Cập nhật thông tin chi tiết về Khái Niệm Lãnh Đạo Và Quyền Lực mới nhất trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Kết quả
Khái niệm lãnh đạo và quyền lực:
Lãnh đạo là một quá trình gây ảnh hưởng đến các hoạt động của một cá nhân hay một nhóm nhằm đạt được mục đích trong tình huống nhất định.
Ảnh hưởng này có thể chính thức hoặc không chính thức. Ảnh hưởng chính thức khi cá nhân giữ một vị trí quản lý nào đó trong tổ chức. Vị trí này có kèm theo một số thẩm quyền nhất định. Ảnh hưởng không chính thức xuất hiện khi cá nhân là người có uy tín trong một nhóm
Các thuật ngữ “lãnh đạo” và “quản lý” thường được dùng lẫn lộn, nhưng thực chất, giữa các thuật ngữ này có một số khác biệt nhất định. Quản lý thường được hiểu là việc thực hiện các chức năng cơ bản như kế hoạch hóa, tổ chức, điều phối và kiểm soát các hoạt động để đạt được các mục tiêu của tổ chức. Do vậy, các nhà quản lý sẽ quan tâm hơn tới các mục tiêu ngắn hạn và hiệu quả trong việc đạt các mục tiêu đó. Trong khi đó, các nhà lãnh đạo lại có cái nhìn tổng quát hơn, hướng đến những mục tiêu dài hạn, chú trọng vào các vấn đề trao đổi, giao tiếp, thúc đẩy, tạo động lực và thu hút người lao động vào thực hiện mục tiêu.
Nói một cách khác, người quản lý làm cho nhân viên phải tuân thủ do thẩm quyền từ vị trí của họ, còn người lãnh đạo sẽ khiến những người khác nỗ lực làm việc bằng cách chia sẻ, trao đổi, động viên và thu hút họ. Ngoài ra, những người lãnh đạo không chỉ có trong các nhóm chính thức, tức là các nhóm tuân thủ hệ thống thức bậc quản lý nhất định, mà còn có trong cả các nhóm không chính thức.
Phong cách lãnh đạo được hiểu là cách thức điển hình mà người quản lý thực hiện chức năng và đối xử với nhân viên của mình. Các phong cách lãnh đạo khác nhau sẽ ảnh hưởng đến mức độ sử dụng quyền lực của nhà quản lý và mức độ tham gia của nhân viên trong việc ra quyết định. Những nghiên cứu của Tannenbaum và Schmidt năm 1973 cho thấy có bốn loại phong cách lãnh đạo điển hình sau đây:
Chuyên quyền (Tells): Người quản lý quyết định mọi vấn đề và hướng dẫn cho nhân viên thực hiện. Nhân viên không được tham gia bất cứ ý kiến gì vào quá trình này.
Thuyết phục (Sells): Người quản lý vẫn quyết định mọi vấn đề, giải thích cho nhân viên và cố gắng thuyết phục, khuyến khích họ thực hiện các quyết định ấy một cách tự nguyện
Các phong cách lãnh đạo có thể được trình bày ở hình sau:
Quyền lực là khả năng gây ảnh hưởng tới các quyết định cá nhân hay tập thể. Chẳng hạn, một người nắm giữ quyền lực có thể buộc một nhân viên dưới quyền mình phải đảm bảo tiến độ công việc chung, bất kể bản thân anh ta có muốn hay không
Khía cạnh quan trọng nhất của quyền lực là sự phụ thuộc. Sự phụ thuộc của một người vào người khác càng lớn bao nhiêu thì quyền lực của người thứ hai đối với người thứ nhất càng mạnh bấy nhiêu.
Một người có thể có quyền lực đối với người khác chỉ khi người đó kiểm soát cái mà người kia muốn. Chẳng hạn, nếu tiền ăn học của một cá nhân nào đó hoàn toàn do một người anh cung cấp, khi đó người anh sẽ có quyền lực, bởi vị có sự phụ thuộc về tài chính trong quan hệ anh – em. Nhưng khi người đó ra trường, có công ăn việc làm và có thu nhập ổn định, quyền lực của người anh có thể sẽ giảm đi đáng kể.
Tính phụ thuộc có quan hệ tỷ lệ nghịch với các nguồn cung ứng thay thế. Khi một người sở hữu bất cứ thứ gì mà những người khác đòi hỏi nhưng chỉ riêng người đó có quyền kiểm soát, thì khi đó người chủ sở hữu lập tức có quyền lực bởi vì những người khác phụ thuộc vào anh ta. Ngược lại, nếu một cái gì đó có dồi dào, việc sở hữu nó sẽ không làm tăng quyền lực. Nếu mọi người đều thông minh, thì sự thông minh sẽ không đem lại cho ai lợi thế.
Trong số những người siêu giàu, tiền không phải là quyền lực. Nhưng, nếu một cá nhân có thể tạo ra một sự độc quyền bằng cách kiểm soát nguồn thông tin hoặc bất cứ thứ gì những người khác cần có, thì họ trở nên phụ thuộc vào cá nhân đó. Ngược lại, khả năng lựa chọn càng nhiều thì sự độc quyền càng ít.
Nguyên tắc này lý giải, tại sao hầu hết các tổ chức lại sử dụng nhiều nhà cung cấp chứ không mua hàng của một nhà cung cấp duy nhất. Nó cũng lý giải tại sao nhiều người trong số chúng ta muốn có được sự độc lập tài chính. Độc lập tài chính làm giảm quyền lực của những người khác đối với bản thân mình.
Sự phụ thuộc tăng lên khi nguồn lực mà một cá nhân hay một tổ chức nào đó kiểm soát có ý nghĩa quan trong và khan hiếm.
Tầm quan trọng: Nếu không một ai muốn có những gì mà một cá nhân đang kiểm soát thì sẽ không có sự phụ thuộc. Vì vậy, để tạo ra sự phụ thuộc, người ta phải kiểm soát những gì được xem là quan trọng.
Sự khan hiếm: Nếu cá nhân nhay tổ chức sở hữu những gì có nhiều, việc đó sẽ không làm tăng thêm quyền lực của cá nhân hay tổ chức đó. Một nguồn lực cần phải được xem là khan hiếm để tăng tính phụ thuộc.
Điều này giải thích tại sao trong một tổ chức đôi khi nhân viên cấp dưới có hiểu biết hay thông tin quan trọng mà những người lãnh đạo cấp cao không có thường vượt quyền. Quan hệ giữa sự khan hiếm đối với tính phụ thuộc có khả năng tạo ra những hành vi vô lý như không thực hiện các chỉ dẫn trong công việc, khước từ việc đào tạo những người khác, tạo ra ngôn ngữ và thuật ngữ chuyên môn không cho người ngoài hiểu được công việc của họ hoặc thực hiện công việc một cách bí mật nhằm làm cho hoạt động trở nên phức tạp và khó hơn trong thực tế.
Quan hệ khan hiếm – Quan hệ phụ thuộc còn có thể được thấy nhiều hơn trong quyền lực của các loại nghề nghiệp. Những cá nhân làm các nghề mà cầu nhiều hơn cung có thể đặt ra các yêu cầu về lương bổng, phúc lợi cao hơn nhiều so với những người làm các nghề mà cung nhiều hơn cầu.
