Xem Nhiều 5/2023 #️ Định Luật Avogadro (Chỉ Áp Dụng Cho Chất Khí Hay Hơi) # Top 5 Trend | Tvzoneplus.com

Xem Nhiều 5/2023 # Định Luật Avogadro (Chỉ Áp Dụng Cho Chất Khí Hay Hơi) # Top 5 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Định Luật Avogadro (Chỉ Áp Dụng Cho Chất Khí Hay Hơi) mới nhất trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

“Trong cùng điều kiện về nhiệt độ và áp suất thì các thể tích khí hay hơi bằng nhau sẽ chứa số phân tử khí hay hơi bằng nhau (hay số mol bằng nhau)”

Chi tiết khái niệm

Định luật Avogadro (chỉ áp dụng cho chất khí hay hơi)

“Trong cùng điều kiện về nhiệt độ và áp suất thì các thể tích khí hay hơi bằng nhau sẽ chứa số phân tử khí hay hơi bằng nhau (hay số mol bằng nhau)”

Thí dụ:   

Ở 27,3ºC; 1atm thì 2,464 lít khí H2 có chứa 6,022.1022 phân tử H2 hay 0,1 mol H2

Ở 27,3ºC; 1atm thì 2,464 lít khí CH4 có chứa 6,022.1022 phân tử CH4 hay 0,1 mol  CH4

Ở 27,3ºC; 1atm thì 2,464 lít hơi nước (H2O) có chứa 6,022.1022 phân tử H2O hay 0,1 mol H2O

Ở 27,3ºC; 1atm thì 2,464 lít khí heli (He) có chứa 6,022.1022 phân tử He hay 0,1 mol He

Tại sao có phân tử khí hay hơi kích thước lớn nhỏ khác nhau, mà cùng thể tích lại chứa cùng số phân tử, hơi khó hiểu.

Đáng lẽ phân tử có kích thước lớn thì số phân tử phải ít hơn, còn phân tử có kích thước nhỏ thì phải có số phân tử nhiều hơn chứ (trong cùng một thể tích bình chứa bằng nhau). Điều thắc mắc này đúng với chất lỏng hay chất rắn, vì khi ở dạng lỏng hay rắn thì các phân tử tiếp xúc nhau, nên nếu phân tử kích thước lớn thì chiếm thể tích lớn, còn phân tử kích thước nhỏ thì chiếm thể tích nhỏ, nên nếu hai thể tích bình chứa bằng nhau, bình chứa phân tử kích thước nhỏ sẽ chứa số phân tử nhiều hơn so với số phân tử có kích thước lớn. Tuy nhiên khi ở dạng khí thì các các phân tử ở cách xa nhau, khoảng cách giữa hai phân tử rất lớn so với kích thước của phân tử. Trong cùng điều kiện về nhiệt độ và áp suất, coi như khoảng cách trung bình giữa các phân tử khí bằng nhau, không phụ thuộc vào kích thuớc lớn hay nhỏ của phân tử, nên trong cùng điều kiện về nhiệt độ và áp suất, các thể tích khí bằng nhau sẽ chứa số phân tử bằng nhau. Giống như khi để tiếp xúc nhau thì khoảng cách giữa hai trái banh tennis sẽ nhỏ, còn khoảng cách hai trái banh dùng trong bóng đá sẽ lớn. Nhưng nếu đặt hai quá banh tennis mỗi trái đặt ở một góc sân xa nhau, tương tự đặt hai trái banh bóng đá, mỗi trái đặt ở mỗi góc sân xa nhau (cùng một sân), thì coi như khoảng cách giữa hai trái banh tennis và khoảng cách giữa hai trái banh bóng đá là bằng nhau.

Trong cách nói của tiếng Việt thì khi nói “khí” hiểu là bình thường (điều kiện thường, 25ºC, 1 atm) chất này hiện diện ở dạng khí, còn khi nói “hơi” thì hiểu là bình thường chất này có thể không ở dạng khí mà ở dạng lỏng hay rắn. Thí dụ người ta nói khí hydrogen, khí cacbonic (không nói hơi hydrogen, hơi cacbonic, vì ở điều kiện thường, hydrogen, cacbonic hiện diện ở dạng khí) trong khi người ta nói hơi nước, hơi thủy ngân (không nói khí nước, khí thủy ngân, vì bình thường nước cũng như thủy ngân hiện diện chủ yếu ở dạng lỏng). Tuy nhiên khi nói hơi, hiểu là lấy dạng khí của nó.

Hệ quả của định luật Avogadro

Trong cùng điều kiện về nhiệt độ và áp suất, 1 mol bất kỳ khí hay hơi nào củng đều chiếm thể tích bằng nhau. Đặc biệt ở điều kiện tiêu chuẩn (0ºC, 1atm) 1 mol bất kỳ khí, hơi hay hỗn hợp khí hơi nào cũng đều chiếm thể tích bằng nhau, bằng 22,4 lít hay 22 400 mL hay 22 400 cm3.

Thí dụ:

 Ở 27,3ºC; 1atm, thì 1 mol khí CH4 chiếm thể tích 24,64 lít.

 Ở 27,3ºC; 1atm, thì 1 mol khí H2 chiếm thể tích 24,64 lít.

Ở 27,3ºC; 1atm, thì 1 mol hơi nước (H2O) chiếm thể tích 24,64 lít

Ở điều kiện tiêu chuẩn (0ºC, 1atm), 1 mol khí CH4, 1 mol khí H2, 1 mol hơi nước đều chiếm thể tích bằng nhau, đều bằng 22, 4 lít

Tìm hiểu thêm Định luật Avogadro (chỉ áp dụng cho chất khí hay hơi)

Advertisement

Các Định Luật Chất Khí (Phần 2)

Chúng tôi trích giới thiệu với các bạn một số bản dịch từ tác phẩm Những câu hỏi và bài tập vật lí phổ thông của hai tác giả người Nga L. Tarasov và A. Tarasova, sách xuất bản ở Nga năm 1968. Bản dịch lại từ bản tiếng Anh xuất bản năm 1973.

