Xem Nhiều 6/2023 #️ Lịch Sử Tư Tưởng Lập Hiến Và Các Đặc Điểm Cơ Bản Của Hiến Pháp Anh # Top 8 Trend | Tvzoneplus.com

Xem Nhiều 6/2023 # Lịch Sử Tư Tưởng Lập Hiến Và Các Đặc Điểm Cơ Bản Của Hiến Pháp Anh # Top 8 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Lịch Sử Tư Tưởng Lập Hiến Và Các Đặc Điểm Cơ Bản Của Hiến Pháp Anh mới nhất trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Hiến pháp của Liên hiệp vương quốc Anh (England, Scotland, Wales and Northern Ireland) là tập hợp một số luật và các nguyên tắc pháp luật, các điều ước quốc tế, các án lệ, tập quán của Nghị viện và các nguồn khác. Liên hiệp vương quốc Anh không có một văn bản Hiến pháp duy nhất như hầu hết các quốc gia trên thế giới. Đây là lý do mà nhiều người nói rằng Hiến pháp của nước Anh là hiến pháp không thành văn, không pháp điển hoá hoặc gọi đó là hiến pháp thực tế1. Để lý giải điều này, chúng ta tìm hiểu một số sự kiện quan trọng gắn với sự ra đời của Hiến pháp và chủ nghĩa Hiến pháp ở Anh.

1. Những giai đoạn, những sự kiện có ý nghĩa quan trọng trong tư tưởng lập hiến ở Anh

1.1. Hiến chương tự do năm 1100

Vương quốc Anh được hình thành từ giữa thế kỷ IX, vào năm 927 khi bảy vùng đất nước Anh đều thuần phục sự cai trị của vua Anh. Tuy nhiên, đến ngày 14/10/1066, Vua Harold II của Anh bị bại trận và bị giết trong trận chiến Hastings với Công tước William của vùng Normandy nước Pháp. Sau khi người Norman xâm chiếm nước Anh, Vua Henry I  lên ngôi và trị vì từ năm 1100 đến 1135. Khi mới lên ngôi, Vua Henry I đã ban hành Bản hiến chương tự do (Charter of Liberties) năm 1100. Bản Hiến chương tuyên bố: “Nhờ ơn Thượng đế và Hội đồng quý tộc của toàn thể Vương quốc Anh mà ta được trao vương miệng Hoàng đế”. Với Hiến chương về tự do, nhà vua thừa nhận quyền cai trị đất nước của Vua không những xuất phát từ ý chí Thượng đế mà còn từ ý chí của Hội đồng quý tộc. Có thể nói, đây là bước đầu chuyển từ tư tưởng quân chủ chuyên chế sang tư tưởng quân chủ lập hiến.

1.2. Hiến chương Magna Carta 1215

Vua John trị vì nước Anh từ năm 1199 đến 1216. Năm 1215, các nhà quý tộc Anh buộc Vua John ký Hiến chương Magna Carta, còn  gọi  là The Great Charter (Hiến chương vĩ đại). Hiến chương Magna Carta thừa nhận các quyền chính trị và dân sự của cá nhân như quyền của các thương nhân có thể ra, vào, ở lại hoặc di chuyển trong lãnh thổ nước Anh để buôn bán. Hiến chương cũng đảm bảo cho các cá nhân trung thành với vua có quyền nhập cảnh, xuất cảnh và tái nhập cảnh vào Vương quốc Anh2.

1.3. Triều đại Vua Henry III thế kỷ XIII và sự  thành lập Nghị viện Anh năm 1265

Vua Henry III (1207-1272) thừa kế ngai vàng của Vua John khi mới lên 9 tuổi. Vì vậy, triều đình Anh quốc phải thiết lập chế độ nhiếp chính cho đến khi Vua Henry đủ 20 tuổi.

Dưới áp lực của các nhà quý tộc, đứng đầu là Simon de Montfort, Vua Henry phải chấp nhận sự ra đời và tồn tại của Nghị viện đầu tiên của nước Anh năm 1265. Đến đời Vua Richarch II, vào năm 1381, một cuộc khởi nghĩa lớn của nông dân nổ ra. Tuy bị thất bại nhưng nó đã góp phần quan trọng trong việc xoá bỏ chế độ nông nô.

1.4. Đạo luật về quyền lực tối cao năm 1534

Dưới triều Vua Henry VIII, một đạo luật về quyền lực tối cao được ban hành năm 1534 quy định Vua là người đứng đầu tối cao của nhà thờ Anh; còn Luật về quyền lực tối cao năm 1559 quy định Nữ hoàng Elizabet I là thống đốc tối cao của nhà thờ Anh. Tuy nhiên, Nữ hoàng phải được sự đồng ý của Nghị viện khi ban hành bất cứ chính sách nào. Nghị viện ngay từ thời kỳ Nữ hoàng Elizabet trị vì đã có hai viện. Thượng viện đại diện cho tầng lớp quý tộc nên được gọi là House of Lords (Viện quý tộc), còn Hạ viện đại diện cho tầng lớp trung lưu trong xã hội nên được gọi là House of Common (Viện bình dân). Hạ viện nhanh chóng phát triển do sự phát triển đột biến của tầng lớp trung lưu trong xã hội. Đặc biệt, trong Hạ viện xuất hiện khối Nghị sĩ đại diện cho những người theo đạo Tin lành luôn đòi hỏi mở rộng các quyền cho những người theo đạo này. Tuy nhiên, Nữ hoàng Elizabet I là người có tính cách mạnh mẽ nên không để cho nhóm nghị sĩ này thao túng.

