Cập nhật thông tin chi tiết về Lý Giải Về Sở Hữu Tư Liệu Sản Xuất mới nhất trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Sau hơn 30 năm thử nghiệm chính sách kinh tế kế hoạch nhà nước trên miền Bắc và hơn 15 năm tại miền Nam sau 1975, nhà nước Việt Nam đã nhận thức rằng chính sách đó đã làm trì trệ nền kinh tế. Đứng trước đói nghèo trên cả nước, đảng CSVN phải thay đổi chính sách, chọn lựa kinh tế thị trường với hy vọng đưa đất nước tiến lên. Trước hết, đó là một chọn lựa khôn ngoan, ít ra cũng phù hợp với xu thế thời đại. Hơn 50 quốc gia công nghiệp giàu nhất thế giới đều đi theo con đường đó, kể cả vài nước mà trong thập niên 1960 vẫn không hơn gì Việt Nam và bây giờ đã vượt xa chúng ta. Kinh tế thị trường trong mỗi nước có những diện mạo khác nhau, sự thành công nhiều hay ít cũng khác nhau. Điều đó tùy thuộc cách hiểu và khả năng vận dụng những nguyên lý chủ đạo của kinh tế thị trường như thế nào cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế từng nước. Thí dụ như nguyên lý cạnh tranh tự do và lành mạnh, nguyên lý bình đẳng về quyền lực cho mỗi thành viên, nguyên lý về sở hữu tư liệu sản xuất, về sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế, can thiệp cái gì, can thiệp như thế nào v.v… Không khó lắm để hiểu chúng về mặt lý thuyết, nhưng Việt Nam có vẻ đang còn lúng túng để xác định một nội dung cụ thể cho những nguyên lý đó. Dựa trên nền tảng lý thuyết và kinh nghiệm thực tiễn của kinh tế Tây Đức từ sau 1949, bài biên khảo sau đây hy vọng góp thêm vài ý kiến bổ ích về một trong những vấn đề quan trọng nêu trên: quyền sở hữu tư liệu sản xuất. Tính chủ đạo của tư hữu TLSX và các xí nghiệp tư doanh trong nền Kinh tế Thị trường Xã hội cũng có nghĩa rằng, nhà nước phải tự rút lui để trở lại vai trò nồng cốt của nó. Trong nền Kinh tế Thị trường Xã hội, vai trò nhà nước không phải là làm công việc của công thương kỹ nghệ gia, khi mà các thành phần tư nhân có thể làm được và làm tốt hơn nhà nước trong việc cung ứng sản phẩm và dịch vụ.Kinh tế gia Otto Schlecht, giáo sư đại học TrierỞ đây chúng ta phân biệt ba loại khác nhau giữa sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân.
Sở hữu tập thể TLSX và sở hữu nhà nước là công cụ sắc bén của guồng máy sản xuất mang tính chất kế hoạch tập trung, có khả năng tạo ra phương tiện cực kỳ hiệu quả để thành phần lãnh đạo kinh tế có thể kiểm soát toàn bộ guồng máy sản xuất và từ đó chế ngự cả những thành viên trong guồng máy đó, mở rộng quyền lực chính trị lên mọi thành phần khác trong xã hội. Điều đáng chú ý hơn nữa của hai hình thái sở hữu này là, để guồng máy có thể hoạt động hữu hiệu, nó đòi hỏi một sự điều khiển từ trung ương lên quá trình hoạt động kinh tế cũng như lên kế hoạch sản xuất của từng đơn vị riêng lẻ[2], dù ở những đơn vị này sự điều khiển có thể xuất hiện ở một mức độ thấp hơn.
Ngược lại, trong chế độ tư hữu TLSX, người sở hữu chỉ có thể chế ngự đơn vị hoạt động của mình, chứ không thể tác động lên kế hoạch sản xuất các đơn vị khác, và càng không thể điều khiển quá trình hoạt động kinh tế của toàn bộ guồng máy sản xuất trong xã hội. Anh ta chỉ là một thành viên bình đẳng như mọi thành viên sản xuất khác, và nhờ thế tính cạnh tranh lành mạnh trên thị trường được bảo đảm, không ai chèn ép được ai.
Như vậy, để kiến tạo một trật tự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường, việc thừa nhận tư hữu TLSX là điều bắt buộc, và trong toàn bộ nền kinh tế, khi tỉ lệ tư hữu TLSX càng cao thì khả năng tạo dựng trật tự cạnh tranh lành mạnh càng lớn. Nói cách khác, tư hữu TLSX là một trong những điều kiện tiên quyết của trật tự cạnh tranh trên thị trường[3] hay nói một cách chính xác hơn thì nó là một thuộc tính không thể thiếu được của kinh tế thị trường, lại là một thuộc tính cực kỳ quan trọng.
Tất nhiên, nhà nước cũng có quyền làm chủ một số đơn vị kinh tế thậm chí một số ngành như một tư nhân nào khác, thí dụ hệ thống cung cấp điện nước, giao thông vận tải, ngân hàng v.v… Điều này sẽ không làm rối loạn trật tự thị trường, nếu những đơn vị kinh tế nhà nước cũng ép mình vào trật tự cạnh tranh chung. Khi các đơn vị kinh tế thuộc sở hữu nhà nước không sử dụng chế độ trợ cấp hoặc những ưu đãi khác để nâng cao thế cạnh tranh, nhất là trong việc định giá để cạnh tranh trên thị trường, thì việc tồn tại các đơn vị kinh tế nhà nước là điều chấp nhận được[4] và thị trường cũng không vì thế mà bị rối loạn. Tuy nhiên cần lưu ý là, khi tỉ lệ công hữu trong nền kinh tế càng cao, thì hiệu quả sự điều tiết tính cạnh tranh thị trường càng giảm. Điều này tất yếu sẽ dẫn đến những bất hợp lý về giá cả, tình trạng độc quyền sẽ xuất hiện, và nếu kéo dài quá lâu thì đấy là mầm mống của trì trệ kinh tế.
Để làm rõ tác động của tư hữu TLSX lên cơ chế tự điều tiết của thị trường, chúng ta hãy lấy thí dụ về một xí nghiệp sản xuất thực phẩm:
Nếu xí nghiệp này thuộc tư nhân thì người chủ hãng – thường là giám đốc – phải xem xét hàng ngày mức tiêu thụ trên thị trường toàn ngành về loại hàng mình sản xuất . Nếu mức tiêu thụ giảm sút, anh ta phải nhanh chóng giảm số lượng sản xuất, nếu không thì sản phẩm sẽ tồn kho lâu, hàng quá hạn sử dụng, thực phẩm ung thối, xí nghiệp thua lỗ và trong nhiều trường hợp sẽ còn ảnh hưởng làm sụt giá thị trường, vòng xoáy rối loạn bắt đầu chuyển động và có thể dẫn đến phá sản cho hãng nào không kịp thời thay đổi. Đặc biệt trong những ngành sản xuất tương tự, sự tinh tế về mức tiêu thụ hàng ngày trên thị trường kết hợp với sự nhạy bén về quyết định kịp thời trong sản xuất là yếu tố cực kỳ quan trọng để xí nghiệp hoạt động thành công.
Cũng trong thí dụ ở trên, chuyện gì xảy ra khi xí nghiệp thuộc công hữu và giám đốc là công nhân viên nhà nước? Cho dù phát hiện mức tiêu thụ giảm, người giám đốc cũng không có quyết định nào khác hơn là tiếp tục sản xuất theo kế hoạch và chỉ tiêu đã được cấp trên giao xuống. Hàng làm ra có bán được hay không anh ta không quan tâm vì đấy là nhiệm vụ của xí nghiệp khác phụ trách việc phân phối. Hoặc cho dù người giám đốc có muốn tinh giảm sản xuất để cứu vãn thị trường, đề nghị của anh ta phải thuyết phục được cấp trên từ ban, đến ngành, đến bộ v.v… và nhận quyết định ngược lại từ trên xuống dưới. Con đường hành chánh rườm rà và tốn thì giờ này sẽ mất tính thời gian để kịp thời cứu vãn được điều gì. Như thế, với chế độ công hữu TLSX, thị trường chỉ có thể ổn định khi mọi dự đoán cung cầu rất chính xác và kế hoạch cấp trên từ trung ương đưa ra thật hoàn hảo. Nói một cách khác, chúng ta chỉ mong có được “một nhà độc tài cực kỳ sáng suốt” không bao giờ sai lầm. Trong trường hợp có sự cố bất thường[5] thì công hữu TLSX là yếu tố kìm hãm sự điều tiết giữa cung và cầu, thúc đẩy rối loạn thị trường, làm kinh tế trì trệ.
Cũng cần nói thêm rằng, biến động giá cả thị trường là những tín hiệu an-ten khẩn cấp để những ai quan tâm kịp thời phản ứng. Tín hiệu này tất nhiên sẽ được những người đi tiếp thị phát hiện trước hết. Quan tâm hàng đầu của một xí nghiệp tư nhân là tiếp thị bán hàng. Sản xuất chỉ đóng vai trò là phương tiện để phục vụ mục đích đó, cho nên sản xuất luôn luôn được tối ưu hóa theo nhu cầu thị trường. Đấy là cơ chế tự điều chỉnh giữa sản xuất và phân phối bán hàng. Chế độ công hữu TLSX thì khác. Xí nghiệp phân phối không có nghiệm vụ báo cáo tình trạng thị trường cho xí nghiệp sản xuất, và ngược lại xí nghiệp sản xuất cũng không được phép thay đổi kế hoạch nếu không có lệnh từ cấp trên. Đường phản hồi từ thị trường về nơi sản xuất không tồn tại thì cơ chế tự điều chỉnh cũng không hoạt động được, hoặc nó cũng có thể được vận hành nhưng với một độ trì hoãn nhất định.
Thí dụ trên cắt nghĩa được tại sao các nước hoặc các ngành có tỉ lệ công hữu TLSX cao không phát triển nhanh bằng các nước hoặc các ngành có cùng điều kiện, khi nơi đó, chế độ tư hữu TLSX chiếm đa số. Nếu chúng ta quan sát vài ngành trong đó có nhiều loại sở hữu khác nhau, chúng ta đều thấy là tỉ lệ lợi nhuận các xí nghiệp tư nhân thường cao hơn so với các xí nghiệp sở hữu nhà nước hoặc tập thể có cùng điều kiện kinh doanh. Chúng ta hãy quan sát thêm các tập đoàn quốc doanh đang làm ăn thua lỗ. Khi nhà nước quyết định cổ phần hóa cho tư nhân thì tập đoàn đó thường vươn dậy trở lại sau một thời gian ngắn. Điều này chúng ta thấy rõ trong những ngành quen thuộc như ngân hàng, giao thông vận tải, sản xuất xe hơi v.v… ở khắp nơi trên thế giới.
Nói tóm lại, khi chấp nhận hoạt động trong nền kinh tế thị trường, tư hữu TLSX là nhân tố quan trọng hàng đầu để cơ chế hoạt động hữu hiệu.
Thừa nhận tư hữu TLSX ở mức độ lớn và rải đều cho nhiều người không những mang lại lợi ích cho những tư nhân đó, mà còn có lợi cho toàn xã hội và bảo đảm cơ chế cạnh tranh thị trường hoạt đông hữu hiệu. Nó bảo đảm rằng, đứng trước một nhu cầu tiêu thụ trong thị trường, tất yếu sẽ có nhiều xí nghiệp khác nhau độc lập quyết định sản xuất và nếu cần họ sẽ đầu tư thêm tư bản và cơ sở vật chất để tìm cách cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ mà xã hội đang cần với mức giá hợp lý[6]. Khi có nhiều xí nghiệp khác nhau hoạt động độc lập trong đó mọi thành viên đều bình đẳng như nhau và tôn trọng luật chơi đã thỏa thuận, thế quân bình về quyền lực kinh tế sẽ dễ dàng được xác lập, thị trường mở dần dần thành hình và nền kinh tế có xu hướng ổn định lâu dài.
Sự ích lợi cho toàn xã hội không chỉ hạn chế trong lượng hàng phong phú và giá cả tối ưu. Bản thân sự kiện có nhiều xí nghiệp cùng quyết định song song nhưng độc lập với nhau đã là một yếu tố kích thích sáng tạo và tiến bộ. Người chủ xí nghiệp thường trực đặt cho mình nhiệm vụ là phải luôn luôn quyết định đúng, chọn qui trình sản xuất phù hợp, giảm phế phẩm, khuyến khích công nhân, tổ chức sản xuất tối ưu hợp lý v.v… để cung cấp sản phẩm và dịch vụ có chất lượng cao, phí tổn sản xuất thấp và giá bán ra thị trường phù hợp với chờ đợi của giới tiêu thụ. Họ biết rõ rằng mỗi lần làm một quyết định sai lầm là họ phải trả giá bằng tài sản của chính mình. Không ngừng tiến bộ để tồn tại, đấy là tư tưởng của mọi người chủ xí nghiệp tư nhân. Những tính chất ấy chúng ta khó tìm thấy trong những xí nghiệp quốc doanh, nơi mà người giám đốc chỉ là công nhân viên lãnh lương nhà nước hàng tháng.
Thừa nhận quyền tư hữu TLSX còn có tác dụng thúc đẩy đầu tư cơ sở vật chất, tức là một dạng làm giàu cho xã hội. Thật khó hình dung một tập đoàn nào đó có thể bỏ ra hàng tỉ đô la để xây dựng cơ sở sản xuất trên một vùng đất mà họ không chắc rằng, các TLSX đó, kể cả nhà cửa và đất đai, sẽ vĩnh viễn thuộc quyền sở hữu của họ hay không. Nếu quyền này được thừa nhận bởi luật pháp, quyết định của họ sẽ dễ dàng hơn. Ở mức độ đầu tư thấp hơn như máy móc hoặc các phương tiện bình thường khác, hiệu ứng cũng tương tự như thế.
Ở các nước phát triển, quyền tư hữu TLSX được thừa nhận không hạn chế, thường được ghi trong hiến pháp và được qui định cụ thể trong các đạo luật kinh tế. Người sở hữu có quyền sử dụng, thay đổi, cho thuê, bán hoặc thậm chí phá hủy TLSX của mình, miễn sao những hoạt động đó không vi phạm qui định của luật pháp (chẳng hạn như không làm ô nhiễm môi trường). Quyền sở hữu không hạn chế TLSX sẽ giúp cho doanh nghiệp có thể tự ý quyết định và lập kế hoạch kinh doanh. Nếu quyền này bị một hạn chế nào đó, thí dụ đất đai chỉ được thuê chứ không thuộc quyền sở hữu chẳng hạn, thì một số nhà đầu tư sẽ ngần ngại và không sẵn sàng chấp nhận rủi ro trong quá trình hoạt động kinh tế của họ, từ đó các đầu tư quan trọng sẽ bị đẩy lùi về sau. Mọi hoạt động đều có tính chất ngắn hạn, ăn xổi ở thì.
Bây giờ chúng ta thử đặt câu hỏi: Liệu quyền tư hữu TLSX là một nhân tố luôn luôn bảo đảm cho trật tự cạnh tranh lành mạnh hay không? Rõ ràng là không luôn luôn. Hãy lấy một thí dụ: Khi một xí nghiệp tư nhân to lớn được xây dựng trong một thành phố nơi mà toàn bộ lao động không đủ để cung ứng cho nhu cầu nhân sự, xí nghiệp này sẽ trở thành kẻ độc quyền tiêu thụ trong thị trường lao động địa phương. Chúng ta khó mà tin cậy vào lòng tốt của những người đang nắm quyền lực kinh tế ghê gớm đó, họ sẽ tha hồ định đoạt mức lương công nhân mà không ai dám phản đối. Thế cạnh tranh lành mạnh trong thị trường lao động sẽ mất, đi kèm với những hệ lụy xã hội tất yếu của nó mà kẻ gánh chịu là người lao động. Một thí dụ thứ hai: Tập đoàn xe buýt A với một đội xe vĩ đại được phép hoạt động trong tỉnh B, nơi các xí nghiệp xe buýt nhỏ chỉ chiếm một phần không đáng kể so với A. Tập đoàn này sẽ nhanh chóng làm cho các xí nghiệp nhỏ phá sản và trở thành độc quyền cung cấp dịch vụ xe buýt. Chế độ cạnh tranh thị trường không còn, giá cả có thể tăng vọt, giờ giấc tùy tiện v.v… và kẻ hứng chịu mọi hệ lụy chính là người dân trong tỉnh B đang cần sử dụng dịch vụ này.