§20. Các định luật chất khí (Phần 2)

GV: Trong trường hợp đó, chúng ta hãy tiếp tục nào. Xét ví dụ sau đây. Một chất khí giãn nở sao cho áp suất và thể tích của nó thỏa mãn điều kiện

Chúng ta xác định xem chất khí nóng lên hay lạnh đi trong một sự giãn nở như thế.

HS A: Tại sao nhiệt độ của chất khí đó phải thay đổi?

GV: Nếu nhiệt độ là không đổi, thì điều đó có nghĩa là chất khí giãn nở theo định luật Boyle và Mariotte [phương trình (107)]. Trong một quá trình đẳng nhiệt, p (1/ V), còn trong trường hợp của chúng ta sự phụ thuộc của p vào V theo một bản chất khác: p ˜ (1/ V2).

HS A: Có lẽ em nên thử vẽ đồ thị biểu diễn những liên hệ này? Các đường cong sẽ có dạng như ở Hình 76.

GV: Đó là một ý hay. Vậy những đường cong đó cho thấy gì nào?

HS A: Giờ thì có vẻ như em đã hiểu. Ta có thể thấy rằng lần theo đường cong p (1/ V2) về phía thể tích tăng, thì chất khí sẽ từ từ cắt qua các đường đẳng nhiệt càng gần gốc tọa độ hơn, tức là những đường đẳng nhiệt tương ứng với nhiệt độ giảm dần. Điều này có nghĩa là trong quá trình giãn nở này chất khí lạnh đi.

GV: Khá chính xác. Tôi sẽ chỉ nhắc lại phần trả lời của em. Tốt hơn là nên nói một quá trình giãn nở chất khí như vậy sẽ chỉ làm cho chất khí lạnh đi.

HS B: Ta có thể đi tới kết luận giống như vậy bằng phương pháp giải tích hay không?

GV: Tất nhiên. Ta hãy xét hai trạng thái của chất khí: và . Tiếp theo ta sẽ viết phương trình định luật chất khí kết hợp [xem phương trình (104)] cho mỗi trạng thái này:

Theo phương trình này, rõ ràng là nếu, ví dụ, thể tích chất khí tăng lên gấp đôi thì nhiệt độ của nó (theo thang nhiệt độ tuyệt đối) giảm đi một nửa.

HS A: Phải chăng như vậy có nghĩa là cho dù quá trình nào, các thông số chất khí ( p, V và T) sẽ liên hệ với nhau trong mỗi trường hợp theo định luật chất khí kết hợp?

GV: Chính xác. Định luật chất khí kết hợp xác lập một mối liên hệ giữa các thông số chất khí bất chấp quá trình được xét tới.

Bây giờ chúng ta hãy xét bản chất của sự trao đổi năng lượng giữa một chất khí và môi trường của nó trong những quá trình khác nhau. Giả sử chất khí đó đang giãn nở. Nó sẽ tác dụng lực lên mọi vật kìm hãm thể tích của nó (ví dụ như cái piston trong một xilanh). Hệ quả là chất khí thực hiện công lên những vật này. Công này chẳng khó tính đối với sự giãn nở đẳng áp của chất khí. Giả sử chất khí giãn nở đẳng áp và đẩy một piston tiết diện S dịch một đoạn Δl (Hình 77). Áp suất do chất khí tác dụng lên piston là p. Tìm lượng công do chất khí thực hiện làm dịch chuyển piston:

Trong đó và là thể tích ban đầu và thể tích lúc sau của chất khí. Công do chất khí thực hiện trong quá trình phi đẳng áp thì khó tính hơn bởi vì áp suất biến thiên trong quá trình chất khí giãn nở. Trong trường hợp tổng quát, công thực hiện bởi chất khí khi thể tích của nó tăng từ đến bằng diện tích nằm dưới đường cong p(V) giữa tọa độ và . Công thực hiện bởi chất khí trong quá trình giãn nở đẳng áp và đẳng nhiệt từ thể tích V 1 đến thể tích V 2 được biểu diễn tương ứng trên Hình 78 bởi toàn bộ phần diện tích gạch chéo và phần gạch ca rô. Trạng thái cuối là như nhau trong cả hai trường hợp.

Như vậy, khi giãn nở, chất khí thực hiện công lên những vật xung quanh, làm tiêu hao một phần nội năng của nó. Công thực hiện bởi chất khí phụ thuộc vào bản chất của quá trình giãn nở. Cũng nên lưu ý rằng, nếu chất khí bị nén thì có công thực hiện trên chất khí và, do đó, nội năng của nó tăng.

Tuy nhiên, sự xuất hiện của công không phải là phương pháp duy nhất trao đổi năng lượng giữa một chất khí và môi trường. Ví dụ, trong giãn nở đẳng nhiệt, một chất khí thực hiện một công A nhất định và, do đó, tiêu hao một phần năng lượng bằng với công A. Tuy nhiên, mặt khác, theo các nguyên lí đã nêu ở §18 [xem phương trình (98)], một nhiệt độ không đổi của một chất khí trong quá trình đẳng nhiệt nghĩa là nội năng U của nó không đổi (tôi nhắc lại với các em rằng U được xác định bởi chuyển động nhiệt của các phân tử và năng lượng trung bình của các phân tử tỉ lệ với nhiệt độ T). Câu hỏi đặt ra là: loại năng lượng nào dùng để thực hiện công trong trường hợp đã cho?

HS B: Rõ ràng là nhiệt từ bên ngoài truyền cho chất khí.