Quyền lực khác với quyền uy. Quyền lực là sức mạnh nhận được từ bên ngoài. Quyền lực có thể tồn tại nhưng không được sử dụng. Vì vậy, nó là một khả năng hay tiềm năng. Người ta có thể có quyền lực nhưng không áp đặt nó. Chẳng hạn, người lãnh đạo có quyền kỷ luật nhân viên nếu anh ta luôn không hoàn thành công việc, nhưng người lãnh đạo đã không làm điều đó khi hiểu rõ hoàn cảnh khó khăn của nhân viên này và những nguyên nhân khiến anh ta không thể hoàn thành công việc.
Quyền uy là sức mạnh phát sinh tự nhiện từ bên trong, được hình thành trên cơ sở nhân cách và khả năng thực sự của người lãnh đạo. Chẳng hạn, cách ứng xử tế nhị của người lãnh đạo có thể làm cho nhân viên nể trọng và nỗ lực hơn trong công việc.
Trong một tổ chức nếu quyền uy nhỏ và quyền lực lớn thì tổ chức sẽ suy thoái. Ngược lại, nếu quyền uy đi trước và quyền lực phát sinh theo sau thì tổ chức sẽ vững mạnh.
(quantri.vn biên tập và số hóa)
Đảng Lãnh Đạo, Đảng Cầm Quyền: Quan Niệm Và Quan Hệ
Đảng lãnh đạo, đảng cầm quyền: quan niệm và quan hệ
Đại hội X, Đảng ta đã xác định: “Nghiên cứu, tổng kết, tiếp tục làm rõ quan điểm về Đảng lãnh đạo và Đảng cầm quyền làm cơ sở đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng một cách cơ bản, toàn diện”. Đại hội XI, trong phương hướng, giải pháp xây dựng Đảng những năm tới, Đảng ta tiếp tục xác định: “Tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ một số vấn đề về đảng cầm quyền”. Đại hội XII, trên cơ sở tổng kết 30 năm đổi mới, Đảng ta khẳng đinh: “Nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng và bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng có hiệu lực, hiệu quả; giữ vững bản lĩnh chính trị của Đảng, của các tổ chức đảng, của cán bộ, đảng viên”. Nghiên cứu làm rõ các vấn đề Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền trong giai đoạn hiện nay là vấn đề hết sức cần thiết, làm cơ sở cho Đảng ta tiếp tục đổi mới về nội dung, phương thức lãnh đạo.
Đảng cầm quyền, đảng lãnh đạo là phạm trù thuộc khoa học Chính trị. Mặc nhiên vậy, song tới nay không phải đã hết những ý kiến khác nhau thậm chí trái chiều nhau. Bài viết góp phần tạo nên sự thống nhất về nhận thức tạo cơ sở cho hành động đúng đắn và sáng tạo trong đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo nhằm nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng trong thời kỳ mới.
1. Đảng chính trị (political party)
Trong lịch sử, sự ra đời của đảng chính trị (ĐCT) gắn liền với các cuộc đấu tranh giai cấp và sự hình thành nhà nước. Điều đó có nghĩa là, chỉ khi cuộc đấu tranh giai cấp phát triển đến giai đoạn cao, đấu tranh chính trị, đảng chính trị mới xuất hiện.Và, đương nhiên nó cũng chỉ tồn tại trong điều kiện xã hội còn giai cấp. Cùng với sự phát triển của đời sống xã hội, ĐCT ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong hệ thống tổ chức quyền lực, thực hiện các hoạt động tập hợp, tổ chức lực lượng những người cùng chính kiến, quan điểm để đấu tranh vì mục tiêu giai cấp, giành quyền lực nhà nước và sử dụng quyền lực đó cho các lợi ích của giai cấp. Ngày nay, các đảng chính trị phát triển với nhiều hình thức, ở khắp các quốc gia trên thế giới. Tương ứng với cơ cấu giai cấp của nó, các đảng chính trị có thể là đảng tư sản, đảng vô sản, đảng nông dân, đảng địa chủ, đảng tiểu tư sản, cũng có thể là liên minh giai cấp (giữa tư sản và địa chủ…). Khái niệm ĐCT, tùy vào những cách tiếp cận khác nhau, có những quan niệm khác nhau.
Nhà Đảng học người Pháp M. Duverger, tiếp cận từ góc độ tranh cử, giành chính quyền, cho rằng đảng chính trị là tổ chức của những người tự nguyện, được lập ra để tranh cử vào các cơ quan công quyền. Tác giả cuốn Từ điển Chính quyền và chính trị Hoa Kỳ, Jay M. Shafrits tiếp cận từ góc độ quyền lực công, cho rằng ĐCT là tổ chức tìm cách nắm quyền lực chính trị bằng cách bầu thành viên của mình vào các cơ quan nhà nước, nhờ đó tư tưởng chính trị của họ được phản ánh trong chính sách công cộng
Từ điển Bách khoa Triết học Liên Xô, tiếp cận từ góc độ giai cấp, định nghĩa: ĐCT là một tổ chức chính trị thể hiện những lợi ích của một giai cấp, hay một tổ chức xã hội, liên kết những đại diện ưu tú nhất của giai cấp để lãnh đạo giai cấp đạt tới mục đích, lý tưởng nhất định.
Đại từ điển tiếng Việt định nghĩa: đảng là một nhóm người kết lại với nhau để hoạt động với những mục đích nhất định; là tổ chức chính trị đại diện và đấu tranh vì quyền lợi của một giai cấp, một tầng lớp xã hội.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin luôn khẳng định ĐCT là đội tiên phong của một giai cấp (hay một tầng lớp) nào đó, được tổ chức dựa trên nền tảng hệ tư tưởng nhất định, hoạt động theo điều lệ, cương lĩnh, chiến đấu vì mục tiêu, lý tưởng xác định.
ĐCT là một dạng đặc biệt của tổ chức xã hội. Nó khác với các hiệp hội, liên đoàn hay các nghiệp đoàn xã hội ở cách thức tổ chức và đặc biệt là cách thức hoạt động và mục tiêu đậm tính chính trị- đoạt, sử dụng quyền lực chính trị, tập trung ở quyền lực nhà nước.
Từ tất cả sự phân tích trên có thể đưa ra một quan niệm chung về ĐCT như sau: Đảng chính trị (hay còn gọi là chính đảng), là một tổ chức chính trị đại diện của một giai cấp, một lực lượng xã hội, có (hoặc không có) tư cách pháp nhân, gồm những người có cùng chứng kiến, tự nguyện tham gia hoạt động liên tục, nhằm thực hiện mục tiêu giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước. Nói cách khác, ĐCT là tổ chức chính trị bao gồm những người tự nguyện, có cùng chính kiến, đại diện và bảo vệ lợi ích của một giai cấp, một tầng lớp xã hội, hoạt động chủ yếu vì mục tiêu giành quyền lực nhà nước và sử dụng quyền lực đó nhằm thực hiện lý tưởng của giai cấp.
Trong các nền chính trị đa đảng, tuỳ theo tương quan lực lượng và năng lực chủ quan của mỗi đảng, các ĐCT có thể là đảng cầm quyền, liên minh cầm quyền hoặc ở vị trí đối lập (không cầm quyền), thậm chí ở vị trí bất hợp pháp.
Để thực hiện mục tiêu của mình nhất là với đảng cầm quyền, ĐCT phải thực hiện các hoạt động theo chức năng là tập hợp, giáo dục cử tri, người dân tham gia vào đời sống chính trị; lựa chọn để cung cấp nguồn nhân lực cho bộ máy chính quyền nhà nước và hoạch định đường lối, chính sách quốc gia nhằm duy trì sự thống trị về chính trị và thực hiện lợi ích của giai cấp.
