Hg, huyết thanh.
Hội chứng Stevens- Johnson là biểu hiện nặng của typ này.
Typ IV hay phản ứng nhạy cảm muộn, trung gian qua tế bào lympho T đã được mẫn cảm và đạithực bào. Khi các tế bào mẫn cảm tiếp xúc với kháng nguyên, sẽ giải phóng các lymphokin gây ra phản ứng viêm. Viêm da tiếp xúc là biểu hiện thường gặp của typ này.
Tai biến thuốc do rối loạn di truyền
Thường là do thiếu enzym bẩm sinh, mang tính di truyền trong gia đình hay chủng tộc.
Người thiếu enzym glucose- 6- phosphat deshydrogenase (G-6-PD) hoặc glutathion reductase dễ bị thiếu máu tan máu khi dùng primaquin, quinin, pamaquin (xin xem bài ” Thuốc chống sốt rét”), sulfamid, nitrofuran…
Gen kiểm tra việc tạo G- 6-PD nằm trên chromosom X, vì vậy, tai biến thường xảy ra ở nam.
Người ta ước lượng có khoảng 100- 200 triệu người mang gen này và thường gặp trên người da đen.
Người thiếu enzym methemoglobin reductase là những người dị hợp tử (khoảng 1% dân số). Khi dùng thuốc sốt rét (pamaquin, primaquin), thuốc kháng sinh, sát khuẩn (cloramphenicol, sulfon, nitrofurantoin), thuốc hạ sốt (phenazol, paracetamol) rất dễ bị methemoglobin.
Người thiếu acetyl transferase sẽ chậm acetyl hóa một số thuốc như hydralazin, isoniazid, phenelzin… nên dễ bị nhiễm độc các thuốc này.
Hiện tượng đặc ứng (idiosyncrasy) là độ nhạy cảm cá nhân bẩm sinh với thuốc chính là sự thiếu hụt di truyền 1 enzym nào đó.
Quen thuốc
Quen thuốc là sự đáp ứng với thuốc yếu hơn hẳn so với người bình thường dùng cùng liều. Liều điều trị trở thành không có tác dụng, đòi hỏi ngày càng phải tăng liều cao hơn.
Quen thuốc có thể xảy ra tự nhiên ngay từ lần đầu dùng thuốc do thuốc ít được hấp thu, hoặc bị chuyển hóa nhanh, hoặc cơ thể kém mẫn cảm với thuốc. Thường do nguyên nhân di truyền.
Thường gặp quen thuốc do mắc phải sau một thời gian dùng thuốc, đòi hỏi phải tăng dần liều.
Quen thuốc nhanh (tAChyphylaxis)
Thực nghiệm dùng những liều ephedrin bằng nhau, tiêm tĩnh mạch cách nhau từng 15 phút, sau 4- 6 lần, tác dụng gây tăng huyết áp giảm dần rồi mất hẳn. Một số thuốc khác cũng có hiện tượng quen thuốc nhanh như amphetamin, isoprenalin, adrenalin, histamin…
Nguyên nhân là:
Thuốc tác dụng gián tiếp qua sự giải phóng chất nội sinh của cơ thể, làm cạn kiệt chất nội sinh. Ephedrin, amphetamin làm giải phóng adrenalin dự trữ của hệ giao cảm.
Kích thích gần nhau quá làm receptor “mệt mỏi”
Tạo chất chuyển hóa có tác dụng đối kháng với ch ất mẹ: isoprenalin (cường giao cảm) qua chuyển hóa ở gan, tạo ra 3- orthomethylisoprenalin có tác dụng huỷ .
Quen thuốc chậm
Sau một thời gian dùng thuốc liên tục, tác dụng của thuốc giảm dần, đòi hỏi phải tăng liều hoặc đổi thuốc khác. Có nhiều nguyên nhân:
Do gây cảm ứng enzym chuyển hóa thuốc, làm những liều thuốc sau bị chuyển hóa nhanh, mấttác dụng nhanh. Barbiturat, diazepam, tolbutamid, rượu ethylic… đều là những thuốc gây cảm ứng enzym chuyển hóa của chính nó.
Do giảm số lượng receptor cảm ứng với thuốc ở màng tế bào (điều hòa giảm – down regulation): khi dùng thuốc cường giao cảm, phó giao cảm kéo dài… Trái lại, khi dùng các thuốc phong toả kéo dài sẽ làm tăng số lượng receptor (điều hòa tăng – up regulation) như dùng thuốc huỷ giao cảm, thuốc an thần ức chế hệ dopaminergic. Khi ngừng thuốc dễ gây hiện tượng hồi ứng (rebound)
Do cơ thể phản ứng bằng cơ chế ngược lại dùng các thuốc lợi niệu thải Na + lâu, cơ thể mất nhiều Na+ sẽ tăng tiết aldosteron để giữ lại Na +, làm giảm tác dụng lợi niệu.
Để tránh hiện tượng quen thuốc, trong lâm sàng thường dùng thuốc ngắt quãng hoặc luân phiên thay đổi các nhóm thuốc (sẽ trình bày trong phần thuốc cụ thể)
Nghiện thuốc
Nghiện thuốc là một trạng thái đặc biệt làm cho người nghiện phụ thuộc cả về tâm lý và thể chất vào thuốc với các đặc điểm sau:
Thèm thuồng mãnh liệt nên xoay sở mọi cách để có thuốc dùng, kể cả hành vi phạm pháp
Có khuynh hướng tăng liều
Thuốc làm thay đổi tâm lý và thể chất theo hướng xấu: nói điêu, lười lao động, bẩn thỉu, thiếu đạo đức… gây hại cho bản thân và xã hội
Khi cai thuốc sẽ bị thuốc ” vật” hay lên cơn “đói thuốc” : vật vã, lăn lộn, dị cảm, vã mồ hôi, tiêu chảy… Nếu lại dùng thuốc cơn “vật” sẽ hết ngay.
Những thuốc gây nghiện đều có tác dụng lên thần kinh trung ương gây sảng khoái lâng lâng, ảo ảnh, ảo giác (“phê” thuốc) hoặc trạng thái hưng phấn mạnh (thuốc lắc), được gọi chung là “ma túy”: morphin và các chất loại thuốc phiện (heroin, pethidin, methadon), cocain, cần sa (cannabis, marijuana), metamphetamin, ectasy… Rượu và thuốc lá hiện còn được coi là ma túy “hợp pháp”.
Cơ chế nghiện còn chưa được hoàn toàn biết rõ, có nhiều giả thuyết giải thích: do cơ thể không sản xuất morphin nội sinh; làm rối loạn chức phận của nơron, gây phản ứng bù trừ của cơ thể; tạo ra chất đối kháng với ma túy nên đòi hỏi phải tăng liều…
Hiện nay không có phương pháp cai nghiện nào có hiệu quả, ngoại trừ ý chí của người nghiện. Vì vậy, nghiện ma tuý là một tệ nạn xã hội phải được loại trừ.
Bạn đang xem bài viết Đại Cương Về Người Cao Tuổi trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!