Cập nhật thông tin chi tiết về Khái Niệm Thẩm Quyền Của Tòa Án mới nhất trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Thẩm quyền không chỉ thể hiện được sự khác biệt giữa các cơ quan nhà nước với nhau mà còn là thuộc tính tất yếu của cơ quan quyền lực nhà nước.
Thẩm quyền không chỉ thể hiện được sự khác biệt giữa các cơ quan nhà nước với nhau mà còn là thuộc tính tất yếu của cơ quan quyền lực nhà nước. Có thể thấy, đối với một cơ quan nhà nước, thẩm quyền giữ vai trò rất quan trọng, nên trước tiên ta cần hiểu rõ khái niệm “Thẩm quyền”.
Theo từ điển tiếng Việt, “thẩm quyền” là quyền xem xét để kết luận và định đoạt một vấn đề theo pháp luật. Theo từ điển Luật học, “thẩm quyền” là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ hành động, quyết định của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống bộ máy nhà nước do pháp luật quy định.
Theo tác giả Lê Hoài Nam thì “thẩm quyền là quyền được thực hiện những hành vi pháp lý mà pháp luật giao cho một tổ chức hoặc một nhân viên nhà nước. Nói cách khác, thẩm quyền là quyền của một chủ thể nhất định, đó là khả năng mà pháp luật cho phép được thực hiện một công việc trong một lĩnh vực, một phạm vi nhất định”
Như vậy, dưới những góc độ khác nhau thì khái niệm “thẩm quyền” được giải thích có đôi chút khác nhau. Tuy nhiên, có thể chung quy lại, “thẩm quyền là thuật ngữ dùng để chỉ phạm vi, giới hạn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cá nhân hoặc cơ quan nhà nước trong việc thực thi quyền lực nhà nước được pháp luật quy định”
Có thể thấy, thẩm quyền của Tòa án bao gồm các quyền khác nhau của Tòa án khi giải quyết vụ việc.
“Tòa án nhân dân tối cao, các tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật định là các cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tòa án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật”.
Như vậy, chúng ta có thể thấy: thẩm quyền của tòa án”là quyền của tòa án trong việc xem xét giải quyết các vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ việc dân sự và những vụ việc khác theo quy định của pháp luật và quyền ra bản án, quyết định khi giải quyết vụ việc đó”.
Tranh Chấp Kinh Doanh Thương Mại Và Việc Xác Định Thẩm Quyền Của Tòa Án Đối Với Tranh Chấp Kinh Doanh Thương Mại
Để thụ lý, giải quyết vụ án dân sự nói chung, kinh doanh thương mại nói riêng, Tòa án phải dựa vào yêu cầu cụ thể của người khởi kiện để xác định quan hệ pháp luật mà đương sự tranh chấp. Từ đó, đối chiếu với các quy định về thẩm quyền của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) để xác định yêu cầu khởi kiện của đương sự có thuộc thẩm quyền của Tòa án hay không. Việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp còn có ý nghĩa quan trọng trong việc áp dụng pháp luật nội dung (điều chỉnh quyền và nghĩa vụ giữa các bên) trong việc giải quyết yêu cầu của đương sự.
Tuy nhiên, thực tiễn xác định quan hệ pháp luật tranh chấp về kinh doanh thương mại không hề dễ dàng bởi các lý do sau: (1) Tùy từng thời kỳ phát triển khác nhau mà cơ quan lập pháp quy định một số quan hệ xã hội cần được điều chỉnh bằng quy phạm kinh doanh thương mại; một số quan hệ xã hội khác thì chưa nên không phải cứ có tranh chấp sẽ dễ dàng xác định được quan hệ pháp luật tranh chấp về kinh doanh thương mại; (2) Cùng một quan hệ xã hội nhưng lại thuộc phạm vi điều chỉnh của nhiều ngành luật khác nhau. Mặc dù, mỗi ngành luật đều có những quy định để phân biệt quan hệ pháp luật nào thuộc ngành luật nào điều chỉnh như về chủ thể tham gia quan hệ, mục đích chủ thể, đối tượng của giao dịch… nhưng việc phân biệt cũng không hề dễ dàng; (3) Một số văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành về kinh doanh thương mại có quy định phạm vi các giao dịch thuộc phạm vi điều chỉnh nhưng lại quy định một cách chung chung, mang tính mở nên khi có tranh chấp xảy ra để xác định chúng có thuộc phạm vi điều chỉnh của văn bản quy phạm pháp luật này hay không cũng gây ra những khó khăn, vướng mắc nhất định; (4) Một số trường hợp do văn bản quy phạm pháp luật nội dung về kinh doanh thương mại không xác định rõ giao dịch thuộc phạm vi điều chỉnh của mình nên để xác định cần dựa vào luật tố tụng (BLTTDS). Bên cạnh việc quy định thẩm quyền theo vụ việc, BLTTDS còn quy định thẩm quyền theo lãnh thổ để phân chia việc giải quyết án giữa Tòa án các cấp, giữa các Tòa chuyên trách với nhau được tương xướng nhưng trong nội dung hướng dẫn thẩm quyền theo lãnh thổ lại giải thích thêm thẩm quyền theo vụ việc.
