Cập nhật thông tin chi tiết về Khái Niệm Người Già, Người Cao Tuổi Tại Việt Nam mới nhất trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về người cao tuổi. Trước đây người ta thường dùng thuật ngữ người già để chỉ những người có tuổi, hiện nay khái niệm người cao tuổi ngày càng được sử dụng nhiều hơn. Hai thuật ngữ này tuy không khác nhau về mặt khoa học song về tâm lý, người cao tuổi là thuật ngữ mang tính tích cực và thể hiện thái độ tôn trọng.
Theo quan điểm y học: Người cao tuổi là người ở giai đoạn già hóa gắn liền với việc suy giảm các chức năng của cơ thể.
Về mặt pháp luật: Hiện nay ở Việt Nam, theo quy định chung người cao tuổi là những người từ 60 tuổi trở lên. Pháp lệnh về người cao tuổi của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ngày 28/04/2000 quy định: Người cao tuổi theo quy định của Pháp lệnh này là công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ 60 tuổi trở lên.
Riêng về người già, chỉ có Bộ luật hình sự đề cập tới nhưng lại không hề giải thích khái niệm. Theo đó, Bộ luật hình sự quy định tình tiết “người phạm tội là người già” là một tình tiết giảm nhẹ (điểm m khoản 1 Điều 46), tình tiết “phạm tội đối với người già” là một tình tiết tăng nặng (điểm h khoản 1 Điều 48). Tuy nhiên, như thế nào là người già thì Bộ luật hình sự lại không giải thích. Chính vì vậy, để vận dụng pháp luật hình sự thống nhất, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành hướng dẫn giải thích khái niệm này. Theo Nghị quyết số 01/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, người già là người từ 70 tuổi trở lên.
Theo lý giải của Hội đồng thẩm phán cũng như các luật sư thì Luật Người cao tuổi lấy mốc 60 tuổi nhằm giải quyết những vấn đề an sinh xã hội, bảo vệ quyền lợi cho những người đã qua tuổi lao động mà thôi. Xét ở khía cạnh sinh học thì người già là những người đang ở giai đoạn lão hóa mạnh, khi cơ bắp, trí tuệ đã ở vào thời kỳ thấp nhất.
Những quy định ưu tiên cho người cao tuổi và người già
Trong những năm qua, đi đôi với phát triển kinh tế – xã hội, nhà nước ta đã có những chính sách ưu đãi đối với những người cao tuổi, đặc biệt là những chính sách về vật chất, tinh thần như: chính sách bảo trợ xã hội, giảm giá vé, giá dịch vụ khi sử dụng một số dịch vụ và chính sách chúc thọ mừng thọ.
Về chính sách bảo trợ xã hội, đối với người cao tuổi từ đủ 60 đến 80 tuổi thuộc hộ gia đình nghèo không có người phụng dưỡng, hoặc có người phụng dưỡng nhưng người này đang hưởng chế độ trợ cấp xã hội hàng tháng, thì được hưởng mức trợ cấp 180 nghìn đồng/người/tháng. Đối với người cao tuổi từ 80 trở lên thuộc hộ gia đình nghèo không có người phụng dưỡng, hoặc có phụng dưỡng nhưng người này đang hưởng chế độ trợ cấp xã hội hàng tháng, thì được hưởng mức trợ cấp 270 nghìn đồng/người/tháng. Đối với người cao tuổi được nhận nuôi dưỡng trong các cơ sở bảo trợ xã hội quy định tại khoản 2 điều 18 Luật Người cao tuổi, thì được hưởng mức trợ cấp 360 nghìn đồng/người/tháng.
Đối với người cao tuổi đủ điều kiện tiếp nhận vào sống trong các cơ sở bảo trợ xã hội nhưng có người nhận chăm sóc tại cộng đồng theo quy định tại mục 4 điều 19 Luật Người cao tuổi, thì được hưởng mức trợ cấp 360 nghìn đồng/người/tháng. Ngoài mức trợ cấp trên, khi người cao tuổi qua đời, còn được Nhà Nước hỗ trợ chi phí mai táng 3 triệu đồng theo quy định tại mục 4 điều 18, 19 của Luật Người cao tuổi.