GV: Đúng. Bằng cách này, chúng ta đi tới kết luận rằng một chất khí trao đổi năng lượng với môi trường thông qua ít nhất hai kênh: bằng cách thực hiện công đi kèm với sự biến thiên thể tích của chất khí, và bằng cách truyền nhiệt.

Sự cân bằng năng lượng có thể được biểu diễn dưới dạng sau:

ΔU = Q – A (113)

Trong đó ΔU là độ tăng nội năng của chất khí được đặc trưng bởi độ tăng nhiệt độ của nó, Q là nhiệt từ môi trường xung quanh truyền cho chất khí, và A là công do chất khí thực hiện lên những vật xung quanh. Phương trình (113) được gọi là định luật thứ nhất của nhiệt động lực học. Lưu ý rằng nó có tính vạn vật và có khả năng áp dụng không chỉ cho các chất khí, mà còn cho bất kì vật nào khác.

HS B: Nói tóm lại, chúng ta có thể kết luận rằng, trong sự giãn nở đẳng nhiệt, toàn bộ nhiệt truyền cho chất khí tức thời biến đổi thành công do chất khí thực hiện. Như vậy, các quá trình đẳng nhiệt không thể xảy ra trong một hệ cô lập nhiệt.

GV: Khá chính xác. Bây giờ hãy xét sự giãn nở đẳng áp của chất khí từ quan điểm năng lượng.

HS B: Chất khí giãn ra. Điều đó có nghĩa là nó thực hiện công. Ở đây, như có thể thấy từ phương trình (106), nhiệt độ của chất khí tăng lên, tức là nội năng của nó tăng lên. Như vậy, trong trường hợp này, một lượng nhiệt tương đối lớn phải được truyền cho chất khí: một phần nhiệt này được dùng để làm tăng nội năng của chất khí và phần còn lại biến đổi thành công thực hiện bởi chất khí.

GV: Rất tốt. Xét thêm một ví dụ nữa. Một chất khí được nung nóng sao cho nhiệt độ của nó tăng thêm T. Quá trình này được thực hiện hai lần: một lần thể tích không đổi và lần sau áp suất không đổi. Hỏi chúng ta có tiêu hao lượng nhiệt như nhau để làm nóng chất khí trong cả hai trường hợp hay không?

HS A: Em nghĩ là như nhau.

HS B: Theo em lượng nhiệt tiêu hao là khác nhau. Ở thể tích không đổi, không có công nào được thực hiện, và toàn bộ nhiệt tiêu hao để làm tăng nội năng của chất khí, tức là làm tăng nhiệt độ của nó. Trong trường hợp này

Ở áp suất không đổi, sự nóng lên của chất khí luôn đi kèm với sự giãn nở của nó, cho nên lượng công thực hiện là A = p(). Nhiệt cung cấp Q 2 một phần dùng để làm tăng nội năng của chất khí (tăng nhiệt độ của nó) và một phần để thực hiện công này. Như vậy

GV: Tôi đồng ý với em B. Thế các em gọi lượng nhiệt cần thiết dùng để làm tăng nhiệt độ của một vật lên thêm một độ là gì?

HS B: Nhiệt dung của vật.

GV: Ta có thể kết luận gì từ ví dụ vừa nêu khi xét nhiệt dung của một chất khí?

HS B: Một chất khí có hai nhiệt dung khác nhau: ở thể tích không đổi và ở áp suất không đổi. Nhiệt dung ở thể tích không đổi (hệ số C1 trong hai phương trình trên) nhỏ hơn nhiệt dung ở áp suất không đổi.

GV: Các em có thể biểu diễn nhiệt dung đẳng áp theo C1, tức là theo nhiệt dung đẳng tích hay không?

HS B: Để em thử xem. Ta kí hiệu nhiệt dung đẳng áp là . Theo định nghĩa nhiệt dung, ta có thể viết = / ΔT. Thay giá trị của Q 2 từ phương trình (115) vào ta được

GV: Em dừng lại quá sớm rồi. Nếu chúng ta áp dụng phương trình của định luật chất khí kết hợp, ta có thể viết

Sau khi thay vào phương trình (116) ta được

Khi xét một phân tử gram chất khí (m = µ), thì mối liên hệ này còn đơn giản hơn nữa:

Để kết luận, chúng ta hãy xét một chu trình nhất định gồm một đường đẳng nhiệt, một đường đẳng tích và một đường đẳng áp (xem Hình 79a trong đó các trục p và V được dùng làm các trục tọa độ). Hãy vẽ lại chu trình này (định tính) trong một hệ trục tọa độ với các trục tọa độ V và T, và phân tích bản chất của sự trao đổi năng lượng giữa chất khí và môi trường trong mỗi đoạn của chu trình.

HS B: Trong hệ trục với các trục V và T, chu trình sẽ có dạng như minh họa ở Hình 79b.

GV: Khá chính xác. Bây giờ hãy phân tích bản chất của sự trao đổi năng lượng giữa chất khí và môi trường trong mỗi đoạn riêng của chu trình.

HS B: Ở đoạn 1-2, chất khí giãn nở đẳng nhiệt. Nó nhận một lượng nhiệt từ bên ngoài và tiêu hao toàn bộ nhiệt lượng này để thực hiện công. Nội năng của chất khí không thay đổi.

Ở đoạn 2-3 của chu trình, chất khí được nung nóng đẳng tích (thể tích không đổi). Vì thể tích của nó không đổi nên không có công thực hiện. Nội năng của chất khí tăng lên chỉ do nhiệt từ bên ngoài truyền cho chất khí.

Ở đoạn 3-1, chất khí bị nén đẳng áp (áp suất không đổi) và nhiệt độ của nó giảm như có thể thấy ở Hình 79b. Có công thực hiện trên chất khí, nhưng nội năng của nó giảm. Điều này có nghĩa là chất khí truyền nhiệt mạnh cho môi trường.

GV: Lí giải của em hết sức chính xác.