1. Quy định của pháp luật tố tụng dân sự về tranh chấp kinh doanh thương mại và thẩm quyền của Tòa án về tranh chấp kinh doanh thương mại
Khác với việc xác định các quan hệ tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình và lao động chủ yếu dựa vào luật nội dung, sau đó đối chiếu với quy định về thẩm quyền theo vụ việc do BLTTDS quy định để xác định tranh chấp nào thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp về kinh doanh thương mại lại dựa vào quy định của luật tố tụng, cụ thể là BLTTDS và Phần I của Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân (TAND) tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTDS năm 2004 (sau đây viết tắt là Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP).
Nội dung của Điều 29 BLTTDS được cụ thể hóa tại mục 3 Phần I Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP. Theo đó, “hoạt động kinh doanh thương là việc thực hiện một hoặc nhiều hành vi thương mại. Hoạt động kinh doanh, thương mại không chỉ là hoạt động trực tiếp theo đăng ký kinh doanh, thương mại mà còn bao gồm cả các hoạt động khác phục vụ thúc đẩy, nâng cao hiệu quả hoạt động, kinh doanh thương mại”. Đối với mục đích lợi nhuận của cá nhân, tổ chức trong hoạt động kinh doanh, thương mại được hướng dẫn “là mong muốn của cá nhân, tổ chức đó thu được lợi nhuận mà không phân biệt có thu được hay không thu được lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, thương mại đó”. Đối với việc chủ thể có đăng ký kinh doanh hay không dựa vào quy định của Luật Doanh nghiệp về đăng ký kinh doanh và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Về thẩm quyền theo cấp Tòa án, sau khi xác định được tranh chấp kinh doanh thương mại bên trên đối chiếu với quy định tại điểm b khoản 1 Điều 33 và điểm a khoản 1 Điều 34 BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011 để xác định. Theo đó, tất cả các tranh chấp quy định tại khoản 1 Điều 29 đều thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện. Những tranh chấp thuộc các khoản 2, 3 và 4 Điều 29 và trường hợp có đương sự, tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp thuộc thẩm quyền của TAND cấp tỉnh.
Đối với thẩm quyền của các Tòa chuyên trách thuộc TAND cấp tỉnh, dựa vào quy định của BLTTDS và điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP thì Toà kinh tế có nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết các tranh chấp về kinh doanh, thương mại quy định tại Điều 29 của BLTTDS; các tranh chấp về kinh doanh, thương mại mà một hoặc các bên không có đăng ký kinh doanh, nhưng đều có mục đích lợi nhuận.
2. Một số vướng mắc, bất cập
Mặc dù, quy định của pháp luật tố tụng dân sự về tranh chấp kinh doanh thương mại cũng như thẩm quyền của Tòa án đối với loại tranh chấp này tương cụ thể nhưng qua thực tiễn áp dụng đã phát sinh một số vướng mắc, bất cập sau:
2.1. Về việc xác định tranh chấp kinh doanh, thương mại thuộc khoản 1 Điều 29 BLTTDS
Quy định tại Điều 29 BLTTDS quy định rất rõ việc xác định quan hệ tranh chấp nào là tranh chấp kinh doanh thương mại. Theo đó, khi có một trong các loại tranh chấp quy định tại các khoản từ 1 đến 4 của Điều 29 như phân tích bên trên thì tranh chấp đó thuộc thẩm quyền của Tòa án. Trong đó, quy định tại khoản 4 Điều 29 là quy định mở. Chỉ khi có một văn bản quy phạm pháp luật xác định quan hệ đó là tranh chấp kinh doanh thương mại thì Tòa án vận dụng khoản 4 Điều 29 để thụ lý, giải quyết. Quy định tại khoản 4 Điều 29 BLTTDS có thể dẫn đến các trường hợp sau: (1) tranh chấp giữa các bên có đăng ký kinh doanh và đều có mục đích lợi nhuận nhưng chưa được quy định tại khoản 1 Điều 29; (2) tranh chấp giữa các bên mà cả hai cùng có mục đích lợi nhuận nhưng chỉ một bên có đăng ký kinh doanh hoặc cả hai đều không có dăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, dù thuộc trường hợp (1) hay (2) thì văn bản đó phải chỉ rõ đó là tranh chấp kinh doanh thương mại. Ngoài các tranh chấp được quy định tại Điều 29 BLTTDS thì có thể khẳng định không còn tranh chấp nào khác thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Tuy nhiên, khi phân định thẩm quyền cho các Tòa chuyên trách thuộc TAND cấp tỉnh, điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP lại xác định, bên cạnh nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết các tranh chấp và các yêu cầu về kinh doanh, thương mại quy định tại Điều 29 và Điều 30 của BLTTDS, Tòa Kinh tế lại có thẩm quyền giải quyết “các tranh chấp về kinh doanh, thương mại mà một hoặc các bên không có đăng ký kinh doanh, nhưng đều có mục đích lợi nhuận”. Từ quy định này có thể hiểu, ngoài các tranh chấp quy định tại Điều 29 BLTTDS thì còn có các tranh chấp về kinh doanh thương mại mà một hoặc các bên không có đăng ký kinh doanh nhưng đều có mục đích lợi nhuận. Chúng tôi cho rằng, hướng dẫn này đã vượt quá phạm vi quy định tại Điều 29 BLTTDS và không phù hợp. Bởi các lý do:
Thứ nhất, nếu có các loại tranh chấp khác được xác định là tranh chấp kinh doanh thương mại nhưng không được liệt kê tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 29 BLTTDS thì sẽ vận dụng khoản 4 Điều 29 để áp dụng.
