Xem Nhiều 3/2023 #️ Luật Đất Đai: ‘Sự Khôn Lỏi Của Nhà Nước’ # Top 6 Trend | Tvzoneplus.com

Xem Nhiều 3/2023 # Luật Đất Đai: ‘Sự Khôn Lỏi Của Nhà Nước’ # Top 6 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Luật Đất Đai: ‘Sự Khôn Lỏi Của Nhà Nước’ mới nhất trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Sáng 29/11, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật đất đai sửa đổi với tỷ lệ phiếu tán thành là 448 trong số 473 đại biểu tham gia, đạt gần 89,9%.

Điều 4 của luật mới quy định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của luật này,” báo trong nước đưa tin.

Luật mới cũng quy định định kỳ quy hoạch sử dụng đất là 10 năm và không quy định tầm nhìn 20 năm.

Về vấn đề thu hồi đất, luật mới tiếp tục quy định nhà nước được phép thu hồi đất để “phát triển kinh tế, xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng” trong các trường hợp:

Thực hiện các dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư

Thực hiện các dự án do Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, quyết định đầu tư

Thực hiện các dự án do hội đồng nhân dân cấp tỉnh chấp thuận

BBC đã có cuộc phỏng vấn với ông Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển IDS và là một trong 72 nhân sỹ trí thức ký tên trong bản kiến nghị thay đổi hiến pháp được biết đến với tên gọi Kiến nghị 72, về sự kiện này.

BBC: Ông nhận xét gì về những khác biệt cơ bản giữa Luật đất đai sửa đổi mới được thông qua, so với luật cũ?

TS Nguyễn Quang A: Tôi nghĩ rằng nó không có tiến bộ gì so với cái cũ cả.

Nó có thể có một số câu từ làm cho việc thu hồi đất chặt chẽ hơn trước một chút và giảm bớt được sự tùy tiện của chính quyền địa phương khi họ thu hồi đất và đền bù thu hồi đất.

Đấy là ở tầm câu chữ chung của Luật đất đai sửa đổi lần này.

Còn cái vấn đề mà người ta bàn luận rất nhiều trong thời gian vừa qua thì thực sự được ngã ngũ từ hôm qua, khi Quốc hội thông qua hiến pháp với nội dung đất đai thuộc sở hữu toàn dân.

Hiến pháp thông qua ngày hôm qua còn hợp hiến hóa cho việc thu hồi đất cho các dự án phát triển kinh tế xã hội.

Những dự án cho xã hội kinh tế như thế trong luật đất đai trước kia là quy định vi hiến so với hiến pháp năm 1992.

Dù biết đó là quy định vi hiến, hôm qua, 29/11, các đại biểu Quốc hội đã bỏ phiếu thông qua một hiến pháp giúp hợp hiến hóa cho điều này.

‘Nhà nước khôn lỏi’

BBC: Ông nghĩ thế nào về quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý trong bối cảnh ngày nay?

TS Nguyễn Quang A: Tôi nghĩ đây là một sự sao chép hết sức mù quáng những sai trái của hiến Pháp Liên Xô những năm 80.

Khái niệm ‘sở hữu toàn dân’ là một khái niệm không đầy đủ.

Khái niệm ‘toàn dân’ là khái niệm dùng để đánh tráo một khái niệm chính xác hơn, lẽ ra phải gọi là ‘sở hữu công’, hoặc ‘sở hữu nhà nước’, có một chủ thể, một pháp nhân cụ thể, đó là chính phủ hay một UBND tỉnh nào đấy vì cơ quan đó có tư cách pháp nhân, là chủ sở hữu của một lô đất nào đó cụ thể. Có như thế mới gọi là chủ sở hữu.

Còn ‘toàn dân’ không thể là một khái niệm kinh tế cụ thể để thực thể đó có thể sở hữu gì cả.