1.5. Triều đại Tudors (1485-1603)

Trong thời kỳ dòng họ Tudors trị vì nước Anh (1485 -1603)3, học giả Geoffrey Elton đã xây dựng bản Hiến pháp Tudors theo trường phái nhà nước Hy Lạp cổ đại, với mô hình của Cộng hoà Sparte. Học giả khá nổi tiếng cùng thời là John Aylmer đã cổ vũ cho tư tưởng lập hiến của Bản hiến pháp này và cho rằng Hiến pháp Tudors là anh em, họ hàng với nền cộng hoà cổ điển Sparte. Mặc dù Hiến pháp Tudors không được Nghị viện và Vua chấp nhận nhưng cùng với Geoffrey Elton, John Aylmer và một số người cùng thời đã làm sống lại tư tưởng dân chủ thời kỳ Hy Lạp cổ đại và ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng lập hiến ở Anh thời kỳ này là xây dựng một chế độ chính trị kết hợp những tư tưởng dân chủ Hy Lạp thời kỳ cổ đại với chế độ quân chủ mới ở Anh để xây dựng chế độ cộng hoà Nghị viện.

1.6. Vua James I (1603-1625)

Khi Nữ hoàng Elizabeth I từ trần (năm1603), không có sự bàn luận, ngai vàng của Nữ hoàng được chuyển giao cho cháu là James VI, con trai của Nữ hoàng Scotland và James VI của Scotland trở thành Vua James I của Vương quốc Anh. Đây là một bước tiến quan trọng trong việc thiết lập liên hiệp Anh. Vua James I của Anh là người sùng bái học thuyết quyền lực của Vua xuất phát từ ý chí Thượng đế. Vua do Thượng đế lựa chọn và chỉ chịu trách nhiệm trước Thượng đế, do vậy, nhà vua phải toàn quyền. Quan điểm này của James I được củng cố thêm bởi niềm tin tôn giáo vì James là người theo đạo Tin lành, người luôn tin rằng số phận con người do Chúa định đoạt. James I vì thế đã chống lại tư tưởng bầu cử, đặc biệt là quan điểm phổ biến lúc bấy giờ ở Anh là giáo đoàn bầu ra các mục sư của họ.

1.7. Vua Charles I và các cuộc chiến tranh

Vua Charles I thừa kế ngai vàng của Vua James năm 1625. Cũng như cha đẻ của mình, Vua Charles I tin vào quyền của Thượng đế và tiếp tục tranh đấu với Nghị viện để bảo vệ các quyền của mình. Nghị viện trong thời kỳ này nắm quyền kiểm soát thuế và đang đấu tranh để được quyền quyết định nhiều hơn nữa trong lĩnh vực thuế. Theo truyền thống, Nghị viện sẽ bỏ phiếu ra Nghị quyết khi Vua mới lên cầm quyền quy định các loại thuế và mức thuế, nghĩa vụ đóng thuế hàng hoá như rượu vang hoặc vải len… tạo thành nguồn thu nhập hàng năm của Vua. Giờ đây, Nghị viện muốn đánh giá lại các thứ thuế đó hàng năm để có thể kiểm soát chặt chẽ hơn nguồn thu hàng năm của Vua. Để ngăn cản việc này, Vua Charles I đã giải tán Nghị viện. Vua Charles đòi rất nhiều tiền lãi từ khoản cho các nhà quý tộc vay và cũng nhận được nhiều tiền từ các loại thuế, đặc biệt là thuế thu từ những tàu thuyền neo đậu trên bờ biển nước Anh. Để thu được nhiều tiền hơn nữa, Vua Charles lại cho thu thuế tàu thuyền trong nội địa các quận và khoản thuế mới này Vua đặt ra mà không có sự phê chuẩn của Nghị viện là vi phạm luật tập quán của Anh. Điều này làm cho người dân Anh chống đối lại Sắc lệnh của Vua. Tuy nhiên, Vua Charles I đã gây chiến với Pháp, Tây Ban Nha và cuộc chiến tranh tốn kém này đòi hỏi nhà Vua phải có nhiều tiền hơn nữa. Charles đã triệu tập Nghị viện năm 1629, yêu cầu Nghị viện đặt thêm một loại thuế nữa để có tiền mua sắm vũ khí và nuôi quân đội. Nghị viện chấp thuận đề nghị của Vua Charles I với điều kiện Vua phải ký phê chuẩn vào Đạo luật về quyền thỉnh cầu của nhân dân; trong đó bắt buộc Vua phải tuân thủ luật của Nghị viện. Đạo luật hạn chế quyền lực của Vua bằng các quy định: Vua không thể ban hành lệnh thiết quân luật ở Anh trong thời bình; Vua không thể thu thuế nếu Nghị viện không chấp thuận; Vua không thể tuỳ tiện bắt giam người dân; Vua không thể cho đóng quân trong nhà tư nhân.

Sau khi đạt được nguyện vọng, nhận được luật thuế mới do Nghị viện ban hành năm 1629, Vua giải tán Nghị viện và phá bỏ nguyên tắc đã xác lập trong Đạo luật về quyền thỉnh cầu của nhân dân4.

Trong thời kỳ này đã xảy ra nhiều cuộc chiến tranh, các cuộc chiến tranh giữa Anh với Pháp và Tây Ban Nha đều do Công tước của Buckingham gây ra. Vua Charles I cùng với Tổng giám mục của nhà thờ Canterbury là William Laud đã tiến hành chiến tranh với Scotland nhằm mục đích chuyển hoá dân Scotland vào giáo phái Tin lành của nhà thờ Anh. Cuộc chiến tranh này được gọi là chiến tranh giám mục diễn ra trong hai năm 1639-1640. Cuộc chiến tranh này có hai giai đoạn chính. Trong giai đoạn thứ hai của cuộc chiến tranh, Vua Charles I  kêu gọi Nghị viện đặt ra thuế mới để phục vụ chiến tranh, nhưng Nghị viện từ chối. Sau đó, Charles I tuyên bố giải tán Nghị viện. Sau đó, Charles I lại triệu tập Nghị viện một lần nữa. Và lần này để chấp nhận lập ra một loại thuế mới, Nghị viện đặt ra những điều kiện ngặt nghèo buộc Charles phải tuân theo như một ông vua của chế độ quân chủ lập hiến. Những điều kiện đó là: phải đàn hạch Thomas Wentworth và William Laud; thực hiện Luật “Triennial Act” (Luật ba năm) năm 1641. Theo đó, Nghị viện  phải họp 3 năm một lần dù có sự đồng ý của Vua hay không; xoá bỏ thiết chế toà án gọi là “The Court of Star Chamber” (Toà Sao) khét tiếng là toà án bất công và tàn bạo, nơi mà công tố viên và thẩm phán xét xử là một và do Vua Charles I khống chế; xoá bỏ Toà án cấp cao (High Court). Toà án này cũng như Toà Sao đã xét xử một cách bất công, dựa trên các thuyết lý của tà đạo, đã không còn là toà án của pháp luật; tiếp nhận các khiếu nại, tố cáo và cho phép lưu hành bản sao các tài liệu mà trong đó các công chức đã tố cáo tội phạm mà Charles I đã thực hiện từ khi lên ngôi vua; chấp nhận không bao giờ giải tán Nghị viện nếu không được sự đồng ý của Nghị viện.

