Cập nhật thông tin chi tiết về Giáo Dục: Tích “Sạn” Thành Sỏi Và Chuyện … “Ngáo Chữ” mới nhất trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Kể từ sau ngày thống nhất đất nước, mỗi chu kỳ đổi mới giáo dục diễn ra trong vòng 20 năm. Từ năm 1980 đến nay đã trải qua 2 chu kỳ kéo dài 40 năm.
40 năm là khoảng thời gian đủ dài để rút ra kết luận thành bại của đổi mới giáo dục.
Lớp người chịu tác động trực tiếp của kỳ đổi mới giáo dục năm 1980, tính từ trẻ em học lớp 1 (6-7 tuổi) giờ đây ở độ tuổi khoảng 45-50 và đó chính là lớp người đang nắm giữ nhiều vị trí chủ chốt trong hệ thống, lãnh đạo mọi mặt hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng,…, hoạch định chính sách đối nội, đối ngoại quốc gia.
Chuyện mấy chục năm trước người ta học tiếng Việt thế nào bây giờ khó có thể nói rõ, tuy nhiên việc lớp người của 40 năm trước vận dụng tiếng Việt đã được học vào hoạt động tại các cơ quan công quyền thì không khó đánh giá.
Gần đây xuất hiện một số ý kiến xoay quanh ba cụm từ: “Chơi chữ”, “Ngộ chữ” và “Ngáo chữ”.
“Chơi chữ” thể hiện sự uyên thâm của người chơi với chữ viết, các phim cổ trang bên Tàu giới thiệu nhà của các bậc vương giả trên tường toàn tranh chữ.
Ngày tết, không ít người Việt xin chữ Nhẫn, chữ Phúc, chữ Học,… về dán trên tường. Có người cầu kỳ mua chữ nho vàng chóe, đóng khung bán trong các cửa hàng, có người mua chữ “Học” (学) treo trên tường nhưng bảo viết lại trên giấy thì không viết được.
Với những người ấy, không biết họ đang “chơi chữ” hay “ngộ chữ”?
Có lẽ cần phải giải thích, rằng đây không phải chữ “ngộ” trong cụm từ “giác ngộ” mà trong “ngồ ngộ” hoặc “ngộ độc”.
“Ngồ ngộ” ít thì người ta thương, người ta cười, ngồ ngộ quá thì người ta bảo dở hơi, người ta ghét, còn “ngộ độc chữ” có khi lại bị mắng vì không biết thì đừng dại mà nuốt vào rồi lại … “khẩu thải” khiến người nghe nhiễm lây.
Về chuyện “chơi chữ” (hay là ngộ chữ?) xin dẫn “Dự thảo Luật Giao thông đường bộ sửa đổi” (Dự thảo):
“Đường giao thông nông thôn là đường huyện, đường xã, đường thôn xóm;
Đường địa phương là đường tỉnh, đường đô thị, đường huyện, đường xã, đường thôn xóm;…”.
Ngoài ra còn định nghĩa về “Đường cao tốc”, “Đường chính”, “Đường nhánh”, “Đường phố”, “Đường ưu tiên”,…
Từ xưa đến nay, người Việt đã quen với khái niệm “Quốc lộ”, chẳng hạn Quốc lộ 1A, Quốc lộ 5,… nhưng tìm trong Dự thảo không thấy định nghĩa Quốc lộ trong khi có “đường tỉnh, đường huyện, đường xã,…”.
Vì sao luật đưa vào khái niệm “đường tỉnh, đường đô thị, đường huyện,…” nhưng lại ngại không nêu khái niệm “Đường nước”, “Đường quốc gia” hay “Đường tổ quốc”?
Không dùng tiếng Tàu “quốc lộ” mà dùng tiếng thuần việt “Đường nước” thì dễ bị hiểu lầm là đường ống cấp nước sinh hoạt tại đô thị, còn dùng “đường quốc gia, đường tổ quốc” thì rườm rà quá nên tốt nhất là bỏ quách đi, ai muốn gọi thế nào thì gọi?
Thế còn vì sao và dựa vào tiêu chí nào mà “đường huyện, đường xã, đường thôn xóm” lúc là “Đường giao thông nông thôn”, lúc lại là “Đường địa phương”?
Liệu “địa phương” có bao gồm cả “nông thôn” hay đã nói đến “nông thôn” tức là cái gì đó “dị dạng” không thể “chung mâm” với địa phương, phải tách riêng ra để “địa phương” đỡ xấu hổ?
Cách dự thảo từ trong luật như vậy liệu mới chỉ “ngồ ngộ” hay thực sự là “ngộ”?
Giả sử các nhà làm luật kiên quyết bỏ đi khái niệm “Đường giao thông nông thôn” liệu bà con nông dân có bất bình giống như dân chúng Sóc Sơn – Hà Nội chặn đường không cho xe chở rác vào bãi rác Nam Sơn bởi một khi đã là đường nông thôn, không phải đường địa phương thì huyện, tỉnh/thành phố làm gì có quyền can thiệp, đường ta, ta cứ chặn!!!
“Ngáo” trong từ “ngáo ộp” thường được người lớn dùng để dọa trẻ con khóc nhè, cũng được sử dụng trong nhiều bài viết của các tờ báo nổi tiếng, chẳng hạn “B52 – con ngáo ộp của Hoa Kỳ”; “Nga lại viện trợ Venezuela: Ai đang là ngáo ộp?” [1] hay “Mỹ vẫn là “con ngáo ộp” đối với Trung Quốc?”. [2]
“Ngáo đá” là nói về những kẻ nghiện ngập không còn ý thức được hành vi của mình, chúng thường có hành động gây nguy hiểm cho bản thân, gia đình và cộng đồng.
Ngày nay, hình như có chuyện người ta tìm cách phù phép biến chữ viết thành thứ để dọa người dân, thậm chí còn dọa cả nhà sản xuất, người tiêu dùng, người kinh doanh,…
Nói tóm lại là dọa cả xã hội.
Trường hợp này có lẽ không khác “định nghĩa” ngáo đá nêu phía trên nhưng có gọi là “ngáo chữ” hay không thì người viết tuyệt đối không dám khẳng định.
“61. Xe chở người bốn bánh có gắn động cơ là phương tiện có hai trục, ít nhất bốn bánh xe chạy bằng động cơ được thiết kế, chế tạo để hoạt động trên đường bộ trong phạm vi hạn chế, có kết cấu để chở người, vận tốc thiết kế lớn nhất không lớn hơn 30 km/h, số chỗ ngồi tối đa không quá 15 chỗ (kể cả chỗ ngồi của người lái)”.
Chỉ mấy dòng chữ thế thôi nhưng nếu được phê duyệt thì chắc chắn cả bốn biển năm châu đều phải “dựng tóc gáy” vì lo sợ, tại sao?
Trước hết, “Xe chở người bốn bánh có gắn động cơ là phương tiện có hai trục, ít nhất bốn bánh xe…”.
Nếu có ai đó căn cứ vào tiêu chí “ít nhất bốn bánh xe” độ thêm vài bánh xe nữa thì chiếc xe đó vẫn gọi là “Xe chở người bốn bánh” hay phải sửa luật?
Tiếp theo, các doanh nghiệp kinh doanh vận tải hành khách như các chủ xe Ford Transit hoán cải thành kiểu xe Limousine 9 chỗ, muốn được coi là “Xe chở người bốn bánh có gắn động cơ” để kinh doanh thì bắt buộc phải thay đổi động cơ và hộp số sao cho “vận tốc thiết kế lớn nhất không lớn hơn 30 km/h”???
Nên nhớ đây là “vận tốc thiết kế” chứ không phải vận tốc chạy trên đường!
Được biết trên đường cao tốc, rất nhiều đoạn quy định tốc độ thấp nhất là 60 km/h, điều này có nghĩa là chạy với tốc độ dưới 60 km/h là vi phạm và có thể bị phạt. Vậy bao nhiêu “xe chở người bốn bánh có gắn động cơ” sẽ phải “đắp chiếu” nếu luật được thông qua?
Với các nhà thiết kế, sản xuất ô tô trên toàn thế giới, họ phải hiểu thế nào về quy định “xe chở người bốn bánh có gắn động là phương tiện có hai trục,…”?
“Hai trục” đó là những trục nào và chúng được dùng để làm gì?
Điều gì sẽ xảy ra nếu xe chở người bốn bánh có nhiều hơn “hai trục”?