Cả hai hình thức độc quyền ở trên – độc quyền cung cấp khi thành viên tiêu thụ phụ thuộc vào kẻ cung cấp, cũng như độc quyền tiêu thụ khi kẻ cung cấp phụ thuộc vào thành viên tiêu thụ – đều dẫn đến quyền lực kinh tế vào trong tay một thiểu số rất nhỏ có khả năng thao túng thị trường mà kẻ thiệt thòi là đại đa số những người yếu thế.
Các nghiên cứu kinh tế đã chỉ ra rằng, tư hữu TLSX trong thế độc quyền trên thị trường sẽ sinh ra những thiệt hại trầm trọng cho xã hội. Các tập đoàn tư nhân sẽ sử dụng quyền lực kinh tế của mình để triệt hạ xí nghiệp cạnh tranh, áp đặt giá cả lên giới tiêu thụ và thẳng tay bóc lột nhân viên của họ. Khi quyền lực kinh tế này trở thành áp đảo thì nhà nước cũng bó tay khi tìm cách hạn chế thiệt hại[7]. Đấy là tình trạng các nước công nghiệp trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, khi mà nền kinh tế tư bản chủ nghĩa sơ khai còn trong giai đoạn được thả lỏng ( laissez-faire). Đời sống công nhân cùng cực, mất nhân phẩm và nếu chủ nghĩa tư bản cứ kéo dài như thế thì nó không xứng đáng được tồn tại và quyền tư hữu TLSX không đáng được bảo vệ.
Cuộc thay đổi bắt đầu từ đầu thế kỷ 20, được tiến hành triệt để trễ nhất là sau cuộc đại khủng hoảng 1930 và có nhiều cải tiến hiệu quả sau thế chiến II. Kể từ đây các nước phát triển, từ những nước cực lớn như Mỹ đến các nước tí hon như Luxemburg, đều nhận thức được rằng đã đến lúc chủ nghĩa tư bản mà họ theo đuổi hàng nhiều thế kỷ cần phải được thay đổi sâu sắc. Họ đã nhận thức được chỗ yếu của chính sách thả lỏng laissez-faire, đã thấm thía đâu là nguy cơ của quyền lực kinh tế. Chỉ vài thập niên sau, nước nào cũng có những cải tổ cơ cấu kinh tế mà quan trọng nhất là cải tổ hệ thống luật pháp để ngăn chận liên minh độc quyền trong hoạt động kinh tế cũng như nhiều đạo luật khác để xác lập cơ chế cạnh tranh lành mạnh trên thị trường. Một số nước khác thì đi xa hơn trong những chính sách xã hội có khả năng tạo dựng cho mỗi người một cuộc sống phồn vinh và bình đẳng như mọi người khác. Những cải cách các nước Bắc Âu rất đáng để tham khảo.
Vì vậy khi bàn về tư hữu TLSX để rút ra kết luận hòng đưa ra chính sách kinh tế phù hợp thì chúng ta phải bàn về quyền tư hữu trong giai đoạn từ giữa thế kỷ 20, khi mà trật tự thị trường đã thay đổi sâu sắc, chế độ cạnh tranh và mức độ liên minh độc quyền được giám sát một cách chặt chẽ bởi luật pháp và những cơ quan trung lập. Bàn tay quyền lực của nhà nước đã bị giới hạn, cũng như bàn tay thô bạo của những chủ nhân ông trong lợi thế độc quyền không còn sức mạnh tuyệt đối. Trong bối cảnh đó, quyền tư hữu TLSX vừa là thuộc tính của kinh tế thị trường, vừa là công cụ hữu hiệu để điều tiết thị trường đạt ổn định một cách bền vững. Và cũng chỉ trong bối cảnh đó chúng ta mới có thể quả quyết rằng, quyền tư hữu TLSX sẽ là động cơ thúc đẩy sáng tạo, tiến bộ, nâng cao đầu tư dài hạn, mang lại lợi ích cho xã hội mà kẻ hưởng lợi là thành phần lao động đông đảo.
Vì tầm quan trọng của tư hữu TLSX trong nền kinh tế thị trường cho nên chúng ta không lấy làm ngạc nhiên khi bộ trưởng kinh tế Ludwig Erhard của CHLB Đức thời hậu chiến và cộng sự của ông xem quyền tư hữu TLSX và tự do cạnh tranh là hai vấn đề trung tâm của chính sách kinh tế. Họ luôn luôn tìm cách tư hữu hóa các xí nghiệp thuộc sở hữu nhà nước hoặc công cộng, dưới hình thức bán đứt cho tư nhân, hoặc cổ phần hóa, trong đó nhà nước chỉ chiếm thiểu số. Nhiều xí nghiệp nhà nước đã được tư hữu hóa trong vòng 14 năm Ludwig Erhard làm bộ trưởng kinh tế. Lúc đầu ông đã gặp chống đối mãnh liệt từ phe dân chủ xã hội và công đoàn. Họ lo sợ rằng quyền lợi công nhân sẽ bị thiệt thòi, công bằng xã hội sẽ giảm sút. Trong thực tế điều đó không xảy ra. Ngược lại các xí nghiệp được tư hữu hóa hoạt động hữu hiệu hơn, nhà nước thu được nhiều thuế, công nhân nhận thêm tiền thưởng, mọi thành viên trong xã hội đều hưởng lây thành quả đó và có hàng triệu người trở thành chủ nhân ông tí hon (cổ phần viên) của xí nghiệp họ đang làm việc.
Việc tư hữu hóa đã giải quyết cho nhà nước nhiều mục đích cùng một lúc:
Thứ nhất, quyền lực kinh tế được phát tán cho nhiều nhà đầu tư nhỏ, tạo tiền đề cho chế độ cạnh tranh được lành mạnh hơn, đồng thời nó nâng cao ý thức kinh doanh cho mọi người. Khi tư hữu hóa một tập đoàn lớn, CHLB Đức đặc biệt chú ý đến việc giới hạn số lượng cổ phần tối đa của các thế lực tài chánh mạnh, và chú trọng đến chính sách bán cổ phần „cho mọi người”, nếu cần thì các biện pháp thực hiện việc tư hữu hóa một tâp đoàn quan trọng cần được qui định trong một đạo luật do quốc hội ban hành. Tư hữu hóa tập đoàn Volkswagen là thí dụ điển hình. Bằng cách làm này các thế lực kinh tế dần dần được đẩy lùi hoặc bị hạn chế, nâng cao tính cạnh tranh bình đẳng cho mọi thành viên nhất là các thành viên nhỏ yếu thế, qua đó cơ chế hoạt động thị trường càng được củng cố vững mạnh. Tư hữu hóa xí nghiệp nhà nước cũng là biện pháp xóa bỏ ưu đãi, xóa bỏ bao cấp tài chánh góp phần tăng thêm hiệu quả của cơ chế cạnh tranh lành mạnh giữa mọi thành viên, vốn dĩ là tiền đề quan trọng để kinh tế thị trường phát triển bền vững. Việc tư hữu hóa ở mức độ lớn còn giúp nhà nước thoát ra khỏi bận tâm hàng ngày về hoạt động kinh tế để có thể tập trung vào các nhiệm vụ cốt lõi khác.
Thứ hai, việc tư hữu hóa mang về cho nhà nước thêm vốn lúc bán cổ phần thay vì phải đi lấy nợ công để trang trải những dự án cần thiết khác. Trong thực tế những năm đầu hậu chiến thì CHLB Đức khó vay nợ từ ngoại quốc vì họ chưa tạo được niềm tin trên thị trường tài chánh thế giới, nhưng cũng vì thế dù muốn hay không họ phải tự thiết kế một chính sách tài chánh khá đặc thù so với các nước công nghiệp khác. Với thành công trong hai thập niên thần kỳ kinh tế, họ càng vững tin hơn và duy trì chính sách đó đến thế kỷ 21. Họ cho rằng, lấy nợ công hoặc chi tiêu thâm hụt[8] ngân sách để giải quyết thất nghiệp, kích thích tiêu thụ và nâng cao sản lượng kinh tế không phải là con đường duy nhất đúng đắn. Từ hậu chiến cho đến thế kỷ 21 ngày nay, tư tưởng chủ đạo của chính sách tài chánh Đức vẫn là giảm nợ công và cân bằng ngân sách, thậm chí điều này đã được qui định trong điều §115.2 của hiến pháp[9]. Mặc dù mọi phê phán của rất nhiều kinh tế gia thượng thừa thế giới, của Quĩ tiền tệ Quốc tế (IMF) cũng như phát biểu can thiệp của các nguyên thủ quốc gia Hoa Kỳ và châu Âu, chuyên gia Đức vẫn cương quyết đi theo con đường riêng của họ.
Thứ ba, đi kèm với chính sách thuế khoá, nâng đỡ xí nghiệp nhỏ và nhất là chính sách hạn chế quyền lực kinh tế các tập đoàn lớn, việc tư hữu hóa rộng khắp đã làm cho tinh thần người dân phấn chấn vì qua việc tư hữu hóa, nhà nước bày tỏ chính sách khuyến khích tư doanh. Những người có một ít vốn liếng và kỷ năng chuyên môn cao đã hăng hái lao vào sản xuất và kinh doanh, tạo ra một nguồn cung cấp mới cho xã hội mà nhà nước không làm được. Trong thực tế họ đã được lãnh phần thưởng xứng đáng. Chỉ cần một ít vốn, sáng kiến và dũng cảm là họ có thể nhanh chóng giàu có và góp phần không nhỏ vào quá trình phát triển công nghệ hiện đại, nhất là trong các khu vực dịch vụ cho giới tiêu thụ riêng lẻ. Cho đến thập niên 1980, chúng ta vẫn còn được xem trên truyền hình lịch sử thành công của những người khởi nghiệp hậu chiến bằng hai bàn tay không trong mọi ngành và sau vài thập niên họ trở thành tỉ phú với xí nghiệp có hàng ngàn chi nhánh khắp nơi[10].
Thứ tư, tư hữu hóa làm cho bộ máy hành chính nhẹ nhàng[11] và minh bạch hơn ( transparent). Điều này thể hiện rõ qua tỉ lệ chi phí ngân sách trên tổng sản lượng quốc gia giảm xuống. Đấy là tiền đề rất quan trọng để nâng cao niềm tin của thị trường tài chánh quốc tế đối với nhà nước, nhờ thế CHLB Đức vay được ngoại tệ vốn dĩ là nguồn tư bản sống còn để họ có thể nhập khẩu hàng hóa nhất là nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất hàng tiêu dùng trong nước cũng như tái xuất khẩu.
Thứ năm, việc tư hữu hóa các tập đoàn nhà nước làm cho việc quản lý được hiệu quả hơn. Ban giám đốc điều hành – theo luật xí nghiệp cổ phần – được đại hội cổ đông bầu chọn theo nguyên lý cạnh tranh lành mạnh trên thị trường lao động tự do, chứ không phải được chỉ định bởi các cơ quan chủ quản vốn dĩ mang tính thiên vị, khi ban giám đốc được chọn lựa theo tiêu chẩn chính trị trung thành với chế độ hơn là tiêu chuẩn năng lực quản lý kinh tế.
Cả chủ nghĩa tư bản sơ khai thời kỳ thả lỏng ( laissez-faire) thế kỷ 19 và kinh tế thị trường thời hiện đại đều dựa trên những nguyên lý giống nhau: ấy là quyền tư hữu tư liệu sản xuất, là tự do cạnh tranh lành mạnh trên thị trường, là điều tiết tự nhiên giữa cung và cầu để phát sinh giá cả. Có khác nhau chăng là mức độ can thiệp của nhà nước trong chính sách kinh tế, can thiệp gì và can thiệp như thế nào v.v…Nhận thức được rằng căn bịnh quyền lực kinh tế là nguồn gốc phát sinh nhiều hệ lụy xã hội của chủ nghĩa tư bản tự do thả lỏng, những người theo mô hình Kinh tế Thị trường Xã hội của CHLB Đức điều chỉnh căn bịnh ấy bằng cách phát tán quyền lực kinh tế trên thị trường cho nhiều thành viên nhỏ có điều kiện cạnh tranh lẫn nhau một cách lành mạnh, từ đó tạo nên hoạt động cân đối trên thị trường để nền kinh tế quốc gia phát triển và ổn định. Trên cơ sở quyền tư hữu được công nhận và bảo vệ, thành phần tư doanh ngày càng chiếm tỉ trọng cao hơn. Đến đầu thế kỷ 21 thì thành phần kinh tế tư doanh đóng vai trò chủ đạo. Nhà nước chỉ nắm quyền sở hữu trong một số lĩnh vực mà tư nhân không muốn tham gia, hoặc trong một số lĩnh vực công nghiệp đặc biệt như quốc phòng, an ninh.
Trên góc nhìn về quyền tư hữu tư liệu sản xuất, Việt Nam rõ ràng còn theo đuổi những mục đích khác rất mâu thuẫn với những nguyên lý chủ đạo của kinh tế thị trường. Thông thường, tư duy kinh tế của chuyên gia đã được định hình từ giai đoạn họ còn là sinh viên, nhất là khi họ bắt đầu chọn đề tài làm luận án ra trường. Chuyên gia Việt Nam thì được đào tạo trong luồng tư tưởng kinh tế chính trị Marx-Lenin, cho nên hiểu biết về các nguyên lý chủ đạo của kinh tế thị trường rất hạn chế, thậm chí rất lệch lạc theo quan điểm Marx-Lenin. Vả lại, như vị tổ phụ của lý thuyết kinh tế thị trường – kinh tế gia và triết gia Adam Smith người Scotland – đã chỉ ra từ cuối thế kỷ 18, các nguyên lý của kinh tế thị trường được xây dựng trên nền tảng tôn trọng tự do toàn diện cho con người trong xã hội. Cho nên, để vận dụng thành công các nguyên lý đó vào hoàn cảnh thực tế, người hoạch định chính sách kinh tế cần xem “tự do toàn diện cho mọi công dân” là nền tảng quan trọng cần được chú ý ưu tiên để đi tìm phương hướng. Nếu không, chính sách dễ rơi vào tình trạng mâu thuẩn nội tại khó tìm được lối ra khi sự cố trên thị trường bắt đầu xuất hiện.
Sau thời kỳ đổi mới, nhiều cá nhân có cố gắng tự tìm hiểu để nâng cao kiến thức, nhưng đó chỉ là cố gắng cá nhân riêng lẻ, chứ nhà nước vẫn chưa có một chính sách cương quyết về nghiên cứu và đào tạo các tư tưởng kinh tế hiện đại ngoài luồng chính thống Marx-Lenin. Vì thế, việc vận dụng các nguyên lý cốt lõi về kinh tế thị trường không tránh khỏi lệch lạc, thậm chí có lúc rất “phi thị trường”. Điều này làm cho nền kinh tế không phát huy hết tiềm lực của nó. Mức tăng trưởng hàng năm 6-7% là con số ấn tượng, nhưng Việt Nam còn quá nghèo, cho nên mức tăng trưởng đó vẫn không đủ để rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa Việt Nam và các nước trong khu vực, hơn thế nữa, khoảng cách ngày càng xa. Các điều khoản trong hiến pháp về sở hữu đất đai (điều §54) hoặc kinh tế nhà nước là chủ đạo (điều §51) đi ngược lại nguyên lý hoạt động của thị trường. Chúng là những vật cản trong công cuộc phát triển. Đấy là chưa kể, “sở hữu toàn dân” về đất đai là một khái niệm mơ hồ, dễ sinh lạm dụng, cướp đoạt và những hậu quả chính trị khó lường. Đồng Tâm, Thủ Thiêm là những bài học cho những người soạn thảo luật pháp. Hy vọng những vật cản ấy sẽ sớm được dẹp đi. Thay đổi hiến pháp là việc ưu tiên cần làm để mở đường, sớm ngày nào thì dân được hưởng ngày đó. Có như thế, nền kinh tế thị trường của quốc gia mới hy vọng được thăng hoa.
Nội dung bài viết này đã được cập nhật và rút từ tác phẩm „Thần kỳ kinh tế Tây Đức giai đoạn 1949-1969. Lịch sử – Lý thuyết – Chính sách” Nhà Xuất Bản Tri Thức, liên kết với Phương Nam, ISBN 978-604-943-8127. Một số thuật ngữ chuyên môn có ghi chú tiếng Đức, đôi lúc có tiếng Anh. Tiếng Đức là gốc và chính xác. Nếu dịch sang tiếng Việt hoặc Anh không đúng, xin quí vị lượng thứ và cho biết để hiệu đính lại.