1.8. Oliver Cromwell và khối thịnh vượng chung

Mặc dù giành được thắng lợi nhưng phái Nghị viện Anh đã không thiết lập được giáo phái trưởng lão Tin lành thành tôn giáo quốc gia như đã hứa hẹn nên ba bộ phận: quân đội kiểu mới của Cromwell, Nghị viện và quân đội Scotland đã tách biệt. Những người Scotland được trả một khoản tiền báo đáp sự giúp đỡ của họ và được đưa về nước. Oliver Cromwell đề nghị Nghị viện phục hồi các giám mục của nhà thờ Anh và Vua Charles I như một chế độ quân chủ lập hiến và cho phép sự tồn tại của các tôn giáo khác ngoài đạo Tin lành. Nghị viện chấp thuận khôi phục ngai vàng cho Charles I nhưng không chấp nhận tôn giáo khác ngoài đạo Tin lành. Nghị viện quyết nghị giải tán quân đội nhưng quân đội từ chối thực hiện quyết nghị của Nghị viện. Vua Charles I lúc này lại đề nghị sự cứu viện của Scotland và hứa hẹn sẽ thiết lập giáo phái trưởng lão đạo Tin lành trên nước Anh. Cuộc nội chiến mới lại nổ ra vào năm 1648 giữa một bên là Scotland, những Nghị sĩ theo giáo phái trưởng lão đạo Tin lành, những người trung thành với Vua Charles I và bên kia là quân đội kiểu mới và bộ phận còn lại của Nghị viện. Trong cuộc nội chiến lần này với trận chiến ở Breston 1648, Cromwell với quân đội của mình đã đánh bại quân của Vua Charles I. Sau chiến thắng của Cromwell, theo sáng kiến một sĩ quan trong quân đội, Nghị viện đã loại bớt 143 trong số 203 Nghị sĩ theo giáo phái trưởng lão của đạo Tin lành làm cho giáo phái này chỉ còn thiểu số trong nghị viện. Nghị viện mới ra hai nghị quyết quan trọng: xoá bỏ chế độ quân chủ, xoá bỏ Viện quý tộc trong Nghị viện, đàn hạch vua Charles I; thiết lập nền cộng hoà gọi là “Khối thịnh vượng chung” nhưng thực chất là nền chuyên chính của Cromwell.

Scotland chống lại nền cộng hoà Cromwell và tuyên bố con trai của Charles I ở Edinbourgh là Vua Charles II. Tuy nhiên, Charles II bị quân đội của Cromwell đánh bại vào năm 1650. Charles II phải chạy trốn sang và cư trú ở Pháp đến năm 1660. Cromwell tiến về Ireland, do xung đột với đạo Cơ đốc nên trong các trận đánh với quân Ireland ông cho quân đội tàn sát không thương tiếc. Điều này làm cho người Ireland căm phẫn và nổi loạn chống lại ông. Cromwell đã giải tán Nghị viện và tự tuyên bố mình là người bảo hộ của nước Anh.

1.9. Richard Cromwell và Charles II

Cromwell mất năm 1658 và ngai vàng được truyền lại cho con trai là Richard Cromwell. Thực hiện chế độ chuyên chế quân sự nhưng Richard không thể thống nhất được các nhóm tôn giáo và người thiểu số. Tướng George Monk của Scotland đã tiến đánh và lật đổ ngai vàng của Richard. Sau khi nắm được chính quyền, năm 1660, George Monk triệu tập những người còn lại của Nghị viện nhóm họp. Nghị viện biểu quyết giải tán Nghị viện để thành lập Nghị viện mới. Nghị viện được thành lập từ năm 1640 đến lúc này tồn tại được 20 năm nên được gọi là “Long Parliament” (Nghị viện dài). Nghị viện mới được thành lập đã quyết định tái lập chế độ quân chủ và đưa Charles II (lúc này đang còn cư trú ở Pháp) về làm Vua của Anh.

1.10. Hiệp ước liên hiệp 1706 và việc thành lập Liên hiệp Anh năm 1707

Ngày 22/6/1706, Hiệp ước Liên hiệp giữa Anh và Scotland được ký kết. Hiệp ước này nhanh chóng được Nghị viện của Anh và Scotland phê chuẩn. Nghị viện của Anh và Scotland cũng thông qua Luật liên hiệp vào năm1707.

Gần một thế kỷ sau đó, Vương quốc Ireland, đất nước được đặt dưới sự kiểm soát của Anh từ năm 1541 đến 1691 đã thông qua Luật liên hiệp để gia nhập Liên hiệp Vương quốc Anh vào năm 1800.