Vui lòng ghi rõ “Nguồn chúng tôi khi đăng lại bài từ CTV của chúng tôi.

Thêm ý kiến của bạn

Hằng Số Avogadro, Câu Hỏi Và Bài Tập Áp Dụng

Số Avogadro là gì?

Ðịnh luật Avogadro dựa trên căn bản Hóa học nói lên sự liên hệ giữa khối lượng phân tử và tỉ trọng của khí.

Số Avogadro là số N phân tử chứa trong một mol. Con số này dùng để định nghĩa đơn vị đo số lượng vật chất là mol.

Số Avogadro bằng bao nhiêu?

Số Avogadro là số đơn vị trong một mol của bất kỳ chất nào (được định nghĩa là trọng lượng phân tử tính bằng gam), bằng 6,0221415 x 10 23.

Số Avogadro cho biết điều gì?

Về mặt lý thuyết, Số Avogadro cho biết số nguyên tử hay phân tử có trong 1 mol chất. Nói một cách nôm na, thật ra nó chính là một hằng số, giống như ta vẫn biết 1 tá trứng là 12 quả trứng vậy! Trong Hóa học, những “quả trứng” đó chính là những nguyên tử hay phân tử.

Dù có thể bạn không có cơ hội nhìn thấy tận mắt các nguyên tử, nhưng hãy giữ vững niềm tin về sự tồn tại của các hạt đó. Thí dụ đơn giản, bạn hãy mở chai nước hoa, bạn và vài người xung quanh sẽ ngửi được hương thơm dễ chịu đó dù bạn chưa xịt, chính các phân tử nước hoa đã lan tỏa đến mũi của bạn đấy!

Định luật khí Avogadro tuyên bố rằng trong cùng điều kiện nhiệt độ và áp suất, các thể tích khí khác nhau có chứa một số lượng phân tử bằng nhau. Mối quan hệ thực nghiệm này có thể được bắt nguồn từ lý thuyết động học của các chất khí theo giả định về một loại khí hoàn hảo (lý tưởng). Định luật này có giá trị gần đúng đối với các loại khí thực ở áp suất đủ thấp và nhiệt độ cao.

Định luật Avogadro đã đóng góp một lý thuyết quan trọng trong sự tiến bộ của Hóa học hiện đại, sự phát triển tiếp theo của thuyết phân tử Avogadro đã dẫn đến sự phát biểu rõ ràng về các khái niệm quan trọng bậc nhất của Hóa học hiện đại: nguyên tử, phân tử, khối lượng mol.

Câu hỏi bài tập ví dụ về số Avogadro

Câu 1: Biết số Avôgađrô NA = 6,02.10 23 hạt/mol và khối lượng của hạt nhân bằng số khối của nó. Số prôtôn có trong 0,27 gam Al là?

Hướng dẫn:

Chọn đáp án A

Câu 2:

Số Avogadro có giá trị bằng:

A. Số phân tử hơi nước có trong 22,4 lit hơi ở áp suất 1atm. B. Số nguyên tử heli chứa trong 22,4 lít khí ở điều kiện chuẩn. C. Số nguyên tử có trong 32g khí oxi. D. Số phân tử có trong 14g khí nito ở điểu kiện chuẩn.

Hướng dẫn:

Số Avogadro có giá trị bằng số nguyên tử heli chứa trong 22,4 lít khí ở điều kiện chuẩn.

Áp Dụng Pháp Luật Là Gì ? Khái Niệm Áp Dụng Pháp Luật ?

1. Khái niệm áp dụng pháp luật

Áp dụng pháp luật được tiến hành trong các trường hợp sau:

1) Khi xảy ra tranh chấp giữa các bên tham gia quan hệ pháp luật về quyền và nghĩa vụ mà tự họ không thể giải quyết được, phải nhờ cơ quan nhà nước (hoặc cơ quan của tổ chức xã hội) có thẩm quyền giải quyết;

2) Khi quyền và nghĩa vụ của các chủ thể không mặc nhiên phát sinh nếu thiếu sự can thiệp của Nhà nước;

3) Khi cần áp dụng chế tài pháp luật đối với chủ thể vi phạm pháp luật; 4) Khi nhà nước thấy cần kiểm tra, giám sát hoạt động của các chủ thể quan hệ pháp luật hoặc để xác định sự tồn tại hay không tồn tại của sự kiện thực tế có ý nghĩa pháp lí như xác nhận di chúc, xác nhận văn bằng, chứng chỉ, hợp đồng viết tay, chữ kí của người có thẩm quyền…

2. So sánh sự khác nhau giữa áp dụng pháp luật và sử dụng pháp luật:

Về khái niệm: Sử dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện quyền và tự do pháp lý của mình (thực hiện những hành vi mà pháp luật cho phép).

Ví dụ: Người lao động ký hợp đồng lao động với chủ sử dụng lao động.

Còn khái niệm áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước hoặc cán bộ, công chức có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể thực hiện những quy định của pháp luật, hoặc tự mình căn cứ vào những quy định của pháp luật để quyết định làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể.

Ví dụ: Tòa án nhân dân huyện A ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn giữa Ông X và Bà Y.