Tự do và trật tự trong kinh tế thị trường (Sưu tầm và biên tập bởi Ernst-Joachim Mestmäcker)Freiheit und Ordnung in der Marktwirtschaft ISBN 3-7890-0492-8
Eucken, WalterNhững luận đề cơ bản về chính sách kinh tếGrundsätze der Wirtschaftspolitik ISBN 31-6345-548-4
Friedman, MiltonChủ nghĩa tư bản và tự do Capitalism and Freedom Bản dịch tiếng Đức Kapitalismus und Freiheit bởi Paul C. Martin ISBN 3-492-23962-5
Grosser, Dieter và Thomas Lange, Andreas Müller-Armack, Beate NeussKinh tế thị trường xã hội: Lịch sử – Khái niệm – Hiệu suấtSoziale Marktwirtschaft. Geschichte – Konzept – Leistung ISBN 31-7010-004-1
Müller-Armack, AlfredĐiều khiển kinh tế và kinh tế thị trườngWirtschaftslenkung und Marktwirtschaft ISBN 39-2459-228-4
Phồn vinh các quốc gia – Khảo sát bản chất và nguồn gốcAn Inquiry into the nature and cause of the wealth of nations ISBN 978-01-9283-546-8 hoặc 01-9283-546-7
[1] Xem tài liệu [11] trang 85, O. Schlecht.
[2] Xem tài liệu [3] trang 270, W. Eucken
[3] Xem tài liệu [3] trang 271, W. Eucken
[4] Xem tài liệu [10] trang 199, H-R Peters
[5] Có thị trường nào mà không có sự cố bất thường? Lý thuyết kinh tế chỉ cho chúng ta rằng, cung và cầu luôn luôn thay đổi theo thời gian, cho nên việc điều tiết sản xuất (cung cấp) để đạt một quan hệ tối ưu với thị trường (tiêu thụ) là yếu tố then chốt của thành công.
[6] Xem tài liệu [6] trang 156-159, R. Hasse (Heinrich Höfer: Eigentum)
[7] Xem tài liệu [3] trang 272-273, W. Eucken
[8] Defizitäre Staatsausgabe – Deficit spending
[9] Điều §115.2 của Bộ luật Cơ bản (hiến pháp): „Chi thu ngân sách về căn bản phải được cân bằng mà không cần lấy tín dụng. Nguyên tắc này cho phép [nhà nước] lấy tín dụng nếu nó không vượt quá 0,35 phần trăm tổng sản lượng quốc gia hàng năm…”. Qua thời gian, tỉ lệ 0,35% có lúc được quốc hội đồng ý thay đổi theo nhu cầu, nhưng tinh thần chung của hiến pháp vẫn giữ nguyên.
[11] Thuật ngữ thường dùng trong quản lý xí nghiệp là „slim management”.
Cơ Sở Lý Luận Về Công Tác Quản Lý Sản Xuất
Quản lý sản xuất là một công cụ quan trọng, hữu hiệu để doanh nghiệp xây dựng chiến lược phát triển sản xuất của mình và trong đó việc lập kế hoạch sản xuất của doanh nghiệp đóng góp một phần quan trọng vào thành công của doanh nghiệp.
1. Khái niệm về sản xuất và quản trị sản xuất
Sản xuất (tiếng Anh: production) hay sản xuất của cải vật chất là hoạt động chủ yếu trong các hoạt động kinh tế của con người. Sản xuất là quá trình làm ra sản phẩm để sử dụng, hay để trao đổi trong thương mại. Quyết định sản xuất dựa vào những vấn đề chính sau: sản xuất cái gì?, sản xuất như thế nào?, sản xuất cho ai?, giá thành sản xuất và làm thế nào để tối ưu hóa việc sử dụng và khai thác các nguồn lực cần thiết làm ra sản phẩm?
Theo kinh tế chính trị Mac-Lênin có ba yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất là sức lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động.
Sức lao động: Là tổng hợp thể lực và trí lực của con người được sử dụng trong quá trình lao động. Sức lao động mới chỉ là khả năng của lao động còn lao động là sự tiêu dùng sức lao động trong thực hiện.
Tư liệu lao động: Là một vật hay các vật làm nhiệm vụ truyền dẫn sự tác động của con người lên đối tượng lao động, nhằm biến đổi đối tượng lao động thành sản phẩm đáp ứng nhu cầu của con người. Tư liệu lao động lại gồm bộ phận trực tiếp tác động vào đối tượng lao động theo mục đích của con người, tức là công cụ lao động, như các máy móc để sản xuất), và bộ phận trực tiếp hay gián tiếp cho quá trình sản xuất như nhà xưởng, kho, sân bay, đường xá, phương tiện giao thông. Trong tư liệu lao động, công cụ lao động giữ vai trò quyết định đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm.
Quá trình sản xuất là hoạt động có ích của con người trên cơ sở sử dụng có hiệu quả đất đai, vốn, thiết bị máy móc, các phương pháp quản lý và công cụ lao động tác động lên các yếu tố như nguyên vật liệu, bán thành phẩm (đối tượng lao động và biến các yếu tố đầu vào thành sản xuất hoặc dịch vụ phù hợp với nhu cầu của xã hội).
Trong các yếu tố lao động, nguyên vật liệu, bán thành phẩm, thiết bị máy móc, nhà xưởng, đất đai, vốn, quản lý, thì lao động và quản lý là các yếu tố quan trọng nhất, chịu nhiều tác động nhất. Quá trình sản xuất là tập hợp quá trình lao động và quá trình tự nhiên cần thiết. Quá trình lao động là quá trình biến đổi các yếu tố đầu vào dưới tác động trực tiếp của người lao động, của thiết bị máy móc dưới sự điều khiển của người lao động. Quá trình tự nhiên là quá trình làm thay đổi các tính chất cơ, lý, hoá của đối tượng lao động dưới tác động của các điều kiện tự nhiên như độ ẩm, nhiệt độ, ánh sáng,…
Có rất nhiều tiêu thức phân loại sản xuất:
Dựa vào tính liên tục của quá trình sản xuất: Sản xuất dán đoạn, sản xuất liên tục, sản xuất hỗn hợp (vừa có giai đoạn gián đoạn, vừa có phân kỳ).
Dựa vào kết cấu sản phẩm cuối cùng chia làm ba loại: sản xuất hội tụ, sản xuất phân kỳ và dạng trung gian – hỗn hợp.
Dựa vào tính tự chủ của quá trình: Sản xuất tự chủ hoàn toàn: có đủ các giai đoạn thiết kế, sản xuất)
Sản xuất với mức tự chủ trung: Không có thiết kế, chỉ sản xuất theo các yêu cầu của các hợp đồng – sản xuất theo hình thức thầu, tuy nhiên tự chủ trong khâu tổ chức thực hiện sản xuất
Sản xuất với mức tự chủ thấp: Sản xuất theo hình thức gia công, hạn chế tự chủ trong cả khâu sản xuất, nguyên vật liệu, máy móc thiết bị nhiều khi phải được bên doanh nghiệp thuê gia công giao cho.
Dựa vào số lượng sản phẩm và tính chất lặp lại, có 3 dạng sản xuất sau: S ản xuất đơn chiếc, đại trà, theo lô. Đối với tổ chức sản xuất thì cách phân loại này là một trong các cách phân loại quan trọng nhất
Sản xuất đơn chiếc: Sản xuất theo từng chiếc, đa dạng về chủng loại, ít hoặc không có tính lặp lại
Sản xuất đại trà: Chủng loại sản phẩm ít, có số lượng sản xuất mỗi loại lớn, quá trình sản xuất mang tính lặp lại cao.
Sản xuất theo lô: Là dạng trung gian giữa sản xuất đơn chiếc và sản xuất đại trà, chủng loại sản phẩm tương đối nhiều nhưng số lượng mỗi loại trung bình, quá trình sản xuất lặp lại theo chu kỳ
1.3. Khái niệm quản lý sản xuất
Lưu đồ quá trình sản xuất
Quản lý sản xuất là quản lý quá trình biến các yếu tố đầu vào nguyên vật liệu, thiết bị máy móc, đất đai (vật lực), lao động(nhân lực), vốn(tài lực) và quản lý thành hàng hoá và dịch vụ mong muốn.
Quản lý sản xuất một doanh nghiệp bắt đầu ngay khi doanh nghiệp đó xuất hiện. Nói cách khác quản lý sản xuất có cùng tuổi đời với doanh nghiệp. Vì sao con người ta nói đến quản lý sản xuất ngày càng nhiều ?
Câu trả lời là: Luôn có sự thay đổi về điều kiện và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Nghiên cứu sự thay đổi của môi trường cạnh tranh vài chục năm trở lại đây, người ta chia ba giai đoạn trong sự biến đổi của môi trường doanh nghiệp.
Giai đoạn 1: Là giai đoạn có sự tăng nhanh của sản xuất va thị trường, lợi nhuận cao, cung thấp hơn cầu. Phương châm của doanh nghiệp trong giai đoạn này là “sản xuất rồi bán”. Các đặc điểm chủ yếu của sản xuất ở giai đoạn này là : Sản xuất với số lượng tối ưu, dự trữ hợp lý bán thành phẩm giữa các nơi làm việc, sản xuất theo loạt, chu kỳ lỳ sản xuất cố định, quản lý thủ công. Khi cung cầu cân bằng chúng chuyển sang giai đoạn thứ hai.
Giai đoạn 2: là giai đoạn khách hàng có sự lựa chọn người cung cấp (người bán). Ở giai đoạn này phương châm của các nhà sản xuất là “Sản xuất những gì sẽ bán được”. Cần phải có các dự báo thương mại, tự chủ hoạt động sản xuất, tố chức tốt dự trữ giá thành sản phẩm và vật tư, thanh toán nhanh các khoản tồn đọng, tuân thủ kỳ hạn.
Giai đoạn 3: Từ giai đoạn 2 thị trường nhanh chóng chuyển sang giai đoạn 3, ở đó tồn tại một lượng cung dư (cung lớn hơn cầu): một sự cạnh tranh thực sự giữa các doanh nghiệp trước sự chứng kiến của những khách hàng khó tính. Sự cạnh tranh đòi hỏi phải tự “chế ngự” được chi phí sản xuất, đòi hỏi chất lượng sản phẩm tốt, thời gian cung cấp sản phẩm nhanh, độ tin cậy lớn. Sản xuất loạt nhỏ là đặc điểm nổi bật của giai đoạn này. Chu kỳ sống của sản phẩm được rút ngắn đòi hỏi phải luôn luôn đổi mới sản xuất. Doanh nghiệp phải có sự thích ứng nhanh với mọi sự biến đổi về kết cấu sản phẩm và kỹ thuật sản xuất. Doanh nghiệp có xu hướng “Sản xuất nhưng gì bán đựơc”- sản xuất theo đơn đặt hàng.
Trong giai đoạn này mối lo của các doanh nghiệp là chiến lược sản xuất phải thích ứng với sự biến đổi của môi trường và kiểm tra chính xác quá trình quản lý. Hơn nữa phát hiện sớm các mâu thuẫn giữa giá – chất lượng, giữa giá loạt nhỏ…và cần phải có sự thoả hiệp mâu thuẫn đó để nhận được sự phù hợp chung..
Quản lý sản xuất: (theo bài giảng- Tóm lược môn quản lý sản xuất – Đại học Bách Khoa Hà Nội- TS.Trần Bích Ngọc)
Định nghĩa 1 (Xét trên quan điểm hệ thống): Quản lý sản xuất là quản lý các đối tượng, các quá trình của hệ thống sản xuất nhằm đạt được các mục tiêu để ra của hệ thống sản xuất.
Định nghĩa 2 (Xét trên quan điểm quá trình quản lý): Quản lý sản xuất là quá trình thiết kế, hoạch định, tổ chức điều hành, kiểm tra hệ thống sản xuất nhằm thực hiện những mục tiêu sản xuất đã đề ra.
Định nghĩa 3 (Là môn khoa học quản lý): Quản lý sản xuất là môn khoa học nghiên cứu về quản lý các quá trình sản xuất ra sản phẩm, dịch vụ.
Định nghĩa 4 (Là quá trình ra các quyết định quản lý): Quản lý sản xuất là quá trình ra các quyết định quản lý trong lĩnh vực sản xuất và đảm bảo các biện pháp thực hiện chúng
Quản lý sản xuất nhằm đạt các mục tiêu:
Xuất phát từ mục tiêu tổng quát của doanh nghiệp: Thu lợi thông qua thỏa mãn nhu cầu thị trường về hàng hóa và dịch vụ của mình, từ đó có một số mục tiêu cụ thể của quản lý sản xuất: Đảm bảo chất lượng sản phẩm và dịch vụ:
Sản phẩm và dịch vụ sản xuất ra phải phù hợp với những tiêu chuẩn được đặt ra khi thiết kế và phải phù hợp với nhu cầu của khách hàng về số lượng, chất lượng, chủng loại. Chất lượng có thể được đánh giá bằng các tiêu chuẩn đặt ra từ bên ngoài doanh nghiệp và bằng chính nhưng tiêu chuẩn do doanh nghiệp đặt ra. Mức chất lượng cũng có thể đánh giá so với sản phẩm/dịch vụ của các đối thủ cạnh tranh.
Bảo đảm đúng thời gian và rút ngắn thời gian giao hàng: Trong sự cạnh tranh của thị trường ngày nay, ba nhân tố: thời gian giao hàng, chất lượng và giá cả là nhân tố quyết định sự thành công của việc đáp ứng nhu cầu đặt hàng. Nếu như doanh nghiệp có thể đưa ra sản phẩm mà khách hàng cần, đáp ứng được nhu cầu về giá cả nhưng không đáp ứng được yêu cầu về giá cả nhưng không đáp ứng được thời gian giao hàng như mong muốn thì khách hàng cũng sẽ không đặt mua hàng cho doanh nghiệp. Thêm vào đó, nếu như coi chất lượng là yếu tố quyết định trước tiên thì trong rất nhiều trường hợp, điều kiện thời gian giao hàng là điều kiện quyết định quan trọng so với điều kiện về giá cả.
Mấu chốt của việc rút ngắn thời gian giao hàng là rút ngắn chu kỳ sản xuất. Chu kỳ sản xuất là thời gian từ khi đưa ra lệnh sản xuất cho đến khi đến khi sản xuất ra sản phẩm đạt tiêu chuẩn và giao hàng đi. Muốn rút ngắn chu kỳ sản xuất bắt buộc hải rút ngắn các yếu tố các yếu tố tạo nên nó- đó chính là thời gian thiết kế, ký hạn cung cấp nguyên liệu và quá trình sản xuất. Xét về mặt đảm bảo thời gian giao hàng, điều quan trọng là phải làm cho chu kỳ sản xuất không vượt quá thời gian giao hàng theo yêu cầu bình quân của khách hàng.
Sản xuất như là một hệ thống là hướng nghiên cứu chủ đạo trong quản trị sản xuất ngày nay:
(nguồn : http://www.diendanquantri.com/quantri,1,1264,print.htm)
Russel Ackoff nhà tiên phong trong lý thuyết hệ thống, mô tả hệ thống như sau: Hệ thống là một tổng thể không thể chia nhỏ được mà không làm cho nó mất đi những nét đặc trưng, và vì thế nó phải được nghiên cứu như là một tổng thể.
Hệ thống sản xuất tiếp nhận đầu vào ở các hình thái như nguyên vật liệu, nhân sự, tiền vốn, các thiết bị, các thông tin… Những yếu tố đầu vào này được chuyển đổi hình thái trong hệ thống để tạo thành các sản phẩm hoặc dịch vụ theo mong muốn, mà chúng ta gọi là kết quả sản xuất. Một phần của kết quả quản lý bởi hệ thống quản lý để nhằm xác định xem nó có thể được chấp nhận hay không về mặt số lượng, chi phí và chất lượng. Nếu kết quả là chấp nhận được, thì không có sự thay đổi nào được yêu cầu trong hệ thống; nếu như kết quả không chấp nhận được, các hoạt động điều chỉnh về mặt quản lý cần phải thực hiện
Yếu tố đầu vào:
Các nhân tố ngoại vi: nói chung là các thông tin đặc trưng và có xu hướng cung cấp cho các nhà quản trị về các điều kiện bên ngoài hệ thống nhưng có ảnh hưởng đến hệ thống.
Điều kiện về kinh tế:
Nhân tố kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp đối với sự thu hút tiềm năng của các chiến lược khác nhau. Chẳng hạn nếu như lãi suất tăng lên thì số vốn cần cho việc đa dạng hóa sẽ quá đắt hoặc không có sẵn. Hay là, khi lãi suất tăng lên thì số thu nhập sử dụng được tùy thích sẽ giảm đi và nhu cầu sản phẩm để sử dụng tùy thích cũng giảm. Khi giá cổ phiếu tăng lên, sự mong muốn có cổ phần như là nguồn vốn để phát triển thị trường sẽ tăng lên. Như vậy, khi thị trường tăng trưởng thì của cải của người tiêu thụ và doanh nghiệp tăng lên.
