Xem Nhiều 6/2023 #️ Khái Niệm Tác Phẩm Là Gì Theo Luật Sở Hữu Trí Tuệ Việt Nam # Top 7 Trend | Tvzoneplus.com

Xem Nhiều 6/2023 # Khái Niệm Tác Phẩm Là Gì Theo Luật Sở Hữu Trí Tuệ Việt Nam # Top 7 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Khái Niệm Tác Phẩm Là Gì Theo Luật Sở Hữu Trí Tuệ Việt Nam mới nhất trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

– Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc kí tự, bao gồm tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn, bút kí, kí sự, tùy bút, hồi kí, thơ, trường ca, kịch bản, bản nhạc, công trình nghiên cứu văn hóa, văn học, nghệ thuật, khoa học và các bài viết khác. Tác phẩm được bảo hộ còn bao gồm các tác phẩm được thể hiện bằng các kí tự khác thay cho chữ viết như chữ nổi chó người khiếm thị, kí hiệu tốc kí và các kí hiệu tương tự khác mà đối tượng tiếp cận có thể sao chép được bằng nhiều hình thức khác nhau.

– Các bài giảng, bài phát biểu và các bài nói khác: Là các tác phẩm được thể hiện bằng ngôn ngữ nói và phải được định hình dưới một hình thức vật chất nhất định. Ngoài ra còn các tác phẩm khác như tài liệu giảng dạy, huấn luyện. Tuy nhiên, bài giảng, bài phát biểu chỉ được coi là tác phẩm nếu được ghi âm lại hoặc được lưu hành dưới dạng văn bản.

– Tác phẩm sân khấu: Là tác phẩm được thể hiện thông qua hình thức trình diễn nghệ thuật trên sân khấu, bao gồm kịch nói, nhạc vũ kịch, ca kịch, kịch câm, xiếc, múa, múa rối và các loại hình tác phẩm sân khấu khác.

– Tác phẩm điện ảnh và tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự: Là những tác phẩm được hợp thành bằng hàng loạt hình ảnh liên tiếp tạo nên hiệu úng chuyển động kèm theo hoặc không kèm theo âm thanh, được thể hiện trên chất liệu nhất định và có thể truyền đến công chúng bằng các thiết bị kĩ thuật, công nghệ, bao gồm các loại hình phim truyện, phim tài liêu, phim khoa học, phim hoạt hình và các loại hình tương tự khác như phim truyền hình, video.

– Tác phẩm nhiếp ảnh: Là tác phẩm thể hiện hình ảnh của thế giới khách quan trên vật liệu bắt sáng hoặc trên phương tiện mà hình ảnh được tạo ra hay có thể được tạo ra bằng bất cứ phương pháp kĩ thuật nào (thông qua phương pháp hoá học, kĩ thuật số hoặc phương pháp khác).

– Tác phẩm âm nhạc: Là các tác phẩm được thể hiện dưới dạng nốt nhạc trong bản nhạc hoặc trong các kí tự âm nhạc khác có hoặc không có lời, không phụ thuộc vào việc trình diễn hay không trình diễn. Tuy nhiên, thường phải thông qua giọng hát, nhạc cụ thì mới có thể truyền các tác phẩm này đến công chúng.

– Tác phẩm kiến trúc: Là các bản vẽ thiết kế ngôi nhà, công trình xây dựng khác, quy hoạch không gian đã hoặc chưa xây dựng. Tác phẩm kiến trúc bao gồm các bản vẽ thiết kế về mặt bằng, mặt đứng, mặt cắt, phối cảnh, thể hiện ý tưởng sáng tạo về ngôi nhà, cóng trình, tổ hợp công trình kiến trúc, tổ chức không gian, kiến trúc cảnh quan của một vùng, một đô thị, hệ thống đổ thị, khu chức năng đô thị, khu dân Cư nông thôn. Trong đó mồ hình, sa bàn về ngôi nhà, công trình xây dựng hoặc quy hoạch không gian được coi là tác phẩm kiến trúc độc lập.

– Tác phẩm tạo hình, mĩ thuật, ứng dụng, bao gồm hội họa, đồ họa, điêu khắc, mĩ thuật ứng dụng hoặc các hình thức tương tự.

– Tác phẩm phái sinh, bao gồm tác phẩm dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn, chú giải, tuyển tập, hợp tuyển. Đây là các tác phẩm được tạo ra từ các tác phẩm đã có. Các tác phẩm này chỉ được bảo hộ nếu không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh.