– Phân biệt sự khác nhau giữa hai khái niệm kể trên:

Mọi chủ thể được pháp luật cho phép

Phải có sự tham gia của cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền

Được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật

– Khi xảy ra tranh chấp về quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên tham gia vào quan hệ pháp luật mà các bên đó không tự giải quyết được. Ví dụ: tranh chấp về quyền thừa kế, tranh chấp về hợp đồng,…

– Khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà đối với những chủ thể có hành vi vi phạm. Ví dụ: xử phạt người vi phạm luật an toàn giao thông, người có hành vi làm hàng giả,…

– Trong một số quan hệ pháp luật mà nhà nước thấy cần thiết phải tham gia để kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên tham gia quan hệ đó hoặc nhà nước xác nhận tồn tại hay không tồn tại một số vụ việc, sự kiện thực tế. Ví dụ: công chứng hợp đồng mua bán nhà, toà tuyên bố một người mất tích, hủy bỏ quyết định tuyên bố một người đã chết,…

– Khi những quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể không mặc nhiên phát sinh hoặc chấm dứt nếu không có sự can thiệp của nhà nước. Ví dụ: đăng ký kết hôn

Chủ thể có quyền thực hiện hoặc không thực hiện, không mang tính chất bắt buộc

Các quy phạm pháp luật thể hiện quyền và tự do pháp lý của chủ thể

Văn bản áp dụng pháp luật

3. Phân tích sự khác biệt của khái niệm giải thích pháp luật và áp dụng pháp luật

Dựa trên những đặc điểm đã phân tích kể trên có thể đưa ra một số nhận định về khái niệm giải thích pháp luật như sau:

3.1. Khái niệm giải thích pháp luật

Pháp luật muốn được thực thi cần được nhận thức đầy đủ và chính xác. Do đó mục đích của giải thích pháp luật là làm sáng tỏ về mặt nội dung, quy trình thủ tục pháp lý để quá trình thực hiện pháp luật được thống nhất, đúng đắn và hợp pháp.hơn nữa do hệ thống các loại văn bản quy phạm pháp luật là rất nhiều nên khả năng thiếu thống nhất nhận thức về các quy định pháp luật là khó tránh khỏi.

3.2. Chủ thể giải thích pháp luật

Việc xác định chủ thể giải thích pháp luật phụ thuộc vào các hình thức giải thích pháp luật.

+ Với hình thức giải thích pháp luật chính thức: chỉ có cơ quan Nhà nước hoặc… có quyền hoặc được trao quyền mới được tiến hành hoạt động này. Về nguyên tắc, chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật đều có quyền giải thích văn bản do chính mình ban hành ra. Thực tế, có chủ thể ủy quyền cho người khác giải thích.

+ Với hình thức giải thích pháp luật không chính thức: bất kì chủ thể nào cũng có thể thực hiện nhưng phải có sự hiểu biết pháp luật sâu sắc và có trình độ nhất định.

3.3. Hình thức giải thích pháp luật

Phụ thuộc vào nhiều yếu tổ như chủ thể, nội dung và yêu cầu của từng vấn đề đặt ra dựa vào phương thức thể hiện: giải thích bằng lời nói(văn nói) và văn bản (văn viết) dựa vào chủ thể tiến hành và giá trị văn bản giải thích: chính thức và không chính thức.

3.1. Giải thích chính thức: là hoạt độg của các chủ thể nhân danh Nhà nước để làm sáng tỏ về nội dung, ý nghĩa của các quy phạm pháp luật hoặc một sự kiện pháp lý cụ thể nhằm đảo bảo cho quá trình nhận thức, thực thi pháp luật thống nhất và hiệu quả. Việc được pháp luật quy định và sự đảm bảo của Nhà nước làm cho loại giải thích này mang tính bắt buộc và hiệu lực pháp lý

+ Do các cơ quan Nhà nước hoặc…tiến hành. Về nguyên tắc (như trên) . Về hình thức, giải thích chính thức có thể là giải thích mang tính quy phạm hoặc tính cá biệt cụ thể.

– Tính quy phạm: hoạt động của cơ quan Nhà nước hoặc cá nhân được trao quyền là ban hành ra một văn bản luật nhằm hướng dẫn, giải thích cho một văn bản quy phạm pháp luật khác.

– Tính cá biệt: chúng tôi quyền là làm sáng tỏ một nội dung, sự kiện pháp lý nào đó thuộc thẩm quyền giải quyết của chủ thể đó.

+ Trình tự thủ tục giải thích chính thức do pháp luật quy định. Đây là hoạt động nhân danh Nhà nước, có tính pháp lý.

+ Kết quả việc giải thích có hiệu lực và giá trị pháp lý.

3.2. Giải thích không chính thức: là hoạt động không nhân danh Nhà nước, được tiến hành bởi bất kì cá nhân, tổ chức nào và vì những mục đích khác nhau. Đặc điểm cơ bản:

+ Được tiến hành bởi bất kì loại chủ thể nào è thực hiện một phần quyền tự do ngôn luận của các chủ thể được pháp luật ghi nhận và đảm bảo. Về ND, không mang tính quy phạm. Trên thực tế, không có sự đồng nhất giữa các chủ thể.

+ Hoàn toàn không nhân danh Nhà nước: không mag tính bắt buộc, không hàm chứa quyền lực Nhà nước.

+ Hoạt động này và kết quả của nó hoàn toàn không có hiệu lực pháp lý bắt buộc.

3.4. Phương pháp giải thích pháp luật

– Phương pháp lôgíc: đặc trưng là xem xét mối liên hệ, sự tương tác, kết cấu về nội dung của các vấn đề thuộc đối tượng giải thích, nhằm chỉ ra những mâu thuẫn, sự phủ định lẫn nhau hoặc khẳng định về tính hợp lý về các vấn đề đó.

– Phương pháp giải thích chính trị lịch sử: nhằm làm sáng tỏ điều kiện, hoàn cảnh lịch sử thực tế mà các quy phạm pháp luật, văn bản quy phạm pháp luật được ban hành hoặc một sự kiện pháp lý đã xuất hiện.

– Phương pháp giải thích ngôn ngữ, văn phạm: để giải thích về các quy phạm pháp luật, văn bản quy phạm pháp luật.

– Phương pháp giải thích, so sánh, đối chiếu: nhằm kiến giải về mức độ tương đồng, khác biệt đối với quy định pháp luật hoặc các cách điều chỉnh, giải quyết các vấn đề pháp lý thực tiễn giữa các hệ thống pháp luật khác nhau.