2. Đảng lãnh đạo(Party leadership)
ĐCT là vấn đề trọng tâm của hệ thống chính trị. Tuy nhiên, quyền lực chính trị của ĐCT xét ở góc độ nào đó chỉ là “quyền lực tư” của giai cấp, nhóm xã hội, không phải là “quyền lực công”, không phải là quyền lực nhà nước. Chừng nào mà ĐCT trở thành đảng cầm quyền thì quyền lực của nó được chuyển hóa thành “quyền lực công” hay quyền lực nhà nước và có tính quyết định đối với toàn xã hội.
Lãnh đạo là quá trình gây ảnh hưởng và dẫn đắt hành vi của cá nhân hay nhóm người nhằm hướng tới mục tiêu của tổ chức. Nói cách khác, lãnh đạo là việc đề ra mục tiêu, dẫn dắt, động viên, truyền cảm hứng cho mọi thành viên trong tổ chức nhằm thực hiện các mục tiêu đã đề ra. Nhiệm vụ lãnh đạo có thể thuộc một người hoặc một tổ chức.
– Đảng lãnh đạo là khái niệm chỉ chức năng, chức năng lãnh đạo của tổ chức đảng, khác với chức năng quản lý (kiến tạo) của Nhà nước, hoặc chức năng tập hợp quần chúng của các đoàn thể chính trị- xã hội.
Với Hồ Chí Minh, cùng với việc khẳng định vai trò quyết định của Đảng cách mạng, “Cách mạng trước hết phải Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy”, Người còn chỉ rõ thực chất của sự lãnh đạo: : “Lãnh đạo là làm đày tớ nhân dân và làm cho tốt”; “Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả các cán bộ, từ trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ cấp nào và ngành nào – đều phải là người đày tớ trung thành của nhân dân”
Có thể hiểu khái niệm Đảng lãnh đạo như sau:
Thứ nhất, “Đảng lãnh đạo” là một khái niệm chỉ chức năng của tổ chức đảng – chức năng lãnh đạo, đó là sự tác động, gây ảnh hưởng của Đảng (qua các tổ chức đảng và đảng viên) đối với quần chúng nhân dân và xã hội hướng quần chúng nhân dân đến việc thực hiện mục tiêu mà Đảng đã đề ra.
Thứ hai, Đảng lãnh đạo là một khái niệm chỉ phương thức hoạt động của một tổ chức chính trị tuyệt đối không sử dụng phương thức “cai trị” của tổ chức công quyền, dù tổ chức chính trị ở vị thế không cầm quyền hay cầm quyền.
Thứ ba, Đảng lãnh đạo là khái niệm để chỉ một hình thức của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh chính trị nhằm đoạt và sử dụng quyền lực nhà nước.
Thứ tư, Đảng lãnh đạo là khái niệm chỉ tất cả các cán bộ của Đảng ở bất kỳ cấp nào và ngành nào đều phải là người đày tớ trung thành của nhân dân.
Thuật ngữ “Đảng cầm quyền” lần đầu tiên được V.I.Lênin nêu ra từ trước Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, khi cho rằng: “bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng đứng ra nắm toàn bộ chính quyền”.
Trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Nga, ngày 27-3-1922, lần đầu tiên V.I. Lê-nin đưa ra khái niệm “Đảng cộng sản cầm quyền” có nghĩa là đảng lãnh đạo chính quyền, làm cho mọi hoạt động của chính quyền được thực hiện theo Cương lĩnh chính trị của Đảng và phục vụ cho lợi ích của nhân dân lao động. Nói cách khác, Đảng Cộng sản thực hiện sự lãnh đạo xã hội trong điều kiện có chính quyền, lãnh đạo chủ yếu bằng bộ máy công quyền để phục vụ cho lợi ích của nhân dân lao động.
Đảng cầm quyền là khái niệm dùng để phân biệt về vị thế, tư cách chính đảng của đảng chính trị đã nắm được chính quyền so với thời kỳ trước khi nắm chính quyền và so với các đảng khác chưa hoặc không nắm được chính quyền.
Khái niệm Đảng cầm quyền được hiểu theo hai nghĩa. Theo nghĩa rộng(cầm quyền tuyệt đối, nắm được toàn bộ nhà nước) là sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng đối với toàn xã hội, làm cho xã hội vận động theo quỹ đạo mà Đảng chính trị mong muốn; theo nghĩa hẹp (cầm quyền không tuyệt đối, chỉ nắm được cơ quan hành pháp) là Đảng chính trị trực tiếp nắm giữ được cơ quan hành pháp để duy trì, áp đặt ý đồ chính trị của Đảng đối với xã hội.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm xây dựng và củng cố Đảng, coi đó là nhiệm vụ quan trọng của Đảng và của mỗi đảng viên chân chính. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền là hệ thống các quan điểm lý luận mang bản chất cách mạng, khoa học và sáng tạo về Đảng và công tác xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng đã có chính quyền, bảo đảm thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa. Theo Hồ Chí Minh, cách mệnh “trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt…Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ mục đích của Đảng cầm quyền: “không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của tổ quốc và của nhân dân”. Theo Hồ Chí Minh, là Đảng Cộng sản cầm quyền, Đảng phải hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ trung thành của nhân dân.
Trong bản Di chúc lịch sử, Người đã khẳng định: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền”. Và Người cũng đã căn dặn: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.”
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, Điều lệ Đảng được Đại hội X của Đảng thông qua cũng khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền”. Khái niệm “Đảng cầm quyền” là để chỉ vị thế, tư cách chính đáng của Đảng khi Đảng đã giành được chính quyền, Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội chủ yếu bằng quyền lực của bộ máy công quyền và bằng sự gương mẫu của đội ngũ đảng viên.
Thuật ngữ “đảng cầm quyền” được sử dụng tương đồng với các thuật ngữ như “đảng chấp chính” hay “đảng nắm chính quyền”…
Nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng khi đã giành được chính quyền khác rất nhiều so với khi chưa có chính quyền.
Trước khi có chính quyền, phương thức lãnh đạo của Đảng chủ yếu là các tổ chức đảng và đảng viên trực tiếp tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương đến các hội, đoàn thể, quần chúng “cốt cán”, thậm chí đến từng người dân; từ đó tổ chức nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng. Quan hệ của Đảng với nhân dân là quan hệ máu thịt; mọi sự xa rời nhân dân đều có thể dẫn đến tổn thất cho cách mạng, cho sinh mệnh của ngay bản thân tổ chức đảng và đảng viên..
Khi đã có chính quyền thì chính quyền là công cụ mạnh mẽ, sắc bén nhất để đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng vào cuộc sống, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội. Trong phương thức cầm quyền, ngoài cách thức tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục nhân dân, Đảng lãnh đạo, can thiệp vào chính quyền (Nhà nước) thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng thành Hiến pháp, pháp luật, chính sách, kế hoạch… và tổ chức nhân dân thực hiện. Thực chất của Đảng cầm quyền là: Đảng lãnh đạo chính quyền và bằng sức mạnh của quyền lực công (công quyền, không phải quyền lực riêng của Đảng- tư quyền) tổ chức, tập hợp, hướng dẫn, tạo động lực cho nhân dân làm chủ Nhà nước, làm chủ xã hội thực hiện thắng lợi mục tiêu mà Đảng cầm quyền đã đề ra. Nghĩa là Đảng can thiệp về phương diện chính trị một cách chính đáng vào Nhà nước, để Nhà nước được tổ chức và vận hành vì mục đích của Đảng cầm quyền, thống nhất với lợi ích của nhân dân.