Phạm vi và tính chất các tác phẩm được bảo hộ theo Điều 14 Luật sỏ’ hữu trí tuệ rất rộng, không những là tác phẩm được tác giả trực tiếp sáng tạo bằng lao động trí tuệ của mình, không sao chép từ tác phẩm của người khác mà những tác phẩm phái sinh cũng được bảo hộ với điều kiện người tạo ra tác phẩm đó không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh.

Tuy nhiên, các sản phẩm trí tuệ này chỉ được công nhận là tác phẩm khi chúng đã được ấn định trên hình thái vật chất (vật mang tin) hoặc đã được thể hiện ra bên ngoài bằng bất kì phương tiện hay hình thức nhất định nào đó đủ để người khác có thể biết tới tác phẩm. Vì thế, các kết quả của hoạt động lao động sáng tạo nếu mới chỉ là ý tưởng, chưa được thể hiện ra bên ngoài bằng hình thức nhất định thì không thể nhận biết được nên chưa được coi là tác phẩm. Ngoài ra, tác phẩm muốn được nhà nước thừa nhận và bảo hộ thì nội dung của nó phải không trái với quy định của pháp luật.

Như vậy, tác phẩm được hiểu là kết quả của hoạt động sáng tạo trong các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học đã được ấn định trên một hình thái vật chất hoặc đã được thể hiện ra bên ngoài thông qua hình thức nhất định.

Khái Niệm Sở Hữu Trí Tuệ Và Quyền Sở Hữu Trí Tuệ

Các khái niệm SHTT, Quyền SHTT, Quyền SHCN, Quyền tác giả mới xuất hiện ở Việt Nam kể từ khi đất nước bắt đầu “đổi mới” vậy các quyền này là gì?

Thuật ngữ SHTT được dịch ra từ tiếng nguyên bản Anh – Intellectual Property (IP) – nếu dịch sát nghĩa ra tiếng Việt là “Tài sản (vô hình) kết tinh từ quá trình sáng tạo trí tuệ” hoặc “Tài sản do hoạt động trí tuệ”, nó khác các loại tài sản khác ở chỗ tài sản này không cầm nắm được và cũng không chiếm hữu được về mặt vật lý.

Tài sản này tồn tại dưới dạng thông tin hoặc tri thức. Tài sản này phải được biểu hiện thông qua vật nhìn hoặc nghe thấy được với số lượng không hạn chế các bản sao ở bất kỳ nơi nào trên thế giới tại cùng một thời điểm. Ví như một tiểu thuyết được in thành hàng triệu bản sách hoặc một sáng chế được mô tả chi tiết trong bản mô tả sáng chế (dạng tri thức), một bản nhạc được ghi trong đĩa CD hoặc một nhãn hiệu được gắn trên rất nhiều sản phẩm (dạng thông tin)…

Quyền SHTT không phải là quyền sở hữu các bản sao này mà là Chủ sở hữu có độc quyền đối với thông tin và tri thức được mang trong các vật hữu hình này. Thực chất Quyền SHTT là độc quyền đối với thông tin hoặc tri thức do tác giả tạo ra, thông tin và tri thức này có thể mang lại quyền lợi về tinh thần (quyền nhân thân) cũng như mang lại lợi nhuận (quyền vật chất) cho tác giả và chủ sở hữu quyền.

Quyền SHTT của người sáng tạo hoặc chủ sở hữu các đối tượng SHTT là việc Nhà nước giao cho những người này độc quyền khai thác các đối tượng SHTT của họ trong một khoảng thời gian nhất định (theo luật định). Mục đích của việc nhà nước bảo vệ các quyền này là tạo điều kiện cho Chủ sở hữu quyền được độc quyền khai thác các đối tượng SHTT trong một khoảng thời gian nhất định để họ có thể thu lại chi phí đã bỏ ra và có thêm nguồn lực tài chính để nghiên cứu, sáng tạo các đối tượng SHTT mới. Việc Nhà nước bảo hộ Quyền SHTT cho Chủ sở hữu quyền này một cách hữu hiệu là động lực quan trọng để nền khoa học công nghệ cũng như nền kinh tế của đất nước ngày càng phát triển.