Nếu hai trục đã được sử dụng để nối bánh xe (hai bánh xe một trục) thì phải chăng toàn bộ xe bốn bánh dẫn động bằng “trục các-đăng” (trục nối từ hộp số đến cầu xe) sẽ bắt buộc phải bỏ loại trục này để đảm bảo tiêu chí xe chỉ có “hai trục”?
Tóm lại là từ nay trở đi, các hãng xe Việt Nam, Nhật, Hàn, Pháp, Mỹ, Anh,… muốn bán xe tại Việt Nam thì phải thực hiện một trong các phương án:
Hoặc là tổ chức đại hội toàn thế giới thống nhất không sử dụng cụm từ kỹ thuật “trục các-đăng” mà thay thế bằng “ống các-đăng”, “đòn các-đăng”, “thanh các-đăng”, “que các-đăng”,… miễn là bỏ đi chữ “trục”.
Nếu một hãng nào đó vẫn muốn giữ “trục các-đăng” thì phải bỏ bớt trục nối hai bánh trước (hoặc trục nối hai bánh sau), hoặc là bỏ cả hai trục, lắp ván trượt cho “xe chở người 4 bánh”.
Cách thứ ba để bỏ “trục các-đăng” là tìm trong vốn cổ, học cách truyền động trên xe máy Solex của người Pháp, bốn bánh xe ô tô mỗi bánh lắp một động cơ.
Cách cuối cùng là “chào thua” Luật Giao thông của Việt Nam (nếu được thông qua), hẹn khi nào có luật mới sẽ đưa xe đến bán.
Và những tín đồ của “xe chở người bốn bánh có gắn động cơ” hoặc là chuyển sang loại “xe thương binh” ba bánh, hoặc là liên hệ với bên Mông Cổ mua loại ngựa lùn về xài tạm?
Nếu trẻ con lớp 1 từ năm 2020 của thế kỷ thứ 21 vẫn phải học Tiếng Việt đầy “sạn” do các vị tiếng nổi như cồn biên soạn, thẩm định thì kiểu gì mấy chục năm nữa cũng sẽ thấy đầy “sỏi” trong các văn bản quy phạm, giống như sỏi thận, sỏi mật tích lũy trong cơ thể vậy.
Luật nhân quả là như vậy, nuốt vội dễ bị nghẹn lắm.
[2]https://anninhthudo.vn/my-van-la-con-ngao-op-doi-voi-trung-quoc-post205411.antd
Giáo Dục Kỉ Luật Tích Cực
Published on
1. PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NINH HÒA TRƯỜNG THCS TRẦN QUANG KHẢI ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁPĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÝ LỚP HỌCQUẢN LÝ LỚP HỌC BẰNG CÁC BIỆN PHÁP GIÁO DỤCBẰNG CÁC BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỶ LUẬT TÍCH CỰCKỶ LUẬT TÍCH CỰC NINH HÒA, THÁNG 10 NĂM 2010
2. Phần I Vấn đề trừng phạt thân thể trẻ em Sự cần thiết phải chấm dứt tình trạng này Chương 1: Thực trạng trừng phạt thân thể trẻ em tại Việt Nam
3. Phần I; Chương 1: Thực trạng trừng phạt thân thể trẻ em tại Việt Nam 1. Khái niệm kỷ luật và trừng phạt thân thể: Trừng phạt thân thể là các hành vi, thái độ, lời nói do người lớn hoặc người có quyền gây ra nhằm giáo dục trẻ nhưng làm tổn thương trẻ em về thể xác (đánh đập, quỳ gối,…) và tinh thần (chửi mắng, sĩ nhục, bỏ mặc…)
4. 2. Thực trạng TPTT trẻ em tại Việt Nam Trừng phạt trẻ em là vấn đề không mới ở Việt Nam, sự xuất hiện và tồn tại của nó gắn liền với quan điểm giáo dục “yêu cho roi cho vọt” của người lớn Phần I; Chương 1: Thực trạng trừng phạt thân thể trẻ em tại Việt Nam
5. 2. Thực trạng TPTT trẻ em tại Việt Nam * Dùng compa và que tầm vông đánh học sinh * Cô giáo đánh gãy xương mũi học sinh * Cha mẹ vắng mặt trong buổi họp phụ huynh, học sinh bị phạt 20 roi * Cô giáo bắt 47 học sinh liếm ghế Phần I; Chương 1: Thực trạng trừng phạt thân thể trẻ em tại Việt Nam
6. Chương 2 Nguyên nhân của việc sử dụng biện pháp trừng phạt thân thể trẻ em Một số quan niệm sai lầm Lý lẽ ngụy biện thứ nhất: TPTT có tác dụng ngay tức thì. Khi bị TPTT trẻ sẽ sợ và lập tức làm theo yêu cầu của người lớn, điều này có tác dụng ổn định và duy trì kỷ luật. TPTT sẽ nhanh chóng, đơn giản so với các biện pháp giáo dục khác.
7. Chương 2 Nguyên nhân của việc sử dụng biện pháp trừng phạt thân thể trẻ em Một số quan niệm sai lầm Lý lẽ ngụy biện thứ hai: Việc TPTT trẻ em cũng đâu có ảnh hưởng lâu dài, nặng nề đến thế!
8. Chương 2 Nguyên nhân của việc sử dụng biện pháp trừng phạt thân thể trẻ em Một số quan niệm sai lầm Lý lẽ ngụy biện thứ ba: TPTT là biện pháp bất đắc dĩ cuối cùng. Đối với một số học sinh cá biệt, khó bảo thì TPTT là biện pháp duy nhất để cho trẻ vâng lời.
9. Chương 2 Nguyên nhân của việc sử dụng biện pháp trừng phạt thân thể trẻ em Một số quan niệm sai lầm Lý lẽ ngụy biện thứ tư: Tôi cũng đã bị TPTT và nhờ đó mà tôi nên người.
10. Chương 2 Nguyên nhân của việc sử dụng biện pháp trừng phạt thân thể trẻ em Một số quan niệm sai lầm Lý lẽ ngụy biện thứ năm: Đánh trẻ là một việc bình thường để giáo dục trẻ.
11. Chương 3 Vì sao cần phải chấm dứt trừng phạt thân thể trẻ em Hậu quả của việc TPTT không những sẽ ảnh hưởng nặng nề đến bản thân trẻ mà còn ảnh hưởng đến gia đình, cộng đồng, xã hội và ngay cả người sử dụng biện pháp trừng phạt trẻ. Vì thế, chúng ta cần có biện pháp giáo dục mang lại hiệu quả cao hơn. Đó chính là các biện pháp giáp dục kỷ luật tích cực.
12. Chương 3 Vì sao cần phải chấm dứt trừng phạt thân thể trẻ em 1. Hậu quả của việc sử dụng các biện pháp TPTT đối với trẻ em, gia đình và xã hội. a. TPTT ảnh hưởng đến sức khỏe và sự phát triển trí tuệ của trẻ. b. Ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách của trẻ. c. Ảnh hưởng đến mối quan hệ thầy trò. d. Ảnh hưởng đến kết quả học tập của trẻ. 1.1 Hậu quả đối với trẻ. a. TPTT ảnh hưởng đến sức khỏe và sự phát triển trí tuệ của trẻ. b. Ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách của trẻ. c. Ảnh hưởng đến mối quan hệ thầy trò. d. Ảnh hưởng đến kết quả học tập của trẻ. 1.1 Hậu quả đối với trẻ.
13. Chương 3 Vì sao cần phải chấm dứt trừng phạt thân thể trẻ em 1. Hậu quả của việc sử dụng các biện pháp TPTT đối với trẻ em, gia đình và xã hội. a. Cảm xúc của giáo viên. Không phải thầy cô giáo khi sử dụng TPTT cũng do ghét bỏ học sinh. Do đó, sau khi trách phạt học sinh, đa số giáo viên đều cảm thấy bối rối, ân hận, day dứt và tự trách mình…, mà chung nhất là buồn vì cảm thấy mình bất lực trong cách giáo dục các em. 1.2 Hậu quả đối với những người khác.