Quan trọng nhất là chủ sở hữu phải tham gia vào quan hệ dân sự – mua bán chuyển nhượng quyền ở hữu của mình, và trong một số trường hợp là phải ra tòa nếu hai bên không thống nhất.

Một cá nhân, một doanh nghiệp, một tổ chức có tư cách pháp nhân, chính phủ, UBND tỉnh có thể bị kiện ra tòa. Thế nhưng toàn dân thì không ai vớ được cái ông toàn dân để đưa ra tòa.

Một đối tương mông lung như vậy, không phải là một đối tượng cụ thể nào cả mà bảo rằng nó là chủ sở hữu. Rồi nhà nước lại là đại diện để sử dụng quyền chủ sở hữu mà quản lý đất.

Thực sự là nhà nước rất khôn, trốn tránh trách nhiệm chủ sở hữu để không ai kiện được nhà nước về đất đai với tư cách là chủ sở hữu. Nhà nước lại đùn cho một ông vô hình dung gọi là ‘ông toàn dân’.

Đó là một sự vô trách nhiệm của nhà nước, khôn lỏi của nhà nước, chỉ hưởng, chỉ có quyền mà không chịu trách nhiệm. Đó là một khái niệm mà không một từ xấu xa nào mô tả được.

Rất đáng tiếc đó là một khái niệm vay mượn của một chế độ mà sau khi vay mượn thì chỉ chưa đầy 10 năm sau, chế độ đó đã bị xóa sổ.

Thế mà sang thế kỷ 21, những người tự nhận là trí tuệ, đại diện của Việt Nam lại không chịu lắng nghe, để rồi nhắm mắt thông qua hiến pháp với luật quy định sở hữu toàn dân thì tôi không thể hiểu được.

‘Bỏ phiếu với tư cách Đảng viên’

BBC: Nếu ông là đại biểu quốc hội có mặt trong phiên biểu quyết về Hiến pháp sửa đổi và Luật đất đai sửa đổi, ông sẽ lựa chọn như thế nào? Tán thành, không tán thành, hay không biểu quyết?

TS Nguyễn Quang A: Chắc chắn là không tán thành chứ làm gì có chuyện không biểu quyết.

Tất nhiên là những người không biểu quyết thì cũng tỏ thái độ của người ta. Nhưng tôi nghĩ thái độ đấy vẫn còn là thái độ lừng khừng.

Theo những gì tôi nghe được từ một số người khi họ nói ở bên ngoài thì tôi biết được số không tán thành không phải là ít.

Nhưng vì người ta phải chịu kỷ luật rất khắt khe của Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ là Đảng viên và khi Lãnh đạo Đảng đã bảo rằng Đảng đã quyết định, phải chấp hành thì họ cứ như cái máy mà ấn nút thôi.

Khi họ bỏ phiếu thì họ không phải bỏ với tư cách cá nhân, mà là với tư cách là một phần của Đảng.

Nguồn: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2013/11/131129_nguyenquanga_land_law.shtml

Luật Đất Đai Là Gì ? Tìm Hiểu Quy Định Pháp Luật Về Luật Đất Đai

1. Lịch sử hình thành và phát triển của luật đất đai

Trong lịch sử xây dựng hệ thống pháp luật về đất đai ở nước ta, Nhà nước đã ban hành Luật đất đai năm 1988; Luật đất đai năm 1993; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai năm 1998; Luại sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai năm 2001 và Luật đất đai năm 2003.

Ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước bạn hành nhằm điều chỉnh các quan hệ đất đai phát sinh trong quá trình chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đất đai vì lợi ích của Nhà nước và của người sử dụng đất.

Luật đất đai năm 1993 là văn bản luật chứa đựng có hệ thống các quy phạm pháp luật được sắp xếp theo một trình tự nhất định, quy định về chế độ quản lí, sử dụng đất đai, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.