Chủ sở hữu các quyền SHTT có thể tự mình khai thác, cho người khác khai thác và ngăn cấm bên thứ ba sử dụng các quyền đó trong một khoảng thời gian nhất định. Sau khoảng thời gian bảo hộ đó, các tài sản này trở thành tài sản trí tuệ chung vì các đối tượng SHTT được sáng tạo ra đều dựa trên kho tàng kiến thức chung của nhân loại.

Đối với tài sản hữu hình, chủ sở hữu dễ dàng bảo vệ tài sản của mình, ví như chủ chiếc xe máy khoá xe lại để tránh bị mất cắp hay đối với tài sản quý, chủ sở hữu có thể sử dụng các thiết bị bảo vệ hiện đại. Hoặc khi tài sản bị mất mà phát hiện được kẻ cắp, việc xác định chủ sở hữu của tài sản hữu hình cùng tương đối dễ dàng.

Ngược lại, đối với tài sản vô hình như Quyền SHTT, việc Chủ sở hữu bảo vệ tài sản rất khó khăn. Người vi phạm có thể dễ dàng sao chép Nhãn hiệu của người khác để gắn lên sản phẩm hàng hoá của họ để đánh lừa khách hàng nhằm thu lời bất chính. Hay như trong vụ xâm phạm Quyền tác giả của NXB Elservier (NXB khoa học lớn của Mỹ), người vi phạm ngồi ở Việt Nam thông qua mạng Internet đã đánh cắp các tác phẩm khoa học của NXB này để bán và kiếm lời bất hợp pháp. Ngay khi đã phát hiện được người vi phạm, việc xác đinh hành vi đó có xâm phạm Quyền SHTT không cũng rất khó khăn. Chính vì vậy Quyền SHTT được Nhà nước bảo hộ theo một cơ chế đặc biệt được quy định trong Luật sở hữu trí tuệ.

Sở Hữu Trí Tuệ Là Gì?

Sở hữu trí tuệ, hay có khi còn gọi là tài sản trí tuệ, là những sản phẩm sáng tạo của bộ óc con người. Ðó có thể là tác phẩm văn học, âm nhạc, phần mềm máy tính, phát minh, sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, v.v…

Ðã có tổ chức chuyên trách về quyền sở hữu trí tuệ là Tổ chức Sở hữu Trí tuệThế giới (WIPO), tại sao WTO còn điều chỉnh vấn đề này?

Tại sao ngày nay vấn đề quyền sở hữu trí tuệ lại được quan tâm mạnh mẽ đến vậy?

Đó là do sự thay đổi trong cơ cấu các yếu tố tạo nên giá trị hàng hoá. Ở thời kỳ sản xuất nông nghiệp, phần lớn giá trị của nông sản là do lao động cơ bắp của người nông dân bỏ ra. Đến thời đại công nghiệp, máy móc đã dần dần thay thế lao động cơ bắp trong tỷ lệ giá trị hàng hoá. Ngày nay, khi mà nhiều nước đã chuyển sang nền kinh tế tri thức thì hàm lượng trí tuệ trong sản phẩm và dịch vụ ngày càng lớn lên, trở thành một yếu tố quyết định tính cạnh tranh. Một container máy điện thoại di động có giá trị lớn hơn một container xe máy, và càng lớn hơn giá trị của một container sắn lát. Do vậy, quyền sở hữu trí tuệ càng được người ta chú trọng bảo vệ.

Xin cho biết nội dung cơ bản của Hiệp định TRIPS.

Nói vắn tắt, Hiệp định TRIPS quy định những tiêu chuẩn bảo hộ tối thiểu đối với các quyền sở hữu trí tuệ và đưa ra các biện pháp nhằm đảm bảo thực hiện các quyền đó.

Các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ là gì?

Các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ là các loại hình sáng tạo khác nhau mà con người nghĩ ra. Các đối tượng này cùng với chủ thể của quyền sở hữu trí tuệ là mục tiêu bảo hộ của Hiệp định TRIPS và các điều ước quốc tế khác.

Xin cho biết rõ hơn về các loại đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ.

Người ta đã nhóm các loại hình sáng tạo của con người thành một số loại đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ sau đây:

– Bản quyền tác giả

– Bằng sáng chế

– Thương hiệu

– Kiểu dáng công nghiệp

– Sơ đồ bố trí mạch tích hợp

– Chỉ dẫn địa lý

Ngoài bản quyền, các quyền còn lại được gọi chung là quyền sở hữu công nghiệp.

