Xem Nhiều 3/2023 #️ Một Khái Niệm Ngôn Ngữ Hay Bị Nhầm Trên Truyền Thông # Top 3 Trend | Tvzoneplus.com

Xem Nhiều 3/2023 # Một Khái Niệm Ngôn Ngữ Hay Bị Nhầm Trên Truyền Thông # Top 3 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Một Khái Niệm Ngôn Ngữ Hay Bị Nhầm Trên Truyền Thông mới nhất trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Lâu nay, khi xem truyền hình hay đọc báo, chúng ta thường gặp tình huống nhầm lẫn khái niệm “từ” và “tiếng” hay “âm tiết” trong tiếng Việt…

Trên sóng truyền hình, đội ngũ phóng viên, biên tập viên, người nổi tiếng tham gia các vai trò như chuyên gia tư vấn, giám khảo hay nhân vật đồng hành v.v… là những đối tượng có tác động đến ngôn ngữ của xã hội.

Sự nhầm lẫn này trên truyền thông đại chúng, vô tình hay hữu ý, tác động tới đối tượng trẻ em, dẫn đến tình trạng hiểu sai kiến thức từ vựng ngôn ngữ mẹ đẻ…

Truyền thông đại chúng phải góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt

Chuyện hiểu nhầm khái niệm “từ” tiếng Việt như thế xuất hiện khá phổ biến trong đời sống, sinh hoạt, và đôi lúc đôi chỗ, xuất hiện trong cả báo in, phát thanh, truyền hình, báo mạng và thậm chí, cả trong nhà trường.

Báo chí là những phương tiện thông tin đại chúng có sức lan tỏa mạnh đến nhiều tầng lớp nhân dân, vì thế, những sơ sót này có tác động không nhỏ đến cả cộng đồng, đến nền giáo dục.

Tiếng Việt là tiếng đơn âm tiết, nên chuyện một TỪ trùng khít với một tiếng hay âm tiết (sylable) là phổ biến, là bình thường. Nhưng tiếng Việt có rất nhiều từ gồm 2, 3 âm tiết, nhà trường dạy học sinh gọi đó là “từ đôi”. Bát, đũa, chén, muỗng, ăn uống, ngủ, nghỉ… là từ đơn. Truyền hình, phát thanh, báo chí, in ấn… là từ đôi. “Sạch sành sanh” là một từ, một từ gồm 3 âm tiết. “Xã hội chủ nghĩa” (socialism) là một từ gồm 4 âm tiết (hay 4 tiếng).

Âm tiết – theo tự điển của Nguyễn Như Ý – là đơn vị phát âm tự nhiên nhỏ nhất của lời nói, gồm một hoặc vài âm tố, trong đó chỉ có một nguyên âm và có thể mang thanh điệu.

Truyền thông đại chúng phải góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt

“Âm tiết” hay “tiếng” được xét ở góc độ ngữ âm

“Từ” – theo tự điển của Nguyễn Như Ý – là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa hoàn chỉnh và cấu tạo ổn định, dùng để tạo câu. “Từ” được xét ở góc độ từ vựng học, ngữ nghĩa học, ngữ pháp học.

Theo định nghĩa trên thì ngay cả trong tiếng Anh, cũng có những từ đơn âm tiết và có những từ đa âm tiết. Ví dụ cat (con mèo) là từ có 1 âm tiết, monkey (con khỉ) là từ có 2 âm tiết. Có điều trong chữ viết tiếng Anh, phần lớn từ được viết dính liền nhau (trừ những từ ghép). Trước 1975 ở miền Nam, từ tiếng Việt được viết có dấu ngăn nối. Ví dụ: chính – phủ, sự – kiện v.v…

Chuyện nhầm lẫn 2 khái niệm “tiếng” và “từ” rơi vào rất nhiều games show trên sóng truyền hình cả nước. Không có gì khó khăn để tìm những ví dụ về chuyện lẫn lộn từ – tiếng trong truyền thông. Mà ngay cả trong nhà trường, như đã nói, nhiều khi chúng ta cũng bắt gặp sự lẫn lộn này. Chẳng hạn các dạng đề thi: “Hãy viết một đoạn văn không quá 300 từ” (thực tế người ra đề muốn yêu cầu viết một đoạn văn không quá 300 âm tiết). Trong trường hợp này, cái lỗi là do người ra đề bị ảnh hưởng tiếng Pháp, tiếng Anh (từ trong tiếng Tây, dù ít hay nhiều âm tiết phần lớn được viết ghép nhau, đoc nối nhau.

Báo in ngày nay tuy không còn mạnh trước sự lấn át của truyền thông trên nền tảng internet nhưng vẫn có vị trí quan trọng trong việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt

Nhưng những tranh cãi đó là chuyện học thuật không ảnh hưởng đến việc hiểu hai khái niệm khác nhau là “tiếng” và “từ”. Cách hiểu sai của giới truyền thông đã dẫn đến cách dùng sai khái niệm này trong đời sống.

Có một câu chuyện vui: ông giáo sư ngôn ngữ đi ăn sáng, thấy đề biển: “Ở đây có SÔI nóng” thì nhất định không ăn. Thà nhịn đói chứ không ăn SÔI, chỉ ăn XÔI thôi (mặc dù sai chính ta là việc của bà bán xôi, ăn là việc của giáo sư…).