Các biến số kinh tế quan trọng cần theo dõi.
Những chính sách tiền tệ, khả năng cung cấp tín dụng, lãi suất.
Giá trị của đồng tiền trên thị trường, tỷ lệ lạm phát, tỷ giá hối đoái.
Thâm hụt ngân sách của chính phủ.
Thu nhập bình quân trên đầu người, xu hướng thất nghiệp.
Các chính sách thuế khóa, qui định về xuất nhập khẩu.
Điều kiện về nhân khẩu, địa lý, văn hóa, xã hội.
Các yếu tố nhân khẩu, địa lý, văn hóa, xã hội chủ yếu
Tỷ lệ sinh, tỷ lệ chết, tỷ lệ di dân và nhập cư.
Mức học vấn trung bình, lối sống, các mối quan tâm đối với vấn đề đạo đức.
Vai trò của giới tính, thói quen mua hàng.
Thái độ đối với việc tiết kiệm, đầu tư và công việc.
Môi trường và kiểm soát ô nhiễm môi trường.
Khía cạnh chính trị, luật pháp của quốc gia
Các yếu tố chính trị, chính phủ, luật pháp có thể cho thấy các vận hội và mối đe dọa chủ yếu đối với các tổ chức nhỏ và lớn. Đối với các ngành và những công ty phải phụ thuộc rất nhiều vào các hợp đồng hoặc trợ cấp của chính phủ, những dự báo về chính trị có thể là phần quan trọng nhất của việc kiểm tra các yếu tố bên ngoài. Sự thay đổi về bằng sáng chế, luật chống độc quyền, thuế suất và các nhóm gây sức ép ngoài hành lang có thể ảnh hưởng rất nhiều đến các công ty. Sự lệ thuộc lẫn nhau mỗi lúc một tăng lên trên phạm vi toàn quốc giữa các nền kinh tế, thị trường, chính phủ và tổ chức đòi hỏi công ty phải xem xét đến ảnh hưởng có thể có của các biến số chính trị đối với việc soạn thảo và thực hiện các chiến lược cạnh tranh.
Các biến số chính trị, chính phủ và luật pháp quan trọng
Các thay đổi của Luật thuế
Các qui định xuất nhập khẩu, thuế xuất nhập khẩu đặc biệt
Số lượng các bằng sáng chế, phát minh
Luật bảo vệ môi trường; Luật chống độc quyền.
Mức trợ cấp của chính phủ; mức chi tiêu cho quốc phòng.
– Khía cạnh kỹ thuật
Những thay đổi và phát minh kỹ thuật mang lại những đổi thay to lớn như kỹ thuật siêu dẫn, kỹ thuật điện toán, người máy, những nhà máy không người, truyền thông không gian, những mạng lưới vệ tinh, sợi quang… Các ảnh hưởng của công nghệ cho thấy những cơ hội và mối đe dọa mà chúng ta phải được xem xét trong việc soạn thảo chiến lược. Sự tiến bộ kỹ thuật có thể tác động sâu sắc lên những sản phẩm dịch vụ, thị trường, nhà cung cấp, nhà phân phối, người cạnh tranh, khách hàng, quá trình sản xuất, thực tiễn tiếp thị và vị thế cạnh tranh của tổ chức.
Tiến bộ kỹ thuật có thể tạo ra những thị trường mới, kết quả là sự sinh sôi của những sản phẩm mới mẽ và được cải tiến thay đổi những vị trí giá cả cạnh tranh có quan hệ trong một ngành, khiến cho những sản phẩm và dịch vụ hiện có trở nên lỗi thời. Hiện nay, không có công ty hay ngành công nghiệp nào tự cách ly với những phát triển công nghệ đang xuất hiện. Trong công nghệ kỹ thuật cao, sự nhận dạng và đánh giá những cơ hội và mối đe dọa mang tính công nghệ trọng yếu có thể là phần quan trọng nhất của việc kiểm soát các yếu tố bên ngoài trong hoạt động quản lý chiến lược.
Các câu hỏi chủ yếu thường đặt ra khi đánh giá môi trường công nghệ
Các công nghệ bên trong công ty là gì?
Các công nghệ nào được sử dụng trong việc kinh doanh của công ty?
Trong sản phẩm?
Mỗi công nghệ có tầm quan trọng thiết yếu như thế nào đối với mỗi sản phẩm và hoạt động kinh doanh?
Những công nghệ nào được quan tâm bao gồm trong việc sản xuất các sản phẩm và nguyên vật liệu mua để sử dụng?
Yếu tố đầu ra: Là sản phẩm được sản xuất từ hệ thống, thường có hai hình thức: sản phẩm trực tiếp và sản phẩm không trực tiếp. Một số lớn sản phẩm (trực tiếp) được sản xuất hàng ngày và các sản phẩm (không trực tiếp) được phát sinh ra từ hệ thống.
Điều lưu ý là chúng ta thường bỏ qua các loại sản phẩm không trực tiếp của hệ thống như: Thuế khóa, các loại chất thải và gây ô nhiễm môi trường, các hoạt động cộng đồng. Mặc dù chúng không nhận được sự lưu tâm như là các kết quả về sản phẩm hay dịch vụ tạo ra doanh thu giúp cho hệ thống sản xuất tồn tại.
Các quyết định trong quản trị sản xuất
Theo kinh nghiệm của các nhà quản trị thường phân các quyết định thành 3 loại chính: Các quyết định về chiến lược, quyết định về hoạt động và quyết định về quản lý.
Các quyết định về chiến lược: Quyết định về sản phẩm, qui trình sản xuất, phương tiện sản xuất. Đây là quyết định có tầm quan trọng chiến lược có ý nghĩa lâu dài cho tổ chức. Những quyết định này đòi hỏi tất cả nhân viên trong các khâu từ sản xuất, nhân sự, kỹ thuật, Marketing và tài chính đều phải làm việc cùng nhau để nghiên cứu các cơ hội kinh doanh một cách cẩn thận, nhằm đưa ra một quyết định đặt các tổ chức vào vị trí tốt nhất để đạt được mục tiêu dài hạn:
Quyết định xem có nên thực hiện dự án phát triển sản phẩm mới hay không?
Quyết định về việc thiết lập qui trình sản xuất cho sản phẩm mới.
Quyết định cách thức phân phối nguồn nguyên vật liệu khan hiếm, các tiện ích, khả năng sản xuất và nhân sự giữa các cơ hội kinh doanh mới và hiện có.
Quyết định về việc xây dựng thêm nhà máy mới và nơi đặt chúng.
Quyết định xem cần có bao nhiêu dự trữ dùng cho sản xuất.
Quyết định số lượng và loại sản phẩm sẽ được sản xuất trong thời gian tới.
Quyết định là có nên gia tăng năng lực sản xuất vào thời gian tới hay không? Bằng cách nào? Cho công nhân làm ngoài giờ hoặc là cho các nhà cung ứng thực hiện một phần khối lượng sản phẩm của công ty?
Quyết định chi tiết về việc mua nguyên vật liệu để đáp ứng nhu cầu cho sản xuất trong thời gian tới.
Quyết định tiêu chuẩn về quản lý chất lượng cho những sản phẩm có sự thay đổi trong bảng thiết kế.
Quyết định số lần bảo trì ngăn chặn hỏng hóc của máy móc sản xuất.
Các quyết định hàng ngày về công nhân, chất lượng sản phẩm, máy móc dùng cho sản xuất, khi được thực hiện cùng với nhau sẽ là một khía cạnh lớn trong công việc của các nhà quản lý tác nghiệp. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản trị sản xuất và dịch vụ hiện nay
Có 5 nhân tố chính ảnh hưởng quản trị sản xuất và dịch vụ hiện nay: Chất lượng, dịch vụ khách hàng và các thách thức về chi phí. Sự phát triển nhanh chóng của các kỹ thuật sản xuất tiên tiến. Sự tăng trưởng liên tục của khu vực dịch vụ. Sự hiếm hoi của các tài nguyên cho sản xuất.
Nếu bạn đang gặp khó khăn hay vướng mắc về viết luận văn, khóa luận hay bạn không có thời gian để làm luận văn vì phải vừa học vừa làm? Kỹ năng viết cũng như trình bày quá lủng củng?… Vì vậy bạn rất cần sự trợ giúp của dịch vụ viết luận văn thuê. Hãy gọi ngay tới tổng đài tư vấn luận văn 1080 – 096.999.1080 nhận viết luận văn theo yêu cầu, đảm bảo chuẩn giá, chuẩn thời gian và chuẩn chất lượng, giúp bạn đạt được điểm cao với thời gian tối ưu nhất mà vẫn làm được những việc quan trọng của bạn.
2. Các chức năng quản lý sản xuất
Hoạch định và kiểm soát công việc là hai chức năng cơ bản của bất kỳ một nhà quản lý nào, phải quyết định mình muốn đạt được điều gì, và sau đó lập kế hoạch để biến những mong muốn của mình thành hiện thực. Hiểu được các giai đoạn trong quy trình kiểm soát công việc, mới có thể sử dụng nguồn lực với hiệu suất cao hơn và tăng cường chất lượng của sản phẩm, dịch vụ mà mình cung cấp
2.1. Quản lý kế hoạch sản xuất
Mô hình dự báo: Theo “Journal of Business Forecasting Methods & Systems”, có ba mô hình hệ thống dự báo kinh doanh. Trong hệ thống chuỗi thời gian, dữ liệu chỉ đơn thuần được dự báo trên cơ sở phương pháp đã được thiết lập trước. Phương pháp này căn cứ vào các chỉ số trung bình trượt, chỉ số trung bình, chỉ số biến đổi, chỉ số phân tích của tình hình kinh doanh trước đó và mô hình ARIMA (của Box-Jenkin, dùng thuật toán phân tích các dữ liệu của từng thời điểm trong quá khứ làm căn cứ để tính toán và dự báo). Rõ ràng, mô hình dự báo theo chuỗi thời gian là phương tiện hữu dụng nhất cho công tác dự báo khi các dữ liệu quá khứ được đưa vào công thức một cách ổn định và không bị xáo trộn.
Mô hình dự báo thứ hai là dựa vào mối quan hệ nhân – quả. Ở mô hình này cần đưa ra giả thiết về nguyên nhân, đó chính là động lực – yếu tố quyết định kết quả kinh doanh. Ví dụ một doanh nghiệp có thể đưa ra giả thiết rằng, căn cứ trên dữ liệu có được thì nguyên nhân là cần phải đầu tư vào công nghệ thông tin, và kết quả là khả năng bán hàng. Tóm lại, dự báo dựa trên mối quan hệ nhân quả được coi là ổn định một cách tương đối và dễ dàng cho việc xác định số lượng sản phẩm cần sản xuất.
2.1.2. Lập kế hoạch sản xuất
Trước khi tiến hành hoạt động con người thường có những ý kế hoạch trong đầu hoặc cả một bản kế hoạch chính thức được trình bày một cách bài bản. Để có kế hoạch, con người phải lập kế hoạch. Người ta có thể dùng thuật ngữ lập (lên) kế hoạch, hoạch định hoặc kế hoạch hóa Công tác kế hoạch hóa trong doanh nghiệp bao gồm hai mặt: lập ra kế hoạch hoạt động và tổ chức thực hiện kế hoạch đó. Công tác kế hoạch hóa trong doanh nghiệp chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong hoạt động kinh doanh và trong mọi hoạt động khác của con người. Bởi vì nếu không có kế hoạch trước thì con người ta không thể thực hiện bất cứ việc gì có hiệu quả cao được [7,tr27] Lập kế hoạch sản xuất là một phạm trù trong lập kế hoạch nói chung. Cho đến nay, có nhiều khái niệm về lập kế hoạch. Mỗi khái niệm có cách tiếp cận từ góc độ khác nhau.
Với cách tiếp cận từ góc độ chức năng: Lập kế hoạch sản xuất là vấn đề cơ bản nhất trong các chức năng quản lý, bởi vì nó gắn liền với việc lựa chọn chương trình hành động trong tương lai. Chẳng những lập kế hoạch là một chức năng quản lý cơ bản của các nhà quản lý ở mỗi cấp trong một tổ chức, mà các chức năng còn lại của nhà quản lý cũng phải dựa trên nó để tiến hành cho tốt. [2, 4]
Tùy theo thuyết quản lý sản xuất của các nhà nghiên cứu khác nhau mà người ta chia ra chức năng quản lý theo các cách phân loại khác nhau: Hệ thống 4 chức năng: [5, 35] Lập kế hoạch sản xuất, kinh doanh. Đảm bảo tổ chức bộ máy và tổ chức cán bộ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Điều phối hoạt động sản xuất, kinh doanh. Kiểm tra chất lượng của sản phẩm, tiến độ thực hiện công việc, mọi khoản chi, nguồn thu,…
Hệ thống 5 chức năng của Henry Fayol: [6, 66]
Dự kiến: Doanh nghiệp chỉ thu được kết quả khi nó được hướng dẫn bởi một chương trình hoạt động, một kế hoạch.
Tổ chức: Tức là trang bị tất cả những gì cần cho hoạt động của doanh nghiệp: vốn, máy móc, nhân viên, vật liệu…
Phối hợp: Là làm cho đồng điệu giữa tất cả những hoạt động của doanh nghiệp nhằm tạo dề dàng và có hiệu quả.
Chỉ huy: Công việc trong tổ chức phải có người thực hiện.
Kiểm tra: Bao gồm việc xác định, thu thập thông tin về thành quả thực tế, so sánh với thành quả kỳ vọng từ đó tiến hành các biện pháp sửa chữa nếu có sai lệch nhằm bảo đảm hoàn thành mục tiêu.
Qua đó ta thấy, dù theo hệ thống nào đi nữa thì lập kế hoạch hoạt động cũng là chức năng đầu tiên của quản lý, là một chức năng quản lý quan trọng hàng đầu. Nếu có sai sót từ khâu lập kế hoạch thì sẽ kéo theo một loạt các sai lệch trong những khâu tiếp theo.
Với cách tiếp cận từ góc độ nội dung và vai trò:
Theo Ronner: Hoạt động của công tác lập kế hoạch là một trong những hoạt động nhằm tìm ra con đường để huy động và sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp một cách có hiệu quả nhất để phục vụ cho các mục tiêu kinh doanh. [3, 54]
Theo Henrypayh: Lập kế hoạch là một trong những hoạt động cơ bản của quá trình quản lý cấp công ty, xét về mặt bản chất thi hoạt động này nhằm mục đích xem xét các mục tiêu, các phương án kinh doanh, bước đi trình tự và cách tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. [3, 54]
Vậy, lập kế hoạch có nghĩa là cần phải xác định trước xem làm cái gì? Khi nào làm? Làm ở đâu? Tại sao làm. Lập kế hoạch là một nhịp cầu từ trạng thái hiện tại của chúng ta tới thời điểm ta mong muốn có trong tương lai. Nó không chỉ bao gồm một cách rõ rệt các sự việc mới mà còn có những sáng kiến hợp lý và khả năng phải làm gì, nó sẽ làm cho các công việc có thể xảy ra sẽ không xảy ra khác đi. Mặc dù, ít khi có thể dự đoán chính xác về tương lai và các sự kiện chưa biết trước có thể gây trở ngại cho kế hoạch đã định trước, nhưng nếu không có kế hoạch thì hành động của con người sẽ đi đến chỗ vô mục đích, mất phương hướng và đi đến chỗ phó thác cho may rủi.
Như vậy, ta có thể hiểu rằng: Việc lập kế hoạch sản xuất là phải xác định trước một cách có hệ thống tất cả những công tác cần và phải cố gắng làm được, nhằm đạt được những mục tiêu cuối cùng của công tác triển khai sản xuất. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến các mục tiêu: Năng suất, chất lượng của sản phẩm; thời gian giao hàng; lợi nhuận; uy tín của doanh nghiệp. Vì thế, có thể coi đây là một khẩu hiệu và là một chương trình hành động trong mọi công ty.
Có thể hiểu một cách rõ ràng hơn: Việc lập kế hoạch sản xuất là xây dựng lên các công việc cụ thể và vạch ra tiến trình thực hiện chúng phù hợp với các điều kiện đã có sẵn và các điều kiện có thể đạt được nhằm đạt được mục tiêu ban đầu của nhà sản xuất. [2, 5]
Hệ thống các loại kế hoạch hóa trong doanh nghiệp.