Trong điều kiện Đảng đã có chính quyền, V.I.Lênin đã cảnh báo các nguy cơ: sai lầm về đường lối, quan liêu, xa rời quần chúng và kiêu ngạo cộng sản. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã cảnh báo, sau khi nắm chính quyền, Đảng có nguy cơ sai lầm về đường lối và suy thoái của cán bộ, đảng viên. Người yêu cầu cần phải chiến thắng ba thứ giặc nội xâm là tham ô, lãng phí, quan liêu; nếu không sẽ làm đổ vỡ cả sự nghiệp của một Đảng cầm quyền.
Trong xã hội dân chủ, đảng cầm quyền là đảng giành chiến thắng trong các cuộc bầu cử dân chủ và cạnh tranh; đảng nắm giữ những vị trí chủ chốt trong hệ thống quyền lực nhà nước để kiểm soát quá trình hoạch định và thực thi chính sách công; đảng lãnh đạo những người của đảng trong hệ thống quyền lực nhà nước thực hiện mục tiêu của đảng thông qua chính sách của nhà nước.
Theo cách hiểu phổ biến hiện nay, Đảng cầm quyền là đảng đã giành được chính quyền và thực hiện quyền lãnh đạo về mặt chính trị đối với nhà nước và xã hội, chủ yếu bằng sức mạnh của quyền lực công thực hiện Cương lĩnh phát triển đất nước của đảng cầm quyền, phục vụ lợi ích của giai cấp cầm quyền và vì lợi ích quốc gia, dân tộc mà đảng cầm quyền và nhà nước đó đại diện.
Đảng cầm quyền là một bộ phận quan trọng của hệ thống chính trị và là hệ quả hoạt động tất yếu của các lực lượng chính trị ở các quốc gia và theo đó, nó là hiện tượng phổ biến trên thế giới hiện nay. Tại không ít các nước trên thế giới, các chính đảng – nhờ có chiến lược, phương thức hoạt động phù hợp – đã là đảng cầm quyền trong thời gian khá dài, đồng thời đã đóng góp quan trọng trong việc chấn hưng đất nước.
Tuy có sự khác biệt giữa đảng cầm quyền trong một hệ thống chính trị đa đảng với đảng cầm quyền trong hệ thống chính trị có một đảng duy nhất cầm quyền, song giữa hai hệ thống cầm quyền vẫn có điểm chung đó là đảng cầm quyền phải có năng lực cầm quyền. Theo các tác giả của đề tài cấp nhà nước Mã số: KX.10.04, do chúng tôi Đỗ Hoài Nam làm chủ nhiệm cho rằng, năng lực cầm quyền của Đảng cầm quyền được thể ở 3 yếu tố quan trọng nhất:
1) Có lý luận cầm quyền đúng.
Trong một xã hội có nhiều giai cấp, nhiều tầng lớp, có thể có nhiều đảng phái, trong đó có đảng cầm quyền, đảng không cầm quyền. Ở mỗi nước, căn cứ vào những điều kiện lịch sử cụ thể, trong từng giai đoạn nhất định, tùy theo tương quan lực lượng mà có thể một đảng cầm quyền hay liên minh hai hoặc nhiều đảng cầm quyền. Đối với các nước theo chế độ đa đảng, khái niệm đảng cầm quyền gồm hai trường hợp.
Thứ nhất: một đảng duy nhất cầm quyền khi đảng đó chiếm đa số trong nghị viện, có quyền lập chính phủ (trong nhiệm kỳ của Quốc hội, nghị viện).
Thứ hai: một số đảng liên minh cầm quyền lập nên chính phủ liên hợp với một đảng làm nòng cốt.
4. Quan hệ giữa Đảng lãnh đạo và Đảng cầm quyền
Các nước XHCN đều có một đảng cộng sản cầm quyền mặc dù có nước vẫn duy trì chế độ đa đảng như Trung Quốc, ngoài Đảng cộng sản là Đảng chấp chính còn có 8 đảng phái dân chủ tham chính nhưng vẫn chấp nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc.Việt Nam, Cu Ba hiện nay chỉ có một Đảng cộng sản duy nhất là đảng cầm quyền. Dù ở các nước theo chế độ một đảng hay đa đảng thì đảng cầm quyền vẫn là đảng lãnh đạo chính quyền, chi phối chính quyền, chủ yếu bằng sức mạnh của quyền lực công để lãnh đạo toàn xã hội, làm cho các hoạt động của bộ máy chính quyền thể hiện và thực hiện tư tưởng, đường lối của đảng, phục vụ cho giai cấp, tầng lớp mà đảng đó đại diện.
Về thực chất, quan hệ giữa đảng lãnh đạo và đảng cầm quyền, như trên đã phân tích được phân biệt ở vị thế, tư cách, nội dung và phương thức lãnh đạo
– Về vị thế, Đảng cầm quyền là khái niệm để phân biệt với đảng chưa hoặc không cầm quyền; đồng thời để phân biệt với chính đảng cầm quyền ở giai đoạn chưa cầm quyền. Trong các nước thực hiện chế độ đa đảng; vị thế của đảng cầm quyền khác hẳn với đảng không cầm quyền hoặc đảng đối lập. Đảng cầm quyền được “áp đặt” chủ trương, đường lối, tất nhiên là chính đáng buộc nhà nước phải tuân thủ. Đảng cầm quyền được sử dụng sức mạnh của bộ công quyền, trong đó công quyền và cả sức mạnh của “tư quyền- quyền lực của đảng” để thực hiện chủ trương, đường lối chính trị. Ngược lại, đảng không cầm quyền chỉ với tư cách là đảng chính trị gây áp lực đối với đảng cầm quyền để điều chỉnh chủ trương, chính sách hoặc phương thức hiện thực hóa chủ trương chính sách và chỉ có tư cách bình đẳng một cách tương đối trong cạnh tranh bầu cử.
– Về tư cách, đảng cầm quyền có đủ tư cách để can thiệp vào bộ máy công quyền để buộc bộ máy công quyền thực hiện định hướng chính trị thông qua cơ chế “pháp luật hóa và chính sách hóa”. Còn đảng không nắm quyền chỉ có thể gây áp lực trong khuôn khổ pháp luật có tư cách bình đẳng trong tranh cử. Tất nhiên trong chế độ đa đảng, trừ đảng liên minh, còn các đảng khác được xem là đảng đối lập thì tư cách của các đảng đối lập là thuộc loại “yếu thế”
– Về nội dung lãnh đạo, đảng cầm quyền thực hiện lãnh đạo trên các lĩnh vực từ kinh tế đến chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, đối ngoại, nói chung là thực hiện sự lãnh đạo toàn diện, còn đảng không cầm quyền, kể cả đảng cầm quyền ở giai đoạn trước cầm quyền thì chỉ được lãnh đạo nội dung chính trị và chừng mực gây áp lực trên các lĩnh vực khác.
Nguyên Phó Giám đốc Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
Quyền Và Uy Của Người Lãnh Đạo
Người được giữ chức vụ là người có quyền uy được đảm bảo bằng sức mạnh của tổ chức (theo Điều lệ Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước). Quyền uy là tất yếu cần thiết của lãnh đạo và quản lý. Nhưng sức mạnh của quyền uy không chỉ do tổ chức, mặc dầu đó là yếu tố quan trọng, nhất thiết phải có để duy trì và phát triển tổ chức, để hiện thực hoá mục tiêu của tổ chức.