14. Chương 3 Vì sao cần phải chấm dứt trừng phạt thân thể trẻ em 1. Hậu quả của việc sử dụng các biện pháp TPTT đối với trẻ em, gia đình và xã hội. c. Đối với gia đình, cộng đồng và toàn xã hội. Hậu quả của việc TPTT không những sẽ ảnh hưởng nặng nề đến bản thân trẻ mà còn ảnh hưởng đến gia đình, cộng đồng, xã hội và ngay cả người sử dụng biện pháp trừng phạt trẻ. Vì thế, chúng ta cần có biện pháp giáo dục mang lại hiệu quả cao hơn. Đó chính là các biện pháp giáp dục kỷ luật tích cực. 1.2 Hậu quả đối với những người khác. b. Ảnh hưởng tới các mối quan hệ của giáo viên. d. Cảm xúc của cha mẹ học sinh và dư luận xã hội.
15. Chương 3 Vì sao cần phải chấm dứt trừng phạt thân thể trẻ em 2. TPTT trẻ em không phù hợp với đạo đức nghề nghiệp của người giáo viên, trái với phương pháp giáo dục, đi ngược lại mục tiêu giáo dục.
16. Chương 3 Vì sao cần phải chấm dứt trừng phạt thân thể trẻ em 3. TPTT trẻ em là vi phạm các văn bản pháp lý quốc gia và quốc tế. Các văn bản quốc gia a. Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em. Điều 7: Các hành vi bị nghiêm cấm. 6. Hành hạ, ngược đãi, làm nhục, chiếm đoạt, bắt cóc, mua bán, đánh tráo trẻ em; lợi dụng trẻ em vì mục đích trục lợi; xúi giục trẻ em thù ghét cha mẹ, người giám hộ hoặc xâm phạm tính mạng, thân thể, nhân phẩm, danh dự của người khác; 8. Cản trở việc học tập của trẻ em. 9. Sử dụng biện pháp có tính chất xúc phạm, hạ thấp danh dự, nhân phẩm hoặc dùng nhục hình đối với trẻ em vi phạm pháp luật.
17. Chương 3 Vì sao cần phải chấm dứt trừng phạt thân thể trẻ em 3. TPTT trẻ em là vi phạm các văn bản pháp lý quốc gia và quốc tế. Các văn bản quốc gia a. Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em. Điều 14: Quyền được tôn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự. Trẻ em được gia đình, Nhà nước và xã hội tôn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự.
18. Chương 3 Vì sao cần phải chấm dứt trừng phạt thân thể trẻ em 3. TPTT trẻ em là vi phạm các văn bản pháp lý quốc gia và quốc tế. Các văn bản quốc gia b. Bộ luật Hình sự Điều 104: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. 1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. a) … b) Đối với trẻ em.
19. Chương 3 Vì sao cần phải chấm dứt trừng phạt thân thể trẻ em 3. TPTT trẻ em là vi phạm các văn bản pháp lý quốc gia và quốc tế. Các văn bản quốc gia b. Bộ luật Hình sự Điều 109: Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính. 1. Người nào vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên, do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
20. Chương 3 Vì sao cần phải chấm dứt trừng phạt thân thể trẻ em 3. TPTT trẻ em là vi phạm các văn bản pháp lý quốc gia và quốc tế. Các văn bản quốc gia b. Bộ luật Hình sự Điều 110: Tội hành hạ người khác. 1.Người nào đối xử tàn ác với người lệ thuộc mình thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 1 năm đến 3 năm: a) Đối với người già, trẻ em, phụ nữ có thai hoặc người tàn tật; b) Đối với nhiều người.
21. Chương 3 Vì sao cần phải chấm dứt trừng phạt thân thể trẻ em 3. TPTT trẻ em là vi phạm các văn bản pháp lý quốc gia và quốc tế. Các văn bản quốc gia c. Luật Giáo dục Điều 75: Các hành vi nhà giáo không được làm. Nhà giáo không được có hành vi sau đây: 1. Xúc phạm danh dự, nhân phẩm, xâm phạm thân thể người học.
22. Chương 3 Vì sao cần phải chấm dứt trừng phạt thân thể trẻ em 3. TPTT trẻ em là vi phạm các văn bản pháp lý quốc gia và quốc tế. Các văn bản quốc gia c. Luật Giáo dục Điều 108: Xử lý vi phạm Người nào có một trong các hành vi sau đây thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. 6. Xâm phạm nhân phẩm, thân thể nhà giáo; ngược đãi, hành hạ người học.
23. Nghị định số 114/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt hành chính về dân số và trẻ em. Điều 17: Hành vi hành hạ, ngược đãi, làm nhục trẻ em; lợi dụng trẻ em vì mục đích trục lợi. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây: – Lăng nhục, xúc phạm nhân phẩm, danh dự, gây tổn thương về tinh thần của trẻ em. – Đối xử tồi tệ, bắt nhịn ăn, nhịn uống, chịu rét, mặc rách, không cho hoặc hạn chế vệ sinh cá nhân, giam hãm ở nơi có môi trường độc hại, nguy hiểm hoặc bắt làm những việc trái đạo đức xã hội. Bắt trẻ đi ăn xin; cho thuê, cho mượn trẻ em hoặc sử dụng trẻ em để đi ăn xin; cho thuê; cho mượn trẻ em để xin ăn. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi đánh đập hoặc có hành vi bạo lực xâm phạm thân thể trẻ em làm cho trẻ em đau đớn về thể xác và tinh thần.
24. Chương 3 Vì sao cần phải chấm dứt trừng phạt thân thể trẻ em 3. TPTT trẻ em là vi phạm các văn bản pháp lý quốc gia và quốc tế. Văn bản quốc tế. Công ước về quyền trẻ em đã được hầu hết các quốc gia ký tham gia, có những điều khoản quy định quyền của trẻ em được bảo vệ tránh khỏi mọi hình thức bạo lực: Điều 19: Quyền được bảo vệ tránh khỏi mọi hình thức bạo lực xâm phạm đến thể xác và tinh thần. 1. Các quốc gia thành viên phải thực hiện mọi biện pháp pháp chế, hành chính, xã hội và giáo dục thích hợp để bảo vệ trẻ em khỏi mọi hình thức bạo lực về thể xác hoặc tinh thần, gây tổn thương hay xúc phạm, bỏ mặc hoặc sao nhãng trong việc chăm sóc, ngược đãi hoặc bóc lột, kể cả xâm phạm về tình dục, trong khi trẻ em vẫn nằm trong vòng chăm sóc của cha hay mẹ, hay cả cha lẫn mẹ, một hay nhiều người giám hộ pháp lý, hoặc của bất kì người nào khác được giao việc chăm sóc trẻ em.
25. Phần II Các biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực thay thế việc trừng phạt thân thể trẻ em Chương I khái niệm và sự cần thiết phải sử dụng các biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực
26. Phần II Chương I:khái niệm và sự cần thiết phải sử dụng các biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực * I. Khái niệm về giáo dục kỷ luật tích cực Giáo dục kỷ luật tích cực là giáo dục dựa trên nguyên tắc vì lợi ích tốt nhất của trẻ; không làm tổn thương đến thể xác và tinh thần của trẻ; có sự thỏa thuận giữa người lớn – trẻ em và phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ.
27. Phần II Chương I:khái niệm và sự cần thiết phải sử dụng các biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực II. Sự cần thiết phải sử dụng biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực. a. Lợi ích của việc sử dụng các biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực đối với học sinh và giáo viên. Hãy xem cách giải quyết tình huống rất thông thường của hai giáo viên sau:
30. b. Lợi ích của việc sử dụng các biện pháp giáo dục kỷ thuật tích cự đối với gia đình, nhà trường và cộng đồng. 1. Nhà trường có môi trường sư phạm thân thiện, an toàn, tạo được niềm tin đối với xã hội. 2. Xã hội có những công dân tốt, có thể phục vụ, cống hiến cho gia đình, xã hội trong tương lai. 3. Giảm thiểu được các tệ nạn xã hội, nạn bạo hành, bạo lực. 4. Các khoản chi phí để chăm sóc, điều trị và trợ giúp gia đình trẻ (nạn nhân của bạo hành/ bạo lực) sẽ được dành để phục vụ nhân dân, nâng cao đời sống cộng động, xã hội. 5. Gia đình hạnh phúc, xã hội phồn vinh. Vì những lợi ích trên, chúng ta cần phải sử dụng các biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực.