Không phải khán giả truyền hình nào cũng biết phản ứng như vị giáo sư nọ bởi đa số đều xem truyền hình nói riêng và báo chí nói chung là những kênh thông tin – giáo dục – khuyến hoc. Và điều này cho thấy những người làm truyền thông còn cần phải thận trọng nhiều hơn.

Góp phần giữ gìn sự trong sáng cua tiếng Việt là đao đức, là trách nhiệm. Trong khi xã hội đang nỗ lực hết mình thì giới truyền thông cũng cần có những sự điều chỉnh tốt hơn vì mục tiêu chung.

Truyền Thông Và Ngôn Ngữ

Truyền thông và ngôn ngữ

Ngôn ngữ của chúng ta cũng bị ảnh hưởng bởi truyền thông. Truyền thông mới đóng một vai trò đặc biệt quan trọng ở đây. Một ngôn ngữ hoàn toàn đã nổi lên từ tin nhắn văn bản, email và chat. Tất nhiên, ở mỗi nước, ngôn ngữ truyền thông lại khác nhau. Tuy nhiên, các ngôn ngữ truyền thông có một số đặc điểm chung. Trên tất cả, tốc độ là quan trọng đối với người sử dụng chúng ta. Dù ở dạng viết, nhưng ta muốn tạo ra thông tin liên lạc trực tiếp. Có nghĩa là, Chúng ta muốn trao đổi thông tin càng nhanh càng tốt. Vì vậy, chúng ta mô phỏng một cuộc trò chuyện thực sự. Từ đó ngôn ngữ của chúng ta đã phát triển dạng nói nói. Các từ hoặc câu thường được rút ngắn. Ngữ pháp và quy tắc về dấu chấm câu thường được bỏ qua. Chính tả của chúng ta thường lỏng lẻo hơn, và giới từ thường mất hoàn toàn. Cảm xúc chỉ ít khi được thể hiện trong ngôn ngữ truyền thông. Ở đây chúng ta thích sử dụng cái gọi là biểu tượng cảm xúc. Đây là những biểu tượng nhằm thể hiện cảm xúc của chúng ta tại thời điểm nói. Ngoài ra còn có những mật mã riêng biệt cho nhắn tin và tiếng lóng cho giao tiếp trò chuyện chat. Do đó ngôn ngữ truyền thông là một ngôn ngữ rất ngắn gọn. Tuy nhiên, mọi người đều sử dụng nó theo một cách tương tự nhau. Các nghiên cứu chỉ ra rằng giáo dục hay trí tuệ không tạo ra sự khác biệt. Những người trẻ đặc biệt thích sử dụng ngôn ngữ truyền thông. Đó là lý do tại sao các nhà phê bình tin rằng ngôn ngữ của chúng ta đang bị đe dọa. Khoa học có góc nhìn ít bi quan hơn về hiện tượng này. Bởi vì trẻ em có thể xác định được khi nào cần viết và viết như thế nào. Các chuyên gia tin rằng ngôn ngữ truyền thông mới thậm chí còn có lợi. Bởi vì nó có thể thúc đẩy kỹ năng ngôn ngữ và sự sáng tạo của trẻ em. Và: ngày nay họ còn viết nhiều hơn – không phải thư tay, mà là thư điện tử – email! Chúng ta vui mừng về điều này!

© Copyright Goethe Verlag GmbH 2020. All rights reserved.

Một Số Vấn Đề Xung Quanh Khái Niệm Văn Hóa Truyền Thông

TS. Nguyễn Đức Hạnh∗∗

1. Con người và toàn bộ đời sống của xã hội loài người vừa là sản phẩm của tiến trình phát triển theo quy luật tự nhiên đồng thời vừa là kết quả của quá trình mà nó tách khỏi giới tự nhiên, tác động vào thế giới tự nhiên và sáng tạo nên đời sống xã hội theo ý chí của nó. Trong lịch sử xã hội loài người, điều có ý nghĩa nhất và cũng trở thành vấn đề đáng quan tâm hàng đầu chính là nền văn hóa mà con người đã sáng tạo ra trải rộng dài theo không gian và thời gian. Chính nhờ có văn hóa, nhờ có sự sáng tạo nền văn hóa mà con người trở thành con người với tư cách là động vật tư duy hay cũng có thể nói, chính vì là động vật tư duy nên con người đã trở thành sinh vật duy nhất có khả năng sáng tạo văn hóa.