1.11. Cải cách toà án nửa cuối thế kỷ XIX

Trước năm 1875, ở Anh tồn tại hai hệ thống toà án cạnh tranh với nhau. Toà án thông luật (Common law Courts) là hệ thống các toà án hoàng gia xét xử theo nguyên tắc áp dụng án lệ. Do thủ tục tố tụng của hệ thống toà án này phức tạp nên không phải ai cũng có thể bảo vệ được công lý thông qua hệ thống toà án này. Đây chính là lý do mà Toà đại pháp quan (Chancery Court) – toà án xét xử trên cơ sở luật công bình (equity) ra đời. Luật công bình là tổng thể các quy phạm pháp luật do Toà đại pháp quan tạo ra để bổ sung, bù đắp những lỗ hổng của hệ thống thông luật thời đó. Luật công bình tôn trọng luật án lệ; luật công bình không phủ định mà chỉ là sự bổ sung cho luật án lệ. Trước năm 1875, Luật công bình và thông luật có sáu điểm khác nhau cơ bản: nguồn gốc của quy phạm pháp luật thông luật là án lệ, còn nguồn gốc của quy phạm luật công bình là các nguyên tắc công bằng, công lý; quy phạm pháp luật của luật công bình chỉ được áp dụng ở Toà đại pháp quan, các Toà thông luật không được phép áp dụng; các Toà thông luật khi xét xử có đoàn bồi thẩm, ở Toà án công bình xét xử không có bồi thẩm đoàn; các Toà thông luật xét xử theo thủ tục tranh tụng đối kháng, chú trọng các luận cứ bằng lời nói, thủ tục ở Toà công bình là thủ tục thẩm vấn, coi trọng các tài liệu thành văn; toà thông luật ra các bản án, còn Toà công bình ban hành các lệnh, quyết định; khi có tranh chấp về thẩm quyền xét xử, Toà đại pháp quan thường có ưu thế hơn Toà công bình.

 Luật Toà án tối cao năm 1873 đã thành lập Toà án tối cao bao gồm hai bộ phận là Toà án cấp cao (High Court of Justice) và Toà phúc thẩm (Court of Appeal). Toà án cấp cao bao gồm ba phân toà là Chancery Division (Toà Đại pháp quan); Family Division (Toà gia đình); Queen Bench,s Division (Toà nữ hoàng)5. Với sự cải cách này, hai hệ thống toà án thông luật và luật công bình đã hoà nhập vào một và trở thành các toà chuyên trách của Toà án cấp cao. Hai hệ thống toà án này vẫn giữ những nét đặc trưng của mình; tuy nhiên, Luật mới cho phép tất cả các toà có thể áp dụng cả thông luật và luật công bình. Cùng với việc cải tổ hệ thống toà án, Luật Toà án tối cao 1873 cũng đơn giản hoá thủ tục tố tụng bằng cách quy định tất cả các loại vụ việc đều được bắt đầu bằng một loại trát gọi là trát triệu tập. Cuộc cải cách thủ tục tố tụng này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì trước cuộc cải cách này, ở các Toà án thông luật ở Anh có đến khoảng 80 loại trát khác nhau phụ thuộc vào các hình thức khởi kiện khác nhau. Hệ thống trát phức tạp này đã làm cho nhiều người dân không thể tiếp cận được công lý.

Một đạo luật quan trọng khác được ban hành trong thời gian này là Luật về thẩm quyền xét xử phúc thẩm 1876. Đạo luật thành lập Uỷ ban tư pháp của Thượng viện là cơ quan xét xử phúc thẩm cuối cùng ở Anh. Như vậy, Thượng viện Anh vừa là một trong hai viện của cơ quan lập pháp đồng thời là cơ quan nắm quyền tư pháp tối cao.

1.12. Những cải cách của Công đảng vào những năm cuối thế ký XX đầu thế kỷ XXI

Từ năm 1997 đến năm 2001, Công đảng cầm quyền và đã tiến hành các cuộc cải cách đáng lưu ý như: thành lập Nghị viện ở Scotland và Hội đồng ở xứ Wales và Bắc Ai-len với cách thức bầu cử trực tiếp; thành lập Hội đồng ở London kết hợp với chức vụ Thị trưởng do dân trực tiếp bầu; thực hiện cải cách Thượng viện, huỷ bỏ 92 chức vụ Thượng nghị sĩ là quý tộc kế truyền; nội luật hoá Công ước châu Âu về quyền con người bằng việc ban hành Luật về quyền con người năm 1998; ban hành Luật về tự do thông tin năm 2000; ban hành Luật về các đảng phái chính trị, bầu cử và trưng cầu dân ý năm 2000; thành lập Uỷ ban bầu cử để tổ chức thực hiện các hoạt động bầu cử và trưng cầu dân ý; thành lập ngân hàng nước Anh độc lập với tất cả các thiết chế khác; thành lập Toà án tối cao  ngày 1/10/2009.

Sự thành lập Toà án tối cao được tiến hành trên cơ sở Luật cải cách hiến pháp 2005. Toà án tối cao bao gồm 12 thẩm phán do Nữ hoàng bổ nhiệm theo đề nghị của Thủ tướng.

Toà án Tối cao của Liên hiệp Anh là toà phúc thẩm cuối cùng và cao nhất đối với tất cả các vụ án trên tất cả các lĩnh vực hình sự, dân sự (hành chính, thương mại, lao động) của Anh, xứ Wales và Bắc Ailen và lĩnh vực dân sự của Scotland. Đối với lĩnh vực hình sự ở Scotland thì Toà án tư pháp cấp cao vẫn là cơ quan xét xử phúc thẩm hình sự cao nhất. Việc thành lập Toà án tối cao Liên hiệp vương quốc Anh đã tách quyền tư pháp ra khỏi Thượng viện, một bước tiến quan trọng trong việc thực hiện nguyên tắc phân chia quyền lực giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.