31. Phần II Chương 2 Các biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực I. Các biện pháp để thay đổi quan niệm, nhận thức của giáo viên về giáo dục kỷ luật. Thay đổi một nếp nghĩ hay thói quen đã tồn tại trong nhiều năm không phải là điều dễ dàng. Thay đổi cả một quan điểm đã ăn sâu vào tiềm thức lại càng cần phải có những biện pháp hiệu quả, có sự hợp tác của nhiều người và cần một thời gian nhất định. Vì vậy, mỗi giáo viên cần phải chuẩn bị cho mình một tâm thế tự tin để thay đổi.
32. Phần II Chương 2 Các biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực II. Những khó khăn khi thay đổi quan điểm nhận thức về giáo dục kỷ luật của giáo viên. 1. Quan niệm còn tồn tại về giáo dục kỷ luật Chúng ta vẫn thường nghe như: “Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”, ” Thuốc đắng giã tật sự thật mất lòng”, “Miếng ngon nhớ lâu, đòn đau nhớ đời”…
33. Phần II Chương 2 Các biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực II. Những khó khăn khi thay đổi quan điểm nhận thức về giáo dục kỹ luật của giáo viên. 2. Áp lực công việc. Đại bộ phận giáo viên còn phải đương đầu với nhiều vấn đề trong cuộc sống đời thường nên dễ bị căng thẳng, dễ sinh ra cáu gắt khi đối mặt với những vấn đề của lớp học như áp lực về sĩ số học sinh quá đông, điều kiện cơ sở vật chất và phương tiện giảng dạy thiếu thốn, có lúc gặp phải thái độ không hợp tác của phụ huynh và “khoản trắng” việc giáo dục con cái cho giáo viên, họ cho rằng nhà trường có trách nhiệm dạy dỗ con cái họ nên họ không cần quan tâm hợp tác vv… Do nôn nóng, giáo viên thường phải giải quyết các vấn đề xảy ra trong quá trình dạy học như học sinh quên vở, nói chuyện trong giờ học, lười học, không làm bài bằng cách phạt quỳ, đánh vào tay, sỉ nhục học sinh … những cách này được coi là những cách ít tốn thời gian nhất, hiệu quả nhanh nhất. Bên cạnh đó, một bộ phận giáo viên còn chưa tâm huyết với nghề. Thiếu kinh nghiệm giảng dạy, không biết cách xử lý các tình huống không muốn xảy ra trong lớp nên thường chọn biện pháp đánh phạt học sinh.
34. Phần II Chương 2 Các biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực III. Giáo viên cần làm gì để chuẩn bị cho sự thay đổi? Cần thấy rõCần thấy rõ:: TPTT trẻ em là một sự xúc phạm tội lỗi, là vi phạm Luật Giáo dục, vi phạm Công ước của Liên Hợp quốc về Quyền trẻ em và nếu ở mức độ nặng là vi phạm hình sự. Cũng nên hiểu rằng: TPTT trẻ em chỉ có tính hiệu quả nhất thời và chỉ có tác dụng trước mắt. Giáo viên cũng không nên cho rằng: Ngoài việc TPTT trẻ em sẽ không còn biện pháp nào khác có hiệu quả hơn.
35. Phần II Chương 2 Các biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực IV. Một số gợi ý nhằm tạo ra sự thay đổi nhận thức và quan điểm cá nhân về giáo dục kỹ luật. Trong điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước ta hiện nay, cơ sở vật chất trường học còn thiếu thốn, đời sống của giáo viên còn nhiều khó khăn, các hoạt động hỗ trợ giáo dục chưa được đáp ứng đầy đủ thì việc tìm các biện pháp thay thế sự TPTT trẻ em sẽ là một khó khăn thách thức không nhỏ.
36. Phần II Chương 2 Các biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực IV. Một số gợi ý nhằm tạo ra sự thay đổi nhận thức và quan điểm cá nhân về giáo dục kỹ luật. 1. Một số gợi ý dành cho giáo viên. – Hãy suy nghĩ sâu sắc về nghề dạy học. – Hãy suy ngẫm về mình. – Quan tâm chăm sóc bản thân (cả về mặt thể chất, tình cảm và tâm lý) – Tự đặt mình và hoàn cảnh của trẻ. – Ghi chép nhật ký công tác lớp. – Luôn tạo ra niềm vui cho bản thân. – Gác lại những ưu phiền trong cuộc sống khi tiếp xúc với trẻ. – Luôn trao đổi, học tập kinh nghiệm với đồng ngiệp. – Không tiết kiệm lời khen với trẻ. – Tạo không khí lớp học sinh động. – Phối hợp với nhiều lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường. -Xây dựng Hộp thư “Điều em muốn nói”. -Tìm sự trợ giúp
37. Phần II Chương 2 Các biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực IV. Một số gợi ý nhằm tạo ra sự thay đổi nhận thức và quan điểm cá nhân về giáo dục kỹ luật. Nhà trường cần có một cơ chế cụ thể trong việc thực hiện các biện pháp giáo dục tích cực. Cơ chế này được xây dựng trên cơ sở thống nhất của hội đồng sư phạm bao gồm đầy đủ các nội dung như kiểm tra giám sát việc thực hiện, khen thưởng, tôn vinh những giáo viên thực hiện tốt, kỷ luật nghiêm khắc những giáo viên vi phạm nội qui. Việc nhà trường thực hiện tốt cơ chế này sẽ được đảm bảo tất cả học sinh đều được hưởng lợi ích của biện pháp giáo dục tích cực.
38. Phần II Chương 3 Các biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực áp dụng tại lớp học 1. Thay đổi cách cư sử trong lớp học. – Xây dựng những quy tắc rõ ràng nhất quán. – Khuyến khích động viên tích cực. Một số gợi ý các hình thức khen thưởng và động viên dành cho học sinh trung học: + Thi đua giành danh hiệu lớp tiêu biểu. + Học sinh tiêu biểu trong tuần. + Phiếu khen. Có nhiều cách khuyến khích động viên khích lệ học sinh. Hãy thử nghiệm những ý tưởng của riêng mình. Nhớ ghi lại những việc mình làm, những biện pháp có tác dụng và những cách không có hiệu quả. + Người trợ giảng. + Gửi thư khen về nhà. + Giáo viên hoặc hiệu trưởng gọi điện thoại.
39. Phần II Chương 3 Các biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực áp dụng tại lớp học – Những hình thức xử phạt phù hợp và nhất quán. a. Các biện pháp xử phạt: mục đích dạy cho học sinh biết rằng sự lựa chọn cách xử lí đó không phải là sự lựa chọn đúng đắn. b. Tuyệt đối không sử dụng những hình thức phạt mang tính bạo lực. c. Tránh gây căng thẳng đối với học sinh. d. Khi áp dụng các hình thức xử phạt nên nói rõ sai phạm của học sinh. e. Hãy áp dụng hình thức xử phạt một cách công bằng và bình tĩnh. f. Việc áp dụng các hình thức phạt một cách nhất quán, công bằng và bình đẳng không có nghĩa là luôn cứng nhắc, áp dụng một cách máy móc trong mọi trường hợp. g. Không phạt học sinh vì những quy định chưa thỏa thuận trước.
40. Phần II Chương 3 Các biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực áp dụng tại lớp học – Những hình thức xử phạt phù hợp và nhất quán. Một số biện pháp xử phạt: * Tước bỏ các đặc quyền. * Tạm dừng việc học tập để học sinh tự kiểm điểm bản thân: yêu cầu học sinh viết ra các câu trả lời. ” Chuyện gì đã xảy ra? Em có thể làm gì khác? Có thể giải quyết chuyện đó theo cách nào?” * Báo cáo hàng ngày:
41. Phần II Chương 3 Các biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực áp dụng tại lớp học * Báo cáo hàng ngày: Họ tên Học sinh:…………………….. Lớp:…… BÁO CÁO HÀNG NGÀY 1. Không làm bài tập về nhà. 2. Nói chuyện, làm việc riêng trong giờ học. 3. Mất trật tự, chưa nghiêm túc khi xếp hàng. 4. Ra khỏi chỗ một cách tự nhiên. 5. Trêu chọc bạn, bắt nạt và nói những điều xúc phạm bạn. 6. Nói tục. 7. Đánh nhau. 8. Không nghe lời thầy cô. 9. Vứt giấy rác bừa bãi ra sân trường, lớp học, viết vẽ bậy lên bản, lên tường. – Làm gương trong cách cư xử.