Nghiên cứu để hiểu được con người và xã hội loài người cũng như cách thức mà con người sáng tạo ra cuộc sống chính là đi tìm câu trả lời cho những động cơ văn hóa của nó. Chính bởi do những động cơ văn hóa mà con người có thể đạt được những thành tựu đáng tự hào trong tất cả các lĩnh vực tư tưởng, tôn giáo, khoa học, nghệ thuật… Có thể nói văn hóa bao trùm lên mọi mặt, mọi khía cạnh của đời sống con người. Tuy nhiên chúng ta lại không thể có một khái niệm văn hóa để có thể sử dụng trong mọi trường hợp. Trên cơ sở một quan niệm chung rằng văn hóa là tất cả những yếu tố mang tính người, là sản phẩm do nhu cầu của xã hội loài người sản sinh ra, người ta tìm cách định nghĩa khái niệm văn hóa theo từng góc độ tiếp cận khác nhau nhằm đạt được những nhận thức phù hợp với khía cạnh cần quan tâm vượt qua những trở ngại về sự thiển cận hoặc tính mơ hồ. Người ta có thể phân loại và phân cấp toàn bộ nền văn hóa của loài người theo nhiều hệ thống khác nhau bởi những góc độ tiếp cận khác nhau thành những hiện tượng văn hóa cụ thể. Từ hiện tượng các cộng đồng người tập hợp thành dân tộc sẽ cho ta văn hóa dân tộc Việt, văn hóa dân tộc Hoa, văn hóa dân tộc Chăm… Hiện tượng các cộng đồng người sinh sống trong cùng điều kiện sẽ tạo nên những mô hình văn hóa mà từ đó chúng ta có thể nói tới văn hóa du mục, văn hóa buôn sóc, văn hóa làng xã … Từ các cộng đồng tôn giáo sẽ tạo nên văn hóa Phật giáo, văn hóa Hồi giáo, văn hóa Thiên chúa giáo… Từ những hiện tượng xã hội thuộc mọi lĩnh vực khác nhau trong đời sống cũng tạo nên những hiện tượng văn hóa đặc thù như: văn hóa giao thương, văn hóa hôn nhân, văn hóa quân sự, văn hóa chính trị, văn hóa truyền thông…

2. Khi con người thực hiện các hoạt động truyền thông để liên hệ, gắn kết với nhau trong quá trình duy trì và phát triển xã hội, cũng có nghĩa là nó đồng thời đang thực hiện các hoạt động sáng tạo văn hóa. Và trong toàn bộ hệ thống các hiện tượng xã hội, truyền thông được coi là một hoạt động văn hóa đặc thù. Nó vừa là kết quả của một quá trình văn hóa vừa có sự liên hệ tác động qua lại đối với các hiện tượng văn hóa khác. Như vậy, thuật ngữ văn hóa truyền thông trước hết xác định truyền thông là một hiện tượng văn hóa. Bất kỳ một hiện tượng văn hóa nào cũng vừa mang tính phổ biến đồng thời lại vừa là một hiện tượng đặc thù. Nói tới văn hóa truyền thông nghĩa là muốn nói tới những hoạt động do con người tiến hành xuất phát từ động cơ văn hóa thuộc tính người và chính vì thế hoạt động truyền thông là họat động phổ biến của xã hội loài người. Song hoạt động truyền thông lại tuân theo những nguyên tắc riêng và mô hình riêng so với mọi lĩnh vực hoạt động khác mặc dù bất cứ lĩnh vực hoạt động nào của con người cũng đều có quan hệ với truyền thông.

Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng những cơ sở đầu tiên xuất hiện truyền thông chính là từ khi con người hình thành nên ngôn từ và chữ viết. Người ta đã coi ngôn từ và chữ viết chính là những “kỹ thuật đầu tiên” trong lịch sử truyền thông. Mặc dù vấn đề hoạt động truyền thông trong thực tế phức tạp hơn rất nhiều, bởi vì bên cạnh truyền thông bằng lời người ta còn có thể nói đến truyền thông không lời (tức giao tiếp phi ngôn từ). Có nhiều cách định nghĩa lĩnh vực truyền thông, trong đó có truyền thông bằng ngôn từ, truyền thông phi ngôn từ và truyền thông biểu tượng. Truyền thông phi ngôn từ được hiểu là việc thực hiện truyền thông qua cử chỉ, điệu bộ và nét mặt… Các tác giả Brook và Health khẳng định rằng: Con người giao tiếp bằng ngôn từ để chia sẻ những thông tin mang tính nhận thức và để truyền bá kiến thức, nhưng họ phụ thuộc rất nhiều vào giao tiếp phi ngôn từ để chia sẻ tình cảm, xúc cảm và thái độ (1). Một số nghiên cứu đã cho thấy khoảng 93% “ý nghĩa biểu cảm” mà chúng ta cảm nhận được từ người khác là qua nét mặt và giọng nói. 7% còn lại là từ những ngôn từ mà chúng ta nghe được. Khi chúng ta truyền đạt thông điệp thông qua phương tiện lời nói tới người khác chính là việc thực hiện truyền thông bằng ngôn từ. Truyền thông biểu tượng được thực hiện thông qua những sự vật và ký hiệu trung gian được chúng ta qui ước, định sẵn một ý nghĩa và thể hiện một ý tưởng nhất định, ví dụ như những logo nhãn hiệu của hàng hóa hay các biểu tượng biểu trưng cho doanh nghiệp.