Để lập kế hoạch có hiệu quả, cần phân biệt rõ các loại kế hoạch. Tùy theo tính chất cụ thể của các hoạt động cần có trong tương lai mà người ta phân chia các loại kế hoạch. Xét về mặt thời gian, có thể chia ra kế hoạch hóa chiến lược (dài hạn) và kế hoạch hàng năm (ngắn hạn).
Kế hoạch hóa chiến lược. [7, 29]
Kế hoạch hóa chiến lược là lập kế hoạch cho thời gian dài, xa hơn một năm. Tùy thuộc vào khả năng nhìn xa trông rộng (tức trình độ của nhà kế hoạch) và tiềm năng của doanh nghiệp mà lập kế hoạch cho 2 năm, 3 năm, 5 hay 10 năm sau.
Hoạch định chiến lược vạch ra mục tiêu trong dài hạn, đề ra chiến lược tổng quát về các chiến lược bộ phận, đề ra các giải pháp cho doanh nghiệp trong một khoảng thời gian nhất định trong tương lai.
Kế hoạch hàng năm. [7, 30]
Kế hoạch hàng năm (ngắn hạn) dựa vào chiến lược và giải pháp đã vạch ra để lập ra các chỉ tiêu cụ thể (không còn là mục tiêu nữa) phải đạt được trong năm kế hoạch. Nó cũng đưa ra kế hoạch hành động, tức các biện pháp phải tổ chức thực hiện để đạt được những chỉ tiêu đó và cũng là để chiến lược kinh doanh được thực hiện. Kế hoạch hàng năm của doanh nghiệp còn có tên gọi là kế hoạch kinh tế-kỹ thuật hay kế hoạch sản xuất- kinh doanh. Đây là chương trình cụ thể triển khai toàn bộ các mặt hoạt động sản xuất- kinh doanh của doanh nghiệp với các biện pháp bảo đảm thực hiện, được lập ra cho thời gian một năm. Nó bao gồm 7 bộ phận:
– Kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
– Kế hoạch khoa học – công nghệ.
– Kế hoạch xây dựng cơ bản và sửa chữa lớn.
– Kế hoạch lao động tiền lương.
– Kế hoạch cung ứng vật tư.
– Kế hoạch giá thành sản phẩm.
– Kế hoạch tài chính.
Các bộ phận này có mối quan hệ qua lại hữu cơ với nhau trong đó kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm là bộ phận chủ đạo. Từ kế hoạch này người ta xác định các chỉ tiêu của các bộ phận kế hoạch khác. Bên cạnh đó, nhờ áp dụng kế hoạch khoa học- công nghệ mà thay đổi các định mức kinh tế- kỹ thuật, là căn cứ xác định các chỉ tiêu kế hoạch, làm cho chất lượng các chỉ tiêu kế hoạch tốt hơn kỳ trước. Thông qua kế hoạch khoa học- công nghệ mà những ý đồ chiến lược có thể được thực hiện có hiệu quả.
Vai trò của kế hoạch hóa trong quản lý sản xuất
Trong quá trình sản xuất, việc lập kế hoạch giữ một vai trò hết sức quan trọng, nó góp phần giúp doanh nghiệp:
– Ứng phó với tình huống bất định và sự thay đổi trong nội bộ doanh nghiệp cũng như ngoài môi trường
Lập kế hoạch là sự lựa chọn phương án hành động trong tương lai và quá trình thực hiện các kế hoạch này cũng xảy ra trong tương lai. Trên thực tế thì kinh tế càng phát triển thì càng chứa nhiều yếu tố bất định và ngẫu nhiên.
Nếu không có các kế hoạch, các dự báo cho tương lai cũng như các biện pháp giải quyết khi các yếu tố bất định xảy ra thì người quản lý khó có thể ứng phó với các tình huống đó và kết quả là doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn. Tuy nhiên, cần phải nói rằng để có thể đối phó với các tình huống bất định và ngẫu nhiên nói trên, trong quá trình xác định các kế hoạch cho doanh nghiệp, người quản lý cần phải phân tích và dự báo các tình huống có thể xảy ra. Thiết lập hệ thống kiểm tra, kiểm soát quá trình thực hiện các kế hoạch và đưa ra các biện pháp điều chỉnh kịp thời khi các mục đích của doanh nghiệp đã lệch khỏi hành lang an toàn nào đó. Điều này thể hiện tính linh hoạt của việc lập kế hoạch trong nền kinh tế thị trường.
Việc lập kế hoạch sẽ đưa ra hệ thống mục tiêu cụ thể cho doanh nghiệp.
Giúp tập trung khả năng chú ý vào các mục tiêu đã định.
Vì toàn bộ công việc lập kế hoạch sẽ tập trung sự chú ý của của doanh nghiệp vào các mục tiêu này. Việc lập kế hoạch được xem xét toàn diện sẽ thống nhất được những hoạt động tương tác giữa các bộ phận trong doanh nghiệp. Người quản lý phải thông qua việc lập kế hoạch để xem xét tương lai, thậm chí phải định kỳ xem xét, mở rộng và điều chỉnh kế hoạch để đạt được mục tiêu đề ra.
Lập kế hoạch tạo điều kiện cho việc tổ chức tạo các hoạt động tác nghiệp về kinh tế.
Việc lập kế hoạch sẽ thay các hoạt động đơn lẻ, không được phối hợp của các cá nhân, của các bộ phận bằng các nỗ lực có định hướng chung, thay thế các hoạt động thất thường bằng các hoạt động đều đặn và thay thế sự phán xét vội vàng bằng các quyết định được cân nhắc kỹ lưỡng. Nó giúp giảm chi phí về sản xuất, giảm thời gian, giảm công sức… Việc lập kế hoạch sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm soát các hoạt động, quá trình thực hiện kế hoạch của doanh nghiệp.
Việc lập kế hoạch sẽ làm cho việc kiểm tra, kiểm soát trong công tác quản lý được dễ dàng bởi vì người quản lý sẽ không thể kiểm soát được công việc của các cấp dưới nếu như không có các mục tiêu đã định để đo lường.
Tầm quan trọng của kế hoạch hóa trong quản lý sản xuất
Sản xuất là hoạt động tạo ra nguồn gốc giá trị, tạo ra của cải vật chất cho xã hội, tạo ra thu nhập cho doanh nghiệp và cho người lao động.
Với vai trò trực tiếp tạo ra giá trị sử dụng của sản phẩm và qua đó cho phép thoả mãn các nhu cầu khác nhau do vậy sản xuất được coi là hoạt động quan trọng trong doanh nghiệp cùng với hoạt động tài chính. Mối quan tâm hàng đầu của các nhà quản lý là làm sao tạo ra lượng của cải vật chất nhiều nhất. Bởi vậy việc áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật làm cho hoạt động sản xuất trở thành một hoạt động chủ đạo của doanh nghiệp mà trong đó doanh nghiệp sử dụng tối đa nguồn lực, thu hút đến 70 ÷ 80% lao động để sản xuất ra sản phẩm vật chất và sản phẩm dịch vụ. Đây cũng là xu hướng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hiện nay.
Các nhà quản lý cần phải lập kế hoạch sản xuất, kinh doanh bởi vì lập kế hoạch cho biết phương hướng hoạt động trong tương lai, làm giảm sự tác động của những thay đổi từ môi trường, tránh được sự lãng phí và dư thừa nguồn lực, đồng thời thiết lập nên những tiêu chuẩn thuận tiện cho công tác kiểm tra.
Kế hoạch sản xuất, kinh doanh là những chỉ tiêu những con số dự kiến và ước tính trong việc thực hiện một nhiệm vụ cụ thể nào đó cho phù hợp với yêu cầu của thị trường, với pháp luật và khả năng thực tế của từng cơ sở sản xuất kinh doanh
Về mặt nội dụng kế hoạch sản xuất, kinh doanh được phản ánh thông qua hệ thống các biểu mẫu bao gồm các chỉ tiêu và các chỉ tiêu đều được thực hiện bằng các con số cụ thể trong cơ chế quản lý tập trung các chỉ tiêu kế hoạch thường được cấp trên giao xuống theo nhiệm vụ chung của toàn ngành dẫn tới các chỉ tiêu thường thiếu thực tế và công tác kế hoạch dần bị hạ thấp trong công tác quản lý doanh nghiệp khi chuyển sang cơ chế mới – “cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước” mới tạo ra môi trường có kế hoạch hoạt động.
Nhờ có kế hoạch sản xuất, kinh doanh mà doanh nghiệp mới tạo được thế chủ động trên mọi lĩnh vực như: Chủ động trong việc khai thác triệt để mọi nguồn khả năng tiềm tàng về vốn, vật tư, thiết bị, lao động hiện có. Chủ động trong việc mua sắm trang thiết bị phục vụ chủ trương đổi mới kỹ thuật, công nghệ. Chủ động trong việc tạo và tìm kiếm nguồn vốn, chủ động trong việc liên doanh, liên kết và hợp tác với các đơn vị bạn. Chủ động trong việc mua nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm…
Thực tế quá trình hoạt động của các doanh nghiệp ở nước ta đã chứng minh rằng trong cơ chế thị trường sản xuất, kinh doanh mà không có kế hoạch và công tác kế hoạch hóa không được chú trọng thì sẽ không đạt hiệu quả cao và liên tục
Các nhân tố, yếu tố đầu vào cho quá trình lập kế hoạch sản xuất Trong quá trình lập kế hoạch sản xuất, ta cần hiểu và xác định được các nhân tố, yếu tố đầu vào. Có thể thấy các nhân tố, yếu tố đầu vào như sau:
Những nhân tố, yếu tố đầu vào cho quá trình lập kế hoạch sản xuất
– Tài chính. Là một vấn đề hết sức quan trọng, có ảnh hưởng rất lớn đến việc lập kế hoạch sản xuất. Khả năng tài chính cho phép nhà sản xuất có cái nhìn toàn diện, đầy đủ hơn cũng như có thể trở tay kịp khi các biến động khác xảy ra. Vì vậy, khi khả năng tài chính suy yếu sẽ đồng thời kéo theo suy yếu nhiều yếu tố khác.
– Dự báo nhu cầu của khách hàng. Tùy theo thời điểm và công tác tiếp thị giữa các doanh nghiệp, tùy theo mức độ cạnh tranh mà đôi khi nhu cầu của khách hàng có những sự biến động rất lớn, ảnh hưởng trực tiếp đến việc tiêu thụ sản phẩm đối với doanh nghiệp. Do đó, trong khi lập và thực hiện kế hoạch, bao giờ yếu tố tiếp thị, cạnh tranh dựa trên sự tìm hiểu nhu cầu của khách hàng không được tách rời nhau.
– Công suất thiết bị, hàng tồn kho. Trong quá trình lập kế hoạch, thường người lập kế hoạch có xu hướng lập ra những kế hoạch sao cho tận dụng hết công suất của thiết bị, dụng cụ, nhà xưởng, nhân lực, hàng tồn kho… mà quên tính đến những trục trặc, khó khăn sẽ xảy đến trong quá trình lập và thực hiện kế hoạch. Vì vậy, khi lập kế hoạch sản xuất, luôn cần nhớ vận dụng tính sáng tạo, linh hoạt và nhịp nhàng để tận dụng tối đa công suất theo thiết kế của nhà máy và lượng hàng hóa, vật tư tồn kho, dự trữ.
– Cung ứng vật tư đầu vào. Sự biến động của các yếu tố đầu vào bao gồm: Nguyên vật liệu, trang thiết bị, máy móc, các chính sách áp dụng… mà ta không thể lường trước được, và như thế chúng tác động tích cực hay tiêu cực đến quá trình lập kế hoạch sản xuất.
Do sự biến động của các yếu tố đầu vào nên khi tiến hành lập kế hoạch sản xuất, cần tìm hiểu kỹ về đặc điểm, kỹ năng, công suất, phương thức giao dịch, thanh toán,… của doanh nghiệp cung ứng hàng hóa cho doanh nghiệp của ta. Từ đó, có thể dễ dàng lường trước được những trục trặc nếu có về nguồn cung ứng nguyên phụ liệu. Thông thường, ta nên có mối quan hệ đa dạng hơn về nguồn cung ứng để tác động của chúng không quá lớn đến kế hoạch sản xuất của chúng ta.
2.1.3. Lập kế hoạch cung ứng vật tư
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, cạnh tranh là vấn đề sống còn của doanh nghiệp, do đó, doanh nghiệp luôn tìm cho mình hướng đi đúng đắn để có thể đứng vững trên thị trường. Hàng năm, doanh nghiệp lập nên các kế hoạch nhằm định hướng các hoạt động kinh doanh trong năm của mình. Trong một số năm gần đây, thị trường vật tư nước ta có nhiều biến động. Giá xăng dầu tăng cao, kéo theo đó là sự tăng gia của các nguyên vật liệu đầu vào. Nước ta là một nước nhập khẩu xăng dầu với một khối lượng lớn. Các doanh nghiệp đang đứng trước nhiều khó khăn, họ không thể đột ngột tăng giá sản phẩm. Nhiều doanh nghiệp còn phải chịu lỗ để giữ chân khách hàng
Vật tư đầu vào, số lượng, chất lượng là một yếu tố vô cùng quan trọng để hoàn thành 1 dự án hay một công trình.
Căn cứ vào công việc, kế hoạch sản xuất, tiến độ dự án, yêu cầu của dự án mà có kế hoạch cung cấp vật tư. Vật tư nào cần trước thì đưa ra trước
– Chuẩn bị nguồn cung vật liệu.
– Quãng đường vận chuyển
– Lượng vật tư sử dụng
– Kế hoạch sử dụng (bao giờ sử dụng)
– Dùng thế nào đủ
Phân loại vật tư: Tùy từng doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau mà có các phân loại vật tư theo các cách khác nhau.
Phân loại vật tư căn cứ vào công dụng của vật tư trong quá trình sản xuất.
Phân loại vật tư căn cứ vào tầm quan trọng của nó trong sản xuất
Phân loại vật tư căn cứ vào nguồn cung cấp nguyên liệu
Nói chung việc phân loại vật tư chỉ là tương đối. Nó phụ thuộc vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và đặc điểm tổ chức của doanh nghiệp đó.
Phân loại vật tư theo cách nào là để tiện cho quản lý, sử dụng hay tính toán định mức tiêu thụ vật tư của doanh nghiệp đó
Vị trí của kế hoạch vật tư trong hệ thống kế hoach của doanh nghiệp.
* Xét theo các loại kế hoạch
Kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Kế hoạch giá thành sản phẩm
Kế hoạch lao động tiền lương
Kế hoạch vật tư.
Kế hoạch tài chính.
Kế hoạch khoa học công nghệ
Kế hoạch xây dựng cơ bản và sửa chữa lớn tài sản cố định
Xét theo cấp độ kế hoạch
Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động và vai trò của doanh nghiệp trong môi trường hoạt động của nó người ta quản lý doanh nghiệp bằng hai cấp kế hoạch: Kế hoạch chiến lược và kế hoạch tác nghiệp.
Các kế hoạch chiến lược được thiết lập nhằm xác định các mục tiêu tổng thể cho tổ chức. Các kế hoạch tác nghiệp được thiết lập nhằm cụ thể hóa các kế hoạch chiến lược thành các hoạt động hàng năm, hàng quý hay hàng tháng cho tổ chức
Vai trò của lập kế hoạch cung ứng vật tư
Giúp doanh nghiệp ứng phó với sự thay đổi của môi trường, dự đoán trước những biến động của môi trường từ đó lập ra một kế hoạch phù hợp.
Giảm thiểu thời gian và lượng dự trữ nguyên liệu.
Giảm thời gian sản xuất và thời gian cung ứng vật tư
Quy trình lập kế hoạch vật tư
Bước 1: Nghiên cứu và dự báo.
Bước 2: Xác định các mục tiêu.
Bước 3: Lựa chọn các phương thức để đạt được mục tiêu
Phương thức hoạch toán kế toán các nghiệp vụ sản xuất
2.2. Quản lý kho phân xưởng
Quản lý tồn kho vật tư theo từng mã vật tư, từng kho
Quản lý nhiều đơn vị tính khác nhau cho một loại vật tư
Đăng ký mức sàn và trần tồn kho cho từng loại vật tư. Cảnh báo hiện tượng tồn kho thấp hơn sàn hoặc cao hơn trần của từng loại vật
3. Vai trò của quản lý sản xuất
Doanh nghiệp chưa đánh giá đúng tầm quan trọng của quá trình sản xuất, cũng như vai trò của cán bộ quản lý sản xuất trong hoạt động của doanh nghiệp. Đang còn quá nhiều tồn tại, làm giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp từ vấn đề này. Khi nói đến chiến lược phát triển kinh doanh của doanh nghiệp trong các ngành sản xuất, mọi người thường quan tâm các lĩnh vực phát triển thương hiệu, mở rộng thị trường, với những kế hoạch marketing tốn kém; nhưng ít ai đặt câu hỏi cái gì tạo ra thương hiệu, cái gì sẽ cung cấp cho thị trường đã mở rộng mà nếu không có chúng, mọi chi phí để tạo dựng thương hiệu, mở rộng thị trường trở nên lãng phí. Đó chính là những sản phẩm được sản xuất với một chi phí tốt nhất, chất lượng phù hợp với nhu cầu của khách hàng và đáp ứng được thời hạn giao hàng.
