Xem Nhiều 3/2023 #️ Đánh Giá Rủi Ro Môi Trường # Top 8 Trend | Tvzoneplus.com

Xem Nhiều 3/2023 # Đánh Giá Rủi Ro Môi Trường # Top 8 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Đánh Giá Rủi Ro Môi Trường mới nhất trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Đánh giá rủi ro môi trường (ĐGRR) là xem xét các tác động đến môi trường gây ra bằng cách, phân tích kiểm tra các yếu tố ảnh hưởng tới môi trường

Là một phần của công việc của mình trên các đánh giá an toàn của GMO, EFSA đánh giá cho tất cả các ứng dụng GM không chỉ tác động xấu có thể xảy đến sức khỏe con người và động vật, mà còn tác động đến môi trường. Điều này xuất phát từ các khuôn khổ pháp lý cho việc phát hành GMO ra môi trường. GMO của nhà tư vấn môi trường đánh giá rủi ro môi trường (ĐGRR) của cây GM và các vi sinh vật biến đổi gen, được thực hiện bởi các công ty yêu cầu cho một uỷ quyền thị trường. Trong GMO tương lai của EFSA cũng có thể tham gia vào những đánh giá như vậy cho động vật biến đổi gen. Để đánh giá hiệu quả an toàn của động vật biến đổi gen đối với môi trường, các GMO sẽ xây dựng hướng dẫn cụ thể cho cá GM, côn trùng GM, và động vật có vú và chim GM.Phụ gia thức ăn : Phụ gia thức ăn là những sản phẩm cố ý thêm vào dinh dưỡng động vật nhằm mục đích nâng cao chất lượng của thức ăn, chất lượng thực phẩm từ nguồn gốc động vật, hoặc để cải thiện hiệu suất và sức khỏe của động vật. Họ có thể được phát hành trong môi trường thông qua phân động vật và nước tiểu. Trước khi được ủy quyền, tất cả các phụ gia thức ăn chăn nuôi phải trải qua một cuộc đánh giá an toàn, để đảm bảo rằng họ không có ảnh hưởng xấu đến sức khỏe động vật, sức khỏe con người và môi trường. Một tài liệu hướng dẫn liệt kê tất cả các thông tin về Đánh giá rủi ro môi trường (ĐGRR) phụ gia thức ăn cho môi trường nước và trên cạn. Mục đích của nó là cung cấp hỗ trợ cho các ứng viên chuẩn bị hồ sơ, đồng thời, nó đưa ra một cách minh bạch các nguyên tắc sau trong đánh giá rủi ro môi trường của các chất phụ gia thức ăn chăn nuôi.

Liên hệ tư vấn:

Đánh Giá Rủi Ro Môi Trường Bảo Vệ Cuộc Sống Xanh

Hình thức đánh giá rủi ro môi trường

Đánh giá rủi ro thông qua việc phân tích rủi ro và những hậu quả có thể xảy ra trong thực tế. Dựa vào những nhận định về vùng rủi ro để có những hình thức đánh giá khác nhau:

Rủi ro môi trường thấp, có thể chấp nhận được: Yêu cầu quan trắc.

Nếu vùng rủi ro môi trường ở mức trung bình: Xác định lại những yếu tố có thể gây ra rủi ro. Sau đó đưa ra các biện pháp xử lý kịp thời.

Trường hợp vùng rủi ro cao và có nguy hiểm: Thiết lập quản lý nghiêm ngặt phòng ngừa rủi ro.

Phân tích nhận dạng chính xác vấn đề

Giai đoạn này gồm có các thành phần sau:

Đóng khung các vấn đề bao gồm như rủi ro gì, ảnh hưởng tới ai, xảy ra ở đâu và khi nào?

Phát triển mô hình nhận thức

Kế hoạch hóa đánh giá rủi ro môi trường

Cuối cùng là sàng lọc, ưu tiên những rủi ro cần đánh giá trước.

Việc xác định được vấn đề sẽ quyết định đến việc có nên tiến hành đánh giá rủi ro môi trường hay không. Qua đó sẽ lựa chọn tiến hành theo hướng nào phù hợp nhất.

Có 5 giai đoạn cơ bản trong việc đánh giá rủi ro môi trường bao gồm:

Trình bày rõ vấn đề cần đánh giá.

Nhận dạng những nguy hiểm

Đánh giá những hậu quả, hệ lụy

Đánh giá xác suất có thể xảy ra

Đặc tính hóa rủi ro và tính không chắc chắn

Việc đánh giá rủi ro môi trường chính xác sẽ giúp đưa ra được những phương án quản lý phù hợp và hiệu quả nhất. Sau khi đã phân tích những yếu tố như môi trường, kinh tế, kỹ thuật, xã hội… thì sẽ thực hiện quản lý theo các hướng sau:

Giảm thiểu rủi ro bằng cách phường ngừa, hiệu chỉnh và hướng dẫn.

Loại bỏ nguồn gây ô nhiễm.

Chuyển nhượng qua hợp đồng chuyển nhượng hoặc bảo hiểm.

Khai thác bằng cách thăm dò cơ hội tiếp cận rủi ro.

Chấp nhận rủi ro.

Khi nào cần đánh giá rủi ro môi trường?

Nếu chất thải vượt qua giới hạn sức chịu đựng của môi trường thì cần phải tiến hành đánh giá rủi ro ngay lập tích. Việc nghiên cứu đánh giá và hành động cần phải kịp thời, phối hợp chặt chẽ với nhau. Nhờ vậy mà hạn chế được những sự cố có thể xảy ra và mức độ ô nhiễm môi trường được cải thiện.

Thực trạng đánh giá rủi ro môi trường ở Việt Nam

Dựa theo mô hình của những nước phát triển

Việc đánh giá rủi ro môi trường ở Việt Nam chưa thực sự được quan tâm. Nước ta mới đang chỉ dừng ở công tác nghiên cứu tiếp cận theo các mô hình của các nước phát triển. Vì thế, những nghiên cứu, đánh giá rủi ro môi trường thường dựa trên sự cảm nhận của các chuyên gia nên khó chính xác.