Đối với chính sách giảm giá vé, giá dịch vụ, theo Nghị định 06/2011 ban hành ngày 14/1/2011 về hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Người cao tuổi, thì người cao tuổi còn được giảm giá vé dịch vụ, tham quan di tích văn hóa lịch sử, bảo tàng, danh lam thắng cảnh, tập luyện thể dục thể thao tại các cơ sở có bán vé, được giảm ít nhất từ 15 đến 20%.
Đối với chính sách chúc thọ, mừng thọ, người thọ 100 tuổi được Chủ tịch nước chúc thọ và tặng quà, người thọ 90 tuổi được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân (UBND )tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chúc thọ và tặng quà. UBND xã, phường, thị trấn phối hợp với Hội người cao tuổi tại địa phương tổ chức mừng thọ người cao tuổi ở tuổi từ 70 đến 100 tuổi trở lên vào các ngày như: Ngày người cao tuổi Việt Nam 6/6; Ngày quốc tế người cao tuổi 1/10; tết Nguyên đán hoặc ngày sinh nhật người cao tuổi.
Cùng với chính sách bảo trợ xã hội, thực hiện NĐ 06/2011, Bộ tài chính cũng đã ban hành Thông tư số 21 ngày 18/2/2011 quy định rất cụ thể về quản lý và sử dụng kinh phí chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người cao tuổi tại nơi cư trú, chúc thọ, mừng thọ, biểu dương, khen thưởng đối với người cao tuổi.
Người Già Với Người Cao Tuổi Khác Nhau Thế Nào?
Người già chỉ được nhắc đến trong Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung 2009, cụ thể:
– “người phạm tội là người già” là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự;
– “phạm tội đối với người già” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Theo Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP hướng dẫn “người già” được xác định là người từ đủ 70 tuổi trở lên.
Tới Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 đã không còn thuật ngữ người già mà chỉ còn người đủ 70 tuổi trở lên.
Tuy nhiên, có thể suy ra, người già được xác định là người đủ 70 tuổi trở lên.
Người cao tuổi là công dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên (theo Điều 2 Luật Người cao tuổi năm 2009).
Một số quyền lợi
– Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (điểm o khoản 1 Điều 51);
– Người đủ 70 tuổi trở lên đã chấp hành ít nhất 1/3 hình phạt tù có thời hạn hoặc ít nhất 12 năm đối với tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn thì được tha tù trước thời hạn (điểm e khoản 1 Điều 66)
– Được ưu tiên khám chữa bệnh trước người khác trừ bệnh nhân cấp cứu, trẻ dưới 6 tuổi, người khuyết tật nặng đối với người từ đủ 80 tuổi trở lên;
– Được ưu tiên nhận tiền, hiện vật cứu trợ, chăm sóc sức khỏe và chỗ ở nhằm khắc phục khó khăn ban đầu khi gặp khó khăn do hậu quả thiên tai hoặc rủi ro bất khả kháng khác;
– Được miễn các khoản đóng góp cho hoạt động xã hội (trừ trường hợp tự nguyện đóng góp);
– Được tham gia Hội người cao tuổi Việt Nam…
(Điều 3 Luật Người cao tuổi 2009)
– Người già yếu là tình tiết định khung quy định tại các Điều 134 – Tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; Điều 140 – Tội hành hạ người khác; Điều 157 – Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật của Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 nhưng chưa có hướng dẫn cụ thể thế nào là người già yếu.
– Người quá già yếu là người:
+ Từ 70 tuổi trở lên;
+ Hoặc người từ 60 tuổi trở lên nhưng thường xuyên đau ốm
(“Người quá già yếu” là tình tiết xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt theo Điều 64 Bộ luật Hình sự)
Cũng xin nói thêm, Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 đã thay thế quy định “người già” bằng khái niệm “người đủ 70 tuổi trở lên”.
Việc thay đổi này cho thấy sự rõ ràng và minh bạch, đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, bảo đảm tính thống nhất trong nhận thức và tổ chức thực hiện.