Thứ hai, trường hợp một hoặc các bên không có đăng ký kinh doanh nhưng đều có mục đích lợi nhuận được xác định là tranh chấp kinh doanh thương mại khi chúng thuộc một trong các tranh chấp thuộc khoản 2 hoặc khoản 3 Điều 29 cho nên không thể có tranh chấp nào là tranh chấp kinh doanh thương mại mà chỉ có một trong các bên không có đăng ký kinh doanh lại không thuộc Điều 29 BLTTDS.
Chính sự hướng dẫn không rõ ràng này mà trong thực tiễn việc vận dụng quy định của pháp luật để xác định thẩm quyền của Tòa án có những quan điểm khác nhau. Chúng tôi sẽ lần lượt nêu lên 02 ví dụ về vụ án tranh chấp hợp đồng vận chuyển và vụ án tranh chấp về hợp đồng tín dụng để chứng minh.
Ví dụ thứ nhất: Ngày 05/10/2011, Công ty trách nhiệm hữu hạn MH (viết tắt là Công ty MH, trụ sở tại khóm VT1, phường NS, thị xã C, tỉnh A) có thỏa thuận với Nguyễn Văn A (cá nhân, không đăng ký kinh doanh, cư trú tại khóm 1, phường A, thị xã C, tỉnh A) để A vận chuyển hàng cho Công ty MH từ bến phà C thuộc khóm 1, phường A thị xã C bằng xe ô tô thuộc sở hữu của A. Hai bên có lập hợp đồng thể hiện với nội dung: A vận chuyển hàng cho Công ty MH theo chuyến. Khi Công ty MH yêu cầu, tiền thuê vận chuyển mỗi chuyến là 2.500.000 đồng. Vào ngày 15/03/2012, khi A vận chuyển 15 tivi LCD 32 inches theo yêu cầu của Công ty MH đến cầu số 3 thì hàng bị rớt vì A không chằng hàng tốt. Khi A giao hàng đến Công ty TNHH B (đối tác của Công ty MH) thì xác định 06 tivi bị hư hỏng với thiệt hại là 36.000.000 đồng. Sau khi hai bên thương lượng bồi thường không xong, Công ty MH kiện A đến TAND thị xã C, tỉnh A. Việc Công ty A kiện C hiện có 02 quan điểm khác nhau trong việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Ý kiến thứ nhất cho rằng, quan hệ pháp luật tranh chấp giữa Công ty MH với A là tranh chấp về hợp đồng dân sự vận chuyển tài sản theo quy định tại Điều 535 Bộ luật Dân sự bởi vì chỉ có Công ty MH có đăng ký kinh doanh, còn A không có đăng ký kinh doanh. Căn cứ vào quy định tại khoản 3 Điều 25, điểm a khoản 1 Điều 33 và điểm a khoản 1 Điều 35 BLTTDS vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND thị xã C. Ý kiến khác lại cho rằng, quan hệ tranh chấp giữa Công ty MH với A là tranh chấp về hợp đồng kinh doanh thương mại vận chuyển hàng hóa theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 29 BLTTDS. Căn cứ vào quy định tại điểm b khoản 1 Điều 33, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP thì vụ án này thuộc thẩm quyền của Tòa Kinh tế TAND tỉnh A vì mặc dù A không có đang ký kinh doanh nhưng cả hai cùng có mục đích lợi nhuận.
Dựa vào các quy định phân tích bên trên, chúng tôi thống nhất với quan điểm thứ nhất. Bởi vì, hợp đồng mà A và Công ty MH ký kết là Hợp đồng vận chuyển thuộc điểm i khoản 1 Điều 29 BLTTDS. Mục đích lợi nhuận trong vụ án này đã rõ. Đối với tư cách chủ thể, theo như phân tích bên trên, nếu cả hai cùng có đăng ký kinh doanh thì khi tranh chấp phát sinh từ hợp đồng này xảy ra thì tranh chấp giữa các bên mới là tranh chấp kinh doanh thương mại. Trong khi đó, A chưa đáp ứng về mặt chủ thể nên quan hệ pháp luật tranh chấp giữa hai bên là tranh chấp về dân sự và thuộc thẩm quyền của TAND thị xã C.
Bên cạnh đó, việc xác định thẩm quyền trong vụ án tranh chấp về hợp đồng tín dụng tại các tổ chức tín dụng khi một bên là cá nhân không có đăng ký kinh doanh nhưng có mục đích lợi nhuận cũng gặp khó khăn tương tự.
