Cập nhật thông tin chi tiết về Khái Niệm Tố Cáo, Phân Biệt Tố Cáo Và Tố Giác Tội Phạm mới nhất trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
1. Khái niện tố cáo: Hiểu tố cáo là gì? Nhất định bạn phải nắm rõ khái niệm thế nào là tố cáo:
Theo Điều 2 của Luật tố cáo có quy định về khái niệm tố cáo như sau:
“Tố cáo là việc công dân theo thủ tục do Luật này quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức”
Như vậy, bản chất của tố cáo sẽ được xem xét dựa vào nhiều khía cạnh khác nhau. Bao gồm:
Thứ nhất, đó chính là chủ thể tố cáo chỉ là một người công dân bình thường. Điều này có giá trị nhằm cá thể hóa đối với trách nhiệm đối với người tố cáo, nếu như họ cố tình tố cáo không đúng sự thật thì tùy vào các tính chất cũng như mức độ đến từ hành vi này sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, khi đối tượng của tố cáo chính là những hành vi vi phạm pháp luật tại các cơ quan, tổ chức hoặc từ các cá nhân gây ra những thiệt hại, sự đe dọa đến lợi ích của Nhà nước và quyền lợi của công dân, của tổ chức nào đó.
Trong luật tố cáo, có hai loại hành vi được coi là vi phạm pháp luật và sẽ bị tố cáo đó chính là:
Hành vi trái pháp luật của người cán bộ, công nhân viên chức khi thực hiện nhiệm vụ Hành vi trái pháp luật về việc quản lý nhà nước ở trong tất cả các lĩnh vực.
Thứ ba, những cơ quan có thẩm quyền giải quyết việc tố cáo chính là cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Những người tố cáo có thể tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật lên cơ quan có thẩm quyền của nhà nước. Nếu như việc tố cáo được thực hiện bằng đơn tố cáo nhưng lại gửi đơn đến cho các cơ quan không thuộc thẩm quyền giải quyết sự việc tố cáo thì cơ quan đó sẽ phải chuyển đơn tố cáo lên những cơ quan, cá nhân có thẩm quyền.
Thứ tư, về trình tự và các thủ tục giải quyết việc tố cáo được quy định cụ thể như sau:+ Tiếp nhận và xử lý thông tin tố cáo+ Xác minh lại nội dung tố cáo+ Kết luận nội dung tố cáo+ Xử lý tố cáo+ Công khai kết luận của nội dung tố cáo, đưa ra quyết định xử lý các hành vi vi phạm pháp luật.
Thứ năm, kết quả tố cáo mang bản chất như sau: Trong trường hợp cá nhân nào đó bị tố cáo là vi phạm pháp luật thì sẽ bị áp dụng những biện pháp xử lý dựa trên kiến nghị, thẩm quyền của cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền giải quyết theo đúng như quy định mà pháp luật ban hành. Nếu như hành vi vi phạm pháp luật này có dấu hiệu phạm tội thì vụ việc sẽ được chuyển lên các cơ quan chức năng điều tra, hoặc đưa lên Viện kiểm sát để giải quyết việc tố cáo.
Trong trường hợp khác, nếu người bị tố cáo không vi phạm pháp luật thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần phải gửi tới cho họ thông báo văn bản về việc khôi phục những quyền và lợi ích hợp pháp. Đồng thời, cơ quan chức năng phải thực hiện việc xử lý người cố ý tố cáo không đúng sự thật.
– Các mối quan hệ pháp luật phát sinh trong quá trình tố cáo
Khi người công dân tố cáo một hành vi vi phạm pháp luật nào đó thì sẽ có những mối quan hệ pháp luật phát sinh bao gồm:
Người tố cáo:
Họ là những người công dân chủ động thực hiện quyền tố cáo của mình. Khi tố cáo, họ cần phải đảm bảo tuyệt đối về tính chất trung thực, chính xác của vụ việc được tố cáo. Đồng thời còn phải chịu trách nhiệm đối với những thông tin đã cung cấp trong đơn tố cáo là gì.