Tại Việt Nam, các vấn đề về bản quyền như đăng ký logo độc quyền, bản quyền tác giả… do Cục Bản quyền Tác giả (Bộ Văn hóa – Thông tin) xem xét giải quyết. Các quyền còn lại thuộc phạm vi quản lý của Cục Sở hữu Trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ).

Sự phân biệt giữa bản quyền và các quyền sở hữu công nghiệp là gì?

Bản quyền còn được gọi là quyền tác giả. Ðây là quyền đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học. Ngoài việc có thể đem lại giá trị kinh tế cho tác giả giống như ở các quyền sở hữu công nghiệp, bản quyền còn đảm bảo quyền nhân thân của tác giả hay nói cách khác là đảm bảo uy tín, danh dự của tác giả gắn với tác phẩm của mình.

Như vậy, có thể tạm hiểu những gì được gọi là “tác phẩm” tức là có bản quyền.

Xin cho một số ví dụ về việc vi phạm bản quyền.

Trong thực tế, bản quyền có sự thể hiện khá phong phú nên các dạng vi phạm bản quyền cũng khá đa dạng.

Một số ví dụ:

– Một bài báo sao chép lại bài báo khác.

– Nhà xuất bản in, tái bản sách mà chưa có sự đồng ý của tác giả.

– Ca sĩ biểu diễn, ghi âm, thu hình bài hát mà không có sự thỏa thuận của nhạc sĩ sáng tác.

– Bộ phim bị thu trộm và nhân bản trên băng video hoặc đĩa VCD để bán.

– Chương trình máy tính bị bẻ khóa.

Bản chất của việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là gì?

Từ góc độ vật chất, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là nhằm đảm bảo cho người sáng tạo có thể khai thác giá trị kinh tế từ các sản phẩm sáng tạo của mình để bù đắp lại công lao sáng tạo.

Việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ luôn gắn với thời hạn bảo hộ. Ví dụ tác phẩm điện ảnh được bảo hộ 50 năm, thiết kế bố trí mạch tích hợp có thời hạn bảo hộ là 10 năm.

Hết thời hạn này, các sáng tạo trở thành tài sản chung của nhân loại và tất cả mọi người có thể khai thác, sử dụng mà không phải xin phép hoặc trả thù lao cho người sáng tạo.

Tại sao Hiệp định TRIPS đã công nhận sự bảo hộ đối với các quyền sở hữu trí tuệ mà lại còn buộc người có bằng sáng chế phải cung cấp thông tin về sáng chế đó cho công chúng?

Trong khi bảo hộ bằng sáng chế để tạo điều kiện cho người sáng chế có thể bù đắp chi phí nghiên cứu, Hiệp định TRIPS cũng chú trọng đến lợi ích của toàn xã hội bằng việc yêu cầu người sáng chế phải cung cấp thông tin về sáng chế để những người khác có thể nghiên cứu, phát triển sâu hơn nữa và tránh lãng phí nguồn lực, thời gian, kinh phí

vào những vấn đề đã được sáng chế. Trong thời gian bảo hộ sáng chế, những người khác chỉ được sử dụng thông tin về sáng chế để nghiên cứu chứ không phải để kinh doanh, trừ phi đã được người sở hữu bằng sáng chế cho phép.

Việc tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đem lại lợi ích gì cho các nước đang phát triển? Có hai lợi ích chính:

Ngăn chặn được sự sản xuất và tiêu thụ hàng giả, hàng nhái. Hàng giả, hàng nhái đều là những sản phẩm vi phạm quyền sở hữu trí tuệ và gây thiệt hại cho nhà sản xuất chân chính cả về doanh thu và uy tín. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ sẽ giúp loại bỏ các sản phẩm này ra khỏi thị trường, đảm bảo quyền lợi của cả nhà sản xuất chân chính và người tiêu dùng.

Khuyến khích sáng tạo tại chỗ và chuyển giao công nghệ. Nhiều nhà phát minh trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài thường nản lòng khi không có chế độ bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đủ mạnh ở nước sở tại, họ không có động lực để sáng tạo và cũng không muốn đem công nghệ mới hoặc nghiên cứu phát triển công nghệ ở nước sở tại vì sợ bị mất bí mật công nghệ.

Vậy còn mặt trái là gì?