3.1. Thích ứng với sự thay đổi của môi trường
Môi trường ở đây có nghĩa là cả môi trường bên trong và bên ngoài của doanh nghiệp. Môi trường của một doanh nghiệp trong một năm có thể nhiều thay đổi. Trong quá trình sản xuất có nhiều thay đổi, có một kế hoạch quản lý sản xuất hợp lý giúp doanh nghiệp không bị bất ngờ trước những biến động của thị trường cũng như những điều kiên ngoại cảnh tác động trực tiếp hoặc gián tiếp. Giúp doanh nghiệp có thể đoán trước được những sự thay đổi của môi trường và có kế hoạch sản xuất hợp lý
Có một quy trình quản lý sản xuất hợp lý giúp doanh nghiệp có thể tăng năng suất cho quá trình sản xuất, giảm thời gian sản xuất. Các công đoạn của sản xuất dù rất nhỏ nhưng nếu có một quy trình quản lý sản xuất hợp lý sẽ giảm thiểu được những công đoạn không cần thiết. Giảm thời gian chết và tráng chờ đợi, làm dán đoạn cả quy trình sản xuất chỉ vì những chi tiết rất nhỏ làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm từ đó làm giảm hiệu quả của việc sản xuất kinh doanh.
3.3. Đáp ứng tốt nhất các nhu cầu của khách hàng
4. Nội dung của quản lý sản xuất trong doanh nghiệp
4.1. Nghiên cứu và dự báo nhu cầu sản phẩm
Vấn đề mà các doanh nghiệp luôn đặc biệt quan tâm trước khi tiến hành sản xuất là nghiên cứu và dự báo nhu cầu sản phẩm để đảm bảo cho sản phẩm sản xuất ra có thể tiêu thụ được . Đây là nội dung quan trọng trước tiên, xuất phát điểm của công tác quản lý sản xuất trong doanh nghiệp . Trong quản lý sản xuất dự báo nhu cầu có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả thiết lập và và thực thi kế hoạch sản xuất .Thu thập số liệu đáng tin cậy, đưa ra các dự báo khoa học để xác định được một cách chính xác nhất nhu cầu về sản phẩm từ đó lên kế hoạch sản xuất đảm bảo nhu cầu.
Quản lý nhu cầu là ranh giới giữa khách hàng và hệ thống kế hoạch sản xuất, nó có nhiệm vụ đưa ra các thông tin khách hàng đặt hàng một cách chính xác và đầy đủ để làm căn cứ để lập kế hoạch sản xuất chính. Những cam kết giao hàng đối với khách hàng mà nó đưa ra dựa trên cơ sở năng lực sản xuất và chu kỳ sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp; điều chỉnh tiến độ sản xuất sản phẩm, kế hoạch phân công tiêu thụ và tình hình thực hiện chúng.
Quản lý nhu cầu không phải là đáp ứng một cách bị động trước sự thay đổi nhu cầu của khách hàng mà chủ động nắm bắt và ổn định nhu cầu. Có thể áp dụng rất nhiều phương pháp để đạt được mục đích này. Phương pháp thường dùng nhất là áp dụng các sách lược giá cả, sách lược chiết khấu và chính sách hoa hồng linh hoạt. Các doanh nghiệp dịch vụ thường sử dụng các hệ thống dự định và ước đoán để giảm tính không xác định của nhu cầu, vì dịch vụ không thể tích trữ nên nếu nhu cầu vượt quá năng lực phục vụ của hệ thống thì sẽ không thể đáp ứng đầy đủ; ngược lại, nếu nhu cầu thấp hơn năng lực phục vụ của hệ thống thì sẽ tạo nên lãng phí. Ví dụ ngành hàng không thường áp dụng hệ thống dự tính vé, thêm vào đó là mạng lưới các đại lý vé ngày càng phủ rộng, hiệu quả khống chế dao động nhu cầu ngày càng trở nên rõ rệt.
Có thể sử dụng cả phương pháp định lượng và phương pháp định tính để dự báo nhu cầu sản phẩm.
Đối với phương pháp dự báo nhu cầu định lượng thì có thể chia thành 2 dạng:
Phương pháp dự báo hồi quy: Là căn cứ vào quan hệ nhân quả của sư vật để đoán sự thay đổi và phát triển của sự vật đó.
Phương pháp dự báo theo trình tự thời gian: Là căn cứ vào số liệu thống kê lịch sử của nhu cầu thị trường để dự báo
Trong trường hợp thông thường, do nhu cầu của thị trường có đặc trưng thay đổi liên tục theo thời gian, vì vậy ứng dụng phương pháp dự báo theo trình tự thời gian thường có hiệu quả tương đối cao.
Trình tự thời gian của nhu cầu thị trường bao gồm 3 nhân tố
Xu hướng thời gian
Xu hướng biến động trong thời gian dài cầu nhu cầu thị trường có thể tăng giảm hoặc thay đổi ổn định. Trong đó sự tăng trưỏng có thể là tăng trưởng trực tuyến , cũng có thể là tăng trưởng chỉ số (hoặc gọi là sự tăng trưởng theo bậc).
Dao động của tính thời vụ.
Là sự tăng trưởng hay giảm thiểu theo mùa vụ có tính quy luật. Ví dụ như nhu cầu đối với sản phẩm may mặc, bia rượu và tủ lạnh…đều có đặc trưng thay đổi theo mùa vụ.
Dao động ngẫu nhiên
Do tổng hợp từ nhiều yếu tố , nó là những thông tin đáng lo ngại trong dự đoán nhu cầu nên tìm cách loại bỏ nó. Vậy, dự báo nhu cầu là tiến hành dự đoán đối với xu hướng phát triển và sự dao động theo mùa vụ cầu nhu cầu thị trường. Phương pháp thường dùng thích hợp để dự báo xu thế là phương pháp cân bằng chỉ số thời gian,
Những nhân tố, yếu tố đầu vào cho quá trình lập kế hoạch sản xuất
4.2. Thiết kế sản phẩm và quy trình công nghệ
4.2.1. Thiết kế sản phẩm
Công việc thiết kế sản phẩm được tiến hành theo một trình tự logic nhất định, với sự tham gia phối hợp của nhiều cán bộ quản lý, chuyên gia và kỹ sư trong những lĩnh vực khác nhau. Kết quả của việc thiết kế sản phẩm là những bản vẽ kỹ thuật, thuyết minh về cấu trúc, thành phần, những đặc điểm kinh tế – kỹ thuật của sản phẩm. Nguyên tắc cơ bản của thiết kế sản phẩm là phải thiết kế sao cho người sử dụng có thể nhận biết được sản phẩm, hiểu được sản phẩm, biết sử dụng sản phẩm. Việc thiết kế sản phẩm thường dựa vào 4 tiêu thức sau:
– Khả năng tiềm tàng của sản phẩm
– Tốc độ phát triển sản phẩm
– Chi phí cho sản phẩm
– Chi phí cho quá trình phát triển sản phẩm
4.2.2. Thiết kế công nghệ
Thiết kế công nghệ là lựa chọn và xác định quy trình và phương pháp công nghệ chế tạo sản phẩm. Nó giúp cho doanh nghiệp trả lời câu hỏi: phải sản xuất với cách thức thế nào? Mỗi loại sản phẩm đều đòi hỏi phương pháp và quy trình công nghệ sản xuất tương ứng cho nên đặc điểm của sản phẩm là căn cứ quan trọng cho thiết kế quy trình công nghệ. Doanh nghiệp thường lựa chọn công nghệ dựa trên cơ sở cân nhắc 4 yếu tố cạnh tranh chủ yếu:
– Tốc độ cung cấp sản phẩm – dịch vụ cho thị trường
– Chất lượng sản phẩm – dịch vụ do công nghệ tạo ra
– Tính linh hoạt của công nghệ
Tuy nhiên do sức ép của xã hội và chính phủ, khi lựa chọn công nghệ, các doanh nghiệp phải chú ý đến các tiêu chuẩn quản lý môi trường đã được quy định.
4.2.3. Các hình thức thiết kế sản phẩm và công nghệ
4.3. Hoạch định năng lực sản xuất và lựa chọn công nghệ sản xuất phù hợp
4.3.1. Hoạch định năng lực sản xuất 4.3.1.1. Khái niệm năng lực sản xuất
Năng lực sản xuất chính là công suất của máy móc thiết bị và dây truyền công nghệ của doanh nghiệp trong một đơn vị thời gian. Năng lực sản xuất thường được đo bằng sản lượng đầu ra của một doanh nghiệp, hoặc số lượng đơn vị đầu vào được sử dụng để tiến hành sản xuất trong một khoảng thời gian nhất định.
Năng lực sản xuất bao gồm:
– Công suất thiết kế: Là công suất tối đa mà doanh nghiệp có thể thực hiện được trong những điều kiện thiết kế.
– Công suất hiệu quả: Là tổng đầu ra tối đa mà doanh nghiệp mong muốn có thể đạt được trong những điều kiện cụ thể.
– Công suất thực tế: Là khối lượng sản phẩm doanh nghiệp đạt được trong thực tế.
4.3.1.2. Một số nhân tố ảnh hưởng đến năng lực sản xuất.
Nhu cầu và đặc điểm của sản phẩm hoặc dịch vụ:
– Khối lượng sản phẩm hoặc dịch vụ cần đáp ứng.
– Thời điểm cung cấp.
– Nhu cầu sản phẩm hoặc dịch vụ thuộc loại thường xuyên thay đổi hay là ổn định.
– Đặc điểm và tính chất của công nghệ sử dụng.
– Trình độ tay nghề và tổ chức của lực lượng lao động trong doanh nghiệp.
Có thể nói rằng năng lực sản xuất phụ thuộc rất lớn vào trình độ chuyên môn, kỹ năng và khả năng của người lao động. Diện tích mặt bằng và nhà xưởng, việc bố trí kết cấu hạ tầng trong doanh nghiệp
4.3.1.3. Trình tự hoạch định năng lực sản xuất.
Hoạch định năng lực sản xuất được tiến hành theo các bước:
– Đánh giá công suất hiện có của doanh nghiệp.
– Ước tính nhu cầu công suất, tiến hành so sánh giữa nhu cầu công suất với công suất hiện có để xác định công suất cần bổ sung.
– Xây dựng các phương án kế hoạch công suất khác nhau.
– Đánh giá các chỉ tiêu tài chính, kinh tế – xã hội và công nghệ của từng phương án kế hoạch đưa ra.
– Lựa chọn phương án kế hoạch công suất thích hợp nhất đối với tình hình thực tế của doanh nghiệp và đảm bảo thực hiện được những mục tiêu chiến lược mà doanh nghiệp đã đề ra.
4.3.2. Lựa chọn quá trình sản xuất.
Sau khi đã xác định loại sản phẩm và công nghệ chế tạo, doanh nghiệp cần lựa chọn quá trình sản xuất phù hợp, có hiệu quả đối với loại sản phẩm hoặc dịch vụ đã lựa chọn.
Dựa theo những tiêu thức khác nhau mà có thể chia quá trình sản xuất trong doanh nghiệp thành những loại hình khác nhau:
Theo khả năng liên tục sản xuất sản phẩm:
– Sản xuất theo dự án. Đây là quá trình sản xuất sản phẩm mang tính đơn chiếc, quá trình không lặp lại, không ổn định cả về không gian và thời gian; cơ cấu tổ chức bị xáo trộn.
* Theo kết cấu và đặc điểm chế tạo sản phẩm: Quá trình sản xuất lắp ráp: Đối với loại hình này, vật tư, thiết bị, các chi tiết bộ phận được kết hợp với nhau để tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh.
– Quá trình sản xuất đơn chiếc.
– Quá trình sản xuất hàng loạt.
Để lựa chọn được một quá trình sản xuất không đơn giản. Mỗi doanh nghiệp khi lựa chọn cần dựa trên các căn cứ sau đây:
– Khối lượng và đặc điểm của sản phẩm sản xuất.
– Tính linh hoạt của hệ thống sản xuất.
– Năng suất, hiệu quả, chi phí của mỗi loại hình sản xuất.
4.4. Bố trí sản xuất trong doanh nghiệp
Sau khi đã hoạch định năng lực sản xuất, công tác tiếp theo sẽ là bố trí để sản xuất đảm bảo cho quá trình sản xuất đạt hiệu quả cao nhất. Muốn đạt hiệu quả năng suất cao nhất thì cần phải nâng cao tốc độ. Mà muốn nâng cao tốc độ thì việc bố trí sản xuất một các hợp lý có vai trò vô cùng quan trọng. Bố trí quá trinh sản xuất hợp lý sẽ làm cho việc sản xuất đơn giản, các công việc được sắp xếp một cách có trình tự, khoa học, làm cho quá trình sản xuất đạt hiệu quả cao nhất. Để có thể làm tốt công tác này, người cán bộ quản lý sản xuất cần cần nắm rõ kêt cấu sản xuất của doanh nghiệp mình. Kết cấu sản xuất của doanh nghiệp là một hệ thống các phân xưởng (bộ phận) sản xuất chính, sản xuất phụ, sản xuất phụ trợ, cac bộ phận phục vụ có tính chất sản xuất và mối quan hệ giữa chúng với nhau trong quá trình sản xuất.
Phân xưởng sản xuất chính là những bộ phận tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất chính, (tạo ra sản phẩm chủ yếu) của doanh nghiệp.
Phân xưởng sản xuất phụ là những bộ phân tạo ra các sản phẩm phụ trên cơ sở tận dụng phế liệu của quá trình sản xuất chính hoặc tận dụng năng lực sản uất dư thừa của thiết bị máy móc, diện tích sản xuất và lao động.
Phân xưởng sản xuất phụ trợ là những bộ phận tao ra những sản phẩm nhằm phục vụ cho quá trình sản xuất chính. Ví dụ ở công ty giấy Bãi Bằng thì sản xuất điện, hơi, nước, sản xuất dụng cụ gá lắp, sản xuất bao bì, sản xuất hoá chất, sản xuất phụ tùng để sửa chữa thiết bị …các bộ phân sản xuất phu trợ, còn phân xưởng sản xuất giấy vệ sinh, bìa các tông là phân xưởng sản xuất phụ.
Các bộ phận phục vụ có tính chất sản xuất công nghiệp là bộ phận không tạo ra sản phẩm mà chỉ thực hiện một số công việc phục vụ cho quá trình sản xuất như hệ thống kho tàng , vận chuyển
Trên cơ sở đã nắm rõ kết câu sản xuất của doanh nghiệp mình để có thể đưa ra các cách sắp xếp, bố trí sản xuất một cách hợp lý nhất. Họat động sản xuất sẽ trở nên có tổ chức, có trật tự mang lại hiệu quả cao nhất.
Trong thực tế, một xí nghiệp, một loại máy móc có thể được giao thực hiện nhiều nhiệm vụ khác nhau, việc sắp xếp công việc nào trước, công việc nào sau có ý nghĩa rất lớn đối với khả năng hoàn thành công việc đúng hạn và tận dụng hiệu quả các nguồn lực của doanh nghiệp. Vì vậy việc tìm ra một phương án bố trí tốt nhất là hết sức cần thiết, tuy nhiên luôn có rất nhiều phương án bố trí sắp xếp khác nhau. Môi phương án lại có những chỉ vượt trội khác nhau và không thể có một phương án nào có thể đưa ra được các chỉ tiêu đều tốt hơn tất cả các phương án khác. Để tiết kiệm thời gian và có được hiệu quả cao nhât, người ta đưa ra nguyên tắc ưu tiên, và những nguyên tắc này thường đem lại những kết quả rất khả quan, trong thực tế đã được sử dụng và chấp nhận khá phổ biến. Trong những trường hợp cụ thể thì doanh nghiệp phải áp dụng một nguyên tắc ưu tiên phù hợp .
Những nguyên tắc ưu tiên thường được áp dụng
Đến trước làm trước
Bố trí theo thời gian hoàn thành sớm nhất.
Theo thời gian thực hiện ngắn nhất
Theo thời gian thực hiện dài nhất.