Nói chung, chúng ta cần hiểu rằng khái niệm về văn hóa ra đời phần nào do sự tiếp xúc lẫn nhau giữa các xã hội trên quy mô toàn cầu và do phản ứng nhân văn nhằm tạo ra một hệ thống kiến thức mà qua đó con người có thể dễ dàng chấp nhận, hiểu biết lẫn nhau. Bản chất xã hội của loài người xét cho cùng là vượt quá giới hạn theo quan điểm văn hóa đơn thuần. Tuy nhiên, con người ngay từ khi chào đời dường như đã được sở hữu những phẩm chất bẩm sinh mà chúng ta dễ dàng nhận thấy nhưng cũng rất khó giải thích: đó là một năng lực bẩm sinh cho các mối quan hệ xã hội. Năng lực này không ngừng vận động dưới tác động của các đối tượng xung quanh, chính điều này đã tạo nên một nền tảng cho sự hình thành “năng lực và thói quen văn hóa”, hay cũng có thể gọi là “nhu cầu văn hóa” mang thuộc tính của con người trong suốt quá trình phát triển.

Leslie Alvin White, nhà nhân chủng học người Mỹ nổi tiếng đã phân tích sự phát triển từ hành vi động vật đến hành vi người và đã đưa ra một quan điểm: Động vật, chỉ đến khi biết sử dụng biểu trưng, mới trở thành con người. Xuất phát từ đặc trưng cơ bản ấy, L.White đã định nghĩa văn hóa như sau: “Văn hóa là cơ chế của các hiện tượng, sự vật, hành động, tư tưởng, cảm xúc. Cơ chế này được tạo ra nhờ việc sử dụng các biểu trưng hoặc phụ thuộc vào biểu trưng đó” (2).

3. Hiện nay trong một số công trình nghiên cứu về báo chí và truyền thông thường tồn tại nhiều cách hiểu và cách sử dụng khác nhau đối với hai thuật ngữ thông tin và truyền thông. Tác giả Claudia Mast (CHLB Đức), trong cuốn Truyền thông đại chúng, những kiến thức cơ bản, (Trần Hậu Thái chuyển dịch tiếng Việt), đã dùng khái niệm thông tin và phân biệt với khái niệm truyền thông. Tuy nhiên các nội dung gắn với khái niệm thông tin dường như trùng với các nội dung gắn với khái niệm truyền thông thường thấy trong cách sử dụng của một số tác giả khác. Trong cuốn sách của mình, Claudia Mast thường sử dụng khái niệm thông tin thay cho truyền thông và thông tin đại chúng thay cho truyền thông đại chúng. Có lẽ đối với tác giả, khái niệm truyền thông trực tiếp gắn với hành vi chứ không phải gắn với những vấn đề thuộc về nội dung. Ví dụ, tác giả viết: “Báo chí là thông tin và thông tin là sự liên hệ quan trọng giữa con người hoặc thông qua ngôn ngữ, gọi là thông tin truyền khẩu hoặc qua các dấu hiệu khác như bắt chước và dùng điệu bộ, từ chuyên môn gọi là thông tin phi ngôn ngữ”(8). Thực ra trong tiếng Anh, sự phân biệt ý nghĩa giữa thông tin và truyền thông được thể hiện bằng hai từ khác nhau là Information (thông tin) và Communication (truyền thông). Ngày nay, thuật ngữ “thông tin” (information) được sử dụng khá phổ biến. Người ta hiểu Thông tin là sự phản ánh sự vật, sự việc, hiện tượng của thế giới khách quan và các hoạt động của con người trong đời sống xã hội. Bản thân thông tin chưa phải là truyền thông, tự nó chưa tạo nên cái gọi là truyền thông. Chỉ khi nào có sự tham gia của ý chí con người và truyền đạt thông tin một cách có định hướng, có mục tiêu thì mới hình thành nên hiện tượng gọi là truyền thông. Ví dụ trong tế bào sinh vật có chứa đựng các phân tử acid deoxyribonucleic (ADN) mang thông tin di truyền mã hóa cho hoạt động sinh trưởng và phát triển của các dạng sống, nhưng tự bản thân những thông tin di truyền này không thể tạo nên hiện tượng truyền đạt và giải mã thông tin. Thông tin có thể được lưu trữ trên những dạng vật liệu khác nhau như được khắc trên đá, được ghi lại trên giấy, trên phim ảnh, trên băng từ, đĩa từ… Thông tin có thể được hiểu là tất cả những gì mang lại hiểu biết cho con người, là nguồn gốc của nhận thức và là cơ sở của hành vi. Con người luôn có nhu cầu thu thập thông tin bằng nhiều cách khác nhau. Trong xã hội hiện đại, người ta thu nhận thông tin bằng cách đọc báo, nghe đài, xem truyền hình, giao tiếp với người khác… Trong khi đó, Truyền thông (communication) là một quá trình mà thông tin được chia sẻ và cũng là một kiểu tương tác xã hội trong đó ít nhất có hai tác nhân tương tác lẫn nhau, chia sẻ các qui tắc và tín hiệu chung. Ở dạng mô hình truyền thông đơn giản, thông tin được truyền từ người gửi tới người nhận. Ở dạng phức tạp hơn, quá trình truyền đạt thông tin cũng là quá trình tạo nên sự trao đổi liên kết giữa người gửi và người nhận.

Từ điển Wikipedia định nghĩa: “Truyền thông không chỉ là quá trình chia sẻ thông tin. Trong phần lớn trường hợp, các quá trình truyền thông là sự tương tác bằng dấu hiệu trung gian và giải mã. Ba mức độ quy tắc tín hiệu học thống trị các quá trình truyền thông là: cú pháp, thực dụng và ngữ nghĩa. Thế nên, truyền thông phần nào là một loại tương tác xã giao có ít nhất hai tác nhân tương tác cùng chia sẻ chung một bộ các ký hiệu và chung một quy tắc tín hiệu học”.