42. 2. Quan tâm đến những khó khăn của trẻ. * Khi giải quyết những khó khăn trở ngại của học sinh, chúng ta cần lưu ý một số điều sau: * Cố gắng kiềm chế, không thể hiện thái độ quá nóng nảy, căng thẳng trước mặt học sinh vì điều đó khiến cho học sinh trở nên tức giận hơn, thậm chí có thể nảy sinh ý nghĩ tiêu cực, dẫn đến hậu quả khó lường. * Nên lắng nghe và thực sự chú ý xem xét vấn đề từ phía học sinh. Lắng nghe tất cả những gì các em nói, biểu lộ sự cảm thông qua nét mặt, ánh mắt, cử chỉ. Bằng cách đó, chúng ta sẽ thể hiện được một cách chân thành điều mà mình muốn nói. * Cần tránh thái độ ” quan liêu” do hấp tấp vội vàng chưa tìm hiểu nguyên nhân đã nhanh chóng đưa ra những lời chỉ trích. Chúng ta hãy giúp học sinh tìm hiểu vấn đề và cùng với các em tìm ra giải pháp phù hợp.
44. Chương 4: Một số gợi ý tổ chức các hoạt động giáo dục kỷ luật tích cực trong nhà trường I.Xây dựng trường học – Xây dựng trường học theo định hướng tập thể. – Xây dựng nội quy trường học. – Xây dựng môi trường sư phạm thân thiện. Lớp học thân thiện là nơi ít xảy ra hiện tượng vi phạm kỷ luật của học sinh. II. Mạng lưới trợ giúp. – Nhóm giáo viên trợ giúp. – Nhóm trợ giúp từ cộng đồng. – Câu lạc bộ ” Những người bạn”.
45. NHỮNG ViỆC NHÀ TRƯỜNG SẼ LÀM 1. XÂY DỰNG HỘP THƯ “ĐiỀU EM MUỐN NÓI” – DO HiỆU TRƯỞNG QUẢN LÝ ; MỜI MỘT SỐ CB-GV VÀO TỔ TƯ VẤN. 2. KHEN THƯỞNG GIÁO VIÊN VÀO NGÀY NGVN HÀNG NĂM DO HỌC SINH TÔN VINH – SỐ LƯỢNG: 20%
46. NHỮNG VIỆC CB-GV-NV LÀM * 1. THAY ĐỔI NHẬN THỨC, TƯ TƯỞNG THEO QUAN ĐiỂM TÍCH CỰC, * 2. TỪNG BƯỚC VẬN DỤNG VÀO THỰC TẾ CÔNG TÁC VÀ GiẢNG DẠY.
47. NHỮNG VIỆC CB-GV-NV LÀM * 3. VIẾT THU HOẠCH: 1. Anh ( chị) có nhận xét gì về việc ” trừng phạt thân thể học sinh” ở trường ta hiện nay ? 2. Nên tổ chức giáo dục kỉ luật tích cực cho học sinh như thế nào để phù hợp với thực tế nhà trường và địa phương ? 3. Những đề xuất, kiến nghị ?
48. * XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN * CHÚC THÀNH CÔNG
Phân Tích Các Nguyên Tắc Quản Lý Giáo Dục
Quá trình quản lý giáo dục luôn vận động, phát triển không ngừng theo những quy luật nhất định. Thực tiễn cho thấy; muốn tổ chức và tiến hành hoạt động quản lý giáo dục đạt tới chất lượng, hiệu quả tối ưu, cần phải xác định, tuân theo những nguyên tắc chỉ dẫn hành động của chủ thể và đối tượng quản lý cho phù hợp với bản chất, quy luật vận động phát triển của nó.
1. Nguyên tắc quản lý giáo dục là gì?
Nguyên tắc quản lý giáo dục là những luận điểm cơ bản phản ánh các yêu cầu và tiêu chuẩn chỉ đạo việc xây dựng và tổ chức hoạt động của các cơ quan quản lý giáo dục. Nguyên tắc quản lý giáo dục được xác định, hình thành từ các quy luật, nhân tố khách quan của quá trình quản lý và nó phản ánh các mặt, các mối liên hệ tất yếu, cơ bản, bền vững (các quy luật) của quá trình quản lý. Đó là các mối liên hệ giữa chất lượng, hiệu quả hoạt động quản lý với sự lãnh đạo của Đảng và phát huy mở rộng dân chủ, sự tập trung thống nhất trong quản lý; giữa chất lượng quản lý với đảm bảo tính khoa học, kế hoạch hóa, chuyên môn hóa…trong hoạt động quản lý. Các nguyên tắc quản lí giáo dục không phải bất di bất dịch, không thay đổi, ngược lại, chúng luôn luôn phát triển, bởi các sự vật, hiện tượng giáo dục mà chúng phản ánh cũng thường xuyên vận động và phát triển; mặt khác còn bởi các phương tiện và khả năng nhận thức của chúng ta cũng luôn luôn phát triển, kinh nghiệm vận dụng quy luật khách quan cũng ngày càng phong phú.Hiện tại, chúng tôi đang cung cấp dịch vụ nhận làm thuê báo cáo tốt nghiệp tại Hà Nội, Tp HCM và các tỉnh thành khác với dịch vụ chuyên nghiệp nhất thị trường. Nếu bạn không có thời gian hoàn thành bài báo cáo thực tập, hãy nhớ đến Tổng đài tư vấn luận văn 1080, nơi giúp bạn giải quyết những khó khăn mà chúng tôi đã từng trải qua.
2. Các nguyên tắc về hoạt động quản lí giáo dục bao gồm:
2.1 Nguyên tắc hiệu quả quản lí:
Đây là nguyên tắc phù hợp với mục tiêu quản lí, bao gồm hiệu quả giáo dục, hiệu quả xã hội và hiệu quả của bản thân hoạt động quản lí. Có thể nói hiệu quả là thước đo năng lực của người cán bộ quản lí giáo dục. Thực chất của nguyên tắc này là làm như thế nào để trong điều kiện nguồn lực nhất định, với thời gian cho phép, nhà quản lí có thể tạo ra nhiều kết có chất lượng, đạt mục tiêu giáo dục và mục tiêu quản lí như mong muốn. Nguyên tắc hiệu quả quản lí có quan hệ chặt chẽ với kết quả quản lí. Có thể một hoạt động quản lí nào đó là có kết quả nhưng chưa chắc đã có hiệu quả bởi tiêu tốn nhiều sức lực của không chỉ những nhà quản lí, mà còn của giáo viên và học sinh. Nguyên tắc hiệu quả quản lí đòi hỏi người lãnh đạo phải có hai phẩm chất sau: Thứ nhất, phải nắm vững nội dung, nguyên tắc, nắm vững diễn biến tình hình, diễn biến của đối tượng quản lí để từ đó sáng tạo, đề ra những biện pháp thích hợp. Thứ hai, phải có tầm nhìn xa và rộng. Hiệu quả của hoạt động quản lí không chỉ dừng lại, bó hẹp ở một bộ phận riêng biệt, mà phải trên quan điểm toàn diện, tổng thể, theo tác động dây chuyền. Điều này tránh cho nhà quản lí nhìn sự vật và sự phát triển của nó một cách thiển cận, chỉ nhìn thấy cục bộ mà không thấy toàn cục, chỉ thấy trước mắt mả không thấy lâu dài. Điều này cũng bị chi phối bởi đặc trưng của giáo dục, một hoạt động mà kết quả của nó xuất hiện sau một thời gian nhất định.
2.2 Nguyên tắc kết hợp hài hòa các lợi ích:
Llợi ích vừa là mục tiêu, vừa là động lực mạnh mẽ đối với con người. Điều cần chú ý nếu không kết hợp hài hòa được các lợi ích thì không thể có sự nhất trí về mục đích và hành động. Lợi ích có hai mặt: lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần. Giáo dục là hoạt động được tiến hành bởi những trí thức. Do đó không phải bao giờ họ cũng coi trọng lợi ích vật chất, ngược lại những giá trị (kết quả hoạt động của họ được tổ chức và tập thể nhìn nhân, đánh giá công bằng; học sinh của họ trưởng thành trong cuộc sống…) lại là phần thưởng tinh thần quý báu, nguồn động viên mạnh mẽ đối với họ.