Khi người tố cáo cố tình thực hiện hành vi tố cáo sai sự thật thì có thể họ sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự, phải gánh tội vu khống theo những quy định của pháp luật tại Điều 122 của Bộ luật Hình sự ban hành năm 1999.
Người bị tố cáo:
Các đối tượng bị tố cáo có thể là các cơ quan, tổ chức, các cá nhân có hành vi tố cáo. Họ chính là những người được coi là đã thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật và đã gây ra những đe dọa, những sự thiệt hại nhất định nào đó tới lợi ích của Nhà Nước, đến quyền lợi và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức hay của công dân khác.
Người giải quyết tố cáo:
Giải quyết tố cáo chính là các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong việc giải quyết các tố cáo từ người tố cáo dựa vào những hoạt động giải quyết tố cáo thiết thực, bao gồm: Tiếp nhận, xác minh, kết luận nội dung tố cáo, xử lý tố cáo.
– Những nội dung thường xuất hiện trong đơn tố cáo
Nếu như bạn đã hiểu được đơn tố cáo là gì thì sẽ không khó để biết được nội dung tố cáo sẽ thường là những nội dung gì. Trong cuộc sống, có ti tỉ những vấn đề mâu thuẫn có thể xảy ra và gây ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của cơ quan, tổ chức, công dân. Nếu như liệt kê ra thì có lẽ không giấy mực nào diễn tả hết.
Tố cáo việc làm vi phạm pháp luật của người cán bộ, công chức làm việc ở trong bộ máy nhà nước trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
Tố cáo các sai phạm trong công tác điều hành, quản lý của cơ quan, bao gồm cơ quan quản lý hành chính nhà nước
Tố cáo các hành vi vi phạm đạo đức, lối sống của những cán bộ, công chức
Có rất nhiều sự việc có thể tố cáo. Tuy nhiên khi thực hiện quyền tố cáo, nếu không chú ý cẩn thận thì người tố cáo có thể sẽ gặp phải một vài rủi ro nhất định. Họ có thể bị đe dọa, bị hành hung, trả thù từ những đối tượng bị tố cáo. Chính vì vậy mà người công dân cần phải thực hiện cả quyền yêu cầu các cơ quan tổ chức có thẩm quyền bảo vệ cho mình.
Ngoài ra, nếu thực hiện hành vi tố cáo góp phần xây dựng nên những điều tốt đẹp thì công dân còn được khuyến khích, được khen thưởng. Điều này đã được quy định tại Nghị định số 7/2012/NĐ – CP.
2. Phân biệt tố cáo và tố giác
Có rất nhiều người nhầm lẫn khái niệm tố cáo và tố giác vì có vẻ các phát âm của chúng tương tự nhau và giá trị của chúng cũng chẳng khác nhau nhiều. Thế nhưng, nếu bạn nhầm lẫn hai khái niệm này thì việc thực hiện quyền pháp luật của mình sẽ gặp phải những khó khăn, rắc rối nào đó không mong muốn và còn mang đến những khó khăn cho các cơ quan Nhà nước trong quá trình giải quyết đơn tố cáo và đơn tố giác.
Giữa tố cáo và tố giác đương nhiên sẽ được phân biệt với nhau bởi những điểm khác nhau cơ bản nhất. Khi phân biệt rõ hai loại hành vi này từ người thực hiện quyền pháp luật thì sẽ giúp cho cơ quan chức năng có thẩm quyền có thể xác định được đúng bản chất vấn đề, từ đó có thể giải quyết thuận lợi công việc, mang đến sự hiệu quả và chính xác về kết quả và thủ tục.