Các tác giả trong cuốn Truyền thông đại chúng trong hệ thống tổ chức quyền lực chính trị ở các nước tư bản phát triển đã phân biệt danh từ Thông tin với tư cách là nội dung của truyền thông và động từ Thông tin với tư cách là hoạt động truyền thông. Từ đó, trên cơ sở của từ tiếng Anh ‘communication’ (nguyên gốc Latinh ‘communicare’) các tác giả đã nêu lên một cách hiểu về khái niệm Truyền thông là: ” một quá trình trao đổi thông điệp giữa các thành viên trong xã hội nhằm đạt được sự hiểu biết, qua đó liên kết với nhau” (9). Các tác giả trong cuốn Truyền thông, lý thuyết và kỹ năng cơ bản sau khi giới thiệu hàng loạt định nghĩa về khái niệm truyền thông do các học giả nước ngoài (chủ yếu là các học giả phương Tây) nêu lên và sử dụng tương đối phổ biến trong thế kỷ 20, đã đưa ra một định nghĩa về truyền thông như sau: “Truyền thông là quá trình liên tục trao đổi thông tin, tư tưởng, tình cảm… chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm giữa hai hoặc nhiều người nhằm tăng cường hiểu biết lẫn nhau, thay đổi nhận thức, tiến tới điều chỉnh hành vi và thái độ phù hợp với nhu cầu phát triển của cá nhân/nhóm/cộng đồng/xã hội” (10).

Tác giả Jostenim Gripsrud, giáo sư nghiên cứu truyền thông người Na Uy, năm 2002 đã cho xuất bản cuốn Understanding Media Culture, (tạm dịch là: Hiểu biết về văn hóa truyền thông). Trong công trình này, tác giả đã nghiên cứu về toàn bộ cấu trúc của hoạt động truyền thông đại chúng về các phương diện chủ yếu như mối liên hệ giữa khán giả và phương tiện truyền thông đại chúng; Về các phương pháp tiếp cận văn bản truyền thông trong lịch sử; Về bối cảnh và các điều kiện xã hội, điều kiện công nghệ trong tương quan với lĩnh vực sản xuất truyền thông. Như tiêu đề của cuốn sách, tác giả gắn liến cấu trúc và quá trình của hoạt động truyền thông đại chúng như tổng thể một quá trình văn hóa, một hiện tượng văn hóa. Hiện tượng văn hóa này vừa là sản phẩm của môi trường văn hóa có tính lịch sử cụ thể vừa có sự liên hệ tương tác với các hiện tượng văn hóa khác và có tác động lên diện mạo của đời sống văn hóa, xã hội (11). Và theo những gì mà cuốn sách đề cập thì dường như thuật ngữ Media trong tiêu đề của tác phẩm, trong nhiều tình huống có thể được thay thế bởi thuật ngữ Communication. Tuy nhiên, với thuật ngữ Media các nhà nghiên cứu thường liên hệ đến một phương diện cụ thể của hoạt động truyền thông đó là các phương tiện thông tin đại chúng (Tiếng Anh: mass media).

Nhân loại học đã cố gắng dùng tư liệu để chứng minh tính phức tạp của tập quán truyền thông trong tất cả các nền văn hóa. Trong những năm gần đây, các nhà nhân loại học đã chuyển sang các mô hình truyền thông lưu tâm tới tính sáng tạo của con người và tính bất định vốn có trong tất cả các họat động truyền thông. Các nghiên cứu về cấu trúc ẩn dụ trong truyền thông cho thấy cách thức con người cố gắng khắc phục tính không chính xác thông qua hình tượng. Để phân tích năng lực truyền thông của con người, các nhà nghiên cứu đã ưu tiên lựa chọn phương pháp được gọi là phân tích ngôn bản. Phương pháp tiếp cận này thừa nhận quá trình truyền thông mang tính hợp tác giữa hai hay nhiều người. Các phương pháp tiếp cận lấy ngôn bản làm trung tâm không coi truyền thông là một hệ thống các cách truyền thông điệp tách biệt từ người này sang người kia. Thay vào đó, các phương pháp này lại coi truyền thông là một quá trình nổi bật lên mà khi tiếp diễn nó liên tục thay đổi hình thái và mục đích.

4. Vấn đề nghiên cứu văn hóa truyền thông trong những năm qua đã được nhiều học giả quan tâm ở những mức độ khác nhau. Tuy nhiên cách hiểu về khái niệm văn hóa truyền thông trong thực tế vấn còn chưa có sự thống nhất và thực sự vẫn còn đang là một đề tài mới mẻ với nhiều người. Trong chương trình giảng dạy tại các khoa báo chí và truyền thông thuộc Học viện Báo chí và Tuyên truyền hay tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh mặc dù các sinh viên được trang bị đầy đủ kiến thức về các môn cơ bản, các môn cơ sở ngành và kiến thức chuyên ngành nhưng chưa có một chương trình trang bị kiến thức về văn hóa truyền thông như một môn học riêng biệt.