Chẳng hạn như trường hợp nguồn gốc của rủi ro là do sự cố của hệ thống công nghệ sản xuất khiến lượng chất thải gây ô nhiễm tăng đột biến. Nếu đánh giá rủi ro môi trường tiềm ẩn chính xác sẽ có được các phương pháp phòng ngừa phù hợp. Hoặc có được các biện pháp ứng phó kịp thời giảm thiểu tối đa nhất những thiệt hại có thể xảy ra.

Thực trạng môi trường ở nước ta đang rất nguy cấp, nằm trong mức báo động đỏ về sự ô nhiễm trầm trọng. Các đánh giá rủi ro môi trường chỉ ở mức độ quan sát cảm tính, không có định lượng rõ ràng nên mức độ chính xác là rất thấp. Trong khi đó, tình trạng nước thải ô nhiễm, không khí chứa nhiều hạt độc hại… ngày càng tăng.

Đánh giá rủi ro không chính xác, không sát với thực tiễn dẫn đến những biện pháp, xử lý không thể ngăn chặn được. Chính vì thế cần phải xác định được trạng thái giới hạn của môi trường đó để có thể tự phục hồi.

Ví dụ đánh giá rủi ro môi trường nguồn nước nuôi trồng thủy sản:

Xác định nồng độ tối đa của những chất thải gây ô nhiễm ở khu vực nuôi trồng.

Xác định lượng chất thải lớn nhất của các yếu tố đưa vào vùng nuôi trồng.

Khi đã xác định được sẽ có biện pháp xử lý kịp thời để đảm bảo môi trường sinh sống và phát triển tốt nhất không gây ô nhiễm nguồn nước.

Khuyến nghị trong đánh giá rủi ro môi trường ở Việt Nam

Để có thể có những đánh gia rủi ro môi trường chính xác hơn thì cần phải:

Tiếp cận một cách hệ thống, bài bản các phương pháp của những nước tiên tiên trên thế giới.

Đưa ra được các hướng dẫn đánh giá rủi ro môi trường ở tầm cỡ quốc gia.

Rà soát lại những quy chẩn kỹ thuật quốc gia trong từng khu vực, trên những cơ sở định hương phát triển kinh tế xã hôi. Từ đó có thể nhận dạng được chính xác những rủi ro có thể xảy ra; và kiểm soát tốt nhất những nguồn thải tiềm ẩn gây sự cố về môi trường.

Phải có đánh giá chính xác về sức chịu tải môi trường của những khi vực có nguy cơ bị ô nhiễm lớn.

Đưa ra những yêu cầu cải thiện chất lượng những mô hình đánh giá định lượng theo từng bước một. Nhờ đó mà có thể đặc tính hóa chính xác rủi ro môi trường hơn.

Cần phải cải thiện việc đánh gia rủi ro và ra quyết định trên cơ sở hiểu biết khoa học, truyền đạt thông tin chính xác.

Cần quản lý quy hạch phát triển kinh tế xã hội hướng đến việc giảm thiểu tối đa nhất những rủi ro có thể ảnh hưởng đến môi trường. Việc này dựa trên cải thiện chất lượng đánh giá rủi ro môi trường.

Rủi Ro Kiểm Toán Và Đánh Giá Rủi Ro Kiểm Toán

MỞ ĐẦU Kiểm toán là lĩnh vực đang dần được khẳng định và chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Mặc dù mới ra

B.

NỘI DUNG

Phần 1: Khái niệm về rủi ro kiểm toán I.

Định nghĩa

Rủi ro kiểm toán là rủi ro (khả năng) mà KTV đưa ra ý kiến nhận xét không

thích

1

Các yếu tố cấu thành (phân loại)

Có 3 loại rủi ro kiểm toán: – Rủi ro tiềm tàng. – Rủi ro kiểm soát – Rủi ro phát hiện Phần 2: Các bộ phận cấu thành rủi ro kiểm toán

1.

I. Rủi ro tiềm tàng Khái niệm

a.

Định nghĩa:

Là rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả năng từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong BCTC chứa đựng những sai sót trọng yếu khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp, cho dù có hay không có hệ thống kiểm soát nội bộ. Ở mỗi doanh nghiệp, mỗi loại hình kinh doanh và tính chất ngành nghề khác nhau thì rủi ro tiềm tàng là hoàn toàn khác nhau. b.

Cơ sở đánh giá rủi ro tiềm tàng

Kiểm toán viên phải dựa vào việc xét đoán chuyên môn của mình để đánh giá rủi ro tiềm tàng trên những nhân tố chủ yếu sau:

Trên phương diện báo cáo tài chính:

2

– Sự liêm khiết, kinh nghiệm và hiểu biết của Ban Giám đốc cũng như sự thay đổi thành phần Ban quản lý xảy ra trong niên độ kế toán. – Trình độ và kinh nghiệm chuyên môn của kế toán trưởng, của các nhân viên kế toán chủ yếu, của kiểm toán viên nội bộ và sự thay đổi (nếu có) của họ. – Những áp lực bất thường đối với Ban Giám đốc, đối với kế toán trưởng, nhất là những hoàn cảnh thúc đẩy Ban Giám đốc, kế toán trưởng phải trình bày báo cáo tài chính không trung thực. – Đặc điểm hoạt động của đơn vị, như: Quy trình công nghệ, cơ cấu vốn, các đơn vị phụ thuộc, phạm vi địa lý, hoạt động theo mùa vụ; – Các nhân tố ảnh hưởng đến lĩnh vực hoạt động của đơn vị, như: các biến động về kinh tế, về cạnh tranh, sự thay đổi về thị trường mua, thị trường bán và sự thay đổi của hệ thống kế toán đối với lĩnh vực hoạt động của đơn vị. 