Nhưng một số điều luật tại Bộ luật Hình sự 2015 vẫn giữ quy định “người già yếu” hay “người quá già yếu” làm căn cứ định khung hoặc tình tiết giảm nhẹ không còn phù hợp và thiếu thống nhất gây khó khăn khi áp dụng.
Hậu Nguyễn
Rượu Và Người Cao Tuổi
Tờ rơi này được cung cấp bởi Trường đại học Tâm Thần Hoàng Gia, một bộ phận chuyên sâu về giáo dục, đào tạo, tiền đề và nâng tầm các tiêu chuẩn trong ngành tâm thần học. Họ cũng cung cấp những thông tin dựa trên bằng chứng một cách dễ đọc, thân thiện với người dùng về nhiều vấn đề sức khỏe liên quan đến sức khỏe tâm thần.
Những người lớn tuổi lo ngại đến việc uống rượu.
Những người chăm sóc, bạn bè hay những chuyên gia y tế lo ngại về việc uống rượu ở người lớn tuổi.
Bất kì ai muốn biết thêm về các vấn đề uống rượu ở người lớn tuổi.
Người đang tìm kiếm sự hỗ trợ.
Điều gì khác biệt về uống rượu ở người lớn tuổi?
Khi chúng ta già đi, cơ thể sẽ thay đổi. Ở bề ngoài, những vết lằn, nếp nhăn và tăng cân xuất hiện. Da chúng ta có lẽ không còn khỏe và đàn hồi như trước nữa. Ở bên trong chúng ta:
Mất dần cơ.
Tăng mỡ.
Phân hủy rượu ngày càng chậm hơn.
Điều này có nghĩa là chúng ta trở nên nhạy cảm hơn với ảnh hưởng của rượu. Chúng ta cũng phản ứng chậm hơn và có xu hướng mất cảm giác cân bằng. Thế nên, ngay cả khi một người uống cùng một lượng rượu trong khi già đi thì dường như bị ảnh hưởng nhiều hơn khi còn trẻ.
Uống bao nhiêu là an toàn?
Chúng ta uống càng nhiều thì khả năng rượu gây hại cho cơ thể càng cao; nhưng có những mức uống “hợp lý” cho hầu hết mọi người để không bị ảnh hưởng. Chúng vào khoảng:
14 đơn vị cồn một tuần ở nữ.
21 đơn vị cồn cho nam.
Tuy nhiên, với những thay đổi được đề cập ở trên nghĩa là mức uống cho người già có thể phải thấp hơn như thế.
Nhiều loại đồ uống bây giờ đưa thông tin về đơn vị cồn của nó ngay trên chai. Nhưng bạn nên biết rằng:
1 ly bia nhẹ (4%) hay 70ml rượu whisky đều chứa 2 đơn vị cồn.
750ml rượu chứa 8 đến 10 đơn vị cồn nên 1 ly rượu có thể chứa từ 1¼ đến 3¼ đơn vị cồn tùy vào kích cỡ.
Giới hạn theo tuần có thể gây nhầm lẫn. ¼ lượng đơn vị cồn khuyên dùng của một tuần được uống trong vòng vài giờ thì có thể trở nên có hại.
Vậy có mối nguy hại nào với uống rượu “hợp lý” hay không?
Chỉ bởi vì chúng ta uống trong giới hạn không có nghĩa là an toàn. Rất ít nghiên cứu về người lớn tuổi được tiến hành nên chúng ta có thể nhầm lẫn khi nghĩ rằng những giới hạn này áp dụng cho tất cả mọi người. Có 1 số vấn đề cụ thể:
Vấn đề sức khỏe có thể khiến chúng ta nhạy cảm hơn với rượu.
Giữ thăng bằng trở nên tệ hơn khi về già, ngay cả 1 lượng nhỏ rượu cũng có thể khiến bạn loạng choạng và có thể ngã.
Rượu có thể:
Tăng hiệu quả của 1 số thuốc – Ví dụ: thuốc giảm đau, thuốc ngủ.
Giảm hiệu quả của những thuốc khác – Ví dụ: thuốc chống đông máu (warfarin); rượu có thể tăng nguy cơ chảy máu hay tạo máu đông.