4.1. Sự khác nhau về khái niệm tố cáo và tố giác
Khái niệm tố cáo và tố giác đã được định nghĩa rõ ràng ở trong các văn bản chuẩn mực được ban hành dưới sự phê duyệt của Nhà Nước. Theo đó, chúng ta có thể dễ dàng tìm hiểu khái niệm và từ đó nhận diện chính xác thế nào là tố cáo và tố giác.
Về khái niệm tố cáo
Trong từ điển tiếng Việt có nêu rõ như sau: tố cáo là “báo cho mọi người hoặc cơ quan có thẩm quyền biết người hoặc hành động phạm pháp nào đó” , là “vạch trần hành động xấu xa, phạm pháp hay tội ác trước cơ quan có thẩm quyền hoặc trước dư luận”.
Không chỉ dựa vào từ điện, tại Bộ luật Tố cáo cũng chỉ rõ rằng: tố cáo là “việc cá nhân theo thủ tục quy định của Luật này báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân” (Điều 2, Luật Tố cáo 2018)
Về khái niệm tố giác
Cũng tương tự như tố cáo, khái niệm tố giác được định nghĩa cụ thể trong các văn bản quy phạm, gồm có:
Theo từ điển Tiếng Việt, tố giác được hiểu như sau: “Báo cho cơ quan chính quyền biết người hoặc hành động phạm pháp nào đó”.
Còn trong văn bản pháp luật, tại điều 144 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 cho hay: “Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền”. Khi thực hiện tố giác, báo tin về tội phạm thì người tố giác có thể thực hiện bằng văn bản hoặc bằng lời nói.
Nếu như cố ý tố giác hoặc báo tin sai sự thật thì tùy vào mức độ, tính chất vi phạm cá nhân đó sẽ bị xử lý, xử phạt về hành chính, nghiêm trọng hơn là bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo những gì pháp luật đã quy định. Điều này được quy định rõ tại Khoản 4, Điều 5 của Bộ luật tố tụng 2015.
Như vậy, thông qua các khái niệm có thể hiểu đơn giản về sự khác biệt giữa tố cáo và tố giác như sau:
Tố cáo là: hành vi vi phạm pháp luật không có sự phân biệt về mức độ và tính chất vi phạm, còn tố giác chỉ gồm hành vi vi phạm pháp luật có thể cấu thành tội phạm.
Tố giác là: việc tố cáo hành vi trái pháp luật.
Ở một khía cạnh khác, tố cáo chính là quyền của công dân; còn tố giác vừa là quyền lại vừa là nghĩa vụ của người công dân. Chỉ khi nào công dân thực hiện quyền tố cáo của mình thì mới phát sinh các quan hệ pháp luật, còn với tố giác, các mối quan hệ pháp luật sẽ phát sinh ngay khi người công dân đó biết về kẻ vi phạm.
4.2. Những điểm khác biệt về chủ thể của tố cáo và tố giác
Tố cáo có chủ thế là các cá nhân có tên tuổi và địa chỉ cụ thể, chi tiết trong khi chủ thể của tố giác là một cá nhân, mà cá nhân này cho rằng có một hành vi vi phạm pháp luật đã xảy ra hoặc có thể xảy ra và có dấu hiệu tội phạm. Vì không phải là nguồn tin chắc chắn cho nên việc tố giác chỉ được xem là một hình thức cung cấp thông tin, nêu ra những dấu hiệu, sự việc vi phạm pháp luật cho cơ quan xem xét và điều tra làm rõ.
4.3. Đối tượng của tố cáo khác tố giác như thế nào?
Tố cáo có đối tượng là các hành vi vi phạm pháp luật ở trong tất cả các lĩnh vực, các đối tượng đó không bị phân biệt về tính chất cũng như mức độ của sự vi phạm. Còn đối tượng của tố giác chỉ là những hành vi vi phạm có thể cấu thành tội phạm, chỉ mang dấu hiệu có thể vi phạm pháp luật và chưa được xác thực tại thời điểm tố giác.