Phần lớn số lượng các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ hiện nay do các nước phát triển nắm giữ. Ðiều này tạo nên lợi thế rất lớn cho sản phẩm của các nước này so với các nước đang phát triển. Trong một số lĩnh vực, ví dụ dược phẩm, sự độc quyền khai thác bằng sáng chế đã đẩy giá sản phẩm lên rất cao, đem lại lợi nhuận khổng lồ cho hãng sản xuất. Các nước đang phát triển, vốn đã không có công nghệ, lại phải chịu mua các sản phẩm với giá cao này nên thiệt thòi càng lớn.

Một ví dụ khác là phần mềm máy tính. Giá một chương trình phần mềm thường từ vài trăm đến hàng ngàn đô-la Mỹ, vượt gấp nhiều lần giá của chiếc máy tính. Nếu tuân thủ nghiêm ngặt chế độ bản quyền phần mềm thì rất có thể nhiều nước đang phát triển không có được trình độ công nghệ thông tin hiện nay.

Nói vậy không có nghĩa là chúng ta khuyến khích việc vi phạm quyền sở hữu trí tuệ mà điều chính yếu là chúng ta cần phối hợp với các nước đang phát triển khác đấu tranh cho một hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ công bằng và hợp lý hơn.

Thời hạn bảo hộ các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ theo Hiệp định TRIPS là bao nhiêu lâu?

Hiệp định TRIPS chỉ quy định thời hạn bảo hộ tối thiểu, nghĩa là các nước có thể đặt ra thời hạn bảo hộ bằng hoặc dài hơn thời hạn nêu trong Hiệp định TRIPS.

Thời hạn bảo hộ tối thiểu theo Hiệp định TRIPS là :

– Bằng sáng chế: 20 năm

– Bản quyền (đối với các tác phẩm không phải là tranh, điện ảnh): 50 năm hoặc suốt đời tác giả cộng thêm 50 năm

– Bản quyền điện ảnh: 50 năm

– Bản quyền tranh: 25 năm

– Thương hiệu: 7 năm

– Kiểu dáng công nghệ : 10 năm

– Sơ đồ bố trí mạch tích hợp: 10 năm

Chỉ dẫn địa lý và tên gọi xuất xứ là gì?

Chỉ dẫn địa lý là tên gọi những sản phẩm gắn liền với nguồn gốc địa lý của sản phẩm đó, và chính nguồn gốc địa lý này là yếu tố cơ bản nói lên uy tín, chất lượng của sản phẩm đó.

Tên gọi xuất xứ là một dạng của chỉ dẫn địa lý dành để chỉ các sản phẩm mà chất lượng gắn liền với môi trường xuất xứ của sản phẩm.

Tại Việt Nam, “nước mắm Phú Quốc” đã được công nhận là một chỉ dẫn địa lý. Như vậy, một loại nước mắm khác sản xuất tại Thái Lan hay Trung Quốc dù có thành phần, độ mặn, độ ngon tương tự cũng không được phép đưa tên gọi “nước mắm Phú Quốc” lên nhãn hiệu hàng hóa của mình. Ở đây, “Phú Quốc” đã không còn giới hạn ở một thương hiệu cụ thể mà trở thành tên gọi đại diện cho loại nước mắm của tất cả các hộ sản xuất trên hòn đảo này.

“Đồng hồ Thuỵ Sỹ” là một ví dụ.

Phát minh và sáng chế khác nhau như thế nào?

Phát minh là từ để chỉ việc tìm ra những sự vật, hiện tượng, quy luật có sẵn trong tự nhiên nhưng trước đó con người chưa biết tới. Còn sáng chế là sản phẩm sáng tạo của bộ óc con người, trước đây và sau này không hề có trong tự nhiên.

Ví dụ M. Faraday là người đã phát minh ra hiện tượng cảm ứng điện từ, còn T. Edisson lại là người sáng chế ra bóng đèn, máy ghi âm; I. Newton đã phát minh ra định luật vạn vật hấp dẫn, còn E. Rubik đã sáng chế ra khối vuông 6 mặt kỳ ảo mang tên ông.

Phát minh và sáng chế đều thể hiện những bước tiến của trí tuệ con người.

Phát minh thường là những môn khoa học cơ bản, mang tính lý thuyết, được ghi nhận công lao của người tìm ra, nhưng không phải là đối tượng được bảo hộ như sáng chế.

Nếu bạn vẫn còn chút lúng túng trong việc phân biệt hai khái niệm này, xin hãy nhớ: cái gì được con người “tìm ra” thì là phát minh, còn cái gì được con người “nghĩ ra” hoặc “làm ra” thì là sáng chế.