Trên phương diện số dư tài khoản và loại nghiệp vụ:

Các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tiềm tàng:

Trong kiểm toán, để thực hiện được một cuộc kiểm toán với khối lượng hợp lý, rủi ro kiểm toán thấp, KTV phải có sự hiểu biết sâu sắc, đầy đủ về mỗi doanh nghiệp được kiểm toán, về ảnh hưởng của rủi ro tiềm tàng đến khối lượng công việc kiểm toán. Đồng thời phải nắm được các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro kiểm toán đó là: Lĩnh vực hoạt động kinh doanh. Tùy vào từng lĩnh vực khác nhau mà một sai sót có thể coi là trọng yếu hay không. VD: ngành xây dựng, riêng nguyên vật liệu cũng đã nhiều, để kiểm soát chi li thật khó nên rủi ro về sai sót là chuyện không tránh khỏi. Điều đáng bận tâm là khi nó trở thành những sai sót nghiêm trọng, đặc biệt khi có sự rút ruột công trình thì chuyện đã đáng để bàn rồi. Bản chất công việc kinh doanh và đặc điểm của đơn vị, như: công việc sản xuất kinh doanh, các loại sản phẩm dịch vụ mà doanh nghiệp tạo ra được cung cấp cho thị trường, các yếu tố tác động của ngành nghề, môi trường kinh tế, địa điểm hoạt động, cơ cấu vốn, tính chất thời vụ, sự biến động của thị trường mua và bán. Ví dụ: vẫn xét đến doanh nghiệp ở ngành xây dựng, một điều căn bản trong xây dựng là vấn đề thời gian (tiến độ công trình). Nhiều khi ngâm lâu một dự án mà nhà nước chưa kịp thời xử lí thì cũng thất thoát một món tiền kha khá như nguyên vật liệu bị bỏ không hay vật giá leo thang, hai ngày khác nhau là giá mỗi khác

3

chẳng hạn, thì hạch toán sẽ khác, cũng dễ sinh ra sai sót. Đối với những đơn vị mới thành lập thì càng đáng bàn khi nhân lực chưa mạnh, số chưa to nhưng lại rất dễ nhầm lẫn và thường có tiết mục vẽ bảng báo cáo. Bản chất của các bộ phận, các khoản mục được kiểm toán, như: các khoản mục khác nhau trên BCTC thì khả năng chứa đựng những sai phạm trọng yếu sẽ khác nhau, như khoản mục Hàng tồn kho có khả năng chứa đựng nhưng sai phạm trọng yếu nhiều hơn là khoản mục tiền mặt vì hàng tồn kho phải thông qua rất nhiều khâu tính toán, đánh giá, tính nhất quán của phương pháp tính giá xuất kho, phương pháp lập dự phòng giảm giá…. Các nghiệp vụ, khoản mục cần phải có sự tư vấn, xác nhận của các chuyên gia, hay các khoản mục phản ánh về tài sản dễ mất trộm, phải kiểm kê thường xuyên về hiện vật, về quy trình và thời gian bảo quản… kể cả tính chủ quan của hệ thống kế toán đối với từng loại nghiệp vụ và từng khoản mục. Tính chất này ảnh hưởng rất lớn đến những sai phạm trọng yếu trên BCTC. Bản chất hệ thống kế toán và thông tin trong đơn vị như: mức độ, tính chất phức tạp, phạm vi và tính hiệu quả của hệ thống điện toán hay của các phương tiện, thiết bị thông tin tính toán áp dụng trong doanh nghiệp Các nghiệp vụ kinh tế không thường xuyên: không quen, đặc biệt là khi có sự thay đổi từ các quy định của nhà nước mà chưa kịp ra thong tư hướng dẫn. Qui mô tổng thể, cơ cấu tổ chức doanh nghiệp: lớn quá mà cán bộ chuyên trách không đủ hoặc yếu về năng lực hoặc chồng chéo, cồng kềnh. Việc nghiên cứu, phân tích đánh giá rủi ro tiềm tàng có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình lập kế hoạch kiểm toán. Mức rủi ro tiềm tàng ở mỗi doanh nghiệp mà KTV dự kiến cao thấp khác nhau sẽ là căn cứ và là cơ sở để KTV xác định về khối lượng, qui mô, phạm vi công việc kiểm toán cần thực hiện. Đây là căn cứ để KTV dự kiến biên chế, thời gian, chi phí và các phương tiện cần thiết khác cho một cuộc kiểm toán. 3.

Đánh giá rủi ro tiềm tàng

Khi lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải đánh giá rủi ro tiềm tàng cho toàn bộ báo cáo tài chính của đơn vị được kiểm toán. Khi lập chương trình kiểm toán, kiểm toán viên phải xác định cụ thể mức độ rủi ro tiềm tàng cho các số dư hoặc loại nghiệp vụ quan trọng đến từng cơ sở dẫn liệu. Trường hợp không thể xác định cụ thể được thì kiểm toán viên phải giả định rằng rủi ro tiềm tàng là cao cho cơ sở dẫn liệu đó. Căn cứ vào mức độ đánh giá rủi ro tiềm tàng để dự kiến các công việc, thủ tục kiểm toán sẽ được thực hiện cho các nghiệp vụ, các khoản mục trọng yếu trên báo cáo tài chính, hoặc các nghiệp vụ, các khoản mục mà kiểm toán viên cho là có rủi ro tiềm tàng cao.

4

TOÀN BỘ BCTC KHOẢN PHẢI THU Phải thu từ bán lẻ

4.

 Trình tự đánh giá rủi ro của KTV Ý nghĩa của việc đánh giá rủi ro tiềm tàng

Việc nghiên cứu, phân tích đánh giá rủi ro tiềm tàng có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình lập kế hoạch kiểm toán. Rủi ro tiềm tàng tồn tại khách quan nằm ngay trong doanh nghiệp, nó không phụ thuộc và công việc của kiểm toán. Mức rủi ro tiềm tàng ở mỗi doanh nghiệp mà KTV dự kiến cao thấp khác nhau sẽ là căn cứ và là cơ sở để KTV xác định về khối lượng, quy mô, phạm vi công việc kiểm toán cần thực hiện. Đây sẽ là căn cứ để KTV dự kiến biên chế, thời gian, chi phí và các phương tiện cần thiết khác cho một kiểm toán. Khi phân tích đánh giá rủi ro tiềm tàng ở một đơn vị đơn vị được kiểm toán đòi hỏi KTV phải có hiểu biết sâu sắc, toàn diện và đầy đủ và thực trạng của doanh nghiệp và các yếu tố tác động đến rủi ro tiềm tàng cũng như kinh nghiệm sát thực để có kết quả sát thực.

1.