Người được giữ chức vụ là người có quyền uy được đảm bảo bằng sức mạnh của tổ chức (theo Điều lệ Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước). Quyền uy là tất yếu cần thiết của lãnh đạo và quản lý. Nhưng sức mạnh của quyền uy không chỉ do tổ chức, mặc dầu đó là yếu tố quan trọng, nhất thiết phải có để duy trì và phát triển tổ chức, để hiện thực hoá mục tiêu của tổ chức. Quyền uy còn phải có sức mạnh do chính bản thân người được nắm giữ quyền lực. Đó là trí tuệ, là năng lực thực tế, là khả năng giải quyết các công việc cả ở tầm chiến lược lẫn những công việc thường ngày. Đó là bản lĩnh và dũng khí cách mạng khi giải quyết các tình huống cụ thể, không né tránh, nể nang, không cầu an, dao động… Đó là tư cách người cán bộ cách mạng, người công bộc của dân, biết sống liêm, chính, kiệm, cần, công khai và công minh, trung thực, không gian giảo vun vén cá nhân, tham nhũng, bao che, không ăn chơi sa đoạ, truỵ lạc. Và, quan trọng hơn là phải làm người chiến sĩ kiên cường chống lại các tệ nạn, tội lỗi nói trên để làm trong sạch đội ngũ, giữ gìn và đắp bồi uy tín của Đảng và Nhà nước. Đó là nói phải đi đôi với làm và làm có kết quả, không ba hoa, dối trá, nguỵ biện, du đẩy trách nhiệm cho người khác…
Lời dạy của Bác Hồ: “Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”
Sức mạnh cá nhân của từng nhà lãnh đạo, quản lý tạo ra và nhân lên niềm tin của người dân đối với họ.
Sức mạnh của tổ chức là điều kiện cần
Sức mạnh của cá nhân là điều kiện đủ.
Đó là nội hàm của khái niệm uy tín.
(Uy là oai: oai quyền; tín là tin, niềm tin)
Người ở trong bộ máy hành chính nhà nước, theo Bác Hồ, là người đại diện cho oai tín của Chính phủ.
Người giữ chức vụ có uy tín có sức mạnh buộc người khác phải phục tùng. Người ta phục tùng không những chỉ vì tuân thủ kỷ luật Đảng và pháp luật mà còn do niềm tin nơi đồng chí.
Người có chức quyền phải có phương pháp khoa học và thói quen biết lắng nghe, nhất là nghe những lời nói trái với suy nghĩ của mình để biết rằng cấp dưới, quần chúng có đang phục tùng bằng cả trái tim và khối óc – tức là phục tùng một cách tự do, tự nguyện – một sự phục tùng chân lý hay chỉ là phục tùng một cách cưỡng bức, ấm ức, sợ sệt không dám nói ra. Bác Hồ đã dạy: “Người lãnh đạo muốn biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của mình, muốn biết công tác của mình tốt hay xấu, không gì bằng khuyên cán bộ mình mạnh bạo đề ra ý kiến và phê bình…
Nếu cán bộ không nói năng, không đề ý kiến, không phê bình, thậm chí lại tâng bốc mình, thế là một hiện tượng rất xấu. Vì không phải họ không có gì nói, nhưng vì họ không dám nói, họ sợ. Thế là mất dân chủ trong Đảng. Thế là nội bộ của Đảng âm u, cán bộ trở nên những cái máy, trong lòng uất ức không dám nói ra, do uất ức mà hoá ra oán ghét, chán nản”(1).
Nhà lãnh đạo, nhà quản lý phải theo gương Bác Hồ và các vị tiên liệt: Ngày đêm vỗ gối, vò võ suy tư để trả lời câu hỏi “Ta phải như thế nào?” để xứng đáng với “Cơm dân, lộc nước”, để cùng tập thể làm tròn sứ mệnh: “Chúng mình nặng nợ quốc gia. Quyết làm rạng rỡ nước nhà Việt Nam” như Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết bày tỏ lời tâm huyết trước Quốc hội, trước quốc dân khi nhậm chức.
Nhà lãnh đạo, quản lý không phải là người làm được tất cả, mà là người hướng dẫn, người chèo lái, người nêu gương, dẫn dắt quần chúng làm cách mạng.
Cả nước, quốc dân đồng bào, tin cậy, quý mến những người được giao trách nhiệm lãnh đạo, quản lý có tài năng, có tâm trong sáng, vì nước, vì dân. Chúng ta tin tưởng vững chắc rằng, để trả “nợ quốc gia”, làm “rạng rỡ nước nhà”, các đồng chí được giao nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý ở tất cả các cấp, các ngành sẽ không quên lời dạy của Bác Hồ: “Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.
Muốn làm cách mạng phải cải cách tính nết mình trước tiên”(2)
PGS. Trần Đình Huỳnh Viện trưởng Viện Công nghệ Quản trị Nhân sự Châu Á
(Nguồn: Tạp chí Xây dựng Đảng)
(1) Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, H.2002, tập 5, tr.280. (2) Sđd, tr.552.
Các Khái Niệm Cơ Bản Về Lãnh Đạo
Các nhà lãnh đạo giỏi là người biết tận dụng và phát triển kĩ năng của mình thông qua quá trình tự học hỏi, giáo dục, đào tạo và tích lũy kinh nghiệm không ngừng.
Warren Bennis nói: ” Tôi đã từng nghĩ rằng, điều hành một tổ chức cũng giống việc chỉ huy một dàn nhạc giao hưởng. Nhưng có lẽ không hẳn là như vậy, việc này luôn ẩn chứa những ngẫu hứng, và dường như, nó mang hơi hướng của nhạc Jazz hơn “.
Một nhà lãnh đạo giỏi không phải do bẩm sinh mà nhờ rèn luyện. Nếu bạn có đủ khát vọng và ý chí, bạn hoàn toàn có thể trở thành một nhà lãnh đạo tài giỏi. Các nhà lãnh đạo này là người biết tận dụng và phát triển kĩ năng của mình thông qua quá trình tự học hỏi, giáo dục, đào tạo và tích lũy kinh nghiệm không ngừng (Jago, 1982). Bài viết này sẽ giúp bạn hiểu hơn những khái niệm này.
Để truyền cảm hứng cho nhân viên có tinh thần làm làm việc nhóm tốt hơn, có ba yếu tố bạn cần nắm rõ: Must be (Bạn phải trở thành người như thế nào), Must know (Bạn phải biết gì) và Must do (Bạn phải làm gì) . Những điều này không đến một cách tự nhiên, mà nó được tích lũy thông qua quá trình học tập và lao động liên tục. Các nhà lãnh đạo tài năng vẫn tiếp tục làm việc và học tập không ngừng để nâng cao kỹ năng lãnh đạo; họ không ngủ quên trên chiến thắng.
Định nghĩa về lãnh đạo
Lãnh đạo là một quá trình mà một người ảnh hưởng đến những người khác để thực hiện một mục tiêu nào đó, đồng thời hướng tổ chức tới sự gắn kết chặt chẽ.
Ngoài ra, người ta cũng thường định nghĩa lãnh đạo là một quá trình theo đó một cá nhân ảnh hưởng đến một nhóm các cá nhân khác để đạt được một mục tiêu chung – Northouse (2007, trang 3).