2. Các đặc điểm cơ bản của Hiến pháp Anh

2.1. Chủ quyền tối cao của Nghị viện và nhà nước pháp quyền

Vào thế kỷ XIX, một luật gia, một nhà Hiến pháp học Anh nổi tiếng là A.V. Dicey đã viết rằng: “Hai trụ cột của Hiến pháp Anh là chủ quyền tối cao của Nghị viện và nhà nước pháp quyền”6. Theo học thuyết chủ quyền tối cao thuộc về Nghị viện, Nghị viện có thể ban hành bất kỳ luật nào mà nó muốn. Các luật do Nghị viện ban hành có hiệu lực tối cao và là nguồn cuối cùng của pháp luật. Điều này trái ngược với các nước có Hiến pháp thành văn, tất cả các luật do Nghị viện ban hành đều không được trái với Hiến pháp. Rất nhiều luật của Liên hiệp Vương quốc Anh có ý nghĩa như là Hiến pháp. Ví dụ, Nghị viện Anh có quyền kéo dài nhiệm kỳ của mình. Đạo luật năm 1911 và năm 1949 quy định nhiệm kỳ của Nghị viện là 5 năm; tuy nhiên, nó có thể kéo dài nếu hai viện đồng ý. Quyền này được sử dụng trong thời kỳ đại chiến thế giới lần thứ hai, Nghị viện thành lập năm 1935 đã kéo dài nhiệm kỳ của mình đến năm 1945. Tuy nhiên, Vua vẫn giữ lại quyền giải tán Nghị viện theo tư vấn của Thủ tướng. Nghị viện có quyền thay đổi diện mạo của các viện và mối quan hệ giữa hai viện. Luật năm 1999 đã thay đổi thành viên của Thượng viện, huỷ bỏ 92 Thượng nghị sĩ là quý tộc kế truyền. Nghị viện không những có quyền kéo dài nhiệm kỳ mà còn có quyền quyết định hàng thừa kế ngai vàng. Quyền này đã được thực hiện trong thời gian gần đây nhất bằng việc ban hành Luật thoái vị ngai vàng 1936 với hệ quả của nó là Vua Edward VIII thoái vị và con, cháu của vị vua này đã mất quyền thừa kế ngai vàng. Nghị viện còn có quyền tước bỏ và điều chỉnh quyền lực của Vua.

Theo quy định của Luật Tổ chức nghị viện, Nghị viện bao gồm Vua, Thượng viện, Hạ viện. Hạ viện có 646 thành viên do nhân dân bầu theo chế độ bầu cử đơn danh và đa số tương đối. Luật về Thượng viện năm 1999 quy định Thượng viện bao gồm 26 giám mục của các nhà thờ của Anh, 92 đại biểu bầu từ các quý tộc kế truyền và khoảng vài trăm quý tộc suốt đời.

 Quyền bổ nhiệm các giám mục các nhà thờ Anh, quyền phong tặng danh hiệu quý tộc kế truyền và quý tộc suốt đời thuộc về Vua theo tư vấn của Thủ tướng. Theo Luật Nghị viện năm 1911 và 1949, Nghị viện có thể, trong một số hoàn cảnh nhất định, thông qua luật không cần sự tán đồng của Thượng viện. Mặc dù tất cả các văn bản luật do Nghị viện thông qua phải được Vua phê chuẩn mới trở thành luật nhưng trên thực tế từ năm 1708 đến nay, Vua Anh chưa bao giờ từ chối phê chuẩn.

Hạ viện Anh có quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ, buộc Chính phủ phải từ chức. Việc bỏ phiếu bất tín nhiệm không cần phải Thượng viện hay Vua phê chuẩn.

Nghị viện cũng có truyền thống có thể cách chức các bộ trưởng theo thủ tục đàn hạch, Hạ viện buộc tội và Thượng viện xét xử. Tuy nhiên, từ năm 1806 đến nay, quyền này của Nghị viện không được sử dụng. Luật cải cách Hiến pháp năm 2005 cho phép Nghị viện cũng có thể xét xử theo thủ tục đàn hạch để cách chức các thẩm phán nếu họ có hành vi không phù hợp với tư cách thẩm phán.

Nghị viện Anh có khá nhiều quyền nên nhà Hiến pháp học của Anh là Enoche Powel đã viết: “Ngoài lịch sử Nghị viện, nước Pháp vẫn có lịch sử của mình. Nhưng nếu bỏ qua lịch sử Nghị viện, nước Anh không còn tồn tại”7. Nhận xét này cũng rất phù hợp với câu châm ngôn nổi tiếng về Nghị viện Anh: “Nghị viện có thể làm được tất cả trừ việc biến người đàn ông thành người đàn bà”.

2.2. Chế độ quân chủ lập hiến

 “Nhà vua trị vì mà không cai trị” – câu nói của nhà văn Anh Walter Bagehot về nhà vua Anh đã trở thành câu châm ngôn nổi tiếng về chế độ quân chủ lập hiến ở Anh. Theo Hiến pháp, Vua là người đứng đầu Nhà nước có rất nhiều quyền nhưng những quyền đó nhà vua không trực tiếp thực hiện hoặc thực hiện theo sự tư vấn của Thủ tướng. Theo Hiến pháp, Vua có các thẩm quyền sau đây: bổ nhiệm và miễn nhiệm Thủ tướng; bổ nhiệm và miễn nhiệm các bộ trưởng; bổ nhiệm các công chức cấp cao; triệu tập, trì hoãn, khai mạc, bế mạc các kỳ họp của Nghị viện và giải tán Nghị viện; tuyên bố chiến tranh và hoà bình; tổng chỉ huy các lực lượng vũ trang; phê chuẩn các hiệp ước; bổ nhiệm các giám mục và Tổng giám mục của nhà  thờ Anh; phong tặng các danh hiệu quý tộc.

Quyền bổ nhiệm Thủ tướng của Vua, phần lớn chỉ mang tính hình thức vì sau khi bầu cử Nghị viện ai cũng biết trước thủ lĩnh của Đảng cầm quyền sẽ trở thành Thủ tướng. Lần cuối cùng Vua bổ nhiệm Thủ tướng không theo ý chí của đảng chiếm đa số ghế trong Nghị viện là bổ nhiệm Harold Wilson làm Thủ tướng tháng 2/1974 mặc dù Đảng của Harold Wilson không chiếm đa số trong Hạ viện. Nữ hoàng Elizabeth II đã thực hiện quyền này theo sự tư vấn của Hội đồng cơ mật.