2.3 Nguyên tắc chuyên môn hóa:
Nguyên tắc này đòi hỏi việc quản lí giáo dục phải được thực hiện bởi những người có chuyên môn, được đào tạo, có kinh nghiệm và tay nghề theo đúng vị trí trong guồng máy của hệ thống quản lí. Điều 54 Luật Giáo dục đã viết: “Hiệu trưởng các trường thuộc về hệ thống giáo dục quốc dân phải được đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ quản lí trường học”. Đây là cơ sở của việc nâng cao hiệu quả quản lí giáo dục. Người quản lí (nhất là đối với người quản lí ở cấp cao) phải có tầm nhìn chiến lược vừa rộng, vừa sâu, vừa xa trên cơ sở khoa học để đưa ra những quyết sách hợp lí. Nguyên tắc này còn được hiểu theo khía cạnh khác, đó là việc người cán bộ quản lí (đặc biệt ở nhà trường) phải có trình độ vững vàng về giảng dạy và giáo dục; mặt khác, họ phải là người nắm bắt nhanh nhạy những thành tựu mới của giáo dục và khoa học quản lí giáo dục. Lãnh đạo giáo dục mà không am hiểu về giáo dục thì đó là nguyên nhân dẫn đến sự kém hiệu quả trong công tác quản lí và tự làm mất uy tín của mình.
2.4 Nguyên tắc sử dụng phối hợp các phương pháp quản lí:
Giáo Dục Kỷ Luật Tích Cực Đối Với Học Sinh
Giáo dục kỷ luật tích cực không hề mang tính bạo lực mà thể hiện sự tôn trọng trẻ nên trẻ sẽ tiếp thu hiệu quả hơn
Đầu năm học 2011-2012, Phòng GD-ĐT quận Bình Thạnh đã tổ chức chuyên đề “Giáo dục kỷ luật tích cực” nhằm giúp giáo viên (GV) ở từng bậc học nắm bắt các phương pháp giáo dục học sinh (HS) tích cực nhất.
Đây là chuyên đề mà hầu hết GV rất tâm đắc bởi qua chuyên đề này họ có thêm nhiều kinh nghiệm trong việc giáo dục HS theo đúng phương pháp sư phạm. Thầy Trần Văn Xuyên – chuyên viên Phòng GD-ĐT quận Bình Thạnh – người tạo ra chuyên đề này cho biết:
PV: Theo thầy, biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực khác với giáo dục trừng phạt như thế nào?
-Giáo dục kỷ luật bằng những biện pháp tích cực không phải là việc đơn giản, dễ thực hiện. Để có thể chấm dứt việc sử dụng TPTT trong các lớp học, GV không chỉ cần đến các quy định của pháp luật mà cần có lòng kiên trì, nhẫn nại, bền bỉ và yêu thương thật lòng HS. TPTT có hai cách: Một là trừng phạt tinh thần như la mắng, nhiếc móc, hạ nhục, bỏ rơi, chửi rủa… làm cho các em HS xấu hổ. Hai là TPTT bao gồm tát, đánh, véo, giật tóc, nhốt, cách ly, quỳ úp mặt vào tường… Cả hai cách thức trừng phạt này đều ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý của HS, làm trẻ cảm thấy mất danh dự, mất tự tin… và để lại những vết sẹo trong tâm hồn của HS. Từ đó, trẻ cảm thấy không thích đến lớp học và muốn chống đối lại bằng cách giảm ý thức kỷ luật. Còn giáo dục kỷ luật tích cực là động viên, khuyến khích, hỗ trợ, nuôi dưỡng lòng ham học dẫn đến ý thức kỷ luật một cách tự giác, nâng cao năng lực và lòng tin của HS vào GV. Giáo dục kỷ luật tích cực không hề mang tính bạo lực mà thể hiện sự tôn trọng trẻ nên trẻ sẽ tiếp thu hiệu quả hơn. Nói như vậy, giáo dục kỷ luật tích cực không phải là sự buông thả để HS muốn làm gì thì làm mà là việc dạy và rèn luyện cho các em tính tự giác tuân theo các quy định và quy tắc đạo đức ở thời điểm trước mắt cũng như lâu dài. Chính từ phân tích này, GV thấy được chỉ có giải thích, chỉ rõ những lỗi lầm mà trẻ mắc phải để trẻ biết cách sửa chữa thì mới giúp trẻ không phạm lỗi và giáo dục ổn định kỷ luật lớp học một cách lâu dài.
Thầy có thể giải thích rõ hơn về cách giáo dục này? Chẳng hạn, đối với bậc tiểu học, GV cần làm gì để tìm ra các biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực trong giảng dạy?
– Trước hết GV cần nhận thức rằng, biện pháp TPTT trẻ em cần được chấm dứt và thay thế bằng các biện pháp khác có hiệu quả hơn bởi TPTT trẻ em là một sự xúc phạm tội lỗi, là vi phạm pháp luật, vi phạm Công ước Liên hiệp quốc về quyền trẻ em. Hơn thế nữa, TPTT trẻ em chỉ có tính nhất thời và tác dụng trước mắt nhưng sau đó trẻ lại tiếp tục vi phạm ngay. Tại sao vậy? Vì trẻ chưa biết được cái gì đúng, cái gì sai mà các em chỉ không mắc lỗi khi có những hình thức kỷ luật hay người lớn ở bên cạnh.
Chính vì những lý do này mà GV cần hướng đến việc giáo dục kỷ luật một cách tích cực. Để làm được điều này, GV cần thực hiện những điều sau: Suy nghĩ sâu sắc về nghề dạy học: Yêu nghề, mến trẻ, cái tâm phải bao trùm khắp tâm hồn. Hiểu và nắm bắt tâm lý của trẻ ở mọi lứa tuổi trong bậc tiểu học và bản thân phải tìm được niềm vui trong công việc. Đồng thời, GV phải tự đặt mình ngang hàng với trẻ để cùng chơi, cùng học, cùng hiểu để tìm cách giáo dục trẻ thấu tình đạt lý. Ngoài ra, việc trao đổi, chia sẻ, học tập cùng đồng nghiệp để tìm cách thay thế TPTT trẻ nhằm thực hiện giáo dục tích cực.
Xin cảm ơn thầy!
7 nguyên tắc cơ bản trong chuyên đề “Giáo dục kỷ luật tích cực”: Phát huy hết mức sự tham gia tích cực của trẻ; Tôn trọng những nhu cầu về sự phát triển và chất lượng cuộc sống của trẻ; Phát triển thái độ, cách xử sự hướng ngoại thân thiện, cởi mở, ý thức kỷ luật tự giác và nghị lực của trẻ; Tôn trọng động cơ và những quan điểm riêng về cuộc sống của trẻ; Đảm bảo sự công bằng, không thiên vị; Khuyến khích tình đoàn kết, thống nhất.
Sáng Kiến Giáo Dục Lễ Giáo Cho Trẻ 5 Tuổi Bằng Truyện Cổ Tích
Giáo dục lễ giáo cho trẻ 5 tuổi bằng truyện cổ tích
I /Đặt Vấn Đề: Giáo dục lễ giáo cho trẻ 5 tuổi bằng truyện cổ tích
Văn học dân gian đóng vai trò là: “Bầu sữa mẹ” (theo cách nói của MGORKI-Nhà văn Nga vĩ đại )Nuôi dưỡng nền văn học .
Nếu không có thể thơ lục bát được hình thành và đào luyện từ trong ca dao dân tộc thì không thể có truyện Kiều của Nguyễn Du.Không có kho tàng truyện cổ tích cực kỳ phong phú thì không có Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Dữ. Nhiều nhà văn thơ khác của dân tộc đã học tập,tiềp thu những hìn tượng nghệ thuật,những cốt truyện và nhất là cách nhìn nhận về con người và cuộc sống trong văn học dân gian truyền thống để tạo nên tác phẩm văn học của họ như: Hồ Chí Minh,Nguyễn Khuyến,Tố Hữu,Trần Đăng khoa…
Trong đó truyện cổ tích là một trong những thể loại chủ yếu của văn học dân gian nó cũng là thể loại có nhiều vấn đề phức tạp và phong phú . Thông qua những sáng tạo nghệ thuật cổ tích ,tác giả dân gian đã gửi vào đó quan niệm nghệ thuật
về thế giới nhân sinh thể hiện ý thức thẩm mỹ gắn liền với tinh thần nhân văn của mình .