Cuối cùng, thông qua bài viết này, hy vọng các bạn có thể hiểu được tố cáo là gì? Đơn tố cáo là gì? Từ đây bạn cần hiểu rõ rằng, quyền tố cáo của người công dân chính là cách chúng ta đang thể hiện quyền làm chủ của chính mình đối với việc quản lý và củng cố bộ máy nhà nước thêm vững chắc. Tố cáo đồng thời là cách để bạn có thể bảo vệ những quyền lợi và lợi ích hợp pháp cho chính mình, cho những công dân khác và cho các cơ quan nhà nước.
” Hình thức tố cáo theo Luật Tố cáo 2018
” Tố cáo sai sự thật xử lý như thế nào?
Tố Cáo Và Tố Giác Khác Nhau Như Thế Nào?
Trên thực tế có rất nhiều trường hợp người tố cáo, người tố giác không phân biệt được tố cáo và tố giác gây ra khó khăn cho việc giải quyết tố cáo, tố giác đồng thời gây khó khăn cho cơ quan nhà nước khi giải quyết tố cáo, tố giác.
Tố giác và tố cáo có những điểm khác nhau cơ bản. Việc phân biệt hai loại thủ tục (hành vi) này sẽ giúp các cơ quan có thẩm quyền xác định đúng bản chất của vấn đề nhằm giải quyết công việc hiệu quả, đúng trình tự, thủ tục.
(i) Khái niệm tố cáo:
Theo từ điển Tiếng Việt, tố cáo là “Báo cho mọi người hoặc cơ quan có thẩm quyền biết người hoặc hành động phạm pháp nào đó”; “Vạch trần hành động xấu xa, phạm pháp hay tội ác trước cơ quan có thẩm quyền hoặc trước dư luận”… Trên khía cạnh pháp lý, Điều 2 Luật Tố cáo năm 2018 giải thích:
1. Tố cáo là việc cá nhân theo thủ tục quy định của Luật này báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, bao gồm: (a) Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ; (b) Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực.
2. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ là tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của các đối tượng sau đây: (a) Cán bộ, công chức, viên chức; người khác được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ; (b) Người không còn là cán bộ, công chức, viên chức nhưng đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật trong thời gian là cán bộ, công chức, viên chức; người không còn được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ nhưng đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật trong thời gian được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ; (c) Cơ quan, tổ chức.
3. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực là tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào về việc chấp hành quy định của pháp luật, trừ hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ.
(ii) Khái niệm tố giác:
Từ điển Tiếng Việt đã khái niệm tố giác là việc “Báo cho cơ quan chính quyền biết người hoặc hành động phạm pháp nào đó”. Trên khía cạnh pháp lý, Điều 144 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về tố giác như sau: “Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền”. Tố giác, tin báo về tội phạm có thể bằng lời hoặc bằng văn bản. Người nào cố ý tố giác, báo tin về tội phạm sai sự thật thì tuỳ tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật. (Khoản 4, 5 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015).