Trong đời sống hàng ngày và trên các phương tiện thông tin đại chúng, đây đó chúng ta bắt gặp nhiều người sử dụng cụm từ văn hóa truyền thông theo cách tự phát. Đây là cách hiểu đơn giản do ảnh hưởng thói quen ngôn ngữ hàng ngày, như chúng ta thường nói đến văn hóa công sở, văn hóa bãi tắm, văn hóa giao thông… Hiện nay, trong thực tế có những người hiểu một cách đơn giản rằng văn hóa truyền thông là những cách ứng xử “có văn hóa” của những người làm truyền thông đối với các đối tượng xã hội và ngược lại. Ví dụ: tháng 6 năm 2005, trên báo điện tử VIETNAMNET có đăng một bài báo với tiêu đề Văn hóa truyền thông có cần hội nhập? Bài báo này là sự phê bình thái độ coi thường các nhà báo của sở Thương mại Thành phố Hồ Chí Minh khi sở này không tạo điều kiện cho các nhà báo tiếp cận các cuộc họp của đơn vị mình để đưa tin. Và bài báo nhận định: “Ý thức về vai trò truyền thông trong DN (doanh nghiệp) có thể do mỗi người cảm nhận khác nhau, song thật khó có DN nào thành công mà không có sự hợp tác tốt với phương tiện truyền thông đại chúng. Ông chủ thương hiệu cà phê Trung Nguyên, một DN rất trẻ nhưng đã có những thành công nhất định nhờ truyền thông tỏ vẻ rất ngạc nhiên khi biết có những DN cư xử với PV “hết sức cổ hủ” như vậy” (13). Dĩ nhiên, mối liên hệ và tương tác giữa những người hoạt động báo chí, truyền thông và các đối tượng kinh tế xã hội cũng là một khía cạnh biểu hiện của văn hóa truyền thông, nhưng nếu chỉ hiểu văn hóa truyền thông là như vậy thì chưa đủ. Một ví dụ khác, năm 2007 báo điện tử DANTRI của Hội khuyến học Việt Nam có đăng một bài báo mổ xẻ về Văn hóa bóng đá của người Việt Nam. Sau khi phân tích rất nhiều bất cập về Văn hóa, như văn hóa cầu thủ quá thấp, văn hóa người hâm mộ quá cực đoan và nặng tính chất “a dua” dẫn đến hậu quả đáng tiếc là những tài năng bóng đá như cầu thủ Văn Quyến vi phạm pháp luật và buộc phải bị loại khỏi danh sách đội tuyển mà tác giả gọi là “cái chết” của danh thủ, tác giả bài báo đi đến kết tội và phê phán văn hóa truyền thông: “nói gì thì nói cũng không thể phủ nhận rằng trong “cái chết” của Quyến có một phần lỗi của truyền thông. Nếu những tờ báo không quá “lăng-xê” Quyến, nếu người ta không quá tâng bốc Quyến để đẩy một đứa trẻ thiếu hành trang đi tới chỗ tự tôn, ngộ nhận thì Quyến có “chết đau” như lúc này không?…”(14). Quả thực tất cả những vấn đề xảy ra trong hoạt động báo chí ở bất cứ đâu, tại bất cứ thời điểm nào cũng đều thuộc về hiện tượng văn hóa truyền thông. Nhưng văn hóa truyền thông hiểu một cách đầy đủ phải là một chỉnh thể, trong đó bao gồm cả những điều được coi là có giá trị và cả những điều chưa hoàn thiện có nguyên nhân sâu xa từ chính bản thân đời sống xã hội. Năm 2008, tại hội thảo “Mỹ thuật Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa” do trường ĐH Mỹ Thuật, Viện Mỹ Thuật tổ chức tại Hà Nội, tác giả Phạm Trung có bài nghiên cứu Ảnh hưởng của văn hóa truyền thông đối với mỹ cảm của giới trẻ Việt nam hiện nay. Trong bài này, tác giả đã nhìn nhận truyền thông như một hiện tượng văn hóa có tác động mạnh đến mỹ cảm của giới trẻ, cụ thể là trong thị hiếu nghệ thuật của giới trẻ. Tác giả nêu ra ở đây trường hợp thanh thiếu niên nhiệt tình tiếp nhận nhạc Hip Hop (âm nhạc và văn hóa đường phố của Mỹ) và Manga (Truyện tranh Nhật Bản), từ đó lói sống sinh hoạt và thị hiếu của lớp trẻ có xu hướng thay đổi theo hướng thích nghi với sự tiêu dùng những sản phẩm văn hóa mới được du nhập. Ở đây tác giả nhấn mạnh đến những điều kiện của công nghệ thông tin hiện đại đã tạo nên sức mạnh ảnh hưởng to lớn của truyền thông đại chúng (15). Điều đáng chú ý ở đây là tác giả đã coi những hiện tượng văn hóa đại chúng là có liên hệ chặt chẽ với truyền thông đại chúng (nghĩa là nền văn hóa hiện đại trên một mức độ nào đó chính là sản phẩm của văn hóa truyền thông hiện đại).