Luật đất đai được Quốc hội Khoá IX, kì họp thứ 3 thông qua ngày 14.7.1993; Luật này thay thế Luật đất đai năm 1988 và có hiệu lực kể từ ngày 15.10.1993.

Đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Luật đất đai là chế độ quản lí, sử dụng đất đai trên toàn lãnh thổ Việt Nam, chế định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, bao gồm tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước và tổ chức, cá nhân nước ngoài đang hoạt động, kinh doanh tại Việt Nam. Về chế độ sở hữu, Luật đất đai năm 1993 tiếp tục xác định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lí, theo đó, Quốc hội thực hiện quyền quyết định, giám sát tối cao đối với việc quản lí và sử dụng đất đai, Chính phủ thống nhất quản lí nhà nước về đất đai trong cả nước, Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện quản lí nhà nước về đất đai trong địa phương mình theo thẩm quyền. Về chế độ sử dụng đất, Luật đất đai quy định: Nhà nước giao đất cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài. Nhà nước còn cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân trong nước, tổ chức và cá nhân nước ngoài thuê đất. Người sử dụng đất ổn định được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, được hưởng thành quả lao động trên đất được giao, được chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, được bồi thường thiệt hại về đất khi bị thu hồi, được góp quyền sử dụng đất vào các hoạt động kinh doanh…, đồng thời, họ có trách nhiệm bảo vệ, cải tạo, bồi bổ và sử dụng đất hợp lí, có hiệu quả, chấp hành tốt các quy định của pháp luật về việc sử dụng đất.

Đất đai được coi là một nguồn tài nguyên quý hiếm, là tư liệu sản xuất chính không thể thay thế của các ngành sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, là thành phần quan trọng của môi trường sống, nhưng trong một thời gian dài, việc quản lí đất đai có phần buông lỏng, có nơi đất đai không được sử dụng đúng mục đích, không khai thác được tiềm năng của đất và người sử dụng đất còn thiếu trách nhiệm trong việc cải tạo, bồi bổ đất. Nhằm bảo đảm để đất đai – một loại tài sản đặc biệt, thực sự có giá trị, có lợi đối với nền kinh tế quốc dân, nhằm bảo đảm trật tự, kỉ cương trong quản lí và sử dụng đất đai, đồng thời, nhằm cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp năm 1992 về đất đai, Quốc hội đã thông qua Luật đất đai mới, năm 1993. Bố cục và nội dung cơ bản: Luật đất đai năm 1993 gồm 7 chương với 89 điều.

Chương l – Những quy định chung, xác định rõ đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lí; quy định về việc Nhà nước giao đất cho người sử dụng đất, bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp cho người sử dụng đất, quy định các nghĩa vụ của họ trong quá trình sử dụng đất; quy định về nguyên tắc và thẩm quyền của các cơ quan nhà nước trong quản lí đất đai; phân loại đất đai.

Chương II quy định về quản lí nhà nước đối với đất đai.

Chương III quy định về chế độ sử dụng các loại đất, bao gồm đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất khu dân cư nông thôn, đất đô thị, đất chuyên dùng, đất chưa sử dụng.

Chương IV quy định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.

Chương V quy định về việc tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế thuê đất của Việt Nam.

Chương VI quy định về xử lí vi phạm và

Chương VI quy định điều khoản thi hành.

So sánh Luật đất đai năm 1993 của Việt Nam và các quy định của Luật đất đai một số nước trên thế giới cho thấy, chế độ quản lí và sử dụng đất đai của Việt Nam có những đặc thù khác biệt. Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lí. Việt Nam không thừa nhận chế độ sở hữu tư nhân về đất đai. Tuy nhiên, người được giao đất để sử dụng được pháp luật về đất đai quy định nhiều quyển năng, từ quyển chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp, tặng cho, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất phù hợp với quy chế từng loại đất, đồng thời có nghĩa vụ bảo vệ, tôn tạo và phát triển, bồi bổ đất để sử dụng hợp lí và hiệu quả. Cho đến nay, Luật đất đai năm 1993 đã được sửa đổi, bổ sung thêm 3 lần vào các năm 1996, 1998, 2001 và đã được thay: thế bằng Luật đất đai mới được Quốc hội Khoá XI, kì họp thứ 4 thông qua ngày 26.11.2003, đánh dấu một bước phát triển mới của pháp luật về đất đai của Việt Nam.