Ví dụ thứ hai: Theo đơn khởi kiện ngày 26/4/2012 của Ngân hàng B, Chi nhánh Ngân hàng B tại huyện A có cho ông N.T.B (không đăng ký kinh doanh) vay số tiền ba trăm triệu đồng, thời hạn vay 12 tháng (từ ngày 16/6/2011 đến 18/6/2012), lãi suất 21%/năm; mục đích vay bổ sung vốn kinh doanh để mua bán đồ may sẵn (theo Hợp đồng tín dụng số 01/HĐ/2011 ngày 16/6/2011). Khi vay, ông B có thế chấp quyền sử dụng đất (đã được cấp quyền sử dụng cho ông B). Sau khi vay, ông B trả lãi đến ngày 16/12/2011 rồi ngưng. Vì vậy, Ngân hàng B khởi kiện yêu cầu ông B trả nợ và duy trì hợp đồng thế chấp để đảm bảo cho việc thi hành án. TAND huyện A đã thụ lý giải quyết vụ án với quan hệ tranh chấp là tranh chấp kinh doanh thương mại. Việc thụ lý, giải quyết của TAND huyện A có 2 quan điểm khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, nếu bên vay trong hợp đồng tín dụng có mục đích lợi nhuận thì khi các bên có tranh chấp đó là tranh chấp kinh doanh thương mại mà không bắt buộc bên vay phải có đăng ký kinh doanh. Nếu bên vay không có đăng ký kinh doanh và mục đích vay là để tiêu dùng thì đó là tranh chấp dân sự nên việc TAND huyện A thụ lý giải quyết là đúng. Ý kiến khác lại cho rằng, theo quy định tại điểm m khoản 1 Điều 29 của BLTTDS thì tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận là tranh chấp về kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền giải quyêt của Tòa án. Do đó, tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa cá nhân không có đăng ký kinh doanh với ngân hàng là tranh chấp dân sự mà không phân biệt tranh chấp giữa cá nhân và ngân hàng đó có mục đích lợi nhuận hay không có mục đích lợi nhuận. Hiện nay, trên thực tiễn các Tòa án giải quyết các vụ án từ hợp đồng tín dụng vẫn áp dụng như quan điểm thứ nhất.
Chúng tôi cho rằng, tranh chấp hợp đồng tín dụng được quy định tại điểm m khoản 1 Điều 29 cho nên tranh chấp hợp đồng phải đảm bảo tiêu chí mà nội dung của khoản này quy định là các bên phải có đăng ký kinh doanh và đều có mục đích lợi nhuận. Thêm vào đó, nghiên cứu quy định của Luật các tổ chức tín dụng năm 2011 cũng như Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 được sửa đổi, bổ sung năm 2004, không có quy định nào quy định về loại quan hệ tranh chấp từ hợp đồng tín dụng như tranh chấp trên là tranh chấp kinh doanh thương mại để áp dụng khoản 4 Điều 29 BLTTDS thụ lý, giải quyết. Vì vậy, hiểu theo quan điểm thứ nhất là phù hợp với quy định của pháp luật.
Theo Đơn khởi kiện ngày 25/10/2010, người đại diện hợp pháp của Công ty TNHH Thương mại H (viết tắt là Công ty H) ông N cho rằng, vào năm 2009, ông N cùng với ông M thành lập Công ty H với 2 thành viên sáng lập, được Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh B. cấp Giấy phép hoạt động vào ngày 10/7/2009; trụ sở Công ty được đặt tại số 22, đường T, khóm C, phường C, thị xã T, tỉnh B. Ông N được bầu giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Giám đốc Công ty; ông M giữ chức Phó Giám đốc Công ty. Đến tháng 10/2009, Công ty mở chi nhánh ở tỉnh L. (viết tắt là Chi nhánh tỉnh L); địa chỉ: số 13, đường N, phường A, thành phố G, tỉnh L (cũng là nơi cư trú của ông M). Ông M. được bổ nhiệm làm Giám đốc Chi nhánh. Trong quá trình hoạt động, từ tháng 7/2009 đến tháng 3/2010, Công ty H có chuyển cho Chi nhánh tỉnh L. tổng số tiền 1,5 tỉ đồng bao gồm: chuyển qua tài khoản cá nhân của ông M. năm trăm triệu đồng; chuyển nhận hàng 02 lần với số tiền 1 tỉ đồng. Sau đó, ông M có chuyển về Công ty với số tiền 350 triệu đồng (tính đến tháng 4/2010), còn lại 1,15 tỉ đồng, ông M không chuyển về Công ty mà giữ lại để nhận hàng. Nhưng đến tháng 3/2010, ông M. báo lại là không còn tiền để hoạt động. Trong thời gian Chi nhánh tỉnh L. hoạt động, ông N. đã nhiều lần yêu cầu ông M. báo cáo hoạt động của Chi nhánh về Công ty nhưng ông M. không thực hiện. Đến ngày 01/6/2010, ông N. có gửi thông báo yêu cầu ông M. trả lời nhưng ông M. vẫn không thực hiện. Vì vậy, ông N. đại diện cho Công ty yêu cầu ông M. giải trình về số tiền 1,15 tỉ đồng mà Công ty đã đầu tư cho Chi nhánh tỉnh L. hoạt động. Nếu không giải trình được thì ông M. phải trả lại số tiền 1,15 tỉ đồng cho Công ty.
Vào ngày 10/8/2010, TAND tỉnh B thụ lý đơn khởi kiện của Công ty H và xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là “tranh chấp công ty với thành viên công ty, đòi tài sản”. Trong quá trình giải quyết vụ án, ông M. thừa nhận có nhận tiền từ Công ty H. như ông N. trình bày nhưng không chấp nhận yêu cầu kiện của Công ty vì số tiền đó ông M. đã dùng vào hoạt động của Chi nhánh tỉnh L. Ngày 21/02/2011, TAND tỉnh B ban hành Quyết định chuyển vụ án số 201 chuyển vụ án đến TAND thị xã T. giải quyết theo thẩm quyền với nhận định: (1) Quan hệ pháp luật tranh chấp giữa Công ty H. với ông M. là tranh chấp dân sự “đòi tài sản” theo khoản 3 Điều 25 BLTTDS nên không thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND tỉnh B; (2) Ngày 10/10/2011, đại diện Công ty H. có đơn yêu cầu chọn TAND thị xã T. giải quyết tranh chấp. Do đó, vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND thị xã T.