Quyền miễn nhiệm Thủ tướng cũng thường là hệ quả của việc Hạ viện bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ. Lần cuối cùng Vua nước Anh tự mình quyết định bãi nhiệm Thủ tướng không cần việc bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ là vào năm 1834, Vua Wiliam IV đã giải thể Chính phủ của Lord Melbourn thay nó bằng Chính phủ của Công tước Wellington. Quyền phủ quyết luật của Vua cũng mang tính hình thức vì lần cuối cùng quyền này được thực hiện  là vào năm 17088.

2.3. Chế độ chính trị lưỡng đảng

Cũng như Hoa Kỳ, nước Anh có chế độ chính trị đa nguyên nhưng vì chỉ có hai đảng có khả năng thay nhau cầm quyền nên được gọi là chế độ chính trị lưỡng đảng. Công đảng và Đảng Bảo thủ thường xuyên thay nhau cầm quyền. Khi một trong hai Đảng này thắng cử trong bầu cử Nghị viện, Đảng thứ hai sẽ trở thành đảng đối lập. Đảng đối lập là lực lượng kiểm tra, giám sát và phản biện đường lối chính sách của Đảng cầm quyền.

2.4. Sự gắn kết và thống nhất giữa lập pháp và hành pháp

 Do Chính phủ được thành lập từ đảng chiếm đa số ghế trong Nghị viện và Nghị viện có thể bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ, buộc Chính phủ phải giải tán, nên giữa Chính phủ và Nghị viện có mối quan hệ chặt chẽ và mật thiết. Đối với Anh, chế độ dân chủ Nghị viện buộc Chính phủ phải lãnh đạo đất nước trong và thông qua Nghị viện. Chính phủ chịu trách nhiệm tập thể trước Nghị viện nên muốn tồn tại đến hết nhiệm kỳ, Chính phủ phải luôn ở trong vòng kiểm soát của Nghị viện.

2.5. Sự tách bạch giữa chính trị và công vụ

Nước Anh xây dựng nền công vụ vô tư và khách quan bằng việc quy định công chức không đảng phái, các tiêu chuẩn bổ nhiệm các chức vụ trong bộ máy hành chính và tư pháp không gắn với các đảng phái chính trị, không cần một bằng chính trị cao cấp nào. Phẩm chất của công chức là nghiệp vụ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp và tuân thủ pháp luật.

2.6. Tư pháp độc lập và án lệ

Người Anh có thể tự hào về nền tư pháp của mình, một nền tư pháp độc lập không chịu sự sai khiến của bất cứ đảng phái chính trị nào. Thẩm phán có uy tín cao, bằng việc áp dụng án lệ cũng có thể sáng tạo ra các quy phạm pháp luật để duy trì trật tự pháp luật và công bằng xã hội. Thẩm phán được bổ nhiệm suốt đời và chủ yếu từ các luật sư có uy tín trong xã hội.

2.7. Tập quán hiến pháp

Người Anh quan niệm pháp luật là đại lượng của công bằng, công lý, vì thế pháp luật được hiểu không những là những quy tắc bắt buộc thực hiện do các cơ quan nhà nước ban hành mà còn là những quy tắc do cuộc sống tạo lập nên, mặc dù trong pháp luật thành văn không tìm thấy. Quan niệm mềm dẻo về pháp luật cho phép người Anh thừa nhận các tập quán hiến pháp. Đó là những quy tắc mang tính bắt buộc đối với một số hành vi chính trị được hình thành từ lâu trong đời sống chính trị. Chẳng hạn, theo quy định của Hiến pháp, Vua có đặc quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm Thủ tướng nhưng thực tế đã hình thành tập quán hiến pháp, Vua chỉ bổ nhiệm Thủ lĩnh của đảng cầm quyền làm Thủ tướng. Vua có quyền phủ quyết luật nhưng hình thành tập quán hiến pháp Vua phê chuẩn luật khi đa số nghị sĩ đã chấp thuận thông qua dự luật.

(1) http://en.wikipedia.org/wiki/Constitution of the United Kingdom.

(2) Constitutional and Administrative law by Hilaire Barnett, Ed. Cavendish Publishing Limited, London 2000, p. 833.

(3) Webster,s new world college dictionary, Third Edition, by Victoria Neufeld & David B. Guralnik Macmillan USA 1988, p.1438.

(4) http://en. Wikipedia.org/wiki/history_of_the_Constitution_of_the_United_Kingdom.

(5) Xem: Thái Vĩnh Thắng, Nhà nước và pháp luật tư sản đương đại, Nxb. Tư pháp, 2010, tr. 356.

(6) http://en. chúng tôi Kingdom  4/30/2010.

(7) Claude Leclerque – Droit Constitutionel et institutions politiques,Litec 1992.

 (8) http://en.wikipedia.org/wiki/constitution_of_th_United_Kingdom

Hiến Pháp Là Gì? Đặc Điểm Của Hiến Pháp

Hiến pháp là gì?

Hiến pháp là một hình thức văn bản quy phạm pháp luật do chính Quốc hội ban hành, mang giá trị pháp lý cao nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Quy định những vấn đề cơ bản nhất của Nhà nước như: chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hóa xã hội; hình thức và bản chất nhà nước; tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước; quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.

Hiến pháp được sử dụng rộng rãi ở mọi nước với nghĩa là luật cơ bản của một nhà nước.

Hiến pháp là cơ sở để xây dựng những ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, được chi tiết hóa, cụ thể hóa bằng các văn bản pháp quy.

Mọi văn bản pháp luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam đều phải phù hợp với Hiến pháp

Hiến pháp xã hội chủ nghĩa

Hiến pháp xã hội chủ nghĩa khẳng định, ghi nhận và củng cố các quan hệ sản xuất mà nó có nhiệm vụ bảo vệ. Đó là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Ngoài ra, còn ghi nhận và củng cố những nguyên tắc cơ bản của đường lối đối ngoại hòa bình hợp tác, hữu nghị giữa các dân tộc; đường lối quốc phòng toàn dân bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa thể hiện tính chất nhân đạo, tính nhân văn sâu sắc của chế độ mới.

Đồng thời ghi nhận, khẳng định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, xác định một cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ.