II. Rủi ro kiểm soát Khái niệm

Rủi ro kiểm soát là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục của BCTC khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị kiểm toán không ngăn ngừa hết hoặc không phát hiện và sửa chữa kịp thời. Rủi ro kiểm toán cũng như rủi ro tiềm tàng, tồn tại khách quan nằm ngay trong doanh nghiệp không phụ thuộc vào công việc kiểm toán có tiến hành hay không. Kiểm toán viên không tạo ra và cũng không kiểm soát rủi ro kiểm soát. Họ chỉ có thể đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị được kiểm toán và từ đó đưa ra mức rủi ro kiểm soát dự kiến.

2.

Các bước tiến hành đánh giá rủi ro kiểm soát.

Các bước trong quá trình đánh giá rủi ro kiểm soát của KTV: 4 bước

5

Bước 1: Đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát. Đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát là việc đánh giá hiệu quả hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị trong việc ngăn ngừa hoặc phát hiện và sửa chữa các sai sót trọng yếu. Rủi ro kiểm soát thường không hoàn toàn được loại trừ do sự hạn chế tiềm tàng của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ. Dựa trên sự hiểu biết hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ, KTV và công ty kiểm toán phải đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát đối với cơ sở dẫn liệu cho từng số sư tài khoản hoặc các nghiệp vụ kinh tế chủ yếu Bước 2: Lưu giữ tài liệu về đánh giá rủi ro kiểm soát * KTV phải ghi chép và lưu lại trong hồ sơ kiểm toán: – Những kết quả đạt được trong việc tìm hiểu hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị được kiểm toán; –

Những nhận xét và đánh giá về rủi ro kiểm soát của kiểm toán viên. Trường hợp rủi ro kiểm soát được đánh giá không cao thì

6

3.

Các nhân tố ảnh hưởng tới việc đánh giá rủi ro kiểm soát

* Môi trường kiểm soát: – Đặc thù về quản lý: quan điểm của những người quản lý đơn vị về hoạt động kinh doanh, quan điểm về chính sách và thủ tục kiểm soát, cơ cấu quyền lực tập trung vào một hay nhiều người. – Cơ cấu tổ chức: Hợp lý hay không hợp lý, có đảm bảo nguyên tắc và hiệu quả cho công tác quản lý hay không? – Bộ phận KTNB: Về tổ chức trực thuộc cấp nào? Có bị giời hạn phạm vi hoặc khống chế hoạt động không? Nhân viên có trung thực không? Có đủ năng lực kiểm soát không? Thông tin kiểm soát có phong phú không? – Ngoài ra có thể tìm hiểu tác động của các yếu tố khác như công tác kế hoạch, chính sách nhân sự và các yếu tố bên ngoài (ảnh hưởng của cơ quan quản lý Nhà nước, trách nhiệm pháp lý…). Vấn đề cần lưu ý là người đứng đầu có nhận thức đủ tầm quan trọng và sử dụng tốt hệ thống KSNB phục vụ có hoạt động quản lý của mình hay không?. * Hệ thống kế toán: – Tổ chức công tác kế toán (tập trung hay phân tán, cơ cấu tổ chức bộ máy kế toán, hệ thống công nghệ ứng dụng trong công tác kế toán) – Hệ thống chứng từ kế toán (chứng từ bắt buộc, chứng từ do đơn vị tự quy định hoặc tự tin) – Hệ thống tài khoản kế toán (theo hệ thống tài khoản kế toán nào? Việc quy định chi tiết về hệ thống tài khoản kế toán có tính chất đặc thù…) – Hệ thống sổ kế toán: Theo hình thức kế toán nào? (Nhật ký chứng từ, nhật ký chung, chứng từ ghi sổ..) – Hệ thống BCTC – Chính sách kế toán đơn vị áp dụng: Phương pháp kế toán tiền mặt hay dồn tích, phân bổ chi phí, phương pháp khấu hao, trích lập và xử lý dự phòng,… – Việc chỉ đạo và kiểm tra công tác tài chính – kế toán. * Vấn đề nhân sự: Công tác quản lý bị một người hay một nhóm người độc quyền nắm giữ, thiếu sự giám sát có hiệu lực của Ban giám đốc hoặc Hội đồng quản trị. * Vấn đề tổ chức: tổ chức chồng chéo, không khoa học – Cơ cấu tổ chức của đơn vị được kiểm toán phức tạp một cách cố ý. – Thay đổi thường xuyên kế toán trường hoặc người có trách nhiệm trong bộ phận Tài chính- kế toán. – Thiếu nhiều nhân viên kế toán trong một thời gian dài. – Bố trí người làm công tác kế toán không đúng chuyên môn. – Sự bất lực trong việc sửa chữa những yếu kém của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ trong khi những yếu kém này hoàn toàn có thể khắc phục được. * Các nghiệp vụ mới: các nghiệp vụ chưa được kiểm soát theo đúng quy trình KSNB. Những yếu tố cần được xem xét để đánh giá mức độ rủi ro là: bản chất kinh doanh của khách hàng, bản chất của các bộ phận được kiểm toán, bản chất các hệ thống kế toán và thông tin, xem xét các loại nghiệp vụ phức tạp và mới, khối lượng gia dịch lớn, cách thức phân bổ lao động theo phân định công việc… * Tính thích hợp, đầy đủ của các thủ tục, trình tự kiểm soát. Ngoài ra còn có các yếu tố: – Tính chất mới mẻ và phức tạp của các loại giao dịch. – Khối lượng và cường độ của giao dịch (Nhiều hay ít, mạnh hay yếu). – Số lượng và chất lượng của hệ thống nhân lực tham gia kiểm soát trong doanh nghiệp. – Tính hiệu lực, hợp lý và hiệu quả của các thủ tục kiểm soát và trình tự kiểm soát trong doanh nghiệp. – Tính khoa học, thích hợp và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ như: việc sắp xếp phân công đúng người, đúng việc, việc bố trí sử dụng một cách tối ưu các phương tiện, thiết bị kết hợp với con người trong quá trình kiểm soát.