– Phương pháp giải thích hệ thống: làm sáng tỏ nội dung, nhiệm vụ của quy phạm đó trong mối tương quan với quy phạm khác của quá trình điều chỉnh pháp luật.

3.5. Nguyên tắc của giải thích pháp luật

Nguyên tắc khách quan trung thực: giải thích pháp luật không là hoạt động lập pháp mà nó hỗ trợ cho quá trình lập pháp để các văn bản quy phạm pháp luật được có hiệu lực trên thực tế. Việc giải thích phải xuất phát từ yêu cầu chung; cần tôn trọng nội dung của các quy phạm pháp luật hoặc các sự kiện cá biệt với tính cách là đối tượng cần giải thích.

Nguyên tắc pháp chế: tôn trọng tính tối cao của hiến pháp về mặt nội dung, hình thức đối với các văn bản quy phạm pháp luật được giải thích và các văn bản giải thích. Cần đảm bảo sự tương thích giữa quy định của hiến pháp với văn bản được giải thích và văn bản giải thích. Điều này đòi hỏi việc đảm bảo đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục và yêu cầu về hình thức là hết sức quan trọng đòi hỏi cả việc từ chối không giải thích khi có yêu cầu cũng phải đưa ra cơ sở pháp lý của việc từ chối đó và trả lời cụ thể bằng văn bản.

4. Phân tích việc áp dụng pháp luật đối với bộ luật dân sự

Với tính chất là một đạo luật quan trọng, Bộ luật dân sự năm 2015 đã xác định một cách nhất quán tư tưởng chỉ đạo của các nguyên tắc cơ bản được quy định tại Điều 3 và khẳng định: “Bộ luật này là luật chung điều chỉnh các quan hệ dân sự”. Với nguyên tắc này, BLDS sẽ điều chỉnh toàn bộ các quan hệ tài sản giữa các chủ thể trong xã hội mang tính chất hàng hóa – tiền tệ và các quan hệ nhân thân phi vật chất, trong đó các chủ thể tham gia bình đẳng về mặt pháp lý, tự chịu trách nhiệm về tài sản[6]. Hay nói cách khác, BLDS sẽ điều chỉnh tất cả những vấn đề thuộc “pháp luật dân sự”, tức là những ứng xử, quan hệ được điều chỉnh bởi luật khác nhưng thuộc trong lĩnh vực “pháp luật dân sự”[7].

Đối với các quan hệ có cùng bản chất pháp lý, luật chuyên ngành có thể khác với BLDS do đặc thù của quan hệ chuyên ngành nhưng không được trái với các nguyên tắc chung của luật dân sự. Một số quy định của BLDS như quy định về tư cách pháp nhân, về sở hữu chung hợp nhất, sở hữu chung theo phần, những quy định mang tính xác định một khái niệm pháp lý… có ý nghĩa, giá trị pháp lý chung cho toàn bộ hệ thống pháp luật. Không thể có pháp nhân riêng cho luật dân sự, riêng cho luật thương mại, luật hợp tác xã, mặc dù các loại hình công ty và hợp tác xã có quy chế riêng về việc thành lập, hoạt động, giải thể. Đối với một tài sản nào đó, nếu chủ sở hữu trực tiếp chiếm hữu, sử dụng thì sẽ phải tuân theo quy định của chế định tài sản vật quyền. Tuy nhiên, nếu tài sản đó đưa vào quá trình giao lưu dân sự, kinh tế thông qua hợp đồng vay, cho thuê, đầu tư kinh doanh như lập công ty… thì phải áp dụng theo các quy định của các loại hợp đồng, giao dịch tương ứng, theo quy chế trái quyền. Việc điều chỉnh các quan hệ dân sự trong các lĩnh vực cụ thể phải tuân thủ nguyên tắc không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự được quy định tại Điều 3 của BLDS.

5. Phân tích một số sai sót trong áp dụng pháp luật hành chính

Một số sai sót thường gặp khi áp dụng pháp luật nội dung trong việc giải quyết án hành chính:

Áp dụng pháp luật nội dung trong quá trình giải quyết vụ án hành chính là một quá trình phức tạp của Tòa án (mà cụ thể là của Hội đồng xét xử). Để có thể có được bản án hành chính đúng pháp luật, khách quan, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự trong vụ án thì quá trình áp dụng pháp luật nội dung vào giải quyết vụ án hành chính cần tuân thủ triệt để và chính xác theo các bước (giai đoạn) sau:

– Phân tích, đánh giá các tình tiết, các tài liệu, chứng cứ của vụ án một cách toàn diện, khách quan, chính xác và trong mối liên hệ mật thiết với nhau;

– Lựa chọn quy phạm pháp luật nội dung phù hợp và phân tích làm rõ nội dung, ý nghĩa của quy phạm pháp luật đối với trường hợp cần áp dụng;

– Ban hành bản án, quyết định hành chính.

Thực tế xét xử thời gian qua cho thấy, có những vụ án hành chính do Thẩm phán xem xét, đánh giá chứng cứ không đầy đủ, khách quan, toàn diện nên có trường hợp có căn cứ pháp lý ban hành quyết định hành chính nhưng Tòa án đánh giá không có căn cứ pháp lý; ngược lại có trường hợp không có hoặc chưa có đủ căn cứ pháp lý ban hành quyết định hành chính nhưng Tòa án lại đánh giá có đủ căn cứ pháp lý.

– Ví dụ 1 (về trường hợp có căn cứ pháp lý ban hành quyết định hành chính nhưng Tòa án đánh giá không có căn cứ pháp lý):

Thửa đất số 77, tờ bản đồ số 8 (theo Nghị định số 64/NĐ-CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ), có diện tích 1.225m2 tại xã DN, huyện DX, tỉnh QN (theo Chỉ thị 299/TTg ngày 10/11/1980 của Thủ tướng Chính phủ là thửa số 455, tờ bản đồ số 6) là đất thổ cư có nguồn gốc của gia đình ông Phạm Ngọc H quản lý, sử dụng từ trước năm 1975. Cuối năm 1986, gia đình ông H chuyển sang thị xã HA sinh sống, nhưng vẫn thường xuyên về chăm sóc cây và trồng mới một số loại cây trên thửa đất này.