2. Luật đất đai là gì ?

Khi nói và viết về khái niệm Luật đất đai, học viên và người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy sẽ hiểu khái niệm này với tính cách là một ngành luật, toong khi đó các nhà quản lí, người xây dựng chính sách, đa số doanh nghiệp và người dân sẽ hiểu khái niệm này với tính cách là văn bản luật. Vì vậy, tuỳ từng đối tượng và hoàn cảnh cụ thể để hiểu khái niệm luật đất đai với tính cách là một ngành luật toong hệ thống ngành luật của nhà nước ta hoặc là văn bản pháp luật quan trọng nhất toong hệ thống các văn bản pháp luật về đất đai. Do đó, chúng ta sẽ tìm hiểu từng khía cạnh cụ thể của nó theo hai mặt sau đây:

2.1 Ngành luật đất đai

Dưới góc độ là một ngành luật, Luật đất đai trước đây còn có tên gọi là Luật ruộng đất. Cách hiểu như vậy là thiếu chính xác, vì khái niệm “đất đai” hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các loại đất như: nhóm đất nông nghiệp, nhóm đất phi nông nghiệp và đất chưa sử dụng, toong mỗi nhóm đất lại được chia thành từng phân nhóm đất cụ thể theo quy định tại Điều 10 Luật đất đai năm 2013. Khái niệm “ruộng đất” theo cách hiểu của nhiều người thường chỉ loại đất nông nghiệp, đất tạo lập nguồn lương thực, thực phẩm nuôi sống con người. Vì vậy, nói Luật ruộng đất tức là chỉ một chế định của ngành luật đất đai, cụ thể là chế độ pháp lí đất đai được quy định là: chế độ sở hữu toàn dân về đất đai và định danh vai trò của Nhà nước là người đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai, thống nhất quản lí đất đai trong phạm vi cả nước.

Quan hệ đất đai hiện nay không thể hiện mối quan hệ truyền thống giữa các chủ sở hữu đất đai với nhau mà được xác lập trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai. Nói cách khác, các quan hệ này xác định trách nhiệm và quyền hạn của Nhà nước trong vai trò người đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và thống nhất quản lí đất đai. Từ vai trò và trách nhiệm đó, Nhà nước không ngừng quan tâm đến việc bảo vệ, giữ gìn, phát triển một cách bền vững nguồn tài nguyên đất đai cho hiện tại và tương lai. Với đặc trưng cơ bản là xác lập quyền cho người chủ sử dụng đất cụ thể nhằm tránh tình trạng vô chủ trong quan hệ đất đai như trước đây, việc chuyển giao quyền sử dụng cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân là thiên chức cơ bản trong hoạt động của Nhà nước phù hợp với vai trò là người đại diện chủ sở hữu và người quản lí. Quan hệ đất đai ở Việt Nam trên nền tảng đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước là người đại diện chủ sở hữu được thiết kế có sự tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng đất. Quá trình hợp tác giữa người sử dụng đất với nhau trên cơ sở sự bảo hộ của Nhà nước khi thực hiện đầy đủ các quyền của người sử dụng là yếu tố linh hoạt nhất và đa dạng nhất trong quan hệ đất đai.

Vì vậy, có thể định nghĩa Luật đất đai với tư cách ngành luật như sau: Luật đất đai là tổng hợp các quy phạm pháp luật mà Nhà nước ban hành nhằm thiết lập quan hệ đất đai trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân về đất đai và sự bảo hộ đầy đủ của Nhà nước đối với các quyền của người sử dụng đẩt tạo thành một ngành luật quan trọng trong hệ thống pháp luật của Nhà nước ta.