Trường hợp ông M. tham gia với tư cách thành viên Công ty (Giám đốc Chi nhánh) thì việc TAND tỉnh B căn cứ vào quy định tại điểm b khoản 1 Điều 36 BLTTDS để xác định nguyên đơn được chọn TAND thị xã G. để giải quyết cũng không phù hợp. Bởi vì, quy định tại điểm b khoản 1 Điều 36 BLTTDS chỉ áp dụng khi tổ chức và chi nhánh của tổ chức cùng là bên bị kiện chứ không bao hàm trường hợp bên khởi kiện là tổ chức và bên bị kiện là chi nhánh của tổ chức như TAND tỉnh B. xác định. Cho nên, trong trường hợp này thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn không được chấp nhận. Do đó, việc TAND tỉnh B. chuyển vụ án cho TAND thị xã T. giải quyết là không đúng thẩm quyền mà phải chuyển cho TAND thành phố G., tỉnh L.
2.3. Việc giải thích thuật ngữ tranh chấp kinh doanh thương mại
Tuy nhiên, việc giải thích thuật ngữ “hoạt động kinh doanh thương mại” trong Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP cũng chưa tương tích với quy định của luật chuyên ngành. Sự khác nhau này được thể hiện qua bản so sánh sau:
Theo khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005:
Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác
Theo khoản 2 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2005:
“Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.”
Theo khoản 2 Điều 5 Luật Thương mại năm 1997:
Hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của thương nhân, bao gồm việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc nhằm thực hiện các chính sách kinh tế – xã hội
Theo khoản 3 Điều 3 Luật Doanh nghiệp năm 1999:
Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Theo tiểu mục 3.3 mục 3 Phần I Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP:
Hoạt động kinh doanh thương là việc thực hiện một hoặc nhiều hành vi thương mại. Hoạt động kinh doanh, thương mại không chỉ là hoạt động trực tiếp theo đăng ký kinh doanh, thương mại mà còn bao gồm cả các hoạt động khác phục vụ thúc đẩy, nâng cao hiệu quả hoạt động, kinh doanh thương mại
Qua bảng so sánh trên, chúng ta thấy, khái niệm “hoạt động kinh doanh thương mại” trong Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP tương thích với khái niệm hoạt động thương mại được quy định tại khoản 2 Điều 5 và Điều 45 (liệt kê 14 hành vi thương mại)[1] Luật Thương mại năm 1997 bởi vì khi đó Luật Thương mại năm 1997 đang có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, khái niệm “hoạt động kinh doanh thương mại” trong Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP chưa bao hàm khái niệm kinh doanh như quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Doanh nghiệp năm 1999 vì thời điểm đó Luật Doanh nghiệp năm 1999 cũng đang có hiệu lực. Nếu cho rằng, nội dung “… Hoạt động kinh doanh, thương mại không chỉ là hoạt động trực tiếp theo đăng ký kinh doanh, thương mại mà còn bao gồm cả các hoạt động khác phục vụ thúc đẩy, nâng cao hiệu quả hoạt động, kinh doanh thương mại”bên cạnh”hành vi thương mại” trong khái niệm “hoạt động kinh doanh thương mại” của Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP tương xứng với khái niệm “kinh doanh” trong Luật Doanh nghiệp năm 1999 cũng chưa thật sự đúng bởi vì nội dung này chỉ để giải nội dung “việc thực hiện một hoặc nhiều hành vi thương mại”.
Không những thế, hiện nay, khái niệm về “hoạt động thương mại” quy định trong Luật Thương mại năm 2005 đã có sự thay đổi khi không còn đề cập đến hành vi thương mại như Luật Thương mại năm 1997. Trong khi đó, khái niệm kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp năm 2005 hầu như không thay đổi so với khái niện được quy định trong Luật Doanh nghiệp năm 1999. Vì vậy, cần có sự sự sửa đổi, bổ sung thuật ngữ “hoạt động kinh doanh thương mại” trong Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP sao cho bao quát hết khái niệm “hoạt động thương mại” và “kinh doanh” theo các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành hiện hành hoặc chỉ cần hướng dẫn theo phương pháp dẫn chiếu đến các nội dung đó.
2.4. Về hình thức quy định các hoạt động kinh doanh thương mại tại khoản 1 Điều 29 BLTTDS
Thứ nhất, điểm i khoản 1 Điều 29 BLTTDS quy định thẩm quyền của Tòa án đối với hoạt động “Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa” và điểm k khoản 1 Điều 29 BLTTDS quy định thẩm quyền của Tòa án đối với hoạt động “Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển”. Chúng ta thấy, quy định tại 02 nội dung này là tương tự nhau, chỉ khác nhau là phương tiện vận chuyển. Hơn nữa, để giải quyết tranh chấp trong từng điểm, Tòa án không chỉ áp dụng một luật nội dung mà tùy theo mỗi loai tranh chấp mà áp dụng luật nội dung khác nhau. Chẳng hạn, đối với quy định tại điểm i, Tòa án phải dùng đến luật đường sắt, luật đường thủy nội địa, luật giai thông đường bộ và tại điểm k phải dùng đến luật hàng không dân dụng, luật giao thông đường biển. Ngoài ra, theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều BLTTDS năm 2011 thì thẩm quyền của Tòa án đối với quy định tại điểm i và điểm k đã được giao cho TAND cấp huyện. Vì vậy, để đơn giản nội dung điều luật, cần gộp điểm i và điểm k vào một điểm với nội dung bao quát.