Từ khái niệm trên cho thấy: tố cáo và tố giác về tội phạm có những điểm khác biệt nhất định. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật, không phân biệt tính chất, mức độ vi phạm. Còn tố giác về tội phạm chỉ bao gồm hành vi vi phạm pháp luật có thể cấu thành tội phạm đã được quy định trong Bộ luật Hình sự. Ở một khía cạnh nào đó có thể hiểu tố giác về tội phạm là tố cáo hành vi phạm tội, nếu hiểu theo cách này thì nội hàm khái niệm tố cáo đã bao hàm cả khái niệm tố giác về tội phạm. Do đó, có thể nói, khái niệm tố cáo rộng hơn và cơ bản đã bao hàm cả khái niệm tố giác về tội phạm theo Bộ luật Tố tụng hình sự. Điểm khác biệt cơ bản giữa hai khái niệm này là: Tố cáo là quyền của công dân, còn tố giác về tội phạm vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của công dân. Quan hệ pháp luật về tố cáo hành vi vi phạm pháp luật chỉ phát sinh sau khi công dân thực hiện quyền tố cáo, còn quan hệ pháp luật tố giác về tội phạm thì phát sinh ngay khi công dân biết về tội phạm. Công dân có quyền quyết định việc mình sẽ tố cáo hay không một hành vi vi phạm pháp luật, nhưng bắt buộc phải tố giác nếu đã biết rõ về một tội phạm đang chuẩn bị hoặc đã được thực hiện. Công dân có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội: “Không tố giác tội phạm” theo quy định của Bộ luật Hình sự, nếu biết mà không tố giác tội phạm . Sự khác biệt này có thể dẫn đến những hệ quả pháp lý rất khác nhau, tố cáo chỉ phát sinh quan hệ pháp lý khi công dân trực tiếp hoặc gửi đơn tố cáo đến cơ quan, cá nhân có thẩm quyền. Còn tố giác tội phạm trong một số trường hợp phát sinh quan hệ pháp lý ngay từ thời điểm tội phạm xảy ra.
2. Chủ thể tố cáo và tố giác
Chủ thể tố cáo là cá nhân, có tên tuổi, địa chỉ rõ ràng, người bị tố cáo cũng phải có tên tuổi, địa chỉ, nội dung tố cáo phải chỉ rõ hành vi bị tố cáo. Người tố cáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung tố cáo của mình, trường hợp tố cáo sai sự thật (vu khống) thì tùy theo mức độ có thể bị xử lý về hành chính hoặc hình sự; việc tố cáo được thực hiện bằng đơn tố cáo hoặc tố cáo trực tiếp. Chủ thể của tố giác là cá nhân, chủ thể này cho rằng có một sự kiện vi phạm pháp luật đã hoặc sẽ xảy ra ngoài xã hội có dấu hiệu tội phạm, là một hình thức cung cấp nguồn tin, dấu hiệu hay sự việc vi phạm pháp luật bằng cách báo cho cơ quan Nhà nước xem xét, làm rõ. Tố giác tội phạm có thể bằng lời hoặc bằng văn bản; hành vi bị tố giác tội phạm phải được quy định trong Bộ luật Hình sự. Pháp luật hiện hành cũng đặt ra trách nhiệm của người tố giác đối với nội dung tố giác. Nếu cố ý tố giác sai sự thật thì tùy theo mức độ sẽ bị xử lý, có thể truy cứu trách nhiệm hình sự. Đây là một trong những điểm giống nhau giữa tố cáo và tố giác tội phạm.
3. Đối tượng của tố cáo và tố giác
Thời hạn giải quyết tố cáo là 60 ngày, kể từ ngày thụ lý giải quyết tố cáo; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết là 90 ngày, kể từ ngày thụ lý giải quyết tố cáo. Trường hợp cần thiết, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo có thể gia hạn giải quyết một lần nhưng không quá 30 ngày, đối với vụ việc phức tạp thì không quá 60 ngày. Về thời hạn giải quyết tố giác, trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được việc tố giác, cơ quan điều tra phải kiểm tra, xác minh và ra quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự, hoặc tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác. Nếu sự việc bị tố giác có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải xác minh nhiều nơi, thời hạn giải quyết tố giác kéo dài không quá 2 tháng, hoặc Viện Kiểm sát có thể gia hạn một lần (nhưng cũng không quá 2 tháng).