Bà Phạm Thị T là chủ hộ và cùng con là ông Phạm Văn B có nhà ở ổn định từ năm 1975 đến nay tại thửa đất số 84, tờ bản đồ số 8, xã DN có diện tích 1.515m2 đất thổ cư (theo Nghị định 64/NĐ-CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ). Thời điểm thực hiện kê khai, đăng ký ruộng đất theo Chỉ thị 299/TTg ngày 10/11/1980 của Thủ tướng Chính phủ, thửa đất số 84 này của gia đình bà T là thửa đất số 456, tờ bản đồ số 6, xã DN. Năm 1994-1995, thực hiện Nghị định 64/CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ, bà T kê khai diện tích 1.225m2 đất T thuộc thửa 77, tờ bản đồ số 8, xã DN (nguyên là thửa đất của gia đình ông H sử dụng nêu trên), còn ông Phạm Văn B (con trai bà T và cùng chung hộ khẩu với bà T) kê khai và đăng ký quyền sử dụng thửa đất số 84, tờ bản đồ số 8, diện tích 1.515m2 đất thổ cư (thửa đất của bà T nêu trên). Ngày 10/8/1995, Ủy ban nhân dân huyện DX cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số G695365 cho hộ bà T diện tích 1.617m2 đất, trong đó có 1.225m2 đất T thuộc thửa 77, tờ bản đồ số 8 và 392m2 đất lúa màu thuộc thửa 83, tờ bản đồ số 8, xã DN.

Ngày 26/12/2006, Ủy ban nhân dân huyện DX ban hành Quyết định số 1827/QĐ-UBND thu hồi của hộ bà T 1.225m2 đất ở thuộc thửa 77, tờ bản đồ số 8. Lý do thu hồi: Do giao quyền sử dụng đất sai đối tượng sử dụng tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số G695365 ngày 10/8/1995. Cùng ngày, Ủy ban nhân dân huyện DX ban hành Quyết định số 1828/QĐ-UBND công nhận quyền sử dụng 1.225m2 đất trên cho ông H và ngày 03/01/2007, Ủy ban nhân dân huyện DX cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 977327 cho hộ ông H.

Ngày 19/5/2008, bà Phạm Thị T có đơn khiếu nại.

Ngày 16/12/2008, Ủy ban nhân dân huyện DX ban hành Quyết định số 2372/QĐ-UBND về việc hủy Quyết định số 1827/QĐ-UBND ngày 26/12/2006, điều chỉnh cho hộ bà T được sử dụng thửa số 77, tờ bản đồ số 8, xã DN.

Ngày 16/01/2009, ông H khiếu nại việc Ủy ban nhân dân huyện DX cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 1.225m2 cho hộ bà T.

Ngày 13/10/2009, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện DX ban hành Quyết định số 2233/QĐ-UBND về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông H, có nội dung: việc cấp 1.225m2 đất cho hộ bà T là không đúng đối tượng, không đúng nguồn gốc; việc công nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông H là chưa có đủ cơ sở.

Ngày 10/11/2009, ông Phạm Ngọc H có đơn đề nghị Ủy ban nhân dân huyện DX xem xét lại Quyết định số 2233/QĐ-UBND ngày 13/10/2009 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện DX.

Ngày 01/12/2009, Uỷ ban nhân dân huyện DX ban hành Quyết định số 2936/QĐ-UBND về việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số G695365 ngày 10/8/1995 của hộ bà T vì cấp không đúng đối tượng đối với diện tích 1.225m2; giao diện tích đất nêu trên cho Uỷ ban nhân dân xã DN quản lý, sử dụng.

Ông B (con trai bà T) có đơn khiếu nại, sau đó khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện DX yêu cầu xử hủy Quyết định số 2936/QĐ-UBND ngày 01/12/2009 của Uỷ ban nhân dân huyện DX.

Ngày 04/6/2010, Uỷ ban nhân dân huyện DX ban hành Quyết định số 1123/QĐ-UBND về việc điều chỉnh Quyết định số 2936/QĐ-UBND, có nội dung: hủy bỏ điểm 2 Điều 1 quyết định số 2936/QĐ-UBND (có nội dung “giao diện tích đất nêu trên cho UBND xã DN quản lý, sử dụng theo đúng quy định của pháp luật”) vì Uỷ ban nhân dân huyện DX chưa thu hồi diện tích 1.225m2 nên việc giao diện tích đất nêu trên cho Uỷ ban nhân dân xã DN quản lý, sử dụng là không đúng trình tự quy định của pháp luật; các nội dung khác của quyết định 2936/QĐ-UBND vẫn có hiệu lực pháp luật.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm, Toà án nhân dân huyện DX, tỉnh QN quyết định: Bác yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn B.

Ông Phạm Văn B có đơn kháng cáo.

Tại Bản án hành chính phúc thẩm, Toà án nhân dân tỉnh QN quyết định: Chấp nhận kháng cáo của ông Phạm Văn B, xử sửa bản án sơ thẩm, hủy Quyết định số 2936/QĐ-UBND ngày 01/12/2009 của UBND huyện DX.