7

Tóm lại, có thể nói rằng, rủi ro kiểm toán trên phương diện báo cáo tài chính được đánh giá ở mức độ thấp khi mà môi trường kiểm soát được thiết kế và vận hành hiệu quả, có thể ngăn ngừa, phát hiện và sửa chữa các sai sót trọng yếu và dựa vào đó, kiểm toán viên có thể thực hiện được các thử nghiệm kiểm soát làm cơ sở đánh giá mức độ rủi ro kiểm soát. Ngược lại, nếu môi trường kiểm soát hoạt động không hiệu quả hay được thiết kế không đầy đủ, và KTV cũng không được cung cấp đầy đủ thông tin để đánh giá môi trường kiểm soát thì tùy theo mức độ, KTV có thể đánh giả rủi ro kiểm soát “trung bình” hoặc “cao”. 4.

Đánh giá rủi ro kiểm soát

Việc đánh giá rủi ro kiểm soát thực chất là việc đánh giá về hiệu lực và hiệu quả của HTKT và HTKSNB có đủ khả năng ngăn chặn, phát hiện và xử lý kịp thời các gian lận sai sót trọng yếu xảy ra trong doanh nghiệp một cách đáng tin cậy hay không. Khi đã đạt được những hiểu biết cơ bản về cơ cấu kiểm soát nội bộ và đủ cho việc lập kế hoạch kiểm toán thì có 3 đánh giá: Đánh giá khả năng có thể kiểm toán được: Việc đánh giá này chủ yếu dựa vào hai yếu tố chính là tính liêm chính của hội đồng quản trị, ban giám đốc và tính đầy đủ của chứng từ, sổ sách kế toán. Trường hợp không kiểm toán được, cần tranh luận các tình huống với khách hàng và rút khỏi hợp đồng hoặc công bố một báo cáo kiểm toán từ chối. Đánh giá rủi ro dựa trên hiểu biết đã thu thập được. Sau khi thu thập được sự hiểu biết về cách thiết kế và duy trì có cấu KSNB, KTV phải thực hiện ước lượng về rủi ro kiểm soát. Đánh giá khả năng một mức rủi ro kiểm soát thấp hơn có thể được chứng minh : khi KTV tin rằng RRKS thực tế có thể thấp hơn nhiều so với đánh giá ban đầu thì anh ta phải đánh giá xem liệu một mức rủi ro thấp hơn có được chứng minh hay không. Nếu KTV tin rằng mức rủi ro thấp hơn sẽ được chứng minh thì các khảo sát kiểm soát cần phải được thực hiện, và nếu kết quả được chứng minh thì điều này rất có lợi cho KTV trong việc điều chỉnh cho phép làm tăng rủi ro phát hiện và giảm phạm vi, quy mô các khảo sát cơ bản. Ngoài ra, cần có đánh giá của KTV về RRKS: – KTV có thể đánh giá RRKS là cao đối với cơ sở dẫn liệu của BCTC trong trường hợp: Hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ không đầy đủ và không hiệu quả, KTV không có được đầy đủ cơ sở để đánh giá sự thích hợp, đầy đủ và đầy đủ của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ – KTV có thể đánh giá RRKS ở mức độ không cao khi: KTV có đầy đủ điều kiện và kế hoạch để thử nghiệm về kiểm soát. KTV có đầy đủ bằng chứng và cơ sở kết luận hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ là có hiệu lực, hiệu quả. 5.

Ý nghĩa của việc đánh giá rủi ro kiểm soát đối với KTV:

Giúp KTV xem xét những nhân tố có khả năng gây ra sai phạm trọng yếu. Xác định được phạm vi kiểm toán cần thiết đối với những sai sót trọng yếu có thể tồn tại trong BCTC. Xác định lựa chọn và xây dựng được thủ tục kiểm toán cơ bản thích hợp về phạm vi quy mô và thời gian vận dụng các thủ tục kiểm toán.

III. Rủi ro phát hiện Khái niệm Định nghĩa

Rủi ro phát hiện là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên và công ty kiểm toán không phát hiện được.

8

Rủi ro phát hiện có nguyên nhân bắt nguồn trực tiếp từ nội dung, thời gian và phạm vi của các thử nghiệm cơ bản do kiểm toán viên thực hiện. Ví dụ: rủi ro phát hiện sẽ giảm xuống nếu kiểm toán viên mở rộng phạm vi kiểm tra, tăng cường kích cỡ của các thử nghiệm hay tăng các thủ tục kiểm tra chi tiết với các số dư hoặc nghiệp vụ. b.

Đánh giá rủi ro phát hiện

2.

Yếu tố ảnh hưởng

Trong một cuộc kiểm toán, với mức rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát cố định, nếu rủi ro phát hiện càng tăng tức là: khả năng không phát hiện ra gian lận sai sót trọng yếu càng tăng, dẫn đến rủi ro kiểm toán cũng càng tăng. Ngược lại, để hạ thấp rủi ro kiểm toán, KTV thường phải hạ thấp rủi ro phát hiện. Để làm được điều này, KTV phải nắm vững được các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro kiểm toán. Đó là: Thứ nhất, phạm vi kiểm toán: với tính hiệu quả, khoa học và trình độ kinh nghiệm của KTV là cố định. Nếu phạm vi kiểm toán càng rộng thì khả năng phát hiện gian lận, sai sót càng tăng lên, tức là khả năng không phát hiện ra gian lận, sai sót giảm đi có nghĩa rủi ro giảm đi và ngược lại. Thức hai, phương pháp kiểm toán: nếu phương pháp kiểm toán càng khoa học, chặt chẽ thì khả năng phát hiện các gian lận, sai sót tăng lên, rủi ro phát hiện giảm và ngược lại. Thứ ba, trình độ, kinh nghiệm và khả năng xét đoán nghề nghiệp của KTV. Nếu KTV có trình độ cao, nhiều kinh nghiệm và khả năng xét đoán nghề nghiệp tốt thì những gian lận, sai sót dễ bị phát hiện, rủi ro phát hiện giảm IV.