Hãy hỏi bác sĩ điều trị cho bạn xem liệu có an toàn hay không khi uống rượu với bệnh hiện tại và thuốc đang dùng.
Bao nhiêu người uống quá nhiều?
Người lớn tuổi có xu hướng uống ít hơn người trẻ, nhưng dù vậy, cứ 1 trong 5 người già nam và 1 trong 10 người già nữ đang uống ở mức có hại. Những con số này đã tăng lên 40% ở nam và 100% ở nữ trong 20 năm qua.
Những nguy cơ của uống rượu quá nhiều là gì?
Rượu có thể ảnh hưởng gần như tất cả các bộ phận trong cơ thể:
Niêm mạc dạ dày -> loét hay chảy máu.
Gan-> xơ gan hay suy gan.
Cơ tim-> suy tim làm ứ đọng dịch ở phổi, gây ngạt thở.
Ung thư -> ở miệng, dạ dày, và gan.
Suy dinh dưỡng-> rượu có nhiều calo năng lượng nhưng không có protein, chất béo và vitamin cần thiết cho sự tái tạo cơ thể.
Mất thăng bằng-> ngã và tai nạn ( ngay cả với uống rượu “hợp lý”)
Ngủ ít -> mệt mỏi ban ngày
Không phải ai uống nhiều rượu cũng sẽ gặp vấn đề về sức khỏe nhưng bạn uống càng nhiều thì khả năng mắc những vấn đề đó càng cao.
Vậy uống rượu không tốt cho tim sao?
Nếu bạn uống 1 đơn vị 1 ngày, bạn có thể giảm nguy cơ ngừng tuần hoàn. Điều này được nghiên cứu ở nam từ độ tuổi 40 đến 50 nên không áp dụng cho tất cả mọi người.
Bạn sẽ nhận thấy điều khác biệt nếu kiểm soát cân nặng bản thân, tập thể dục và nhận được điều trị phù hợp khi bị cao huyết áp, cao cholesterol hay tiểu đường.
Làm thế nào rượu ảnh hưởng đến tinh thần?
Quá nhiều rượu có thể dẫn đến:
Lo âu: có thể là do bạn bắt đầu lo lắng khi rượu hết tác dụng- như thể một triệu chứng sút giảm nhẹ. Vì thế, bạn muốn uống rượu để cảm thấy tốt hơn, nhưng khi tác dụng giảm. bạn bắt đầu lo lắng trở lại.
Phiền muộn: bạn cảm thấy ít đói hơn, ngủ khó và dễ mệt. bạn bắt đầu cảm thấy mất hứng vào những thứ mình từng thích, chậm chạp hơn khi đọc hay xem TV và ít lạc quan hơn về tương lai- hay thậm chí cho rằng đời này không đáng sống nữa.
Nghe thấy giọng nói: việc này ít thường xuyên nhưng có thể xảy ra nếu uống rượu nặng trong thời gian dài. Bắt đầu từ những âm thanh mơ hồ như tiếng lá và dần dần trở nên rõ ràng hơn. Những tiếng này có thể gây khó chịu và thường gây mất tập trung.
Nhầm lẫn: Nếu bạn uống mà không ăn, việc thiếu thiamine( một vitamin quan trọng) có thể khiến bạn nhầm lẫn và loạng choạng. Nếu không được điều trị kịp thời, trí nhớ ngắn hạn của bạn có thể bị phá hủy vĩnh viễn- đây gọi là triệu chứng Korsakoff.
Mất trí : bạn có thể không còn nhớ được thông tin mới, điều mà có thể đổ lỗi là do “tuổi già” thay vì là hậu quả của rượu.
Vấn đề về rượu xảy ra như thế nào ở người già?