Hiến pháp tư sản

Hiến pháp tư sản là hiến pháp do nhà nước tư sản ban hành, bảo vệ ý chí, quyền lợi giai cấp tư sản. Hiến pháp thừa nhận chế độ đa đảng, đa nguyên, chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, các hiến pháp tư sản chủ yếu do pháp luật quy định về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.

Hiến pháp – văn bản tổ chức quyền lực nhà nước

Nếu nhắc tới Hiến pháp trước tiên chúng ta sẽ nghĩ rằng nó là một khung pháp luật quy định về tổ chức quyền lực của nhà nước:

Hiến pháp quy định nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước.

Hiến pháp thiết lập một hệ thống tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước. Đó là việc thiết lập 1 hệ thống các cơ quan nhà nước, quy định nguyên tắc hoạt động, thẩm quyền và các mối quan hệ qua lại giữa chúng. Chỉ có Hiến pháp mới có quyền quy định thành lập hay bãi bỏ các cơ quan này. Mọi văn bản pháp luật sau hiến pháp chỉ được cụ thể hóa hiến pháp chứ không được quy định mới các cơ quan nhà nước.

Hiến pháp quy định một hệ thống chế độ xã hội của nhà nước (chế độ kinh tế, chính trị, quốc phòng, xã hội, an ninh, đối ngoại) làm cơ sở xã hội trong việc tổ chức quyền lực nhà nước. Với các quy định về chế độ xã hội khác nhau sẽ quyết định đến bản chất nhà nước và cách thức tổ chức quyền lực khác nhau của nhà nước nhà nước.

Hiến pháp không chỉ quy định các cơ quan ở Trung ương mà còn quy định các cơ quan ở địa phương, như ở Việt Nam không những quy định về Chính Phủ, Quốc Hội. Hay các cơ quan nhà nước khác ở Trung ương, Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân với các cấp chính quyền ở địa phương.

Ngoài ra, Hiến pháp còn thể hiện quyền lực nhà nước thông qua các nội dung:

Quy định chính thể nhà nước, tùy theo cách tổ chức các cơ quan nhà nước ở Trung ương mà xác định chính thể nhà nước đó là quân chủ lập hiến hay cộng hòa. Việc lựa chọn hình thức chính thể có ý nghĩa rất lớn trong việc tổ chức quyền lực nhà nước của mỗi quốc gia.

Xác định hình thức, cấu trúc của nhà nước; phân cấp quyền hạn giữa các bộ phận, các chủ thể trong cơ cấu đó. Khi đề cập đến Hiến pháp thì đây là văn bản pháp lý, quy định về quyền lực và tổ chức của nhà nước đó.

Quyền con người, quyền công dân là khẩu hiệu, tư tưởng của giai cấp tư sản trong cuộc cách mạng tư sản. Khi giành chính quyền, giai cấp tư sản thường định chế vào Hiến pháp. Đối với những nước xã hội chủ nghĩa, con người là động lực và là mục tiêu của sự phát triển. Nên quyền công dân, quyền con người là chế định cơ bản của Hiến pháp.

Hiến pháp là một thành quả của dân chủ. Ý nghĩa dân chủ của Hiến pháp thể hiện rõ nét ở chỗ là văn kiện chính trị – pháp lý ghi nhận và bảo vệ quyền con người. Hiến pháp quy định các quyền cơ bản nhất của công dân. Ghi nhận, mở rộng quyền công dân, quyền con người trong hiến pháp. Đây là xu hướng phát triển của các văn bản Hiến pháp, mỗi nhà nước sẽ có các biện pháp, cơ chế cụ thể.

Khi quyền con người được pháp lý hóa quy định trong Hiến pháp và pháp luật ở mỗi nước thì mới được gọi là quyền công dân. Hiến pháp là 1 văn bản pháp lý nó quy định mục tiêu của mỗi nhà nước và quy định giá trị con người mà các công ước quốc tế (ví dụ: công ước quốc tế con người về chính trị dân sự năm 1966, công ước quốc tế quyền con người năm 1948, công ước quốc tế quyền con người về kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội).

Quyền Con Người Trong Hiến Pháp 2013: Bước Phát Triển Mới Trong Lịch Sử Lập Pháp

Khái niệm quyền con người không xa lạ trong dòng chảy của lịch sử pháp luật thế giới. Ngày 10/12/1948, Tuyên ngôn quốc tế về Quyền con người (The Universal Declaration of Human Rights) đã được Đại hội đồng Liên Hợp quốc thông qua, tại Điều 1 Bản Tuyên ngôn đã thừa nhận như một lẽ rất tự nhiên rằng: “Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và quyền” (All human beings are born free and equal in dignity and rights). Theo đó, quyền con người là quyền tự nhiên của nhân loại, được thừa nhận trên bình diện quốc tế.

Cần phải khẳng định rằng, quyền con người và quyền công dân là hai khái niệm khác nhau. Hiến pháp 1992 quy định “Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” tại Chương V, trong đó xác định những quyền và nghĩa vụ cụ thể về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa. Những quyền này của công dân là các quyền hiến định (được quy định cụ thể trong Hiến pháp) và chỉ có thực thể gọi là “công dân” – con người đặt trong vị trí pháp lý về quốc tịch của họ với Nhà nước – mới thuộc đối tượng được Hiến pháp quy định (Điều 17 Hiến pháp 2013: Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam), trong khi đó quyền con người, như đã nói ở trên, là một món quà của tự nhiên, phát sinh ngay khi cá nhân được sinh ra và vẫn tồn tại ngay cả khi bị tước quyền công dân theo quy định của pháp luật (bị tước quyền tự do đi lại và cư trú…).

Trong Bản Tuyên ngôn độc lập được đọc vào ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã tuyên bố trước cả thế giới rằng: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Điều 19 Hiến pháp 2013 ghi nhận: “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật”.

Quyền con người, theo lẽ tự nhiên đó, có thể cô đọng lại là quyền được sống và được hưởng tự do, hạnh phúc của mỗi cá nhân và “chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” (Điều 14 Hiến pháp 2013).