Thứ hai, điểm b khoản 1 Điều 29 BLTTDS quy định về “cung ứng dịch vụ là rất rộng. Nội dung này bao trùm các nội dung quy định tại các điểm c, d, đ, e, g, h, i, k, n và o khoản 1 Điều 29 BLTTDS. Nghiên cứu quy định của luật chuyên ngành về “cung ứng dịch vụ” chúng tôi thấy rằng, trong 14 hành vi thương mại được quy định trong Luật Thương mại năm 1997 trước đây, hành vi cung ứng dịch vụ được giới hạn trong phạm vị dễ áp dụng như: dịch vụ giao nhận hàng hóa, dịch vụ giám định hàng hóa (được quy định tại các khoản 9 và 10 Điều 45). Bên cạnh đó, tại khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005 quy định về các hoạt động thương mại cũng chỉ ra “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác” và tại khoản 9 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005 giải thích rõ “Cung ứng dịch vụ là hoạt động thương mại, theo đó một bên (sau đây gọi là bên cung ứng dịch vụ) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác và nhận thanh toán; bên sử dụng dịch vụ (sau đây gọi là khách hàng) có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận”. Như vậy, nội dung của hoạt động “cung ứng dịch vụ” không chồng lần lên các hoạt động khác nên cần quy định loại trừ tại điểm b khoản 1 Điều 29 BLTTDS đối với những hoạt động được quy định tại các điểm c, d, đ, e, g, h, i, k, n và o khoản 1 Điều 29 BLTTDS.
3. Một số kiến nghị hoàn thiện
Để khắc phục các vướng mắc trên, chúng tôi kiến nghị hoàn thiện một số nội dung sau:
Thứ nhất, gộp quy định tại điểm k khoản 1 Điều 29 BLTTDS vào điểm i khoản 1 Điều 29 BLTTDS và điểm i khoản 1 Điều 29 BLTTDS mới có nội dung sau: “i) Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa, đường hàng không, đường biển.”
Thứ hai, bổ sung vào điểm b khoản 1 Điều 29 BLTTDS nội dung loại trừ các hoạt động kinh doanh, thương mại được quy định tại các điểm c, d, đ, e, g, h, i, k, n và o khoản 1 Điều 29 BLTTDS và điểm b khoản 1 Điều 29 BLTTDS mới có nội dung như sau: “b) Cung ứng dịch vụ trừ các hoạt động được quy định tại các điểm c, d, đ, e, g, h, i, k, n và o khoản 1 Điều 29 Bộ luật này”.
Thứ ba, sửa đổi bổ sung thuật ngữ “hoạt động kinh doanh thương mại” được hướng dẫn tại tiểu mục 3.3 mục 3 Phần II Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP theo 02 hướng: Hoặc là giải thích thuật ngữ này theo hướng bao quát cả thuật ngữ “kinh doanh” hoặc là chỉ cần hướng dẫn viện dẫn “hoạt động kinh doanh thương mại” được xác định theo quy định của luật chuyên ngành (Luật Doanh nghiệp và Luật Thương mại).
Thứ tư, bổ sung vào khoản 3 Điều 29 BLTTDS hoặc bổ sung vào tiểu mục 3.5. mục 3 Phần I Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP nội dung khái quát về “việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty” rồi liệt kê các tranh chấp giữa công ty với thành viên công ty để có cơ sở xác định tranh chấp mới phát sinh khi chúng không thuộc các trường hợp được liệt kê, tránh vướng mắc như hiện nay.
Thứ năm, sửa đổi, bổ sung điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP thành nội dung như sau: “Toà kinh tế có nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết các tranh chấp và các yêu cầu về kinh doanh, thương mại quy định tại Điều 29 và Điều 30 của BLTTDS” bỏ nội dung “các tranh chấp về kinh doanh, thương mại mà một hoặc các bên không có đăng ký kinh doanh, nhưng đều có mục đích lợi nhuận”.
Khái Niệm Thẩm Quyền Tài Phán Trong Luật Hình Sự Quốc Tế
Trong Luật hình sự quốc tế, khái niệm về thẩm quyền xét xử đối với các hành vi phạm tội đã được quy định tương đối cụ thể, rõ ràng và chặt chẽ.
Trong quá trình hợp tác quốc tế đấu tranh phòng chống tội phạm vấn đề thẩm quyền tài phán là một trong những vấn đề có tầm quan trọng đáng quan tâm.
Thẩm quyền tài phán của quốc gia được hiểu theo hai nghĩa
Theo khái niệm rộng, thẩm quyền tài phán của một quốc gia xác định được hiểu là quyền lực riêng biệt cùa quốc gia trong các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Như vậy, thẩm quyền tài phán được cấu thành bởi quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp cura quốc gia và đây chính là quyền tối cao của một nhà nước trong phạm vi lãnh thổ của mình, một nội dung quan trọng của chủ quyền quốc gia.