Sản phẩm sáng tạo như thế nào thì được coi là sáng chế?

Một sáng chế phải đảm bảo đủ các tính chất chính sau đây:

– Mới về nội dung

– Có tính sáng tạo so với các giải pháp đã có

– Có khả năng áp dụng đại trà trên quy mô công nghiệp.

Pa-tăng và li-xăng có phải là một hay không?

Không. Pa-tăng là bằng sáng chế. Còn li-xăng là giấy phép sử dụng sáng chế.

Khi đăng ký một sáng chế mới, nhà sáng chế được cấp bằng sáng chế để chứng tỏ quyền sở hữu của mình. Sau đó, nhà sáng chế có thể tự mình khai thác sáng chế bằng cách tổ chức sản xuất ở quy mô công nghiệp. Nhưng nếu nhà sáng chế không có khả năng làm việc này, họ có thể cấp giấy phép cho phép các nhà sản xuất khác sử dụng sáng chế của mình. Tất nhiên, để đổi lại, nhà sản xuất phải trả cho nhà sáng chế một khoản chi phí nhất định.

Tuỳ theo thỏa thuận giữa nhà sáng chế và nhà sản xuất, giấy phép sử dụng sáng chế cóthể được cấp cho nhiều người hoặc duy nhất một người, trong toàn bộ thời gian sáng chế được bảo hộ hoặc chỉ trong một khoảng thời gian ngắn hơn.

Nếu nhà sáng chế không tự sản xuất mà cũng không chịu cấp giấy phép sử dụng sáng chế thì sao?

Trong trường hợp này, nếu thấy cần được đem ra áp dụng vì lợi ích chung của cộng đồng thì cơ quan quản lý Nhà nước có thể can thiệp bằng cách tự đứng ra cấp giấy phép sử dụng sáng chế và yêu cầu nhà sản xuất được cấp giấy phép phải trả cho nhà sáng chế một khoản thù lao hợp lý. Ðây được gọi là giấy phép bắt buộc.

Hiệp định TRIPS có quy định về những điều kiện để có thể cấp giấy phép bắt buộc.

Trách nhiệm chứng minh khi xảy ra tranh chấp bằng sáng chế thuộc về bên nào?

Nếu bằng sáng chế được cấp cho quy trình sản xuất và có tranh chấp về quy trình đó thì trách nhiệm chứng minh thuộc về bị đơn. Nghĩa là người bị cáo buộc là vi phạm bằng sáng chế sẽ phải chứng minh là quy trình sản xuất của mình khác với quy trình đã được cấp bằng sáng chế.

Sở Hữu Trí Tuệ Là Gì ? Quyền Sở Hữu Trí Tuệ Là Gì ? Bảo Vệ Quyền Shtt

Một doanh nghiệp T đầu tư nghiên cứu để cho ra đời một giải pháp hữu ích F, giải pháp này được cơ quan nhà nước cấp bằng độc quyền về giải pháp hữu ích (trong văn bằng độc quyền giải pháp hữu ích ghi rõ chủ sở hữu văn bằng độc quyền giải pháp là doanh nghiệp T, tác giả giải pháp là cá nhân thuộc doanh nghiệp T). Nhờ có lợi ích kinh tế và kỹ thuật vượt trội từ giải pháp F, doanh nghiệp T được Ủy ban nhân dân tỉnh B giao chủ đầu tư và tự thực hiện thi công công trình có sử dụng giải pháp F, với tổng mức đầu tư xây dựng là 73 tỷ đồng (100% từ nguồn vốn ngân sách nhà nước) . Sau quá trình triển khai thực hiện 50% khối lượng công việc, doanh nghiệp T đề xuất giải pháp F1, trên nguyên lý giải pháp F, nhưng tiết kiệm nguyên vật vật liệu (cấu tạo mỏng hơn), nhưng vẫn đảm bảo yêu cầu về kỹ thuật từ đó giảm giá thành hơn so với giải pháp F. Đồng thời doanh nghiệp T yêu cầu cơ quan nhà nước đưa “giá trị trí tuệ của sáng chế” của giải pháp hữu ích F và F1 (F1 không được cơ quan nhà nước cấp văn bằng độc quyền về sáng chế vì cùng nguyên lý với giải pháp F) vào tổng mức đầu tư xây dựng công trình làm cơ sở thanh toán cho doanh nghiệp T, để doanh nghiệp T thanh toán cho tác giả giải pháp F và F1. Với cách tính và lập luận như sau:

Tổng số tiền doanh nghiệp T yêu cầu Ủy ban nhân dân tỉnh B cho doanh nghiệp là 5,5 tỷ đồng – được gọi là “giá trị tài sản trí tuệ của sáng chế” và là những lợi ích do sử dụng giải pháp F,F1 để doanh nghiệp T trả thù lao cho các tác giả giải pháp F và F1.