Như vậy có thể khẳng định rằng, quy định về quyền con người trong Hiến pháp 2013, đặt trong sự so sánh nhất định với Hiến pháp 1992, là một bước phát triển mới trong lịch sử lập pháp của nước ta. Giáo sư, Tiến sĩ Trần Ngọc Đường (Viện Nghiên cứu lập pháp, Chuyên gia cao cấp Văn phòng Quốc hội) đã nhận định rằng, sự đổi mới này “không đơn thuần là một sự dịch chuyển cơ học, một sự hoán vị về bố cục mà là một sự thay đổi về nhận thức, về nội dung và hình thức trên cơ sở đổi mới tư duy pháp lý”.

Tuy nhiên, cần nhận thức một cách rõ ràng rằng, quy định về quyền con người trong Hiến pháp 2013 là sự khẳng định lại – thông qua đạo luật gốc của quốc gia – quyền con người, một quyền tuyệt đối tự nhiên và cơ bản đã được khẳng định xuyên suốt trong lịch sử đấu tranh, xây dựng và phát triển của đất nước ta. Hay nói cách khác, sự công nhận quyền con người trong Hiến pháp 2013 không phải là quy định mới, mà thực ra là sự khẳng định lại những thành quả trong việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người mà chúng ta đã đạt được trong suốt chiều dài lịch sử.

Một lần nữa, dưới ánh sáng của Hiến pháp 2013, chúng ta, nhân dân của một nước độc lập, tự do, hạnh phúc, tự hào mà tuyên bố rằng: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” (Điều 14 Hiến pháp 2013).

* Bài dự thi Tìm hiểu Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam 2013

Quyền Hiến Mô, Bộ Phận Cơ Thể Người Và Hiến Xác

S au sự kiện của U23 Việt Nam vừa rồi đã khơi ngợi nên tinh thần dân tộc của cả nước ta, thì nay trên khắp các trang báo ta luôn đọc được các tin tức nói về tấm lòng, đồng ý hiến tạng nếu sau này ta gặp rủi ro, thì vẫn cón có thể cứu giúp được sự sống của những người cần. Tinh thần này như được khơi ngợi thông qua câu chuyện của bé Hải An 7 tuổi hiến tặng giác mạc của mình trước khi mất vì bệnh U não. Thật đáng thương cho một cô bé xinh như thiên thần, sự ra đi của bé là một điều mất mát vô cùng to lớn với gia đình. Tuy nhiên, dù bé đã ra đi vĩnh viễn nhưng bé như truyền cảm hứng, để chúng ta suy ngẫm lại và cùng giúp nhau vượt qua những căn bệnh khó khăn nếu có thể.

” Lúc sinh thời còn tỉnh táo, An thường hay tâm sự với mẹ: “Con muốn sau này làm thế nào khi mất đi, những bộ phận vẫn còn tồn tại, vẫn sống trên cơ thể của người khác…”.

Thể theo nguyện vọng của con, chị Dương đã gọi điện tới Trung tâm Điều phối tạng Quốc gia với mong muốn hiến tặng nội tạng của bé cho những bạn nhỏ khác đang bị bệnh chờ ghép tạng. Đặc biệt: “Tôi muốn sẽ được nghe tiếng trái tim của con gái mình còn đập trong lồng ngực một bạn trẻ nào đó…”.

Hải An ra đi khi còn quá bé, chỉ duy có thể hiến giác mạc của em cho người ở lại. Di nguyện của em có thể hiến gan, thận và điều tuyệt vời nhất có lẽ là quả tim bé nhỏ của em. Đấy cũng là khát khao cháy bỏng của chị Dương, rằng trái tim của con chị vẫn sẽ đập, vẫn sẽ cháy trong lồng ngực một ai đó. Nhưng Trung tâm Điều phối tạng đã từ chối vì các vấn đề pháp lý.” (Theo kênh 14.vn)

Theo Luật Hiến, lấy ghép mô bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006:

Theo Điều 5: Quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác

“Người từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn sống, sau khi chết và hiến xác”.

Theo Điều 14: Điều kiện, thủ tục lấy mô, bộ phận cơ thể ở người sống

1. Chỉ cơ sở y tế quy định tại Điều 16 của Luật này mới được tiến hành lấy mô, bộ phận cơ thể ở người sống.

2. Chỉ lấy mô, bộ phận cơ thể ở người sống đã đăng ký hiến. Trong trường hợp cấp cứu mà cần phải ghép mô hoặc cần ghép mô cho cha, mẹ, anh, chị, em ruột thì được phép lấy mô của người chưa đăng ký hiến nếu có sự đồng ý của người đó.

3. Cơ sở y tế trước khi tiến hành lấy mô, bộ phận cơ thể ở người sống có trách nhiệm sau đây:

a) Tư vấn về sức khỏe, tâm lý xã hội cho người hiến;

b) Kiểm tra các thông số sinh học của người hiến.

4. Bộ trưởng Bộ Y tế quy định cụ thể việc tư vấn, kiểm tra các thông số sinh học của người hiến mô, bộ phận cơ thể ở người sống.

Theo Điều 21: Điều kiện lấy mô, bộ phận cơ thể ở người sau khi chế

1. Chỉ cơ sở y tế quy định tại Điều 16 của Luật này mới được tiến hành lấy mô, bộ phận cơ thể ở người sau khi chết.

2. Việc lấy mô, bộ phận cơ thể ở người sau khi chết được thực hiện trong các trường hợp sau đây:

a) Có thẻ đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể người sau khi chết;

b) Có thẻ đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể người sau khi chết và đã được công bố là chết não theo quy định tại khoản 5 Điều 27 của Luật này;

c) Trường hợp không có thẻ hiến mô, bộ phận cơ thể người sau khi chết thì việc lấy phải được sự đồng ý bằng văn bản của cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó hoặc vợ, chồng hoặc đại diện các con đã thành niên của người đó.

Bạn đang xem bài viết Lịch Sử Tư Tưởng Lập Hiến Và Các Đặc Điểm Cơ Bản Của Hiến Pháp Anh trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!