Trong phạm vi lãnh thổ của mình, quốc gia có quyền thực hiện các quyền năng trong lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp mà không có bất kỳ sự can thiệp nào từ bên ngoài.
Có quyền thông qua những quyết định về mọi vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của đất nước vì mục đích tối cao là đảm bảo quyền lực và lợi ích của nhân dân.
Theo nghĩa hẹp thì thẩm quyền tài phán của quốc gia là thẩm quyền giải quyết các vụ việc thuộc quyền hạn xét xử của quốc gia này.
Căn cứ vào tiêu chí loại hình vụ việc giải quyết, quốc gia có thẩm quyền xét xử dân sự, hành chính và hình sự cũng như quyền xét xử các vụ việc khác.
Sự phân biệt các nhóm quyền trong thẩm quyền tài phán hình sự quốc gia
Trong ba nhóm quyền này, cần thiết phải có sự phân biệt, đặc biệt là giữa nhóm hai và nhóm ba, mặc dù sự khác nhau giữa hai nhóm quyền này là không rõ ràng trong thực tế.
Ví dụ: Một cá nhân có hành vi giết người tại nước Anh và sau đó chạy trốn sang Pháp để lẩn trốn, tòa án Anh có thẩm quyền xét xử thủ phạm giết người này, nhưng cảnh sát Anh không thể thực hiện được hành vi bắt giữ thủ phạm trên lãnh thổ nước Pháp, trong trường hợp này Tòa án Anh phải yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền của Pháp bắt giữ và chuyển giao tội phạm giết người cho họ để tiến hành xét xử tại nước Anh.
Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị đây chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
Cơ Quan Hành Chính Có Thẩm Quyền Chung Và Thẩm Quyền Chuyên Môn
Phân biệt cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung và cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn? Quy định về cơ quan hành chính có thẩm quyền chung và thẩm quyền chuyên môn?
Trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay, cơ quan hành chính Nhà nước là một bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước trực thuộc cơ quan quyền lực nhà nước cấp, có phương diện hoạt động chủ yếu là hoạt động quản lý nhà nước, có cơ cấu tổ chức và phạm vi thẩm quyền do pháp luật quy định. Cơ quan hành chính nhà nước có hệ thống thống nhất từ trung ương tới địa phương đứng đầu hệ thống đó là chính phủ.
Cơ quan quản lý hành chính nhà nước nhân danh nhà nước tham gia vào quan hệ pháp luật để bảo đảm sự chấp hành luật, pháp lệnh, nghị quyết của cơ quan quyền lực nhà nước nhằm tổ chức và chỉ đạo trực tiếp, thường xuyên công cuộc xây dựng kinh tế, văn hoá – xã hội và hành chính – chính trị. Cơ quan hành chính nhà nước căn cứ vào những tiêu chí mà được phân loại thành những cơ quan khác nhau. Bài viết của Luật Dương Gia sau đây làm rõ sự khác nhau giữa cơ quan hành chính có thẩm quyền chung và thẩm quyền chuyên môn.
I. Các vấn đề chung về cơ quan hành chính nhà nước
1. Khái niệm cơ quan hành chính nhà nước
Cơ quan hành chính nhà nước là bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước, trực thuộc trực tiếp hoặc gián tiếp cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp, có phương diện hoạt động chủ yếu là hoạt động chấp hành – điều hành, có cơ cấu tổ chức và phạm vi thẩm quyền do pháp luật quy định.
2. Đặc điểm của cơ quan hành chính nhà nước
Thứ nhất, cơ quan hành chính nhà nước là cơ quan quản lý hành chính nhà nước. Các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện hoạt động chấp hành – điều hành (đó là những hoạt động được tiến hành trên cơ sở luật và để thi hành luật) nhằm thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước.
Như vậy, hoạt động chấp hành – điều hành hay còn gọi là hoạt động quản lý hành chính nhà nước là phương diện hoạt động chủ yếu của cơ quan hành chính nhà nước. Các cơ quan nhà nước khác cũng thực hiện những hoạt động quản lý hành chính nhà nước nhưng đó không phải là phương diện hoạt động chủ yếu mà chỉ là hoạt động được thực hiện nhằm hướng tới hoàn thành chức năng cơ bản của cơ quan nhà nước đó như: Chức năng lập pháp của Quốc hội, chức năng xét xử của tòa án nhân dân, chức năng kiểm sát của viện kiểm sát nhân dân.
Chỉ có cơ quan hành chính nhà nước mới thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước trên tất cả các lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, xã hội…Việc thực hiện hoạt động quản lí hành chính nhà nước là nhằm hoàn thành chức năng quản lý hành chính nhà nước.
Thứ hai, hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước được thành lập từ Trung ương đến cơ sở, đứng đầu là Chính phủ, tạo thành một chỉnh thể thống nhất, được tổ chức theo hệ thống thứ bậc, có mối quan hệ mật thiết phụ thuộc nhau về tổ chức và hoạt động nhằm thực thi quyền quản lý hành chính nhà nước. Như vậy, cơ quan hành chính nhà nước có tính trực thuộc, tính thứ bậc chặt chẽ tạo thành một hệ thống thống nhất. Bộ máy hành chính nhà nước chủ yếu thực hiện quyền hành pháp, thực hiện một loại hoạt động đặc thù, phức tạp, đa dạng.