Để áp dụng các nguyên tăc ưu tiên, cần xác định trước thời gian cần thiết để hoàn thành và thời hạn phải hoàn thành từng công việc. Việc so sánh đánh giá các phương án ưu tiên thường được thực hiện dựa trên cơ sở xác định các chỉ tiêu chủ yếu sau.
Dòng thời gian: Khoảng thời gian từ khi công việc đưa vào phân xưởng đến khi được hoàn thành.
Dòng thời gian lớn nhất: Tổng thời gian cấn thiết để hoàn thành tất cả các công việc
Dòng thời gian trung binh: Trung bình dòng thời gian của mời công việc
Độ chậm bình quân của các công việc
Người ta có thể so sánh kết qủa giữa nguyên lý ưu tiên trên để chọn phương án quyết dịnh phân giao thứ tự các công việc phù hợp với những mục tiêu đã đặt ra
Nguyên tắc chỉ số giới hạn
Chỉ số giới hạn có tác dụng dùng để kiểm tra tính hợp lý của thứ tự các công việc đã được sắp xếp trong quá trình thực hiện. Chỉ số này phản ánh tình hình công việc đã được sắp xếp trong quá trình thực hiện. Chỉ số này phản ánh tình hình thực hiện công việc và khả năng hoàn thành theo thời gian. Chỉ số này mang tính động, nó được cập nhật hàng ngày, cho phép bố trí lại thứ tự công việc cần ưu tiên trong qúa trình thực hiện nhằm hoàn thành tốt nhất các công việc theo thời gian hoàn thành
CR: Chỉ số giới hạn
Ti: Thời gian còn lại đối với công việc i
Ni: Số ngày cần thiết để hoàn thành công việc còn lại
Nếu: CR=1: Công việc được hoàn thành đúng thời hạn
Nếu: CR<1: Công việc không hoàn thành đúng thời hạn
4.5. Lập kế hoạch các nguồn lực
4.5.1. Khái niệm
Lập kế hoạch các nguồn lực là việc xây dựng kế hoạch tổng hợp về khối lượng sản phẩm cần sản xuất .Trên cơ sở đó xác định nhu cầu về nguyên vật liệu, lao động , năng lực sản xuất nói chung và một kế hoạch chi tiết về mua sắm nguyên vật liệu cần thiết trong từng thời điểm.
4.5.2. Lập kế hoạch tổng hợp
4.5.2.1. Nội dung
Lập kế hoạch tổng hợp là xác định số lượng và phân bổ thời gian sản xuất cho một tương lai trung hạn (từ 3 tháng đến 3 năm).
4.5.2.2. Nhiệm vụ cơ bản của lập kế hoạch
Nhìn chung lập kế hoạch tổng hợp có 3 nhiệm vụ cơ bản sau:
Hoạch định tổng hợp về mức tồn kho và sản xuất cho từng loại sản phẩm để thoả mãn được mức nhu cầu của thị trường đã được đưa ra trong dự báo sao cho tổng chi phí tồn kho và các chi phí sản xuất là gần đạt mức nhỏ nhất
Phân bổ tốc độ sản xuất và mức độ tồn kho cho từng loại sản phẩm sao cho tổng các giá trị phân bổ phải bằng với giá trị tổng hợp và tổng các chi phí vẫn gần như thấp nhất.
Huy động tổng hợp các nguồn lực, đặc biệt là nguồn nhân lực để đáp ứng nhu cầu của thị trường.
4.5.2.3. Một số phương pháp thường được sử dụng để lập kế hoạch tổng hợp
Phương pháp trực giác: Dùng cảm nhận trực quan, phi định lượng để lập kế hoạch.
Phương pháp biểu đồ và phân tích chiến lược.
Phương pháp cân bằng toán học tối ưu.
4.5.3. Lập kế hoạch nhu cầu nguyên vật liệu
4.5.3.1. Nội dung
Lập kế hoạch nhu cầu nguyên vật liệu là xác định chính xác khối lượng nhu cầu vật tư, chi tiết, bán thành phẩm cần mua hoặc cần sản xuất trong từng thời điểm.
4.5.3.2. Phương pháp MRP
MRP là hệ thống hoạch định và xây dựng lịch trình về những nhu cầu nguyên liệu, linh kiện cần thiết cho sản xuất trong từng giai đoạn, trên cơ sở trợ giúp của kỹ thuật máy tính.
Mục tiêu của MRP:
Giảm thiểu lượng dự trữ nguyên vật liệu.
Giảm thời gian sản xuất và thời gian cung ứng
Tạo sự thoả mãn và niềm tin tưởng cho khách hàng
Tạo điều kiện cho các bộ phận phối hợp chặt chẽ, thống nhất với nhau, phát huy tổng hợp khả năng sản xuất của doanh nghiệp.
Tăng hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trình tự MRP:
Bước 1: Phân tích kết cấu sản phẩm
Phương pháp lập kế hoạch các nguồn lực được tiến hành dựa trên việc phân loại nhu cầu sản xuất sản phẩm thành nhu cầu độc lập và nhu cầu phụ thuộc.
Bước 2: Tính tổng nhu cầu
Tổng nhu cầu chính là tổng số lượng dự kiến đối với một loại chi tiết hoặc nguyên vật liệu trong từng giai đoạn mà không tính đến dự trữ hiện có hoặc lượng sẽ tiếp nhân được.
Bước 3: Tính nhu cầu thực
Nhu cầu thực là tổng số nguyên liệu, chi tiết cần thiết trong từng giai đoạn.
Nhu cầu thực của giai đoạn = Tổng nhu cầu – Dự trữ hiện có + Dự trữ an toàn
Bước 4: Xác định thời gian phát đơn đặt hàng hoặc lệnh sản xuất.
Thời gian được tính bằng cách lấy thời điểm cần có trừ lùi đi khoảng thời gian cung ứng hoặc sản xuất cần thiết để cung cấp đúng lượng hàng yêu cầu. Đơn hàng phát ra theo kế hoạch là tổng khối lượng dự kiến kế hoạch đặt hàng trong từng giai đoạn.
Trong quá trình quản lý sản xuất, điều độ sản xuất là khâu tiếp theo ngay sau khi hoàn thành thiết kế hệ thống sản xuất và xây dựng kế hoạch sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp.
4.6.1. Bản chất của điều độ sản xuất
Điều độ sản xuất là điều hành tiến độ sản xuất theo thời gian. bản chất của điều độ sản xuất là toàn bộ các hoạt động xây dựng lịch trình sản xuất, điều phối, phân giao công việc cho từng người, từng nhóm, từng máy và sắp xếp thứ tự các công việc ở từng nơi làm việc nhằm bảo đảm hoàn thành đúng tiến độ đã xác định trong lịch trình sản xuất.
4.6.2. Nội dung của điều độ sản xuất.
– Xây dựng lịch trình sản xuất: Bao gồm xác định số lượng và khối lượng công việc, tổng thời gian hoàn thành tất cả các công việc, thời gian bắt đầu và kết thúc của từng công việc. Dự tính số lượng các nguồn lực cụ thể về máy móc thiết bị, nguyên liệu, và lao động cần thiết để hoàn thành khối lượng sản phẩm hoặc các công việc đã đưa ra trong lịch trình sản xuất.
– Điều phối, phân giao công việc và thời gian phải hoàn thành trong những khoảng thời gian nhất định cho từng người, từng máy. Sắp xếp thứ tự các công việc trên các máy và nơi làm việc nhằm giảm thiểu thời gian ngừng máy và chờ đợi trong quá trình chế biến sản phẩm.
– Theo dõi phát hiện những biến động ngoài dự kiến có nguy cơ dẫn đến không hoàn thành lịch trình sản xuất hoặc nhũng hoạt động lãng phí làm tăng chi phí, đẩy giá thành sản phẩm lên cao, từ đó đề xuất những biện pháp điều chỉnh kịp thời .
4.7. Kiểm tra hệ thống sản xuất
Trong một hệ thống sản xuất có khá nhiều điểm mà chúng ta cần phải kiểm tra. Ví dụ như: kiểm tra quy trình công nghệ, kiểm tra chất lượng sản phẩm, kiểm tra kỳ hạn, kiểm tra năng suất, kiểm tra hàng dự trữ,…. Tuy nhiên trong tất cả các vấn đề cần kiểm tra đó thì tập trung vào 2 điểm quan trong nhất và yêu cầu phải kiểm tra chính xác nhất. Đó là kiểm tra hàng dự trữ và kiểm tra chất lượng.
4.7.1. Kiểm tra hàng dự trữ
Hàng dự trữ bao gồm các hàng nguyên vật liệu, bán thành phẩm, dụng cụ phụ tùng, thành phẩm tồn kho,….. thông thường nó chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp. Có thể nói số lượng hàng dự trữ của doanh nghiệp cần phải tồn tại ở mức hợp lý. Nếu dự trữ quá cao sẽ dẫn đến ứ đọng vốn, giảm hệ số sử dụng và vòng quay của vốn, doanh nghiệp phải tốn thêm những chi phí dự trữ . Nếu dự trữ quá thấp thì quá trình sản xuất có thể bị gián đoạn. Các doanh nghiệp khác nhau thì việc sử dụng mô hình hàng dự trữ cũng khác nhau. Do đó các nội dung kiểm tra hàng dự trữ cũng khác nhau . Tuy nhiên để tiến hành kiểm tra lượng hàng dự trữ hợp lý của doanh nghiệp, doanh nghiệp phải luôn chú ý đến các tiêu chuẩn. Và các tiêu chuẩn này được thể hiện thông qua việc phải trả lời chính xác 2 câu hỏi: Lượng hàng cho mỗi đơn hàng là bao nhiêu thì chi phí sẽ thấp nhất? Khi nào thì tiến hành đặt hàng?
4.7.2. Kiểm tra chất lượng 4.7.2.1. Chất lượng và kiểm tra chất lượng
Chất lượng là một đặc tính không thể thiếu được khi một doanh nghiệp muốn tiêu thụ được sản phẩm, dịch vụ của mình trong thời gian lâu dài. Kiểm tra chất lượng là hoạt động theo dõi, đo lường và đánh giá những khuyết tật của sản phẩm và dịch vụ, những sai lệch của quá trình sản xuất, qua đó phát hiện những nguyên nhân gây ra những khuyết tật hoặc sai lệch để có biện pháp ngăn chặn kịp thời.
4.7.2.2. Nhiệm vụ chủ yếu của kiểm tra chất lượng
– Theo dõi tình hình thực hiện, tổ chức thu thập thông tin và các dữ liệu cần thiết về chất lượng thực hiện. Đánh giá tình hình thực hiện chất lượng và xác định mức độ chất lượng đạt được trong thực tế của doanh nghiệp. So sánh chất lượng thực tế với kế hoạch để phát hiện các sai lệch, đánh giá các sai lệch đó trên các phương diện kinh tế – kỹ thuật và xã hội.
– Phân tích các thông tin nhằm tìm kiếm phát hiện các nguyên nhân dẫn đến việc thực hiện đi chệch so với mục tiêu kế hoạch đặt ra.
4.7.2.3. Mục đích của kiểm tra chất lượng
Xác định những hoạt động đảm bảo chất lượng có hiệu quả và kết quả của chúng.
– Phát hiện những kế hoạch không thực hiện tốt, những vấn đề chưa được giải quyết và những vấn đề mới xuất hiện.
– Tìm ra những vấn đề, yếu tố cần hoàn thiện trong các chính sách và kế hoạch của năm tới.
PTS Ngô Trần ánh – Kinh tế và quản lý doanh nghiệp .NXB Thống Kê 2003 .
11. Báo cáo về tài chính, sản xuất, kinh doanh từ năm 2006 đến 2009 của Tổng công ty Cơ khí Xây dựng.
Hồ sơ năng lực Tổng công ty Cơ khí Xây dựng.
Quy chế, chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy hoạt động của Tổng công ty Cơ khí Xây dựng.
Hiệp hội doanh nghiệp cơ khí Việt Nam: www.vami.com.vn
16. http://tim.vietbao.vn/quan_ly_san_xuat/
http://vneconomy.vn/poc5/doanh-nghiep.htm
Sở Hữu Nhà Nước Là Gì? Quản Lý, Sử Dụng Và Định Đoạt Tài Sản Thuộc Sở Hữu Nhà Nước
Sở hữu nhà nước là gì? Sở hữu nhà nước được pháp luật quy định ra sao? Chủ sở hữu nhà nước và cơ chế đại diện chủ sở hữu nhà nước? Tổ chức quản lý vận hành nhà ở cũ thuộc sở hữu nhà nước? Việc quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước?
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Sở hữu Nhà nước là hình thức sở hữu mà Nhà nước là người đại diện cho nhân dân quản lý, nắm giữ tư liệu sản xuất, là chủ sở hữu đối với tài sản quy định tại điều 17, Hiến pháp 1992:
” Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào các xí nghiệp, công trình thuộc các ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước, đều thuộc sở hữu toàn dân “.
Khác với các hình thức sở hữu khác, sở hữu Nhà nước có chủ thể đặc biệt, không phải là công dân, các đoàn thể, các tổ chức xã hội… mà còn là chủ sở hữu nắm giữ tư liệu phổ biến và quan trọng nhất trong xã hội. Nhà nước là chủ thể thực hiện quyền lực trong quản lý xã hội. Nhà nước còn ban hành hệ thống các văn bản pháp luật, trong đó nhà nước tự định các quyền trong sở hữu của mình, đồng thời định đoạt các quyền và nghĩa vụ cho các chủ sở hữu khác. Vì vậy, nhà nước là một chủ thể đặc biệt. Nhà nước thực hiện quyền lực trên nguyên tắc đại diện cho nhân dân, nắm giữ những tài sản thuộc sở hữu toàn dân. Chủ sở hữu thực hiện quyền của mình thông qua các cơ quan, cá nhân, tổ chức và người đại diện theo quy định của pháp luật.
” Tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước bao gồm đất đai, rừng tự nhiên, rừng trồng có nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi tự nhiên ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, công trình thuộc các ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác do pháp luật quy định “.
Đối với đất đai bao gồm toàn bộ đất đai thuộc lãnh thổ Việt Nam thuộc sở hữu Nhà nước. Tuy nhiên, Nhà nước chiếm hữu, sử dụng đất đai trên cơ sở giao đất cho cơ quan, tổ chức, cá nhân theo mục đích sử dụng và thời hạn sử dụng. Đối với rừng tự nhiên và rừng trồng bằng ngân sách Nhà nước đều thuộc Nhà nước. Tất cả thảm thực vật, động vật và nguồn gen gắn liền với rừng thuộc sở hữu Nhà nước. Sông hồ, mặt nước tự nhiên hoặc nhân tạo bằng ngân sách Nhà nước thì thuộc về Nhà nước.
Các loại tài nguyên thiên nhiên trong lòng đất (khoáng sản…) các loại sinh vật, tài nguyên khác dưới nước thuộc vùng biển Việt Nam, vùng kinh tế đặc quyền của Việt Nam cũng thuộc vào sở hữu Nhà nước. Ngoài ra, còn có các loại tài sản vô chủ theo quy định của sở hữu Nhà nước. Ngân sách Nhà nước có được từ việc nộp thuế của người dân, từ việc khai thác các lợi ích khác của Nhà nước như đầu tư kinh doanh hoặc góp vốn kinh doanh với các doanh nghiệp khác, những tài sản Nhà nước được hiến tặng…
2. Chủ sở hữu nhà nước và cơ chế đại diện chủ sở hữu nhà nước
Nhà nước là chủ sở hữu một phần hoặc toàn bộ doanh ngiệp có vốn nhà nước và có quyền tham gia vào quá trình quản lý doanh nghiệp với tư cách là chủ đầu tư. Phụ thuộc vào tỷ lệ đầu tư góp vốn vào doanh nghiệp, chủ sở hữu nhà nước sẽ có phạm vi mức độ quyền hạn, trách nhiệm khác nhau, song về cơ bản có các quyền:
-Quyết định “số phận” của doanh nghiệp: thành lập, giải thể, tổ chức lại, yêu cầu phá sản,…
-Quyết định điều lệ, mức vốn đầu tư (điều chỉnh, chuyển nhượng)
-Quyết định cơ cấu tổ chức quản lý, bộ máy quản lý doanh nghiệp.
Về trách nhiệm cũng giống như các chủ đầu tư khác, chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước chiu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi vốn/ cam kết góp vốn điều lệ như các cổ đông công ty cổ phần hay thành viên công ty TNHH.