Khoảng 1/3 người già gặp vấn đề về rượu (chủ yếu là nữ) mắc phải chúng lần đầu tiên khi về già. Chết, sức khỏe yếu và khó khăn trong đi lại và sự cô lập xã hội có thể dẫn đến chán nản và phiền muộn. Bệnh tật có thể đau đớn và khiến người ta nghĩ đến việc dùng rượu để thấy dễ chịu hơn. Nó dần trở thành một phần của cuộc sống họ và khó mà từ bỏ. Bỏ rượu ở người già là việc ít áp lực hơn ở người trẻ vì họ chịu ít trách nhiệm trong gia đình hơn,và không phải đi làm mỗi ngày.
Có thể là những chuyên gia sức khỏe không đặt nặng vấn đề uống rượu ở người già như họ cần, vì:
Người già thường ít nói về việc uống rượu của họ, có thể là do mặc cảm, xấu hổ.
Họ nhầm tưởng hậu quả là từ một vấn đề sức khỏe thể lực hay tinh thần thay vì rượu.
Họ quên rằng người già người già có thể có vấn đề về rượu nên không coi đó là quan trọng.
Họ không có thời gian để hỏi người già về thói quen uống rượu.
Vậy có những trợ giúp gì?
Điều trị vấn đề về rượu ở người già thường dễ dàng hơn ở người trẻ.
Điều trị bao gồm:
Giải độc: đưa thuốc cho bệnh nhân để giảm đi triệu chứng suy giảm rồi giảm dần hoặc dừng thuốc sau 1 vài ngày hoặc tuần. Ở người lớn tuổi, nên tiến hành ở bệnh viện.
Ủng hộ tham gia câu lạc bộ nhóm: Một số người cho rằng những nhóm tự giúp đỡ như AA (alcoholics anoynymous) là cách tốt nhất để giải quyết vấn đề về rượu. Nhưng những nhóm này không phù hợp cho tất cả mọi người. Họ thường muôn dừng hẳn việc uống rượu và nhiều người già chỉ muốn giảm uống. Nếu bạn có vấn đề đi lại thì rất khó để đến những cuộc họp của hội.
Điều trị tâm lý- trò chuyện: Cách này có thể giữa 2 người hoặc 1 nhóm người chia sẻ kinh nghiệm với nhau. Trị liệu viên được đào tạo để trò chuyện về những vấn đề của bạn mà không đưa ra phán xét. Họ giúp bạn dừng uống hoàn toàn hoặc điều khiển bản thân tốt hơn. Điều này có thể tốn thời gian và có thể có trì hoãn. Điều này là bình thường và một sự trì hoãn không nên bị xem xét như là thất bại.
Bạn cũng sẽ cần dành thời gian cho các hoạt động tránh liên quan đến rượu. Bạn bè và gia đình có thể giúp bạn điều này.
Acamprosate và naltrexone là thuốc khi bạn đã chấm dứt uống rượu. Chúng chủ yếu được kê đơn cho người trẻ vì độ an toàn và hiệu quả của chúng đối với người già chưa được tìm hiểu.
Giải quyết nguyên nhân gốc khiến bạn uống. Có thể là do lo lắng, buồn, vấn đề sức khỏe hoặc do không gặp ai đó thường xuyên.
Tôi cần phải làm gì?
Nếu bạn nghĩ rằng bạn đang có vấn đề với rượu, hãy nói với bác sĩ của bạn. Nếu cần thiết, họ có thể sắp xếp để khám cho bạn, gặp tư vấn viên hay liên hệ với bộ phận Dịch vụ Sức Khỏe Quốc Gia ở địa phương bạn. Ngoài ra, còn có nhiều tổ chức khác cung cấp thông tin miễn phí về vấn đề nghiện rượu.
Tài liệu tham khảo
http://patient.info/health/alcohol-and-older-people
Các Giai Đoạn Của Người Cao Tuổi
CÁC GIAI ĐOẠN CỦA NGƯỜI CAO TUỔI
1.Khái niệm người cao tuổi
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về người cao tuổi. Trước đây, người ta thường dùng thuật ngữ người già để chỉ những người có tuổi, hiện nay “người cao tuổi” ngày càng được sử dụng nhiều hơn. Hai thuật ngữ này tuy không khác nhau về mặt khoa học song về tâm lý, “người cao tuổi” là thuật ngữ mang tính tích cực và thể hiện thái độ tôn trọng.