Thứ ba, các cơ quan hành chính nhà nước đều trực tiếp hay gián tiếp trực thuộc cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp, chịu sự giám sát và báo cáo công tác trước cơ quan quyền lực nhà nước. Do đó các cơ quan này chịu sự lãnh đạo, giám sát của cơ quan dân cử tương ứng và chịu trách nhiệm báo cáo trước cơ quan đó. Có những cơ quan hành chính nhà nước không do cơ quan dân cử trực tiếp lập ra mà do các cơ quan hành chính nhà nước cấp trên lập, nhưng về nguyên tắc cũng chịu sự giám sát, lãnh đạo của cơ quan dân cư tương ứng.
Thứ tư, thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước được pháp luật quy định trên cơ sở lãnh thổ, ngành hoặc lĩnh vực chuyên môn mang tính tổng hợp. Đó là những quyền và nghĩa vụ pháp lý hành chính chỉ giới hạn trong phạm vi hoạt động chấp hành – điều hành.
Thứ năm, các cơ quan hành chính nhà nước có hệ thống đơn vị cơ sở trực thuộc. Các đơn vị cơ sở của bộ máy hành chính nhà nước là nơi trực tiếp tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Hầu hết các cơ quan có chức năng quản lý hành chính đều có các đơn vị cơ sở trực thuộc.
II. Phân biệt cơ quan hành chính có thẩm quyền chung và thẩm quyền chuyên môn
Cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung và cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn có những điểm giống nhau như sau:
– Đều là cơ quan hành chính nhà nước được giao thẩm quyền quản lý hành chính nhà nước.
– Đều có đội ngũ cán bộ, công chức để thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ được giao nhằm mục đích được giao nhằm thực hiện chức năng của mình.
– Đều có thẩm quyền ban hành các quyết định hành chính để giải quyết công việc phát sinh nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
Bên cạnh đó cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung và cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn cũng có những điểm khác nhau cơ bản để có thể phân biệt được, cụ thể như sau:
Xin c hào công ty luật Dương Gia. Em tên là Minh Phương, là sinh viên, hiện đang thực tập tại Phòng Kinh tế Huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ. Sau quá trình thực tập, em có dự định làm việc tại quê em ở Phú Thọ. Tuy nhiên, hiện em chưa rõ cơ quan chuyên môn ở huyện bao gồm những cơ quan nào. Xin luật sư đáp câu hỏi c ơ quan chuyên môn cấp huyện bao gồm cơ quan nào? Văn bản nào quy định điều này?
Vấn đề cơ quan chuyên môn cấp huyện quy định tại Khoản 2 Điều Nghị định 37/2014/NĐ-CP cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban huyện quận thị xã thành phố thuộc tỉnh cụ thể như sau:Cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện gồm có phòng và cơ quan tương đương phòng (sau đây gọi chung là phòng).
Các cơ quan chuyên môn được tổ chức thống nhất ở các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quy định tại Điều 7 Nghị định 37/2014/NĐ-CP bao gồm các cơ quan sau:
1. Phòng Nội vụ:
Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Tổ chức bộ máy; vị trí việc làm; biên chế công chức và cơ cấu ngạch công chức trong các cơ quan, tổ chức hành chính nhà nước; vị trí việc làm, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp và số lượng người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập; tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lao động hợp đồng trong cơ quan, tổ chức hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập; cải cách hành chính; chính quyền địa phương; địa giới hành chính; cán bộ, công chức, viên chức; cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; hội, tổ chức phi chính phủ; văn thư, lưu trữ nhà nước; tôn giáo; công tác thanh niên; thi đua – khen thưởng.
Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Công tác xây dựng và thi hành pháp luật, theo dõi thi hành pháp luật, kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật, kiểm soát thủ tục hành chính, phổ biến, giáo dục pháp luật; hòa giải ở cơ sở, trợ giúp pháp lý, nuôi con nuôi, hộ tịch, chứng thực, bồi thường nhà nước và các công tác tư pháp khác theo quy định của pháp luật; quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
3. Phòng Tài chính – Kế hoạch:
Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về; Tài chính; kế hoạch và đầu tư; đăng ký kinh doanh; tổng hợp và thống nhất quản lý các vấn đề về doanh nghiệp, hợp tác xã, kinh tế tư nhân.
4. Phòng Tài nguyên và Môi trường:
Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Đất đai; tài nguyên nước; tài nguyên khoáng sản; môi trường; biển và hải đảo (đối với các huyện có biển, đảo).
5. Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội;
Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Việc làm; dạy nghề; lao động, tiền lương; tiền công; bảo hiểm xã hội (bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp); an toàn lao động; người có công; bảo trợ xã hội; bảo vệ và chăm sóc trẻ em; bình đẳng giới; phòng, chống tệ nạn xã hội.
6. Phòng Văn hóa và Thông tin:
7. Phòng Giáo dục và Đào tạo:
Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Chương trình và nội dung giáo dục và đào tạo; tiêu chuẩn nhà giáo và tiêu chuẩn cán bộ quản lý giáo dục; tiêu chuẩn cơ sở vật chất, thiết bị trường học và đồ chơi trẻ em; quy chế thi cử và cấp văn bằng, chứng chỉ; bảo đảm chất lượng giáo dục và đào tạo.
Bạn đang xem bài viết Khái Niệm Thẩm Quyền Của Tòa Án trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!