5. Về hệ quả pháp lý của tố cáo và tố giác
Tố cáo là quyền của công dân có thể tố cáo, nhưng cũng có thể không, nếu cảm thấy không cần thiết trong một số trường hợp nhất định; còn tố giác về tội phạm vừa là quyền nhưng cũng đồng thời là nghĩa vụ của công dân. Sự khác biệt này có thể dẫn đến những hệ quả pháp lý rất khác nhau: Tố cáo chỉ phát sinh quan hệ pháp lý khi công dân trực tiếp hoặc gửi đơn tố cáo đến cơ quan, cá nhân có thẩm quyền khi phát hiện hành vi vi phạm. Nếu công dân không tố cáo dù là đã phát hiện ra hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, cá nhân khác thì họ cũng không phải chịu bất kỳ hình thức xử lý theo pháp luật nào. Tố giác tội phạm trong một số trường hợp phát sinh quan hệ pháp lý ngay từ thời điểm tội phạm có dấu hiệu xảy ra. Khi công dân biết rõ tội phạm đang đựơc chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm theo Điều 390 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Trên những tiêu chí phân biệt ở trên, người tố cáo, người tố giác nắm được bản chất sự việc để quyết định làm đơn loại gì. Cá nhân hoặc cơ quan có thẩm quyền giải quyết đơn tố cáo, tố giác có thể tiết kiệm được thời gian khi phân loại đơn, chuyển chính xác đến các cơ quan, cá nhân thẩm quyền để giải quyết, tránh giải quyết nhầm, xảy ra sai sót.
Phạm vi hành nghề của luật sư trong lĩnh vực hình sự:
Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:
Bài viết (nêu trên) được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các luật sư, chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
Cần Thống Nhất Nhận Thức Về Các Khái Niệm Tố Giác, Tin Báo Về Tội Phạm, Kiến Nghị Khởi Tố Và Các Nguồn Thông Tin Về Tội Phạm
“Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại. Muốn đạt được mục đích thì phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”. (Hồ Chí Minh)
Cần thống nhất nhận thức về các khái niệm tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và các nguồn thông tin về tội phạm Cập nhật lúc: 29/11/2012 10h 25′ 29″
Thạc sĩ Lê Ra – Phó Viện trưởng VKSND quận Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng
Công tác tiếp nhận và kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm là một trong những hoạt động quan trọng trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát nhân dân. Thông qua việc thực hiện tốt công tác này, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) mới có cơ sở để đảm bảo hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của Cơ quan điều tra (CQĐT) đúng pháp luật, có căn cứ, khách quan và triệt để; mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội; bảo đảm sự tuân thủ pháp luật của CQĐT và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Dưới góc độ ngôn ngữ học , th ì các thuật ngữ: Tố cáo, tố giác, tin báo được hiểu là:
Tố cáo: 1. Báo cho mọi người hoặc cơ quan có thẩm quyền biết người hoặc hành động phạm pháp nào đó. 2. Vạch trần hành động xấu xa hoặc tội ác cho mọi người biết nhằm lên án, ngăn chặn.
Tố giác: 1. Báo cho cơ quan chính quyền biết người hoặc động phạm pháp nào đó.
Tin: 1. Điều được truyền đi, báo đi cho biết về sự việc, tình hình xảy ra. 2. Sự truyền đạt, sự phản ánh dưới các hình thức khác nhau, cho biếtthế giới chung quanh và những quá trình xảy ra trong nó (Một khái niệm cơ bản của điều khiển học).
Báo: 1. Cho biết việc gì đó đã xảy ra. 2. Cho người có trách nhiệm nào đó biết về việc xảy ra có thể hại đến trật tự an ninh chung… Là dấu hiệu cho biết trước.
Trên bình diện pháp lý, theo quy định tại khoản 1 Điều 2 của Luật Tố cáo năm 2011 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2012) thì: “Tố cáo là việc công dân theo thủ tục do Luật này quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.
Các quan điểm trên chưa nêu rõ, đầy đủ về k hái niệm tin báo và tố giác về tội phạm, chưa ph â n biệt rõ tố giác và tin báo, hoặc là nhấn mạnh tiêu chí không thuộc nội hàm của khái niệm tố giác, tin báo về tội phạm.
Tin báo về tội phạm là việc các cơ quan, tổ chức báo tin hoặc đăng tin có nội dung phản ánh về tội phạm xảy ra cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo quy định của BLTTHS.