Mối quan hệ giữa các loại rủi ro

Mối quan hệ giữa 3 loại rủi ro:

9

– Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát tồn tại độc lập ngay trong doanh nghiệp, dù công việc kiểm toán có được thực hiện hay không. Ngược lại, rủi ro phát hiện lại hoàn toàn phụ thuộc vào công việc kiểm toán. Do rủi ro phát hiện chính là khả năng không phát hiện ra gian lận sai sót trọng yếu trong quá trình kiểm tra của KTV. – Rủi ro kiểm soát có điểm giống với rủi ro phát hiện ở chỗ: Nó phụ thuộc vào việc kiểm soát của con người để phát hiện ra gian lận sai sót trọng yếu. + Tuy nhiên có sự khác biệt là: Rủi ro kiểm soát tồn tại là do hệ thống kế toán và hệ thống KSNB hoạt động không hiệu quả và KTV trong quá trình kiểm tra sẽ phát hiện ra để ngăn ngừa gian lận sai sót trọng yếu. + Ngược lại rủi ro phát hiện lại do chính KTV không phát hiện những sai phạm trong quá trình kiểm toán của mình. Có thể minh họa mối quan hệ giữa 3 loại rủi ro này như sau: 

Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp luôn tồn tại những gian lận sai sót

VD: Hàng tồn kho có khả năng chứa đựng những sai phạm trọng yếu do phải thông qua rất nhiều khâu tính toán, đánh giá, tính nhất quán của phương pháp tính giá xuất kho, phương pháp lập dự phòng giảm giá………. Đây chính là rủi ro tiềm tàng. 

Phát hiện gian lận sai sót bằng các thủ tục kiểm soát của hệ thống KSNB

VD: Công ty kiểm toán D phát hiện được sai sót về hàng tồn kho của doanh nghiệp A do có 1 phần hàng tồn kho không được đảm bảo về tính nhất quán của phương pháp tính giá xuất kho mà hệ thống KSNB không phát hiện được. Đây chính là rủi ro kiểm soát. 

Phát hiện gian lận sai sót bằng công việc kiểm toán của KTV

VD: Chỉ tiêu doanh thu của doanh nghiệp A năm 2011 phải đạt được 10 tỉ đồng. Trong khi đó, kế toán lập BCTC vào ngày 15/02/2012 nhận thấy rằng doanh thu năm 2011 tính đến 31/12/2011 chỉ là 9 tỉ đồng. Nhận thấy trong 1,5 tháng của năm 2012 doanh số bán hàng tăng vọt đáng kể. Kế toán quyết định đưa doanh số này vào doanh thu của năm 2011 nhằm đảm bảo chỉ tiêu được giao. Trong trường hợp này, kê toán vi phạm nguyên tắc “tính đúng kì” trong các nguyên tắc của hệ thống kế toán. Tuy nhiên thì KTV lại không phát hiện ra sai phạm này. Đây chính là rủi ro phát hiện. Như vậy, chính vì KTV không phát hiện hết các gian lận sai sót trọng yếu, dẫn đến đưa ra ý kiến sai  Rủi ro kiểm toán xuất hiện. – Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát quyết định đến khối lượng, quy mô, phạm vi chi phí, biên chế và thời gian kiểm toán. Nếu 2 rủi ro này là cao thì KTV dự kiến rủi ro phát hiện là thấp và ngược lại. Vậy, mức độ rủi ro phát hiện dự kiến có mối quan hệ tỉ lệ nghịch với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát. Chúng ta có thể thấy rõ mối quan hệ này thông qua bảng ma trận rủi ro:

Đánh giá của KTV về

Cao Trung bình

Đánh giá của KTV về rủi ro kiểm soát Cao Trung bình Thấp nhất Thấp Thấp Trung bình

10

Thấp

rủi ro tiềm tàng

Trung bình

Cao

Cao nhất

Dựa vào ma trận trên có thể hiểu:  

Khi rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát đều cao thì rủi ro phát hiện là thấp nhất. Khi rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát đều thấp thì rủi ro phát hiện là cao nhất.

V.

Mô hình rủi ro kiểm toán

Quan hệ giữa các loại rủi ro trên có thể được phản ánh qua một mô hình rủi ro sau đây: AR=IR x CR x DR

 DR = AR/( IRxCR)

Trong đó: AR : rủi ro kiểm toán

DR : rủi ro phát hiện

IR : rủi ro tiềm tàng

CR : rủi ro kiểm soát

Với mô hình này, KTV có thể sử dụng để điều chỉnh rủi ro và phát hiện dựa trên các loại rủi ro khác dã được đánh giá nhằm đạt được rủi ro kiểm toán thấp như mong muốn. Chẳng hạn, KTV muốn thực hiện một cuộc kiểm toán cụ thể và muốn rủi ro kiểm toán đạt được ở mức tương đối thấp (ví dụ 0,05, có nghĩa là bình quân có khoảng 5% các quyết định kiểm toán là không chính xác). Tất cả các rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát đều được đánh giá và nhận định trên kinh nghiệm nghề nghiệp có minh chứng cụ thể. Giả sử KTV cho rằng rủi ro tiềm tàng đối với đối tượng kiểm toán là rất lớn (IR=0,90) và hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị không được hiệu lực lắm (CR=0,70). Nếu KTV muốn đạt được mức rủi ro kiểm toán như mong muốn (AR= 0,50) thì các thủ tục kiểm toán phải được thiết kế sao cho rủi ro phát hiện (DR) không được vượt quá mức 0,08 (Từ công thức tính ra). Kết quả về rủi ro phát hiện tính ra được là căn cứ để KTV dự kiến về quy mô, phạm vi khối lượng công việc cần kiểm toán thích hợp. Việc xác định phạm vi khối lượng công việc kiểm toán dựa trên kết quả dự kiến tính được theo công thức trên. Một số lưu ý khi sử dụng mô hình rủi ro kiểm toán

11

Việc vận dụng mô hình rủi ro trong thực tế là một vấn đề phức tạp. Khi vận dụng sẽ có sự khác nhau giữa các đơn vị được kiểm toán và các công ty kiểm toán do việc đánh giá rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát ở các đơn vị được kiểm toán có sự khác nhau và tính thận trọng của mỗi KTV và công ty kiểm toán cũng có sự khác nhau.

KTV chỉ có thể đánh giá chứ không thể tác động đến rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát. Trong trường hợp không thể đánh giá được thì chấp nhận ở mức tối đa.

KTV chủ động quyết định mức rủi ro phát hiện bằng cách điều chỉnh nội dung, phạm vi và thời gian của các thử nghiệm cơ bản.

Khi lập kế hoạch kiểm toán KTV thường phải ấn định mức trọng yếu hay những sai phạm có thể chấp nhận được ở mức thấp hơn so với mức dùng làm căn cứ để đánh giá của KTV nhằm tạo ra một khoảng lề an toàn cho KTV trong quá trình kiểm toán.