Truyện cổ tích của dân tộc nào cũng đề cao đạo đức nhân nghĩa .Nó là một môi trường đắc địa để những bài học đạo đức,luân lý được đưa đến cho trẻ một cách tự nhiên. Hiện nay cuộc sống hiện đại nên có nhiều phương tiện giải trí vui chơi và học tập hấp dẫn khiến các bậc phụ huynh thường lệ thuộc vào đó,thường khi con đi học về là bố mẹ mở băng đĩa siêu nhân hay trò chơi “Game” cho con xem.Nhưng thông qua các thể loại ấy làm sao có thể đánh thức được tình cảm đạo đức ban đầu như:
Tình yêu thương lòng biết ơn,tinh thần đoàn kkêt….mà thông qua nội dung ý nghĩa của những câu truyện khiến những quan hệ hành vi của trẻ nhận thức được sâu sắc từ đó tôi đã tìm tòi ,học hỏi ,suy nghĩ và mạnh dạn chọn đề tài ” Một số biện pháp giáo dục lễ giáo cho trẻ 5tuổi thông qua các câu truyện cổ tích Việt Nam “.
1.Cơ Sở Lý Luận:
Là một loại hình nghệ thuật,văn học giữ vai trò lớn trong việc hình thành và phát triển toàn diện nhân cách trẻ.
Dẫn dắt trẻ vào thế giới văn học là nhiệm vụ quan trọng của trường mầm non nhất là các lớp mẫu giáo: Đó là sự mở cửa cho những bước đi chập chững đầu tiên vào thế giớ các giá trị phong phú chứa đựng trong tác phẩm văn học đóng góp trong việc hìn thành và phát triển tình cảm đạo đức cho trẻ.Tuy niên không phải dân tộc nào cũng đề cao đạo đức như yếu tố thứ nhất của phẩm chất con người như dân tộc Việt Nam. Dường như quan điểm của con người Việt Nam đạo đức như là cái gốc của sự tôt sấu trên đời.Quan niệm được phản ánh trong truyện cổ tích,vừa chắt lọc kinh nghiệm ứng sử trong thực tế vừa là đạo đức lý tưởng mà con người lao độmg mong muốn xây dựng. Vì thế nó vừa gần gũi,vừa cao cả,nó không chỉ là cái vốn có,cần phải cho cuộc đời tốt đẹp hơn.
2.Cơ Sở Thực Tiễn:
Khả năng khám phá thế giới xung quanh của trẻ còn hạn chế.Tư duy của trẻ là tư duy tổng quát hành động nên trẻ không hiểu qua những lời cô nói ,làm như thế này có nghĩa là tốt,như thế kia là xấu,hay còn phải làm như thế nào ?…Nhưng qua những câu truyện cổ tích thường có cốt truyện ngắn gọn,rõ ràng,dễ nhớ dễ thuộc,nhân vật gần gũi,chính là con người trong các mối quan hệ xã hội.Điều quấn hút các em chính là yếu tố thần kỳ,những đồ vật quen thuộc gần gũi được thổi những yếu tố ly kỳ hoang đường bỗng trở nên hấp dẫn đối với trí tượng của trẻ thơ mà giáo dục tình cảm cho trẻ là một trong năm nhiệm vụ lớn của công tác chính sách giáo dục cho trrẻ mẫu giáo.Vì vậy tôi đã thực hiện một biện pháp giáo dục lễ giáo cho trẻ thông qua các câu truyện cổ tích Việt Nam.
Qua một vài năn thực hiện tôi đã thu được một số kết quả khả quan:Trẻ ý thức được việc mình làm tốt hay xấu,nên hay không nên.Biết yêu cái thiện ghét cái ác.Tuy nhiển tông quá trình thực hiện tôi đã gặp phải những thuận lợi và khó khăn sau;
a)Thuận Lợi:
-Trẻ đi học tương đối đều ,được làm quen và củng cố thường xuyên nên đã thành hệ thống .
-Cô giáo có trình độ chuyên môn vững ,yêu nghề mến trẻ, chịu khó học hỏi.Tích cực học hỏi và trao đổicùng đồng nghiệp về chuyên môn nghiên cứu,sưu tầm các loại sách báo nên tích lũy được một số kinh nghiệm .
b)Khó Khăn :
-Trường mầm non Việt Long là trường mầm non nông thôn và đặc biệt lớp tôi là một lớp không gần trung tâm,phụ huynh làm nông nghiệp nên chưa thực sự quan tâm đến con cái.Vì vậy việc học tập của trẻ chưa đạt kết quả ,kinh tế còn nghèo nàn ….trẻ không được tiếp cận với các phương tiện thông tin sách báo…
Nhất là phụ huynh không hiểu tầm quan trọng của các môn học đặc biệt là môn văn học ,họ đưa con em họ đến lớp với mục đíc là nhờ cô giáo…Vì thế cho nên nhận thức của trẻ còn yếu.
-Đồ dùng và tranh ảnh còn ít.
3.Biện Pháp Thực Hiện
Xuất phát từ những tình hình đặc điển của lớp tôi đã mạnh dạn cho trẻ làm quen với một số truyện cổ tích Việt Nam (ngoài chương trình quy định).Thông qua nội dung truyện dẫn đến giáo dục lễ giáo cho trẻ một cách nhẹ nhàng,phù hợp với lứa tuổi,không gò bó áp đặt mà đạt hiệu quả cao cho trẻ.
a)Lập kế hoạch cho chủ điểm;
Trước hết để cho nội dung lôzíc và phù hhợp với chủ điểm,tôi xây dựng kế hoạch làm quen với văn học cho cả một năm ngay từ đầu năm. Tìm hiểu theo từng chủ điểm của ban giám hiệu xem có bao nhiêu bài mà có nội dung là truyện cổ tích Việt Nam từ đó điều chỉnh,bổ xung một số truyện mà tôi sưu tầm sao cho phù hợp với đặc điểm của trẻ cuẩ lớp theo các chủ điiểm.
Chương trình của lớp tôi là 10 chủ điểm.Tôi thấy số lượng truyện cổ tích Việt Nam còn rất ít và đưa vào giờ hoạt đông chung cũng rất ít.Trong khi đó kho tàng truyện cổ tích của chúng ta rất phong phú .Truyện cổ tích dù ở thể loại nào :Truyện cổ về loài vật ,truyện cổ tích thần kỳ hay truyện cổ tích sinh hoạt đều mang nội dung tình cảm,nêu được những bài học đạo đức cho các em ở lứa tuổi mầm non.Chính vì vậy
Tôi đã bỏ ra khá niều thời gian sưu tầm lựa chọn một số truyện cổ tích Viêt Nam để đưa vào chương trình để cho trẻ của tôi được học(ngoài chương trình quy định của ban giám hiệu)để giáo dục tình cảm đạo đức cho trẻ.
Ví dụ
*Chủ điểm gia đình(Tấm Cám,người con út hiếu thảo)
*Chủ điểm ngành nghề- Sự tích quả dưa hấu, anh nông dân và ba điều ước.
*Chủ điểm động vật-Sự tích con khỉ ,cóc kiện trời.
*Chủ điểm thực vật-Sự tích cây thìa là,cây khế ,cây tre trăm đốt.
b,Chuẩn bị đồ dùng dạy học
Bản thân tôi khẳng định : Đồ dùng dạy học là một trong những phương tiện dạy học đạt kết quả cao nhất.Đồ dùng dạy họchấp dẫn sẽ giúp trẻ nhớ rất lâu những kiến thức mà cô cung cấp nhất là khi trẻ được trực tiếp quan sát ,trực tiếp hoạt động ,qua đó trẻ cảm nhận dược tình cảm ,tích cách của các nhân vật trong truyện một cách sâu sắc.Vì vậy trươc khi tổ chức cho trẻ làm quen với truyện tôi chuẩn bị đồ dùng thật
chu đáo .Tranh ảnh hấp dẫn ,rối nhạc nền khi kể phù hợp, sa bàn phù hợp khi kể ,có thể cho trẻ xem đĩa.
ví dụ khi kể truyện “cây tre trăm đốt”ở chủ điểm thực vật . kể song cho trẻ đóng kịch và chuẩn bị đồ dùng cho trẻ đóng kịch . tôi muợn áo của bà già làm áo anh nông dân cho các cháu mặc vào làm cuốc dao vv..
+Thuộc truyện
+Nhập vai kể diễn cảm
+Phương pháp cá thể hóa
+Phương pháp tích hợp
* Thuộc truyện và nhập vai kể diễn cảm .