Ngay cả quân đội Mỹ cũng đã nghiên cứu vai trò lãnh đạo khá kĩ lưỡng. Một trong những định nghĩa mà họ đưa ra về lãnh đạo đó là: Lãnh đạo là một quá trình mà một người lính ảnh hưởng đến những người lính khác để hoàn thành một nhiệm vụ (U.S. Army, 1983).
Hãy nhớ rằng, tất cả ba định nghĩa trên đều có một điểm chung – một người ảnh hưởng đến những người khác để có thể đạt được mục tiêu cụ thể.
Trong quá trình trở thành một người lãnh đạo, kiến thức và kĩ năng của một người sẽ bị ảnh hưởng bởi các tố chất, niềm tin, tôn giáo, tính cách… Tuy nhiên, để trở nên khác biệt mỗi nhà lãnh đạo còn cần những yếu tố khác nữa.
Các nhân tố tố làm nên khả năng lãnh đạo
Theo U.S. Army (1983), có 4 nhân tố chính làm nên khả năng lãnh đạo:
Là người dẫn đầu
Bạn phải có cái nhìn chân thực về con người bạn, kiến thức cũng như khả năng mà bạn có. Ngoài ra, đừng quên rằng, người quyết định thành công của một đội không phải nhà lãnh đạo mà chính là các thành viên của đội đó. Nếu các thành viên không tin tưởng hay thiếu tự tin về khả năng của sếp, họ sẽ cảm thấy thiếu động lực làm việc. Bởi vậy, để thành công, bạn phải có khả năng thuyết phục những người theo sau bạn (chứ không phải bản thân bạn hay cấp trên của bạn) rằng mình là một người lãnh đạo có tài, xứng đáng để họ nghe theo.
Là người biết quan sát
Mỗi nhân viên phù hợp với một cách lãnh đạo khác nhau. Ví dụ, một nhân viên mới đòi hỏi sự giám sát chặt chẽ hơn một nhân viên kỳ cựu. Hay như một người thiếu động lực đòi hỏi một cách tiếp cận khác với một người có nhiều động lực. Để quản lý tốt nhân viên, trước hết hãy hiểu tính cách của họ: họ cần gì, họ cảm thấy ra sao và điều gì khiến cho họ có thêm động lực để làm việc… Nói một cách khác, bạn phải nắm bắt được cấp dưới của mình là ai, họ biết gì và làm được gì.
Giao tiếp
Bạn lãnh đạo thông qua việc trao đổi thông tin hai chiều. Việc giao tiếp này hầu hết được diễn ra dưới dạng phi ngôn ngữ.Ví dụ, khi bạn “làm gương cho nhân viên”, bạn đã truyền tải thông điệp rằng: Bạn không muốn nhân viên làm khác đi những thứ bạn làm. Nội dung cũng như cách thức truyền đạt sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới mối quan hệ giữa bạn và nhân viên.
Nắm bắt tình hình
Không phải tình huống nào cũng giống nhau, vì thế những gì bạn làm trong tình huống này chưa chắc sẽ hiệu quả trong tình huống khác. Bạn phải sử dụng khả năng đánh giá của mình để quyết định hành động tốt nhất và phong cách lãnh đạo cần thiết cho từng tình huống. Ví dụ, bạn cần phải nói chuyện trực tiếp với một nhân viên vì hành vi không phù hợp, nhưng nếu xử lý không khéo hoặc không đúng thời điểm, thì bạn sẽ không giải quyết được vấn đề.
Cũng lưu ý rằng, tình huống mà một nhà lãnh đạo gặp phải thường ảnh hưởng rất nhiều đến hành động của anh ta cho dù anh ta có tính cách ra sao. Điều này là do đặc điểm tính cách có tính ổn định trong một khoảng thời gian nhất định, tuy nhiên trong các tình huống khác nhau họ có thể có những phản ứng khác nhau (Mischel, 1968). Đây là lý do tại sao một số học giả cho rằng Thuyết về quá trình lãnh đạo chính xác hơn so với Thuyết về đặc điểm của nhà lãnh đạo.
Có rất nhiều tác nhân khác ảnh hưởng đến bốn nhân tố nói trên. Chẳng hạn như:
Mối quan hệ với cấp trên
Kỹ năng của cấp dưới
Những người lãnh đạo không chính thức trong công ty
Cách thức tổ chức của công ty
Thuyết của Bass về lãnh đạo
Thuyết của Bass nói rằng có ba cách cơ bản để giải thích cách chúng ta trở thành nhà lãnh đạo (Stogdill năm 1989; Bass, 1990). Nếu như hai cách đầu chỉ giải thích quá trình trở thành lãnh đạo đối với một số ít người, cách thứ 3 giờ đây đã trở thành một thuyết nổi bật. Ở đó, Bass chỉ ra rằng:
Một số đặc điểm tính cách có thể mang đến những vai trò lãnh đạo. Đây là thuyết về đặc điểm lãnh đạo.
Trong một cuộc khủng hoảng hoặc sự kiện quan trọng, một con người bình thường có thể trở nên nổi bật với tài lãnh đạo phi thường. Đây là thuyết về các sự kiện lớn.
Mọi người đều có thể chọn để trở thành nhà lãnh đạo. Người ta có thể học các kỹ năng lãnh đạo. Đây là Thuyết về quy trình lãnh đạo cũng như Khả năng lãnh đạo tạo nên sự chuyển đổi được ứng dụng rộng rãi nhất hiện nay và là cơ sở để phát triển nội dung cho bài viết này.
Quản lý hay lãnh đạo
Mặc dù quản lý và lãnh đạo có rất nhiều điểm tương đồng, (chẳng hạn như làm việc với con người và hoàn thành các mục tiêu); chúng khác nhau về một số chức năng chính (Kotter, 1990):
Chức năng chính của quản lý là trình tự và sự nhất quán trong một số quy trình như lập kế hoạch, thiết lập mục tiêu tài chính, tổ chức, biên chế và giải quyết vấn đề.
Chức năng chính của lãnh đạo là tạo ra sự thay đổi mang tính xây dựng. Chẳng hạn như có tầm nhìn để tạo ra hướng đi, gắn kết mọi người, động viên, và truyền cảm hứng.
Để biết thêm thông tin về sự khác nhau giữa quản lý và lãnh đạo xem chương tiếp theo: The Four Pillars: Lãnh đạo, quản lý, chỉ huy và kiểm soát
Ông chủ hay nhà lãnh đạo?
Mặc dù vị trí của bạn (với tư cách là một người quản lý, giám sát, lãnh đạo, v.v..) cho phép bạn có quyền thực hiện nhiệm vụ và mục tiêu nhất định trong tổ chức. Quyền hạn này không khiến bạn trở thành một nhà lãnh đạo mà chỉ trở thành một ông chủ. Lãnh đạo khác ở chỗ là khiến cho nhân viên muốn đạt được mục tiêu cao (gọi là Nhà lãnh đạo nổi bật), chứ không phải chỉ đơn giản là ra lệnh cho những người xung quanh (Rowe, 2007). Vì vậy, bạn chỉ thực sự nắm quyền lãnh khi được bổ nhiệm vào vị trí đó và bạn thể hiện Khả năng lãnh đạo nổi bật của mình thông qua việc chỉ đạo những người khác để hoàn thành những nhiệm vụ lớn.