Rủi ro kiểm soát luôn luôn không được loại trừ vì những hạn chế vốn có của hệ thống KSNB, và rủi ro kiểm toán không bao giờ bằng không.

Dù cho rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá ở mức độ thấp nhất thì KTV vẫn phải thực hiện thử nghiệm cơ bản đối với các nghiệp vụ và số dư tài khoản trọng yếu.

Rủi ro kiểm soát ở đơn vị có qui mô nhỏ khác với đơnvị có qui mô lớn, vì hệ thống kiểm soát có sự khác nhau. Ở đơn vị có qui mô lớn, quá trình kiểm soát tuân thủ nguyên tắc bất kiêm nhiệm, còn đơn vị có qui mô nhỏ lại vi phạm nguyên tắc này.Thường một người kiêm nhiệm nhiều việc, vừa làm vừa kiểm tra kiểm soát. Trường hợp này, kết luận của KTV phải hoàn toàn dựa trên bằng chứng thu được từ các thử nghiệm cơ bản. Phần 3: Mối quan hệ giữa rủi ro và trọng yếu

1. Khái niệm trọng yếu. Trong lĩnh vực kế toán, khái niệm “trọng yếu” được nhắc đến là một trong các nguyên tắc kế toán chung được chấp nhận. Nguyên tắc trọng yếu yêu cầu chú trọng đến những vấn đề mang tính thận trọng, quyết định bản chất và nội dung của sự vật, sự kiện kinh tế phát sinh, không quan tâm đến những yếu tố có ít tác dụng trong Báo cáo tài chính. Trong lĩnh vực kiểm toán, khái niệm trọng yếu thường xuyên được nhắc đến, được định nghĩa trong rất nhiều các tài liệu về kiểm toán, đặc biệt là kiểm toán BCTC. Chuẩn mực kiểm toán Quốc tế số 320 (VSA 320) về tính trọng yếu trong kiểm toán đã định nghĩa: “Thông tin là trọng yếu nếu việc bỏ sót hoặc sai sót của thông tin đó có thể ảnh hưởng tới quyết định kinh tế của người sử dụng BCTC. Tính trọng yếu phụ thuộc vào mức độ quan trọng của các khoản mục hay sai sót được đánh giá theo bối cảnh cụ thể tạo ra việc bỏ sót hoặc sai sót đó.

12

Vì thế tính trọng yếu là một ngưỡng hoặc một điểm định tính cơ bản mà một thông tin hữu ích cần phải có”. Trong chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 320 (VSA 320): “Tính trọng yếu trong kiểm toán”, trọng yếu được định nghĩa như sau: “Là thuật ngữ dùng để thể hiện tầm quan trọng của một thông tin (một số liệu kế toán) trong BCTC. Thông tin được coi là trọng yếu có nghĩa là nếu thiếu thông tin đó hoặc thiếu tính chính xác của thông tin đó sẽ ảnh hưởng đến các quyết định của người sử dụng BCTC. Mức trọng yếu tùy thuộc vào tầm quan trọng và tính chất của thông tin hay của sai sót được đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể. Mức độ trọng yếu là một ngưỡng, một điểm chia cắt chứ không phải là nội dung của thông tin cần phải có. Tính trọng yếu của thông tin phải xem xét trên cả phương diện định lượng và định tính”. Rõ ràng, khái niệm “Trọng yếu” đã đặt ra yêu cầu xác định nội dung kiểm toán trên cơ sở không bỏ sót các nghiệp vụ có quy mô lớn và có tính hệ trọng. Vi phạm nguyên tắc này sẽ tạo ra rủi ro kiểm toán. 2. Khái niệm rủi ro Theo định nghĩa chung nhất, rủi ro là khái niệm chỉ khả năng mà một sự kiện không thuận lợi nào đó sẽ xuất hiện. Rủi ro được nhắc đến như một sự ám chỉ về một điều không chắc chắn, một hậu quả với những tình huống không thể lường trước được, nó có thể xảy ra, nếu xảy ra có thể không như chúng ta mong đợi, hoặc mang lại kết quả không tốt đẹp. Rủi ro ứng với sai lệch giữa dự kiến với thực tế. Theo định nghĩa của nguyên tắc chỉ đạo kiểm toán quốc tế IAG 25, Trọng yếu và rủi ro kiểm toán, “rủi ro kiểm toán là những rủi ro mà kiểm toán viên có thể mắc phải khi đưa ra những nhận xét không xác đáng về các thông tin tài chính và đó là các sai sót nghiêm trọng”. Những nhận xét không xác đáng chủ yếu theo hướng kiểm toán viên sẽ kết luận là các BCTC được trình bày trung thực và hợp lý, do đó công bố một ý kiến chấp nhận hoàn toàn trong khi chúng bị sai sót trọng yếu. Rủi ro kiểm toán gắn liền với rủi ro kinh doanh, rủi ro mà kiểm toán viên sẽ phải chịu thiệt hại vì mối quan hệ với khách hàng, đặc biệt trong trường hợp các báo cáo kiểm toán cung cấp cho khách hàng là sai. Do vậy để giới hạn rủi ro kinh doanh, kiểm toán viên phải kiểm soát chặt chẽ rủi ro kiểm toán. 3. Mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro kiểm toán. Trọng yếu và rủi ro có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, VSA 320 “Tính trọng yếu trong kiểm toán” đã quy định: “Khi tiến hành một cuộc kiểm toán, KTV phải quan tâm đến tính trọng yếu của thông tin và mối quan hệ của nó với rủi ro kiểm toán”. Mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro được thể hiện rất rõ trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán nhằm đánh giá rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và xác định những vùng kiểm toán trọng yếu, xác định mức trọng yếu cho từng mục tiêu kiểm toán, khả năng có những sai sót cho từng khoản mục. * Trong một cuộc kiểm toán, mức trọng yếu và rủi ro kiểm toán có mối quan hệ tỉ lệ nghịch với nhau : mức trọng yếu càng cao thì rủi ro kiểm toán càng thấp và ngược lại. Bởi vì khi mức sai sót trọng yếu có thể chấp nhận được càng thấp thì khả năng xảy ra rủi ro kiểm toán sẽ gia tăng lên. Mức trọng yếu càng cao thì rủi ro kiểm toán càng phải thấp xuống vì khi giá trị của sai sót càng cao, mức độ ảnh hưởng càng lớn thì khả năng bỏ qua sai sót đó phải giảm xuống, do đó rủi ro kiểm toán sẽ thấp. Còn khi mức trọng yếu không cao, KTV có thể chấp nhận một mức rủi ro kiểm toán cao hơn mà không gây ra những ảnh hưởng lớn. Mối quan hệ này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định nội dung, phạm vi, thời gian của các thủ tục kiểm toán thích hợp. Khi lập kế hoạch kiểm toán, nếu KTV xác định mức trọng yếu chấp nhận được là thấp thì rủi ro kiểm toán sẽ tăng lên. Khi đó, KTV có thể:

13

Phần 3: KẾT LUẬN Từ việc tìm hiểu các loại rủi ro kiểm toán ở trên, ta kết luận về tầm quan trọng và sự cần thiết của việc xác định, đánh giá rủi ro kiểm toán. Đánh giá rủi ro kiểm toán là việc KTV và công ty kiểm toán xác định mức độ rủi ro kiểm toán có thể xảy ra là cao hay thấp, bao gồm đánh giá rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện. Rủi ro kiểm toán được xác định trước khi lập kế hoạch và trước khi thực hiện kiểm toán (VAS 400). Chúng ta biết rằng rủi ro kiểm toán luôn tồn tại trong mọi cuộc kiểm toán do đó, khả năng để kiểm toán viên nhận xét không xác đáng về báo cáo tài chính là điều luôn có thể xảy ra. Vấn đề đặt ra là phải đánh giá hợp lý các loại rủi ro để đánh giá đúng bản chất đối tượng kiểm toán cũng như đảm bảo tính hợp lý trong việc lập kế hoạch và thực hiện cuộc kiểm toán. Do đó, ý nghĩa của việc đánh giá rủi ro kiểm toán là rất lớn, mang lại lợi ích thiết thực trong tất cả các giai đoạn của cuộc kiểm toán, nhất là trong giai đoạn đầu tiên của cuộc kiểm toán. Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, đánh giá rủi ro kiểm toán sẽ giúp KTV giới hạn phạm vi công việc kiểm toán ở mức độ cần thiết để vừa tiết kiệm được thời gian vừa đảm bảo chất lượng kiểm toán với mức phí hợp lý và cạnh tranh và xác định được những khoản mục hoặc nhóm nghiệp vụ chứa rủi ro cao, từ đó tập trung nguồn lực để thỏa mãn các mục tiêu kiểm toán. Có thể kết luận rằng, đánh giá rủi ro kiểm toán khi tiến hành kiểm toán tài chính bao giờ cũng là công việc quan trọng. Đặc biệt là khi công ty kiểm toán cung cấp dịch vụ lần đầu cho khách hàng. Việc đánh giá rủi ro kiểm toán có ảnh hưởng lớn đến uy tín, chất lượng dịch vụ kiểm toán. Và do vậy, công

14

tác đánh giá rủi ro kiểm toán cần được kiểm toán viên và công ty kiểm toán coi trọng và hoàn thiện để ngày càng có hiệu quả hơn.

15

Đánh Giá Mức Độ Rủi Ro Của Doanh Nghiệp

Sau khi đã xác định các hoạt động chủ chốt của DN, bước tiếp theo là đánh giá mức độ rủi ro mà DN có thể gặp trong tình huống thiên tai. Kiểm tra lại những nguy cơ về thiên tai đối với từng địa phương.

Đánh giá rủi ro là một bước quan trọng trước khi xây dựng kế hoạch quản lý thiên tai.

Trong tình huống bão lũ, DN cần đặt ra các giả thuyết, ví dụ:

Nhà xưởng, kho bãi có nguy cơ bị thiệt hại không

Các vật dụng, đồ dùng có nguy cơ bị mất hay hỏng không

Hệ thống thiết bị (máy móc văn phòng, máy tính)

Tính mạng của nhân viên (đang làm việc tại DN hoặc đang ở nhà, trên đường đến/về).

Có thể dùng bảng đánh giá sau để đánh giá mức độ rủi ro của doanh nghiệp:

Khả năng có thể xảy ra (đối với từng loại hình thiên tai có thể xảy ra trên địa bàn công ty hoạt động)

Ảnh hưởng về con người (bị thương, chết hoặc mất tích), ảnh hưởng về tài sản (hư hại về cơ sở vật chất, tòa nhà và các thiết bị bên trong)

Ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh (chi phí để phục hồi, sửa chữa cơ sở vật chất + mất lợi nhuận do gián đoạn kinh doanh + chi phí cố định)

Nguồn lực bên trong là những nguồn lực mà doanh nghiệp có thể có ngay lập tức trong tình huống khẩn cấp hoặc khi hoạt động kinh doanh bị gián đoạn thì có thể nguồn bổ sung ngay (ví dụ người được phân công quản lý trong tình huống khẩn cấp, thiết bị phòng cháy chữa cháy tại chỗ, máy phát điện dự phòng của doanh nghiệp ….)

Nguồn lực từ bên ngoài là những nguồn lực có sẵn khi doanh nghiệp yêu cầu hay có hợp đồng cung cấp (ví dụ yêu cầu hỗ trợ khẩn cấp từ các cơ quan khác ở địa phương, dịch vụ y tế, bệnh viện, cung cấp dịch vụ điện, nước ….) Những nguồn lực này xếp hạng từ 1 đến 5 (5 là yếu nhất – 1 là mạnh nhất)

Hãy tiến hành đánh giá từng loại rủi ro thiên tai và đánh giá hết các yếu tố của từng loại hình. Cuối cùng cộng lại, nếu tổng số điểm càng cao thì nghĩa là mức độ tổn thương của doanh nghiệp càng cao khi có thiên tai xảy ra.

Dựa vào đánh giá trên, có thể đưa ra thứ tự ưu tiên và các giải pháp ứng phó mà doanh nghiệp nên tập trung giải quyết tùy vào điệu kiện và nguồn lực của mình.

Bạn đang xem bài viết Đánh Giá Rủi Ro Môi Trường trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!