Tòa án cấp phúc thẩm hủy Quyết định số 2936/QĐ-UBND ngày 01/12/2009 của UBND huyện DX vì đã xem xét, đánh giá chứng cứ không đúng về nguồn gốc và quá trình sử dụng đất của các đương sự, cụ thể:

Về nguồn gốc và quá trình sử dụng diện tích 1.225m2 đất thửa số 77, tờ bản đồ số 8, xã DN, huyện DX, tỉnh QN: ông B và ông H đều có lời khai thống nhất là đất có nguồn gốc của cha mẹ ông H quản lý, sử dụng từ trước năm 1975, sau đó gia đình ông H tiếp tục sử dụng. Đến năm 1986, do hoàn cảnh công tác phải chuyển về thị xã HA nên ông H đã nhờ bà T trông coi hộ (có sự chứng kiến của nhiều người). Tại ”Đơn xin chuyển giao quyền sử dụng đất” do bà T lập ngày 22/10/2006, bà T cũng thừa nhận bà chỉ là người trông coi, quản lý và đứng tên đăng ký thửa đất hộ cho vợ chồng ông H, đồng thời bà T cũng cam kết không tranh chấp gì về thửa đất này.

Mặt khác, các tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng thể hiện rằng trong thời gian đi vắng, gia đình ông H vẫn thường xuyên về chăm sóc, khai thác và trồng cây, hiện trên đất vẫn còn cây lâu năm do gia đình ông H trồng. Như vậy, gia đình ông H là người sử dụng thửa đất số 77, tờ bản đồ số 8, xã DN, huyện DX liên tục, ổn định từ năm 1975 đến nay. Tuy nhiên, tại thời điểm Nhà nước có chủ trương tiến hành kê khai đăng ký quyền sử dụng đất, do ở xa và không được thông báo nên hộ ông H đã không tiến hành kê khai diện tích đất nêu trên mà hộ bà T kê khai và được Uỷ ban nhân dân huyện DX cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 10/8/1995.

Theo quy định tại Điều 99 và Điều 101 Luật Đất đai năm 2013 quy định người sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận thì được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất’.

Theo quy định nêu trên thì gia đình bà T không phải là người sử dụng thửa đất số 77, tờ bản đồ số 8, xã DN, huyện DX liên tục, ổn định tại thời điểm được xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1995. Do vậy, trong quá trình quản lý kê khai, đăng ký sử dụng đất, Uỷ ban nhân dân xã DN xác nhận bà T là đối tượng đang sử dụng đất để Uỷ ban nhân dân huyện DX cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng diện tích 1.225m2 đất thửa số 77, tờ bản đồ số 8, xã DN, huyện DX, là không đúng nguồn gốc và đối tượng sử dụng đất. Tại Báo cáo số 52/BC-UBND ngày 16/6/2009 gửi Uỷ ban nhân dân huyện DX, Uỷ ban nhân dân xã DN đã xác nhận điều này. Do đó, Uỷ ban nhân dân huyện DX đã ban hành Quyết định số 2936/QĐ-UBND ngày 01/12/2009 (được sửa đổi bằng Quyết định số 1123/QĐ-UBND ngày 04/6/2010) có nội dung thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho hộ bà T là đúng pháp luật.

Thực tiễn giải quyết vụ án hành chính cho thấy, bản án của Tòa án không đúng pháp luật nội dung có thể xuất phát từ việc áp dụng sai lầm pháp luật, có thể do việc không chú ý tới văn bản hướng dẫn thi hành của cơ quan có thẩm quyền; hoặc có thể do cách hiểu máy móc, không đúng của Thẩm phán đối với các văn bản pháp luật nội dung.

– Việc không xác định đầy đủ và chính xác các văn bản pháp luật hoặc văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất làm cơ sở giải quyết vụ án hành chính là nguyên nhân dẫn đến việc áp dụng sai lầm pháp luật khi giải quyết vụ án hành chính.

Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, nhiều Thẩm phán không chú ý trong việc xem xét tính hợp pháp của quyết định hành chính bị khiếu kiện; khi tuyên án và ra bản án có nhiều sai sót trong phần quyết định của bản án mà trong nhiều trường hợp phải kháng nghị và giải quyết lại vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm.

Ví dụ: Do có sự tranh chấp quyền sử dụng đất, Uỷ ban nhân dân huyện T đã ra Quyết định số 758/QĐ-UB thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông P, H, N. Ông P và ông N có đơn khiếu nại quyết định trên. Uỷ ban nhân dân huyện T đã có các quyết định giải khiếu nại của ông P và ông N.

Ông P và ông N đều có đơn khởi kiện vụ án hành chính, yêu cầu Toà án huỷ với Quyết định số 758/QĐ-UB.

Toà án cấp sơ thẩm đã thụ lý 02 vụ án hành chính đối với đơn khởi kiện của ông P và ông N.

Đối với trường hợp khởi kiện của ông P: Tại bản án hành chính sơ thẩm số 07, Toà án cấp sơ thẩm quyết định bác đơn khởi kiện; giữ nguyên Quyết định số 758/QĐ-UB của Uỷ ban nhân dân huyện T.

Đối với trường hợp khởi kiện của ông N: tại bản án hành chính sơ thẩm số 08, Toà án cấp sơ thẩm quyết định bác đơn khởi kiện; giữ nguyên Quyết định số 758/QĐ-UB của Uỷ ban nhân dân huyện T.

Tuy nhiên, sau khi ông H khiếu nại, Uỷ ban nhân dân huyện T thấy rằng việc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông H là không đúng pháp luật, nên muốn hủy bỏ một phần của Quyết định số 758/QĐ-UB; nhưng do các bản án hành chính sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật, nên Uỷ ban nhân dân huyện T phải khiếu nại theo thủ tục giám đốc thẩm.

Mọi vướng mắc pháp lý của người dân, tổ chức, doanh nghiệp vui lòng trao đổi trực tiếp với luật sư của qua tổng đài tư vấn: 1900.6162 để được luật sư giải đáp mọi vướng mắc pháp lý.

Trân trọng./.

Các câu hỏi thường gặp

Bạn đang xem bài viết Định Luật Avogadro (Chỉ Áp Dụng Cho Chất Khí Hay Hơi) trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!