Trong số những học giả có ảnh hưởng quan trọng đến giới nghiên cứu văn hóa truyền thông là Clifford James Geertz (1926-2006), nhà nhân học người Mỹ mà với những nghiên cứu thực địa ban đầu của ông tại Indonesia, nơi ông đã xây dựng nên khái niệm Negara giúp giải thích toàn bộ các hoạt động văn hóa và chính trị trong vùng Đông Nam Á. Một trong những công trình tiêu biểu của ông là cuốn The Interpretation of Cultures: Selected Essays (Tạm dịch là ‘Giải thích (học) về văn hóa – tuyển tập tiểu luận’ được xuất bản năm 1973. Với công trình này, ông được coi là người đã đóng góp lớn trong việc chuyển đổi tư duy trong các ngành xã hội và nhân văn, từ lối suy nghĩ tìm qui luật nhân quả sang tư duy xã hội học diễn giải (interpretative), đặt sự vật và hiện tượng trong hệ qui chiếu bản địa của ý thức địa phương. Nhìn xã hội qua văn hóa, và đặc biệt là những biểu tượng (symbol) phổ biến và đặc trưng trong nền văn hóa đó, Clifford cũng được coi là cha đẻ cho ngành nhân học biểu tượng và văn hóa học. Văn hóa được định nghĩa là “một hệ thống các khái niệm nối tiếp được diễn đạt thông qua các hình thức biểu tượng với các phương tiện mà người ta dùng để liên lạc, ghi nhớ và phát triển kiến thức và thái độ đối với cuộc sống” (23). Những vấn đề mà Clifford quan tâm và đặt ra những câu hỏi lớn về sự đa dạng của chủng tộc và bản chất khách quan của hệ thống trật tự xã hội đã góp phần quan trọng đối với các nghiên cứu văn hóa truyền thông với tư cách là một trong những lĩnh vực hoạt động có tính quyết định đối với sự phát triển của lịch sử nhân loại.

5. Bản thân khái niệm văn hoá truyền thông là một khái niệm được hình thành trên cơ sở những tác động qua lại có tính thực tiễn của hoạt động truyền thông lên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Cũng như nhiều hiện tượng xã hội khác, để có được một nhận thức khách quan đối với các vấn đề của hiện tượng Văn hoá truyền thông cần phải đồng thời có một quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể. Đây là một quá trình hoàn thiện nhận thức một cách có điều kiện và không phải nhất thành bất biến. Chính một quan điểm linh hoạt phù hợp với thực tiễn sẽ giúp điều chỉnh hoạt động truyền thông vào các mục tiêu phát triển xã hội phù hợp với đặc điểm văn hóa của dân tộc và thời đại đối với từng quốc gia, từng khu vực trong từng giai đoạn cụ thể.

Tài liệu tham khảo 1. Dẫn theo Nguyễn Quang, Giao tiếp phi ngôn từ qua các nền văn hóa, Nxb Khoa học xã hội, H, 2008. 2. White, Leslie Alvin, The Science of Culture: A study of man and civilization (Khoa học văn hoá: Nghiên cứu con người và nền văn minh), Farrar, Straus and Giroux, 1949. 3. Dẫn theo Hoàng Vinh Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hoá ở nước ta, Nxb. Văn hoá Thông tin, H, 1999, tr 18 -21; tr 36 – 37. 4. Dẫn theo Trần Quốc Vượng (chủ biên) Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, H, 2003, tr 23 -24. 5. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, H, 1997, tr 10. 6. Phan Ngọc, Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học, H, 2002, tr 19 – 20). 7. Đoàn Văn Chúc, Văn hoá học, Nxb Văn hoá Thông tin, H, 1997,tr. 56- 61. 8. Claudia Mast, Truyền thông đại chúng, những kiến thức cơ bản, Nxb Thông Tấn, Hà Nội, 2003, tr.8 9. Lưu Văn An (chủ biên) Truyền thông đại chúng trong hệ thông tổ chức quyền lực chính trị ở các nước tư bản phát triển, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2008, tr. 10. 10. Nguyễn Văn Dững (chủ biên), Truyền thông, lý thuyết và kỹ năng cơ bản, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2006, tr. 14-15. 11. Jostenim Gripsrud Understanding Media Culture, (Hiểu biết về văn hóa truyền thông), Published house Arnold, London, 2002. 12. (Dẫn theo) Thomas Barfield (1997), The Dictionary of Anthropoligy (Từ điển Nhân học), Harvard. 13. chúng tôi (2005) 14. chúng tôi (2007) 15. Phạm Trung, Ảnh hưởng của văn hóa truyền thông đối với mỹ cảm của giới trẻ Việt nam hiện nay, bài tham luận tại Hội thảo “Mỹ thuật Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa” do trường ĐH Mỹ Thuật, Viện Mỹ Thuật tổ chức tại Hà Nội, 2008. 16. Trần Ngọc Tăng, Vai trò của truyền thông đại chúng trong giáo dục thẩm mỹ ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2001 17. Lê Thanh Bình, Báo chí truyền thông và kinh tế văn hóa xã hội, Nxb Văn hóa – Thông tin, H, 2005 18. Bùi Hoài Sơn, Phương tiện truyền thông mới và những thay đổi văn hóa xã hội ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, H, 2008 19. Lê Thanh Bình, Truyền thông đại chúng và phát triển xã hội, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2008 20. Tạ Ngọc Tấn, Đinh Thị Thúy Hằng – Cẩm năng đạo đức báo chí, Bộ Thông tin và Truyền thông và Đại sứ quán Thụy Điển tại Việt Nam xuất bản năm 2009 21. Williams,Raymond, Culture and Society (‘Văn hóa và xã hội’), London, Chatto and Windus, 1958. New edition with a new introduction, New York, Columbia University Press, 1963 22. Williams, Raymond, Television: Technology and Cultural form (‘Truyền hình: Công nghệ và hình thức văn hóa’), Technosphere Series, London, Collins, 1974 23. Clifford Geertz, The Interpretation of Cultures (‘Giải thích học về văn hóa’), New York: Basic Books, 1973 24. Stam, Robert, Subversive Pleasures: Bakhtin, Cultural Criticism, and Film ( ‘Người làm lật đổ thú vị: Bakhtin, phê bình văn hóa và phim ảnh’), Baltimore: Johns Hopkins University Press, 1989 25. Stam, Robert (with Ella Shohat):Unthinking Eurocentrism: Multiculturalism and the Media (‘Phản thuyết Châu Âu là Trung tâm: Đa văn hóa và truyền thông’), Routledge, 1994 26. Kellner, Douglas, MEDIA CULTURE (Culture Studies; Identity and politics; Between the modern and the postmodern) First Published 1995 by Routledge 27. Porter, Vincent, “Việc sắp đặt lại của truyền hình: tính đa nguyên, tính hợp pháp và thị trường tự do ở Mỹ, Tây Đức, Pháp và Vương quốc Liên hiệp Anh”, Văn hóa truyền thông và xã hội 11 (1/1989), 5 -27