Tố giác về tội phạm được hiểu là việc cá nhân phát hiện, tố cáo người phạm tội hoặc hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo quy định của BLTTHS.
Và có thể nêu một khái niệm chung về t ố giác, tin báo về tội phạm như sau:
Tố giác, tin báo về tội phạm là những thông tin về tội phạm được quy định trong BLHS do công dân, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, chính trị xã hội, xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế,… (gọi tắt là người, cơ quan, tổ chức) cung cấp bằng các hình thức thông tin khác nhau; do các phương tiện thông tin đại chúng nêu lên hoặc do người phạm tội tự thú để cho cơ quan có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết theo quy định của BLTTHS.
2. Khái niệm kiến nghị khởi tố
Dưới góc độ ngôn ngữ học, thuật ngữ “Kiến nghị” đuợc hiểu là: “Nêu ý kiến đề nghị về một việc chung để cơ quan có thẩm quyền xét” ; ” Yêu cầu” là: “Nêu ra điều gì với người nào đó, tỏ ý muốn người ấy làm, biết rằng đó là việc thuộc nhiệm vụ, trách nhiệm hoặc quyền hạn, khả năng của người ấy”. Hai thuật ngữ này đều có ý chung là đề nghị một cơ quan, một người nào đó làm một việc thuộc nhiệm vụ, trách nhiệm, khả năng của họ.
luận, cần phân trường hợp nào cơ quan nhà nước là chủ thể của tin báo về tội phạm và trường hợp nào là chủ thể của kiến nghị khởi tố:
Cơ quan nhà nước là chủ thể của tin báo về tội phạm trong trường hợp thông qua công tác qu ả n l ý hoặc công tác khác, phát hiện vi phạm có dấu hiệu tội phạm trong lĩnh vực mình quản lý thì cung cấp thông tin cho cơ quan có th ẩ m quyền để xem xét, giải quyểt
Nh ư vậy, có thể đưa ra khái niệm kiến nghị khởi tố như sau:
Hoàng Phê (Chủ biên) (1992), Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
Quy chế Phối hợp giữa VKSND quận Long Biên và Công an quận Long Biên trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố (QC số 169 ngày 13/7/2011)
Quy chế về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của VKS. (Ban hành kèm theo Quyết định số 59/2006/QĐ-VKSNDTC-V7 ngày 06/02/2006 của Viện trưởng VKSNDTC)
Hoàng Phê (Chủ biên) (1992), Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
Quy chế Phối hợp giữa VKSND quận Long Biên và Công an quận Long Biên trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố (QC số 169 ngày 13/7/2011)
Quy chế tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền giải quyết của Cơ quan điều tra VKSNDTC. (Ban hành kèm theo Quyết định số 116/2011/QĐ-VKSNDTC-C6 ngày 14/4/2011 của Viện trưởng VKSNDTC)
Những Yếu Tố Cấu Thành Tội Phạm
Cấu thành tội phạm là tổng hợp các dấu hiệu chung có tính đặc trưng cho một loại tội cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự.