2.2 Các văn bản Luật đất đai

Cần có sự phân biệt giữa văn bản Luật đất đai với hệ thống văn bản pháp luật về đất đai. Luật đất đai với tính cách là một văn bản 02/12/1998, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai năm 1993 đã được Quốc hội khoá X, kì họp thứ 4 thông qua. Luật này được gọi tắt là Luật đất đai sửa đổi, bổ sung năm 1998 và nội dung chủ yếu nhằm luật hoá các quyền năng của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất, đồng thời xác định rõ các hình thức giao đất và cho thuê đất để làm căn cứ quy định các nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất.

Tuy nhiên, lần sửa thứ nhất vào năm 1998 chỉ đề cập một số vấn đề về hình thức sử dụng đất và tiền tệ hoá quyền sử dụng đất. Vì vậy, kì họp thứ 9, Quốc hội khoá X đã thông qua việc sửa đổi lần thứ hai tập trung vào việc hoàn thiện chế độ quản lí Nhà nước về đất đai, góp phần cải cách thủ tục hành chính trong giao đất, cho thuê đất, phân công, phân cấp trong quản lí đất đai. Văn bản luật này được gọi tắt là Luật đất đai sửa đổi, bổ sung năm 2001 và có hiệu lực chính thức từ ngày 01/10/2001.

Các luật đất đai nêu trên đã góp phần to lớn trong việc khai thác quỹ đất, việc quản lí đất đai đã đi vào nền nếp, tạo sự tăng trưởng ổn định cho nền kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tuy nhiên, việc xây dựng hệ thống pháp luật đất đai trong thời gian qua cũng như việc sửa đổi, bổ sung nhiều lần như vậy cho thấy hệ thống pháp luật đất đai có tính chắp vá, không đồng bộ, nhiều quy định tỏ ra lạc hậu so với thời cuộc và gây khó khăn cho quá trình áp dụng. Vì vậy, việc xây dựng Luật đất đai mới để thay thế Luật đất đai năm 1993 và các Luật đất đai sửa đổi, bổ sung là rất cần thiết.

Trên tinh thần đó, quá trình xây dựng các dự thảo của Luật đất đai mới rất công phu, qua nhiều lần chỉnh sửa và lấy ý kiến nhân dân rộng rãi trong cả nước, ngày 26/11/2003, Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam Khoá XI, kì họp thứ 4 đã thông qua toàn văn Luật đất đai mới với 7 chương và 146 điều, gọi là Luật đất đai năm 2003. Luật đất đai năm 2003 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2004, nhằm đáp ứng giai đoạn phát triển Đây là những văn kiện của Đảng đề cập một cách toàn diện những quan điểm cơ bản về xây dựng chính sách và pháp luật đất đai trong giai đoạn mới. Luật đất đai năm 2013 là sự thể chế hoá đường lối chính sách của Đảng về van đề đất đai.

Thứ hai, việc xây dựng Luật đất đai năm 2013 dựa trên nền tảng đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước trong vai trò là người đại diện chủ sở hữu và người thống nhất quản lí đất đai trong phạm vi cả nước.

Thứ ba, trên cơ sở kế thừa và phát triển các Luật đất đai trước đây, Luật đất đai năm 2013 góp phần pháp điển hoá hệ thống pháp luật đất đai với tinh thần giảm thiểu tối đa những văn bản hướng dẫn dưới luật khiến cho hệ thống pháp luật đất đai trước đây vô cùng phức tạp, nhiều tầng nấc và kém hiệu quả. Trong văn bản luật này, nhiều quy định của Chính phủ và các bộ, ngành qua thực tế đã phù hợp với cuộc sống được chính thức luật hoá, vừa nâng cao tính pháp lí của quy định, vừa giảm thiểu các quy định không cần thiết để Luật đất đai hoàn chỉnh có hiệu lực và hiệu quả cao.