Nhà lãnh đạo toàn diện
Điều gì làm cho một người muốn đi theo một nhà lãnh đạo? Ai cũng muốn được hướng dẫn bởi các nhà lãnh đạo họ tôn trọng và những người có định hướng rõ ràng. Để có được sự tôn trọng, họ phải có đạo đức.
Để thể hiện rằng mình là người có định hướng rõ ràng, các nhà lãnh đạo cần có tầm nhìn xa trông rộng về công việc trong tương lai. Khi nhân viên đưa ra quyết định liệu rằng họ có nên tôn trọng bạn với tư cách là nhà lãnh đạo hay không, họ sẽ quan sát hành động của bạn để xem bạn là ai, chứ không phải tính cách của bạn như thế nào. Họ dùng óc quan sát của mình để nhận diện xem liệu rằng bạn là một nhà lãnh đạo đáng kính trọng và tin cậy hoặc hay một người chuyên quyền luôn lạm dụng quyền hạn để để thể hiện bản thân cũng như được thăng cấp.
Mặt khác, các nhà lãnh đạo chuyên quyền làm việc không có hiệu quả vì nhân viên của họ chỉ làm theo những gì họ nói chứ không hề tâm phục khẩu phục. Những người này có thể thành công trong mắt của cấp trên ở nhiều khía cạnh vì họ chỉ luôn thể hiện hình ảnh đẹp.
Để lãnh đạo tốt bạn cần là một người đáng kính trọng và vị tha.. Trong mắt của nhân viên, khả năng lãnh đạo của bạn là tất cả mọi thứ bạn làm để hướng tới mục tiêu của công ty cũng như lợi ích của nhân viên.
Hai yếu tố quan trọng nhất để lãnh đạo hiệu quả
Theo một nghiên cứu của tập đoàn Hay, công ty tư vấn quản lý toàn cầu, có 75 yếu tố chính khiến cho nhân viên hài lòng ở người lãnh đạo của mình (Lamb, McKee, 2004). Họ nhận thấy rằng:
Hai yếu tố đáng tin cậy nhất về mức độ hài lòng của nhân viên là Niềm tin và Sự tự tin về khả năng của nhà lãnh đạo cấp cao.
Để có được sự tự tin và niềm tin của nhân viên, người lãnh đạo cần có khả năng giao tiếp hiệu quả về 3 khía cạnh sau:
Giúp nhân viên hiểu được toàn bộ chiến lược kinh doanh của công ty.
Giúp nhân viên hiểu được cách thức mà họ có thể đóng góp để đạt được mục tiêu kinh doanh quan trọng.
Chia sẻ thông tin với nhân viên về cách vận hành của công ty cũng như hiệu quả làm việc của mỗi cá nhân trong lĩnh vực của họ
Vì vậy, nói tóm lại – bạn phải đáng tin cậy và bạn có thể truyền đạt một tầm nhìn về nơi tổ chức cần phải đạt đến.
Nguyên tắc lãnh đạo
Để giúp bạn trở thành một nhà lãnh đạo, biết cách trở thành một nhà lãnh đạo, và hành động như một nhà lãnh đạo, hãy tuân theo 11 nguyên tắc lãnh đạo sau (Quân đội Hoa Kỳ, 1983).
1. Biết rõ bản thân mình và tìm cách để tự hoàn thiện bản thân– Để hiểu rõ chính mình, bạn phải hiểu bạn là ai, bạn biết những gì, và bạn hành động như thế nào. Tìm kiếm sự tự hoàn thiện có nghĩa là tiếp tục tăng cường ba thuộc tính nói trên của bạn. Điều này có thể được thực hiện thông qua tự học, các lớp học chính thức, phản ánh, và tương tác với những người khác.
2. Hãy thành thạo về kĩ thuật -Là một lãnh đạo, bạn phải biết công việc của bạn và có một sự hiểu biết sâu sắc về nhiệm vụ của nhân viên.
3. Tìm kiếm trách nhiệm và chịu trách nhiệm về hành động của bạn – Tìm cách để dẫn dắt tổ chức của bạn lên một tầm cao mới. Và khi mọi thứ đi chệch hướng (điều này là điều tất yếu), đừng đổ lỗi cho người khác. Phân tích tình hình, biện pháp khắc phục, và chuyển sang thử thách tiếp theo.
4. Hãy quyết định đúng đắn và kịp thời – Sử dụng các công cụ giải quyết vấn đề , ra quyết định, lập kế hoạch hiệu quả
5. Làm gương – Làm gương tốt cho nhân viên của bạn. Họ không phải chỉ nghe theo những gì bạn mong muốn ở họ mà còn mong muốn được mắt thấy tai nghe. Chúng ta phải thay đổi để trở thành mẫu người mà chúng ta mong đợi ở nhân viên- Mahatma Gandhi nói.
6. Hiểu nhân viên của bạn và mang lại niềm hạnh phúc đến cho họ– Hiểu được bản chất con người và tầm quan trọng của việc tận tình chăm sóc cho nhân viên.
7. Luôn thông báo cho nhân viên của mình về bất kỳ sự thay đổi nào trong công việc – Bạn không chỉ cần biết cách giao tiếp với nhân viên, mà còn với cấp trên và những người quan trọng khác.
8. Phát triển ý thức trách nhiệm trong đội ngũ nhân viên của bạn – Giúp cho nhân viên phát triển những đặc điểm tính cách tốt mà có khả năng hỗ trợ họ thực hiện trách nhiệm nghiệp vụ.
9. Đảm bảo rằng các nhiệm vụ đều được hiểu, giám sát và hoàn thiện – Giao tiếp là chìa khóa cho trách nhiệm này.
10. Đào tạo nhân viên như một đội – Mặc dù có nhiều người được gọi là nhà lãnh đạo coi tổ chức, phòng ban và bộ phận,… của họ như là một đội. Tuy nhiên, đây không hẳn là một đội thực sự mà chỉ là một nhóm người cùng làm một công việc.
11. Tận dụng toàn bộ khả năng của tổ chức của bạn – Bằng cách phát triển tinh thần đồng đội, bạn sẽ có thể tận dụng khả năng của tổ chức, phòng ban, cũng như các bộ phận của công ty.
Các thuộc tính của lãnh đạo: BE (Bạn là người như thế nào?), KNOW (Bạn biết những gì), và DO (Bạn có thể làm những gì?)
Các nhà lãnh đạo đáng kính của chúng ta vẫn thường tập trung vào 3 thuộc tính BE, KNOW và DO (Quân đội Hoa Kỳ, 1983):
Họ là người như thế nào? [ BE] (ví dụ như niềm tin và tính cách của họ)
Họ biết những gì? (chẳng hạn như về công việc, nhiệm vụ, và bản chất con người)
Họ có thể làm những gì? (chẳng hạn như thực thi nhiệm vụ, động viên và chỉ đạo).
BE: Trở nên chuyên nghiệp. Ví dụ: Hãy trung thành với tổ chức, vị tha, tự chịu trách nhiệm về hành động của mình.
BE: Trở thành một chuyên gia có những đặc điểm nhân cách tốt. Ví dụ: trung thực, thành thạo công việc, thật thà, cam kết, liêm khiết, dũng cảm, thẳng thắn , có óc tưởng tượng.
KNOW: Biết bốn nhân tố của lãnh đạo – người tuân theo, người lãnh đạo, giao tiếp và tình huống.
KNOW: Biết rõ mình. Ví dụ: điểm mạnh và điểm yếu trong tính cách, kiến thức, và kỹ năng của bạn.