Theo quan điểm y học: Người cao tuổi là người ở giai đoạn già hóa gắn liền với việc suy giảm các chức năng của cơ thể.
Về mặt pháp luật: Luật Người cao tuổi Việt Nam năm 2010 quy định: Người cao tuổi là “Tất cả các công dân Việt Nam từ 60 tuổi trở lên”.
Theo WHO: Người cao tuổi phải từ 70 tuổi trở lên.
Một số nước phát triển như Đức, Hoa Kỳ… lại quy định người cao tuổi là những người từ 65 tuổi trở lên. Quy định ở mỗi nước có sự khác biệt là do sự khác nhau về lứa tuổi có các biểu hiện về già của người dân ở các nước đó khác nhau. Những nước có hệ thống y tế, chăm sóc sức khỏe tốt thì tuổi thọ và sức khỏe của người dân cũng được nâng cao. Do đó, các biểu hiện của tuổi già thường đến muộn hơn, nên việc quy định về tuổi của các nước đó cũng khác nhau.
2. Các giai đoạn của người cao tuổi
2.1. Giai đoạn đầu của người cao tuổi
Những người từ 60 – 69 tuổi. Giai đoạn này kéo theo nó những biến đổi quan trọng trong đời sống con người. Trong thời kỳ giữa những năm 60 và 70 tuổi, phần lớn trong chúng ta tất yếu phải thích ứng với việc phân bổ các chức trách. Nghỉ hưu, việc tự nguyện hay bắt buộc giảm số giờ lao động sẽ dẫn tới thu nhập. Bạn bè và một số đồng nghiệp qua đời. Những nhu cầu của xã hội giảm đi: những người tuổi trên 60 sức khỏe có giảm đi, tính độc lập và tính sáng tạo không như trước đây. Sự phản ứng về mặt xã hội như thế có ảnh hưởng tiêu cực đến hành vi của những người cao tuổi còn khỏe mạnh, sung sức, làm ngã lòng họ. Nhiều người 60 tuổi buộc họ phải tiếp nhận luật chơi làm nhịp độ cuộc sống riêng chậm đi, và do đó gián tiếp họ mong đợi hy vọng vào xã hội.
Sức mạnh thể chất vào thời kỳ này cũng sút giảm và điều đó tạo ra những vấn đề phụ thêm cho những người đang tiếp tục làm việc trong ngành công nghiệp. Trong khi đó, nhiều người ở tuổi 60 sức lực còn sung mãn và còn đi tìm kiếm cho mình những loại hình hoạt động mới. Nhiều nam, nữ mới nghỉ hưu không lâu có sức khỏe tốt và trình độ học vấn cao. Họ còn có thể sử dụng thời gian nhàn rỗi của mình để tự hoàn thiện, củng cố sức khỏe, tham gia hoạt động xã hội hoặc chính trị. Một số thường xuyên luyện tập thể dục thể thao và sinh hoạt tình dục tích cực. Một số người hưu trí có thể trở thành những nhà từ thiện, nhà sản xuất và nhà giáo. Họ là những nhà quản trị tự nguyện của các hãng thương mại nhỏ, những người trợ giúp trong các bệnh viện, những ông nội bà nội.