Như vậy, khái niệm Luật đất đai hiểu theo phương diện thứ hai xuất phát từ các văn bản Luật đất đai được ban hành trong thòi gian vừa qua và là nguồn cơ bản của ngành luật đất đai.

Trân trọng./.

Quan Hệ Pháp Luật Đất Đai?

Công ty Luật Hồng Bàng xin gửi tới quý khách hàng bài viết về Quan hệ pháp luật đất đai? Để được giải đáp những vướng mắc về các vấn đề pháp lý cũng như tiết kiệm thời gian và công sức của bản thân, xin quý khách liên hệ với chúng tôi qua tổng đài 1900.6575.

Quan hệ pháp luật đất đai là những quan hệ xã hội do các quy phạm pháp luật đất đai điều chỉnh, trong đó các bên tham gia quan hệ đều có quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý mà quyền và nghĩa vụ này được Nhà nước đảm bảo quyền thực hiện.

Yếu tố cấu thành quan hệ pháp luật đất đai

*Chủ thể quan hệ pháp luật đất đai

Chủ thể của quan hệ pháp luật đất đai là các chủ thể dựa trên cơ sở các quy phạm pháp luật mà tham gia vào một quan hệ pháp luật đất đai để hưởng quyền và làm nghĩa vụ trong quan hệ đó. Chủ thể của quan hệ pháp luật đất đai gồm có Nhà nước và người sử dụng đất.

Nhà nước tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai với tư cách là đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và thống nhất quản lý nhà nước về đất đai. Nhà nước tham gia vào các quan hệ pháp luật thông qua các cơ quan nhà nước.

Theo Điều 5 Luật Đất đai 2013 thì: Chủ thể sử dụng đất là người đang thực tế chiếm hữu đất đai do Nhà nước giao, cho thuê, cho phép nhận quyền sử dụng đất hoặc được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất. Các chủ thể sử dụng đất này gồm các tổ chức trong nước; cá nhân, hộ gia đình trong nước; cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo; tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao; Người Việt Nam định cư ở nước ngoài; tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.

Chủ thể đang thực tế chiếm hữu đất đai được phân chia thành: chủ thể đã có giấy tờ hợp pháp về quyền sử dụng đất (đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất); chủ thể có giấy tờ hợp lệ về quyền sử dụng đất (chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, những đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận); và chủ thể không đủ giấy tờ theo quy định nhưng được công nhận quyền sử dụng đất.

*Nội dung của quan hệ pháp luật đất đai

Nội dung của quan hệ pháp luật đất đai là tổng thể quyền hạn và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật đất đai. Các quyền hạn, nghĩa vụ này được pháp luật quy định và bảo vệ.

*Khách thể của quan hệ pháp luật đất đai

Khách thể của quan hệ pháp luật đất đai là cái mà các chủ thể nhằm hướng tới, đạt được khi tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai.

Đất Đai Là Gì? Vai Trò Và Đặc Điểm Của Đất Đai

Đất đai là các vật chất nằm trên bề mặt Trái Đất, hoặc bạn có thể hiểu một cách đơn giản rằng: Đất đai là vùng đất có ranh giới với khoảng không gian bên trên bề mặt đất và dưới lòng đất. Khi bạn là chủ của khu đất đó thì bạn có quyền sở hữu tất cả những thứ ở trên phần đất đai đó từ thực vật, động vật, vi sinh vật đến các loài động vật nhỏ.

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 3 Thông tư 14/2012/TT-BTNMT Quy định: Đất đai là vùng đất có ranh giới, vị trí, diện tích cụ thể, có các thuộc tính tương đối ổn định, hoặc có thể thay đổi nhưng có tính chu kỳ, có thể dự đoán được, có ảnh hưởng đến việc sử dụng đất ở hiện tại và tương lai của các yếu tố tự nhiên, kinh tế – xã hội.