-Để đạt dược giờ dạy đạt kết quả tốt cô giáo phải chuẩn bị tốt giáo án , phải thuộc truyện , thuộc các tình tiết tròg truyện để từ đó nhập vai tốt .
* Phương pháp cá thể hóa
Mỗi trẻ em tuy ở cùng độ tuổi song có sự phát triển khác nhau cả về thể chất và trí tuệ nên cô phải dựa vào đặc điểm này để có những biện pháp riêng biệt tránh lối giáo dục đồng lọat để phát huy khả năng của từng trẻ.
* Phương pháp tích hợp
Đây không phải là phép cộng tác bộ môn mà là sự kết hợp lôzích , hợp lý giụp giáo viên khai thác tối đa nội dung giáo dục tình cảm đạo đức qua mỗi truyện nhờ đó bài học đạo đức trở nên hấp dẫn ,gần gũi ấn tượng và sâu sắc với trẻ.
Ví dụ :
Khi dạy truỵên “cây trẻ trăm đốt” ở chủ điểm thế giới thực vật .
Cô giáo có thể tích hợp bộ môn môi trường xung quanh , biết về cây tre gần gũi và rất quen thuộc của địa phương và một số loại cây khác …
d, Tổ chức giáo dục lể giáo cho trẻ thông qua truyện cổ tích ở mọi lúc mọi nơi.
Theo lịch sinh hoạt chương trình cho trẻ làm quen với văn học mỗi tuần chỉ một giờ hoạt động chung(25-30 phú) mà nội dung chương trình đa số là truyện hiện đại và thơ truyện cổ tích còn ít .
Chính vì vậy để đạt được mục đích đề ra tôi đã tổ chức cho trẻ làm quen với truyện cổ tích Việt Nam mọi lúc mọi nơi mọi thời điểm khác nhau trong ngày :
+Giờ đón trẻ
+Giờ hoạt động ngoài trời
+Giờ HĐ góc
+Giờ HĐ chung
+Giờ trả trẻ
Trẻ mẫu giáo rất giầu tình cảm,trong mọi hành động đều chịu sự chi phối của tình cảm.Một hành vi tốt của trẻ thường do cảm xúc khi được khích lệ khen ngợi hoặc do tình yêu lòng mong muốngiúp đỡ người mà trẻ yêu mến thúc đẩy . Những hành vi đạo đức của trẻ chỉ thực hiện được định kỳ khi trẻ phân biệt được điều tốt ,điều xấu ,những hành vi ứng xử nào cần làm và làm như thế nào ? Những hành vi nào không nên làm và không được làm đồng thời trẻ có những hành vi động cơ đúng đắn.
Chính vì vậy việc giáo dục các chuẩn mực , quy tắc và động cơ hành vi coi là cốt lõi của công tác giáo dục đạo đức và được thực hiện liên tục ,thường xuyên , cần luôn luôn làm giàu vốn kinh nghiệm đạo đức cho trẻ .
-Giờ đón trẻ ,giờ trả trẻ là lúc cô áp dụng biện pháp cá thể hiệu quả nhất.
Ví dụ : cô trò chuyện cởi mở ,tự nhiêngần gũi trẻ để trẻ tự bộc lộ bản thân:cô hỏi trẻ nhà con có em bé không ?Con thường làm gì với em bé nếu em đòi đồ chơi của con thì con làm gì ?Từ đó cô có thể kể chuyện có nội dung về gia đình cho trẻ nghe.
-Hoặc giờ hoạt động góc :
Góc là khu vực riêng biệt trong nhóm nơi trẻ có thể làm việc một mình hoặc theo nhóm nhỏ theo hứng thú và nhu cầu riêng để trẻ xem xét và khám phá .Cô giáo có thể làm việc riêng với từng nhóm nhơ mà không sợ ảnh hưởng đến sự hoạt động tích cực của trẻ ,ở đây trẻ được thoải mái về không gian và thời gian …
-Sinh hoạt chiều :Đây là thời gian lý tưởng để cô giáo tổ chức cho trẻ làm quen chọn vẹn với một truyện cổ tích đúng các bước làm quen với tác phẩm văn học.
e,Phối hợp với phụ huynh
-Để việc giáo dục đạt hiệu quả tốt nhất tôi dã phối hợp chặt chẽ với phụ huynh ,từ đầu năm giáo viên đã thông báo chương trình học của cả một năm cho phụ huynh nắm được
– Tuyên truyền với phụ huynh về lợi ích của truyện cổ tích Việt Nảmtong quá trình giáo dục trẻ. Đến đầu chủ điểm tôi cho phụ huy n muợn phô tô những câu truyện đã chọn cho phụ huynh xem .Phát cho phụ huynh nhũng bản phụ huynh phô tô đẻ phụ huynh kể cho con em mình nghe.
-Giáo dục lễ giáo cho trẻ không thể tách rời khỏi gia đình vì giáo dục tình yêu là nội dung cơ bản của giáo dục lòng nhân ái cho trẻ.
Giáo viên luôn trò chuyện tuyên truyền với phụ huynh về các nội dung giáo dục đạo đức ,hành vi đạo đức phù hợp với trẻ để phụ huynh phối hợp rèn trẻvà dạy trẻ tại gia đình .
4.Kết quả đạt được như sau:
Sau một thời gian thực hiện với lòng kiên trì lòng say mê kết hợp với việc sử dụng các biện pháp trên một cách linh hoạt .Tôi nhạn thấy nội dung mình lựa chọn đạt kết quả như sau:
-Tạo cho trẻ hứng thú hoạt động làm quen với văn học đặc biệt là truyện cổ tích Việt Nam,giờ hoạt động góc nhiều trẻ thích chơi ở góc sách hơn.
-Trẻ tiếp thu được những chuẩn mực đạo đức gần gũi trong cuộc sống hằng ngày .
-Giáo dục lễ giáo không chỉ thể hiện trong giờ
học mà còn được thể hiện ở tất cả các hoạt động;
+Giờ chơi ,góc chơi , trẻ biết hòa thuận không tranh giành đồ chơi
+Đối với mọi người biết chào hỏi lễ phép biết nhường nhị em nhỏ .
+Đối với gia đình : không quấy rầy vòi vĩnh bố mẹ biết yêu thương chia sẻ tình cảm với người thân trong lúc vui buồn .
+ Đối với thiên nhiên : Không bẻ cành ,hái hoa ,…hình thành đức tính tốt :Ngăn nắp ,gọn gàng ,tính tự lập.
Kết quả khảo sát như sau:
Vởy giáo dục tình cảm đạo đức cho trẻ mẫu giáo là vô cùng quan trọng như đầu bài viết tôi đã nêu có phải chăng văn học góp pần cốt lõi cho việc giáo dục con người ,con người có phẩm chất đạo đức có tình yêu thương, con người giàu lòng nhân nghĩa khi trưởng thành .
Vậy ngay từ bây giờ tôi và các bạn hãy làm tốt công tác giáo dục này góp phần chúng tôi đất nước sau này .
Tóm lại ,để gióa dục tình cảm đạo đức cho trẻ thông qua truyện cổ tích Việt Nam đạt hiệu quả cao . Tôi rút ra một số kinh nghiệm sau:
-Lập kế hoạchchi tiết cho từng chủ điểm .
-Chuẩn bị đồ dùng đẹp ,sinh động hấp,dẫn trẻ.
-Bản thân giáo viên luôn học hỏi ,tìm tòi,rèn luyện giọng kể .
-Phối hợp với ban phụ huynh lớp cũng như từng phụ huynh để nắm chắc tình hình ,tính cách của từng cá nhân trẻ ,có phưong pháp tác động kịp thời ở lớp cũng như ở nhà.
3.Khuyến nghị:
Tôi mong muốn nhà trường tạo điều kiện về thời gian và kinh phí đẻ giáo viên được học hỏi thêm các lớp làm đồ dùng đồ chơi trang trí lớp cho đẹp và phong phú.Nhà trường tạo điều kiện hơn nữa cho các giáo viên di tham quan quan học hỏi ,trao đổi kinh nghiệm với các giáo viên khác ở các trường khác trong huyện trong thành phố. Từ đó chúng tôi học hỏi được kinh nghiệm của các đồng nghiệp về các phương pháp chăm sóc giáo dục trẻ để phục vụ cho việc giảng dạy được tốt hơn.
Bạn đang xem bài viết Giáo Dục: Tích “Sạn” Thành Sỏi Và Chuyện … “Ngáo Chữ” trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!