Theo điều 135 Luật Sở hữu trí tuệ thì “Chủ sở hữu sáng chế có nghĩa vụ trả thù lao cho tác giả từ những lợi ích mà chủ sở hữu thu được”. Trong trường hợp cụ thể của vấn đề nêu ở trên chủ sở hữu sáng chế F là doanh nghiệp T.

Vậy chúng ta sẽ làm rõ, chủ sở hữu sáng chế sẽ thu được những lợi ích gì khi kinh doanh dựa trên sáng chế. Đồng thời việc đề nghị của doanh nghiệp T đối với UBND tỉnh B có hợp lý hay không.

♦ Những quyền lợi của chủ sở hữu sáng chế:

Do doanh nghiệp T là chủ sở hữu sáng chế, theo quy định pháp luật hiện hành, doanh nghiệp T có các quyền lợi đối với sáng chế như sau:

Doanh nghiệp T có quyền bán (chuyển giao quyền sở hữu, quyền sử dụng) công nghệ – sáng chế F. Phạm vi chuyển giao theo các quy định tại khoản 2 điều 17 của Luật chuyển giao công nghệ.

Lợi ích tài chính doanh nghiệp T thu được, bao gồm các lợi ích trực tiếp và gián tiếp như sau:

Những lợi ích gián tiếp khi doanh nghiệp T đầu tư nghiên cứu ra giải pháp là:

– Được miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho số thu nhập tăng thêm do các hoạt động này mang lại

-Các chi phí đầu tư cho việc nghiên cứu sáng tạo giải pháp này được coi là chi phí hợp lý và được trừ khi xác định thuế thu nhập doanh nghiệp

-Được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho phần thu nhập tăng thêm trong bốn năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong bảy năm tiếp theo

-Doanh nghiệp được trích một phần lợi nhuận trước thuế hằng năm lập quỹ phát triển khoa học và công nghệ để tiến hành hoạt động nghiên cứu phát triển và đổi mới công nghệ

Ngoài ra doanh nghiệp còn được hưởng những ưu đãi khác từ thuê đất (nếu có) để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho việc sáng tạo và phát triển các giải pháp thuộc hoạt động khoa học, công nghệ; được góp vốn bằng giá trị giải pháp F trong các dự án đầu tư hoặc vào vốn của doanh nghiệp (Luật khoa học và công nghệ; Luật chuyển giao công nghệ), .v.v.

Khi thực hiện bán (chuyển giao quyền sở hữu, quyền sử dụng ) công nghệ – giải pháp F hoặc khi doanh nghiệp T dùng giải pháp F để thi công các công trình, doanh nghiệp T thu được lợi ích như sau:

-Giá trị thu được từ việc bán (chuyển giao quyền sở hữu, quyền sử dụng) công nghệ – giải pháp F.

♦ Bàn luận về những đề nghị của doanh nghiệp T đối với UBND tỉnh B:

Theo những phân tích lợi ích doanh nghiệp thu được khi sử dụng giải pháp F đã nêu ở trên, thì phần tính toán về những lợi ích doanh nghiệp T kiến nghị UBND tỉnh phải trả cho doanh nghiệp T để doanh nghiệp T trả cho tác giả sáng chế, với lập luận “Công trình sử dụng vốn ngân sách tỉnh, do UBND tỉnh quản lý là nơi được hưởng lợi trực tiếp từ việc sử dụng sáng chế do tiết kiệm chi phí” là không đúng.

Đây là tình huống có thật tại tỉnh B. Vấn đề này, hiện nay còn khá mới mẻ, tác giả xin nêu để qúy bạn đọc quan tâm cùng trao đổi, rút ra những kinh nghiệm khi xử lý các trường hợp tương tự tại các địa phương.

Bạn đang xem bài viết Khái Niệm Tác Phẩm Là Gì Theo Luật Sở Hữu Trí Tuệ Việt Nam trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!