2.2. Giai đoạn giữa của người cao tuổi.
Những người có độ tuổi từ 70 đến 79 tuổi. Ở độ tuổi này con người thường gặp phải những biến cố quan trọng nhiều hơn so với hai thập niên trước. Nhiệm vụ của người 70 tuổi là giữ gìn bản lĩnh cá nhân đã hình thành ở họ trong khoảng thời gian giữa 60 và 69 tuổi. Nhiều người ở tuổi từ 70 đến 79 thường ốm đau và mất người thân. Bạn bè và người quen biết ngày càng ra đi nhiều hơn. Ngoài việc thu hẹp giao tiếp với xung quanh dần dần họ cũng bớt tham gia vào công tác của các tổ chức xã hội. Ở độ tuổi này, người già thường hay cáu giận, mất bình tĩnh. Tình trạng sức khỏe thường làm họ lo lắng. Mặc dù có những mất mát đó nhiều người ở tuổi 70 còn có khả năng chống đỡ những hậu quả gây ra cho độ tuổi này. Nhờ chất lượng hỗ trợ y tế được cải thiện và có lối sống lành mạnh hơn, người đứng tuổi thường vẫn chung sống với các bệnh ung thư và thoát khỏi hiểm nghèo sau những cơn đau tim đột qụy…
2.3.Giai đoạn gần cuối của người cao tuổi
Những người từ 80 đến 90 tuổi. Không nghi ngờ gì độ tuổi là một trong những tiêu chí để chuyển nhóm “những người mới bước tuổi già” sang nhóm “những người rất cao tuổi”, tuy nhiên đó không phải là tiêu chí duy nhất. Sự chuyển sang nhóm “những người rất cao tuổi” – đó là “một quá trình được bắt đầu từ ngày mà con người sống bằng các ký ức của mình”.
Phần lớn những người 80 đến 90 tuổi, rất khó khăn trong việc thích nghi với môi trường xung quanh mình và tác động qua lại với nó. Nhiều người trong số họ cần có lối sinh hoạt được tổ chức tốt, tránh những điều bất tiện bởi lẽ sinh hoạt tốt tạo ra kích thích tốt, sinh hoạt bất tiện tạo ra sự đơn độc. Họ cần được giúp đỡ để duy trì các mối liên hệ xã hội và văn hoá.
2.4. Giai đoạn cuối của người cao tuổi
Những người 90 tuổi trở lên. Số liệu về những người trên 90 tuổi không nhiều, rất ít so với những người 60, 70 hoặc 80 tuổi. Vì vậy, việc thu thập thông tin chính xác về tình hình sức khỏe và những sự tác động qua lại về mặt xã hội của những người thuộc nhóm tuổi này là rất khó khăn. Mặc dù có khó khăn trong việc tìm hiểu các vấn đề sức khỏe ở nhóm tuổi này, song những người rất già có thể thay đổi các hình thức hoạt động khác nhau một cách có kết quả khi họ biết sử dụng những khả năng vốn có của họ hiệu quả nhất.
Tóm lại: Người cao tuổi chiếm tới gần 10% dân số, người cao tuổi là một lực lượng xã hội đông đảo và có vai trò quan trọng trong xã hội Việt Nam hiện nay. Với kinh nghiệm được tích lũy trong quá trình lao động, cống hiến; với những giá trị văn hóa truyền thống được lưu giữ, người cao tuổi được coi là một nguồn lực quan trọng trong các hoạt động kinh tế, văn hóa và xã hội của đất nước.
Hiện nay người cao tuổi thường giữ vai trò trọng trách trong các tổ chức của hệ thống chính trị ở cơ sở: như tổ chức Đảng, Chính quyền, Mặt trận. người cao tuổi còn là lực lượng nòng cốt trong các hoạt động xã hội như phong trào xây dựng khu dân cư văn hoá, tổ chức hoà giải, tổ chức khuyến học, khuyến tài… của địa phương, của dòng họ. Đóng góp về lao động của người cao tuổi cho gia đình và xã hội là vô cùng to lớn nhất là của các cụ bà, nhưng phần lớn lại là “những việc không tên”, không được đánh giá như là việc trông cháu, nội trợ trong mô hình gia đình truyền thống Việt Nam. Đây không chỉ là một hình thức lao động nặng nhọc mà còn là một loại hình lao động phức tạp đòi hỏi phải có nhiều kinh nghiệm. Rất tiếc, những đóng góp này chưa được xã hội chính thức ghi nhận, đánh giá đúng mức. Như vậy người cao tuổi không những giải quyết được các vấn đề của bản thân mà còn có thể góp sức vào sự phát triển của gia đình và xã hội. Nếu không nhận thức và khai thác những kiến thức và kinh nghiệm của người cao tuổi là sự lãng phí rất lớn của xã hội.
BSCKII LÊ THÚY PHƯỢNG
Bạn đang xem bài viết Khái Niệm Người Già, Người Cao Tuổi Tại Việt Nam trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!