Tương tự như trường hợp chủ đầu tư góp vốn là một tổ chức kinh tế, nhà nước thực hiện quyền của chủ sở hữu doanh nghiệp thông qua cơ chế đại diện, tức là nhà nước giao cho một số tổ chức, cá nhân có thẩm quyền, thực hiện các quyền hận và trách nhiệm của nhà nước tại doanh nghiệp mà nhà nước đầu tư góp vốn.
Bằng pháp luật, chủ sở hữu nhà nước quy định phân công, phân cấp cho các tổ chức, cá nhân thực hiện quyền hạn trách nhiệm của mình, tức là sẽ có nhiều đại diện chủ sở hữu nhà nước, mỗi chủ thể được phân công, phân cấp thực hiện những quyền hạn. Trách nhiệm khác nhau.
Thứ nhất, đại diện chủ sở hữu nhà nước trong quản lý hoạt động đầu tư vào các doanh nghiệp nói chung. Các tổ chức sau được phân công phân cấp thực hiện các quyền hạn và trách nhiệm của chủ sở hữu nhà nước:
– Thủ tướng chính phủ: có trách nhiệm trực tiếp đối với các tập đoàn kinh tế, Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước về các nội dung: Quyết định thành lập, giải thể, tổ chức lại, chuyển đổi sở hữu,… và phê duyệt một số đề án thành lập doanh nghiệp theo đề nghị của Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Thứ hai, đại diện chủ sở hữu nhà nước trực tiếp tại doanh nghiệp( đại diện thực hiện các hoạt động đầu tư kinh doanh cụ thể )
Tại công ty do nhà nước đầu tư 100% vốn điều lệ, hội đồng thành viên, chủ tịch công ty là người đại diện chủ sở hữu nhà nước trực tiếp tại công ty, có các thẩm quyền sau:
– Quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm hoặc đè nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm đối với các chức danh quản lý quan trọng trong công ty.
– Quyết định góp vốn, tăng giảm của công ty tại doanh nghiệp khác; quyết định tổ chức lại, chuyển đổi sở hữu, giải thể công ty.
3. Tổ chức quản lý vận hành nhà ở cũ thuộc sở hữu nhà nước
Luật sư cho em hỏi nhà biệt thự cấp 3 được bán cho dân theo nghị định 61CP thì qui định về sửa chữa bảo tồn như thế nào? Các hộ dân xung quanh khi xây dựng phải cách biệt thự là bao nhiêu? Em xin cảm ơn.?
Trong trường hợp của bạn là nhà biệt thự cấp 3 được bán cho dân nên sẽ thuộc trường hợp bán nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước cho người đang thuê theo quy định tại Nghị định 61-CP ngày 05-07-1994 về mua bán và kinh doanh nhà ở. Tuy nhiên, văn bản này hiện đã hết hiệu lực và được thay thế bằng các văn bản khác, đồng thời tên gọi đối với nhà ở theo quy định của Nghị định 61-CP được thay đổi là nhà ở cũ thuộc sở hữu nhà nước. Theo đó, văn bản hiện nay điều chỉnh đối với loại nhà ở này là Thông tư 14/2013/TT-BXD .
1. Cơ quan quản lý nhà ở quyết định giao cho doanh nghiệp nhà nước có chức năng kinh doanh nhà ở trên địa bàn (nếu có) hoặc ký kết hợp đồng thuê đơn vị có năng lực chuyên môn để thực hiện quản lý vận hành nhà ở cũ thuộc sở hữu nhà nước.
2. Đơn vị quản lý vận hành nhà ở cũ thuộc sở hữu nhà nước có các quyền và trách nhiệm theo quy định của pháp luật trong đó có nghĩa vụ tổ chức bảo trì, vận hành, cải tạo nhà ở theo phương án đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, kiểm tra, theo dõi phát hiện kịp thời và đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý các hành vi trong quản lý, sử dụng nhà ở.
3. Đối với nhà ở cũ là nhà chung cư thì tùy tình hình cụ thể mà cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà ở giao cho cơ quan quản lý nhà ở hoặc Ủy ban nhân dân cấp huyện thành lập Ban quản trị nhà chung cư. Việc thành lập Ban quản trị nhà chung cư được quy định như sau:
b) Ban quản trị nhà chung cư có từ 05 đến 07 thành viên, thành phần Ban quản trị bao gồm 01 đại diện đơn vị quản lý vận hành nhà ở, đại diện chủ sở hữu căn hộ và đại diện người thuê nhà ở. Cơ cấu Ban quản trị gồm 01 Trưởng ban và 01 hoặc 02 Phó trưởng ban, trong đó có 01 Phó trưởng ban là đại diện của đơn vị quản lý vận hành nhà ở.
4. Ban quản trị nhà chung cư có quyền và trách nhiệm sau đây:
c) Phối hợp với chính quyền địa phương, tổ dân phố trong việc xây dựng nếp sống văn minh, giữ gìn trật tự an toàn xã hội trong nhà chung cư được giao quản lý;
d) Định kỳ 6 tháng một lần, Ban quản trị nhà chung cư lấy ý kiến của chủ sở hữu căn hộ, người thuê nhà ở để làm cơ sở để đánh giá chất lượng dịch vụ quản lý vận hành của đơn vị quản lý vận hành nhà ở;
5. Đối với nhà ở cũ là nhà biệt thự nhiều hộ ở hoặc nhà ở nhiều tầng nhiều hộ ở mà không phải là nhà chung cư thì việc quản lý vận hành được thực hiện như sau:
a) Trường hợp nhà ở vẫn còn phần diện tích thuộc sở hữu nhà nước thì cơ quan quản lý nhà ở có trách nhiệm quản lý phần diện tích thuộc sở hữu nhà nước, các chủ sở hữu có trách nhiệm bảo trì phần diện tích sở hữu riêng.
b) Trường hợp nhà ở không còn diện tích thuộc sở hữu nhà nước thì các chủ sở hữu có trách nhiệm bảo trì phần diện tích sở hữu riêng và thỏa thuận đóng góp kinh phí bảo trì phần diện tích sở hữu chung, nếu không thỏa thuận được thì kinh phí được phân bổ tương ứng theo diện tích sở hữu riêng của từng hộ; việc quản lý vận hành nhà ở được thực hiện theo nguyên tắc thỏa thuận, tự quản của các chủ sở hữu nhà ở.
6. Cơ quan quản lý nhà ở phối hợp với đơn vị quản lý vận hành nhà ở rà soát, lập kế hoạch và dự trù kinh phí bảo trì phần sở hữu chung trong nhà ở thuộc sở hữu nhà nước để báo cáo cơ quan đại diện chủ sở hữu xem xét, phê duyệt trước khi thực hiện bảo trì diện tích này.
1. Đối với phần diện tích nhà ở, đất ở sử dụng chung trong khuôn viên nhà ở có nhiều hộ ở thì giải quyết theo quy định sau đây:
a) Phần diện tích nhà ở, đất ở sử dụng chung được công nhận phải có các điều kiện:
– Người đề nghị công nhận phần diện tích sử dụng chung phải là người đang sở hữu toàn bộ diện tích nhà ở mà Nhà nước đã bán (toàn bộ diện tích nhà ở này đã được cấp Giấy chứng nhận hoặc mới hoàn thành việc mua bán nhà ở);
– Người đang sở hữu toàn bộ diện tích nhà ở phải có đơn đề nghị giải quyết công nhận toàn bộ diện tích nhà ở, đất ở sử dụng chung;
– Diện tích nhà ở, đất ở sử dụng chung này phải không có tranh chấp, khiếu kiện.
b) Mức thu tiền nhà, tiền sử dụng đất đối với phần diện tích đất ở, nhà ở sử dụng chung được thực hiện theo quy định của pháp luật và không thực hiện miễn, giảm tiền sử dụng đất khi giải quyết công nhận phần diện tích này.
2. Trường hợp diện tích nhà ở, đất ở sử dụng chung không đủ điều kiện trên thì cơ quan quản lý nhà ở và đơn vị quản lý vận hành có trách nhiệm quản lý chặt chẽ diện tích sử dụng chung này (lập hồ sơ về số lượng nhà ở có diện tích sử dụng chung, tổng số diện tích sử dụng chưa bán, hiện trạng sử dụng…).
3. Đối với phần diện tích đất liền kề với nhà ở cũ mà diện tích này nằm trong khuôn viên của nhà ở đó thì thực hiện giải quyết theo quy định sau đây:
a) Phần diện tích đất liền kề phải thuộc một trong các trường hợp:
– Trường hợp nhà ở đã được hóa giá theo quy định pháp luật về hóa giá nhà ở trước ngày 05 tháng 7 năm 1994 (ngày ban hành Nghị định 61-CP về mua bán và kinh doanh nhà ở) mà người đang sử dụng chưa được công nhận quyền sử dụng diện tích đất liền kề với nhà ở đó;
b) Mức thu tiền sử dụng đất đối với diện tích đất liền kề, việc miễn, giảm tiền sử dụng đất đối với diện tích đất liền kề được thực hiện theo quy định của pháp luật.
4. Đối với diện tích liền kề với nhà ở thuộc sở hữu nhà nước nhưng diện tích này nằm ngoài khuôn viên của nhà ở thuộc sở hữu nhà nước thì thực hiện giải quyết theo quy định của pháp luật về đất đai.
5. Đối với trường hợp xây dựng nhà ở trên đất trống trong khuôn viên nhà ở thuộc sở hữu nhà nước mà không thuộc trường hợp đã nêu trên, nếu diện tích này phù hợp với quy hoạch xây dựng nhà ở và không có tranh chấp khiếu kiện thì người đang sử dụng nhà ở này được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất. Người được công nhận quyền sử dụng đất phải nộp 100% tiền sử dụng đất theo giá đất ở do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành có hiệu lực thi hành tại thời điểm thực hiện công nhận quyền sử dụng đất và người được công nhận quyền sử dụng đất không được miễn, giảm tiền sử dụng đất đối với diện tích này.
4. Việc quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước
Khẳng định: “nhà nước chỉ tham gia các giao dịch dân sự khi thực hiện việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của nhà nước” là đúng hay sai, vì sao? Và một hành vi chỉ có thể làm phát sinh thay đổi hoặc chấm dứt một quan hệ pháp luật dân sự là đúng hay sai, vì sao ??
Đối với khẳng định nhà nước chỉ tham gia các giao dịch dân sự khi thực hiện việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của nhà nước là một khẳng định sai.
Theo quy định tại Điều 202 “Bộ luật dân sự năm 2015”:
“Việc quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước được thực hiện trong phạm vi và theo trình tự do pháp luật quy định”.
Thực chất đối với tài sản thuộc sở hữu của nhà nước thì nhà nước sẽ có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản, tuy nhiên đối với một số trường hợp thì nhà nước vẫn có quyền định đoạt tài sản mặc dù tài sản đó không thuộc sở hữu của nhà nước
Như vậy, khi tham gia các giao dịch dân sự không chỉ là các giao dịch thực hiện việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của nhà nước mà có thể tham gia các giao dịch khác, tức là dù không phải tài sản củ nhà nước nhưng một só cơ quan nhà nước có thẩm quyền vẫn có quyền định đoạt đối với tài sản của cá nhân, tổ chức khác, ví dụ như việc cơ quan thi hành án tiến hành việc bán tài sản đã kê biên quy định tại Điều 108 Luật thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung 2014:
“1. Tài sản đã kê biên được bán theo các hình thức sau đây:
b) Bán không qua thủ tục đấu giá.
2. Việc bán đấu giá đối với tài sản kê biên là động sản có giá trị từ trên 10.000.000 đồng và bất động sản do tổ chức bán đấu giá thực hiện.
Đương sự có quyền thoả thuận về tổ chức bán đấu giá trong thời hạn không quá 05 ngày làm việc, kể từ ngày định giá. Chấp hành viên ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản với tổ chức bán đấu giá do đương sự thoả thuận. Trường hợp đương sự không thoả thuận được thì Chấp hành viên lựa chọn tổ chức bán đấu giá để ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản.
Việc ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản được tiến hành trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày định giá.
Việc bán đấu giá đối với động sản phải được thực hiện trong thời hạn là 30 ngày, đối với bất động sản là 45 ngày, kể từ ngày ký hợp đồng.
Đối với khẳng định một hành vi chỉ làm thay đổi hoặc chấm dứt một quan hệ pháp luật dân sự là không chính xác. Vì khi có một hành vi dân sự thì nó có thể làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một hoặc nhiều quan hệ pháp luật dân sự chứ không phải là chỉ một quan hệ. Ví dụ khi người lao động đơn phương châm dứt hợp đồng lao động với bên sử dụng lao động thì nếu hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng này là hành vi chấm dứt trái pháp luật thì ngoài việc chấm dứt quan hệ lao động thì còn phát sinh thêm quan hệ bồi thường thiệt hại, hoặc phạt hợp đồng giữa người lao động với bên sử dụng lao động, căn cứ quy định tại Điều 43 “Bộ luật lao động 2019” về nghĩa vụ của người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật:
“1. Không được trợ cấp thôi việc và phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.
2. Nếu vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người sử dụng lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước.
3. Phải hoàn trả chi phí đào tạo cho người sử dụng lao động theo quy định tại Điều 62 của Bộ luật này.”
Hiểu Hơn Về Quản Lý Sản Xuất
Dù là trong ngành công nghiệp nào, nhiệm vụ chính của quản lý sản xuất là đảm bảo việc sản xuất hàng hóa hiệu và và kịp thời, đạt tiêu chuẩn về số lượng cũng như chất lượng và nằm trong giới hạn ngân sách đưa ra. Họ cũng là người lên kế hoạch, thiết kế hệ thống sản xuất, phương pháp sản xuất, phối hợp và kiểm soát quy trình sản xuất.
– Phân tích dữ liệu sản xuất, lập kế hoạch, lên lịch trình sản xuất, đánh giá các yêu cầu dự án và nguồn lực – Ước tính, thỏa thuận và chốt ngân sách, khung thời gian sản xuất với khách hàng và các tiêu chuẩn quản lý chất lượng. Đảm bảo rằng sản xuất đúng lịch trình và nằm trong ngân sách – Nếu cần thiết, thỏa thuận lại khung thời gian sản xuất khi có thay đổi về việc lựa chọn, đặt hàng hay mua nguyên vật liệu
– Viết báo cáo sản xuất – Giám sát quá trình sản xuất – Giám sát công việc của cấp dưới – Thuê, đào tạo và đánh giá nhân viên. Theo dõi công nhân của nhà máy để đảm bảo công nhân đạt hiệu suất làm việc và yêu cầu về an toàn – Tạo quy trình sản xuất để đạt hiệu quả – Xác định những máy móc mới cần thiết hoặc tăng ca khi cần thiết. Tổ chức việc sửa chữa, bảo dưỡng định kỳ các thiết bị sản xuất – Sửa các lỗi sản phẩm: quản lý sản xuất phát hiện lỗi sản phẩm, nguyên nhân gây ra lỗi sản phẩm và giải quyết vấn đề để khắc phục lỗi đó – Tùy vào quy mô của nhà máy mà người quản lý sản xuất có thể giám sát toàn bộ hay một phần của nhà máy.
3. Quản lý sản xuất làm việc ở đâu
Quản lý sản xuất chia thời gian làm việc giữa khu vực sản xuất và văn phòng. Khi làm việc ở khu vực sản xuất, người quản lý có thể mặc đồ bảo hộ như mũ bảo hộ, kính bảo hộ… Quản lý sản xuất có thể làm việc đa dạng ở các doanh nghiệp sản xuất, công xưởng, nhà máy.
Hầu hết quản lý sản xuất làm việc toàn thời gian. Ở một số cơ sở, người quản lý có thể làm ca đêm hay ca cuối tuần để kịp thời hạn hoàn thành sản phẩm.
Trước khi trở thành quản lý sản xuất, người mới ra trường thường trải qua quá trình học việc, làm qua các công việc như giám sát sản xuất, kiểm soát hàng tồn kho hay nguyên vật liệu để tích lũy thêm kinh nghiệm.
Tham khảo khóa học “Kỹ năng giám sát và quản lý sản xuất“ do các giảng viên chuyên nghiệp tại trường Đào tạo Quản lý Kỹ năng SAM giảng dạy.
Mọi thông tin chi tiết về khóa học, Anh/ Chị có thể liên hệ BP. Tư vấn Trường SAM qua HOTLINE: 0901 457 245 – 0963 245 645 Điện thoại: (028) 39381118 – 39381119
Hoặc email: info@sam.edu.vn; tuvan@sam.edu.vn
Bạn đang xem bài viết Lý Giải Về Sở Hữu Tư Liệu Sản Xuất trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!