Như vậy, mỗi trường hợp phạm tội trộm cắp thì sự thể hiện về thực tế là khác nhau về con người thực hiện tội phạm, về thủ đoạn phạm tội, về thời gian, địa điểm, công cụ phương tiện phạm tội,… Bất kỳ một trường hợp phạm tội trộm cắp nào cũng phải thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu có tính chất đặc trưng cho loại tội phạm trộm cắp tài sản đó là: người phạm tội phải từ đủ 16 tuổi trở lên, có năng lực trách nhiệm hình sự, tội phạm xâm phạm tới quan hệ sở hữu, hành vi lén lút, hành vi bí mật chiếm đoạt tài sản đang do người khác quản lý và với hình thức lỗi cố ý trực tiếp. Các dấu hiệu này được quy định trong Bộ luật hình sự tại Điều 138. Các dấu hiệu này được gọi là các dấu hiệu cấu thành tội phạm trộm cắp tài sản. Nội dung của cấu thành tội phạm chính là sự phản ánh các dấu hiệu của cấu thành tội phạm. Các dấu hiệu đó là: Quan hệ xã hội bị xâm hại, độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi khách quan, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn phạm tội, lỗi, động cơ, mục đích phạm tội. Các dấu hiệu bắt buộc phải có trong mọi cấu thành tội phạm là: quan hệ xã hội bị xâm hại, độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi khách quan và lỗi. Một cấu thành tội phạm của một loại tội luôn luôn phải chứa đựng đầy đủ bốn yếu tố cấu thành tội phạm. Đó là khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan.Đối với một cấu thành tội phạm, các dấu hiệu trong mỗi một yếu tố cấu thành tội phạm trên có thể nhiều ít khác nhau. Chỉ các dấu hiệu nào nói lên bản chất đặc trung của loại tội đó mới được ghi nhận trong cấu thành tội phạm .
Các dấu hiệu của cấu thành tội phạm có ba đặc điểm sau:
a, Các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm đều do luật định
Chỉ nhà nước mới có quyền quy định một hành vi nào là tội phạm bằng cách là mô tả những dấu hiệu đó và quy định chúng trong Bộ luật hình sự. Cơ quan giải thích và áp dụng pháp luật chỉ được phép giải thích nội dung những dấu hiệu đã được quy định trong Bộ luật hình sự. Việc thêm hoặc bớt bất kỳ một dấu hiệu nào đó của cấu thành tội phạm đều có thể dẫn đến tình trạng định tội sai hoặc bỏ lọt tội hoặc làm oan người vô tội. Các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm của một loại tội được quy định trong phần chung của Bộ luật hình sự như: tuổi, tình trạng năng lực trách nhiệm hình sự, lỗi. Và chúng được quy định trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự như dấu hiệu: hành vi khách quan, hậu quả của tội phạm, quan hệ xã hội bị xâm hại,…
b, Các dấu hiệu của cấu thành tội phạm mang tính đặc trưng điển hình
Một loại tội phạm chỉ được đặc trưng bởi một cấu thành tội phạm và một cấu thành tội phạm chỉ đặc trưng cho một loại tội phạm. Đó là dấu hiệu đặc trưng: Một dấu hiệu có thể được phản ánh trong nhiều cấu thành tội phạm nhưng giũa các cấu thành tội phạm khác nhau phải có ít nhất một dấu hiệu khác nhau, đó là dấu hiệu điển hình. Ví dụ giữa cấu thành tội phạm trộm cắp với cấu thành tội phạm lừa đảo có rất nhiều dấu hiệu chung giống nhau như: quan hệ sở hữu bị xâm hại, độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi chiếm đoạt tài sản, lỗi cố ý trực tiếp. Giữa hai cấu thành tội phạm này có hai dấu hiệu mang tính điển hình cho mỗi cấu thành tội phạm đó là: hành vi lén lút trong tội trộm cắp tài sản và hành vi gian dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
c, Các dấu hiệu của cấu thành tội phạm có tính bắt buộc
Một hành vi chỉ bị coi là tội phạm khi nó thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm. Nếu thiếu hoặc thừa bất kỳ một dấu hiệu nào đó thì nó có thể không phải là tội phạm hoặc tội phạm khác, nghĩa là tất cả dấu hiệu của cấu thành tội phạm đều là điều kiện cần và đủ để định tội danh. Các dấu hiệu ghi trong Bộ luật hình sự đều là các dấu hiệu bắt buộc được quy định ở phần chung hoặc phần các tội phạm cụ thể.
Bạn đang xem bài viết Khái Niệm Tố Cáo, Phân Biệt Tố Cáo Và Tố Giác Tội Phạm trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!