Tại Việt Nam, việc mỗi người được sở hữu, mua bán đất đai đều được pháp luật bảo hộ và công nhận. Khi xảy ra bất cứ hành động nào ảnh hưởng đến quyền sở hữu đất đai đều sẽ được pháp luật truy cứu và bảo vệ.

Vai trò của Đất đai

Về vai trò của đất đai đã được nhà triết học Karl Marx khẳng định: “Đất đai là tài sản mãi mãi với loài người, là điều kiện để sinh tồn, là điều kiện không thể thiếu được để sản xuất, là tư liệu sản xuất cơ bản trong nông, lâm nghiệp”.

Đúng thế, đất đai có nguồn gốc tự nhiên, theo thời gian nó được con người xuất hiện và tác động vào đất đai, biến đất đai từ sản phẩm của thiên nhiên trở thành sản phẩm của xã hội bởi đã chịu sự tác động bởi con người.

Đất đai là thứ tài nguyên vô cùng quý giá, chẳng phải tự nhiên mà có các cuộc chiến tranh xâm lược đẫm máu, chúng ta đã phải hy sinh, đổ máu để đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc, giữ gìn nguyên vẹn mảnh đất cha ông để lại.

Có thể kết luận lại rằng, đất đai là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của con người, các sinh vật trên thế giới. Bởi không có đất đai thì sẽ không có bất cứ ngành sản xuất nào, con người không thể sản xuất ra các của cải, vật chất để duy trì cuộc sống, nòi giống đến tận bây giờ.

Đất đai là nguồn của cải, quyền sử dụng đất đai chính là nguyên liệu của thị trường nhà đất, là tài sản đảm bảo sự an toàn về tài chính, và được chuyển nhượng từ thế hệ này qua thế hệ khác.

Đặc điểm của đất đai

Đất đai là thứ tài sản duy nhất không bị hao mòn theo thời gian, ngược lại giá trị của đất đai luôn có xu hướng tăng dần theo thời gian.

Đất đai có tính đa dạng và phong phú: bởi con người sẽ có những kế hoạch, mục đích khác nhau phù hợp với địa lý từng vùng. Ví dụ: nếu sử dụng đất vào ngành nông nghiệp thì lúc này con người cần phải tính toán khả năng thích nghi của từng loài cây để mang lại hiệu quả cao nhất…..

Đất đai là một tư liệu sản xuất gắn với hoạt động của con người, như ở phần trên tôi có đề cập rằng: “Đất đai là sản phẩm của thiên nhiên, nhưng nó lại là sản phẩm của lao động”.

Bởi con người đã tác động vào đất đai nhằm thu được các sản phẩm, của cải vật chất để đáp ứng nhu cầu sử dụng của cuộc sống. Tác động này có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp và làm thay đổi tính chất của đất đai tùy vào mục đích sử dụng.

Một đặc điểm nữa của đất đai đó chính là nó không phải là hàng hóa có thể tự sinh sản sau quá trình sản xuất, mà đất đai là thứ cố định, chịu sự chi phối của các yếu tố môi trường nơi có đất.

Giá trị của đất đai cũng sẽ khác nhau, ví dụ: đất đai ở thành thị sẽ có giá trị cao hơn ở nông thôn, vùng núi; những nơi có điều kiện cơ sở hạ tầng sẽ có giá trị lớn hơn đất đai ở những nơi có điều kiện kém.

Chính vì vậy, vị trí đất đai hoặc điều kiện đất đai tác động rất lớn đến việc sản xuất, kinh doanh tạo nên lợi thế thương mại cho công ty, doanh nghiệp mà nó còn có ý nghĩa đối với một quốc gia.

5/5

(1 Review)

Bạn đang xem bài viết Luật Đất Đai: ‘Sự Khôn Lỏi Của Nhà Nước’ trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!