KNOW: Biết bản chất con người. Ví dụ: nhu cầu nhân lực, cảm xúc, và cách mọi người xử lí khi gặp áp lực.
KNOW: Biết công việc của bạn. Ví dụ: thành thạo công việc và có thể đào tạo những người khác trong công việc của họ.
KNOW: Biết rõ tổ chức của bạn. Ví dụ: khi cần giúp đỡ thì tìm đến ai, văn hóa của công ty là gì, ai là những lãnh đạo không chính thức.
DO: Định hướng cho công việc. Ví dụ: thiết lập mục tiêu, giải quyết vấn đề, ra quyết định, lập kế hoạch.
DO: Thực hiện. Ví dụ: giao tiếp, phối hợp, giám sát, đánh giá.
DO: Tạo động lực. Ví dụ: Nâng cao tinh thần làm việc cũng như tinh thần đồng đội trong việc tổ chức, đào tạo, huấn luyện, và tư vấn.
Môi trường làm việc
Mỗi tổ chức có một môi trường làm việc cụ thể, ở đó đưa ra mức độ về cách các nhà lãnh đạo giải quyết các vấn đề và nắm bắt cơ hội. Môi trường này được tạo nên nhờ kế thừa những đóng góp của các nhà lãnh đạo cũ và nhà lãnh đạo hiện thời.
Mục tiêu, giá trị, và khái niệm
Các nhà lãnh đạo ảnh hưởng đến môi trường làm việc thông qua ba loại hành động:
1. Các mục tiêu và tiêu chuẩn hiệu suất mà họ thiết lập.
2. Các giá trị mà họ xây dựng cho tổ chức.
3. Các khái niệm kinh doanh và nhân lực mà họ thiết lập.
Các tổ chức thành công đều có những nhà lãnh đạo đặt ra các tiêu chuẩn cao và các mục tiêu trên toàn bộ các khía cạnh, chẳng hạn như chiến lược, lãnh đạo thị trường, kế hoạch, các cuộc họp và thuyết trình, năng suất, chất lượng và độ tin cậy.
Giá trị phản ánh mối quan tâm của tổ chức đối với nhân viên, khách hàng, nhà đầu tư, nhà cung cấp, và cộng đồng xung quanh. Những giá trị này xác định cách thức kinh doanh sẽ được thực hiện như thế nào.
Các khái niệm xác định sản phẩm hay dịch vụ tổ chức sẽ cung cấp cũng như các phương pháp và quy trình kinh doanh.
Những mục tiêu, giá trị và khái niệm này tạo nên nét đặc trưng của tổ chức hay cách thức nhân viên trong công ty và người ngoài công ty nhìn về tổ chức ấy. Đặc tính này xác định vai trò, mối quan hệ, khen thưởng, và những nghi lễ diễn ra tại công ty.
Vai trò và mối quan hệ
Vai trò là những vị trí được xác định bởi một tập hợp các kỳ vọng về hành vi của bất kỳ người đảm nhiệm công việc nào. Mỗi vai trò có một tập hợp các nhiệm vụ và trách nhiệm mà ở đó không phải tất cả đều có thể giải thích được rõ ràng. Vai trò có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hành vi vì nhiều lý do. Nhân viên cần tạo ra uy tín trong công việc, ý thức hoàn thành cũng như sẵn sàng chấp nhận thách thức để có thể nhận được khoản tiền cho khả năng thực hiện nhiệm vụ.
Văn hóa và không khí làm việc trong công ty
Có hai yếu tố chỉ cho chúng ta cách hành động trong một tổ chức: Văn hóa và không khí làm việc.
Mỗi tổ chức có văn hóa riêng. Đó là một sự kết hợp của những người sáng lập, nguyên lãnh đạo, lãnh đạo đương nhiệm, những khủng hoảng, sự kiện, lịch sử, và quy mô của công ty (Newstrom, Davis, 1993). Điều này tạo ra nghi lễ: các thói quen, lễ nghi, và “cách chúng ta làm việc.” Những nghi thức này tác động đến hành vi cá nhân ..
Không khí làm việc trong công ty là cảm nhận của tổ chức, cá nhân và nhận thức và thái độ của các thành viên của tổ chức (Ivancevich, Konopaske, Matteson, 2007). Trong khi văn hóa là bản chất sâu xa của một tổ chức được tạo nên từ các hệ thống chính thức và không chính thức, các quy tắc, truyền thống thì không khí làm việc là một hiện tượng ngắn hạn được tạo ra bởi các nhà lãnh đạo đương nhiệm. Không khí ấy đại diện cho niềm tin về “cảm nhận của tổ chức” bởi các thành viên. Chính cảm nhận về tổ chức này xuất phát từ những gì mọi người tin về các hoạt động diễn ra trong tổ chức. Những hoạt động này ảnh hưởng đến cả động lực và sự thỏa mãn cá nhân cũng như cả nhóm. Chẳng hạn:
Lãnh đạo có khả năng xác định rõ các ưu tiên và mục tiêu của tổ chức tốt như thế nào? Chúng ta được mong đợi điều gì?
Cơ chế ghi nhận, thưởng -phạt của tổ chức đó là gì?
Các nhà lãnh đạo có khả năng quản lý thành thạo ra sao?
Liệu rằng các nhà lãnh đạo có được phép tự đưa ra các quyết định?
Điều gì sẽ xảy ra nếu tôi mắc sai lầm?
Mặt khác, văn hóa là một hiện tượng phức tạp và lâu dài. Văn hóa đại diện cho mong đợi chung và hình ảnh riêng của tổ chức. Các giá trị trưởng thành tạo ra truyền thống hay “cách thức chúng ta làm việc ở đây”. Trong mỗi tổ chức những thứ này được thực hiện một cách khác nhau. Tầm nhìn tập thể và văn hóa dân gian thông thường xác định tổ chức là một sự phản ánh của văn hóa. Cá nhân người lãnh đạo không thể dễ dàng tạo ra hoặc thay đổi văn hóa vì nó là một phần của tổ chức. Văn hóa ảnh hưởng đến các đặc tính của không khí làm việc thông qua cách ảnh hưởng của các hoạt động và quá trình suy nghĩ của người lãnh đạo. Tuy nhiên, tất cả mọi thứ bạn làm với tư cách là một nhà lãnh đạo sẽ ảnh hưởng đến không khí làm việc của tổ chức.
Quá trình trở thành lãnh đạo vĩ đại
Con đường dẫn đến người lãnh đạo tài ba (Kouzes & Posner, 1987) khá phổ biến đối với các nhà lãnh đạo thành công:
Thách thức quá trình này – Đầu tiên, tìm thấy một quá trình mà bạn tin rằng nhu cầu được cải thiện nhiều nhất.
Truyền cảm hứng cho một tầm nhìn chung – Tiếp theo, chia sẻ tầm nhìn của bạn một cách dễ hiểu nhất cho nhân viên của bạn.
Cho phép những người khác hành động – Cung cấp cho nhân viên công cụ và phương pháp để giải quyết vấn đề.
Định hướng cách thức – Khi quá trình trở nên khó khăn. Một ông chủ nói với những người khác phải làm gì; một nhà lãnh đạo chỉ cách thức thực hiện.
Khuyến khích cảm xúc– Chia sẻ vinh quang với nhân viên của bạn, trong khi đó chọn giấu nỗi đau cho riêng mình.
Bạn đang xem bài viết Khái Niệm Lãnh Đạo Và Quyền Lực trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!