Một số vấn đề xung quanh khái niệm văn hóa truyền thông

Admin Mr.Luân

Với kinh nghiệm hơn 10 năm, Luận Văn A-Z nhận hỗ trợ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ một cách UY TÍN và CHUYÊN NGHIỆP. Liên hệ: 092.4477.999 – Mail : luanvanaz@gmail.com ✍✍✍ Báo giá dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ ✍✍✍

Khái Niệm Truyền Thông Đại Chúng

Khái niệm Truyền thông đại chúng * Khái niệm truyền thông đại chúng * Đặc trưng của truyền thông đại chúng * Chức năng của truyền thông đại chúng * Xu thế của truyền thông đại chúng và phương tiện truyền thông đại chúng; Truyền thông đại chúng là gì? – nhìn từ góc độ mô tả * TruyÒn th”ng ®¹i chóng lµ c¸ch thøc truyÒn ®¹t th”ng tin: – th”ng qua c¸c ph¬ng tiÖn kü thuËt (như ®µi ph¸t thanh, truyÒn hình, các Ên phÈm, phim ảnh, băng, ®Üa, m¹ng internet); – ®Õn ®¸m ®”ng c”ng chóng ph©n t¸n; – nh”m môc ®Ých cñng cè hoÆc thay ®æi nhËn thøc, quan ®iÓm hµnh vi cña hä ®èi víi c¸c vÊn ®Ò kh¸c nhau trong ®êi sèng x· héi. Truyền thông đại chúng là gì? Nhìn từ góc độ bản chất Truyền thông đó là một quá trình giao tiếp nhằm tạo lập một cách hiểu chung về vấn đề được đề cập. Thế nào là một hành động truyền thông? Thế nào là truyền thông đại chúng? DÊu hiÖuNguån M· ho¸ Vïng kinh nghiÖm Vïng kinh nghiÖm ĐiÓm nhËnGiải mã M” h×nh truyÒn th”ng cña Schramm (2) MÔ HÌNH TRUYỀN THÔNG CỦA BERLO Những th”ng ®iÖp đồng dạng Th”ng tin phản håi ĐÇu vµo tõ những nguån tin thêi sù, nghÖ thuËt, v.v.. Nhãm c”ng chóng Những ngêi thu nhËn, giải m·, diÔn giải, m· ho¸ Mçi ngêi kÕt nèi víi mét nhãm, n¬i th”ng tin ®îc t¸i diÔn giải M” h×nh truyÒn th”ng cña Schramm Các mặt của giao tiếp Mặt tương tác (Interactive) Mặt cảm nhận (perceptive) Mặt thông tin (Informative) So sánh: * “Quá trình thông tin” và “Quá trình truyền thông”; * “Truyền thông đại chúng” và “phương tiện truyền thông đại chúng”; * “Truyền thông đại chúng” và “báo chí” Các dấu hiệu đặc trưng của truyền thông đại chúng truyền thống Trong quá trình truyền thông đại chúng: * Các tài liệu, văn bản truyền thông được sản xuất để sử dụng trong một thời hạn ngắn; và * Được những tổ chức chính thức sản xuất ra với công nghệ phát triển; * Nhờ sự hỗ trợ của các loại kỹ thuật truyền thông khác nhau; * Có tiềm năng tác động đồng loạt tới một số lượng lớn công chúng mà đối với nhà truyền thông là vô danh; * Mang tính đại chúng, có nghĩa là không giới hạn sự tiếp cận; * Được truyền theo một hướng, có nghĩa là nhà truyền thông và người nhận tin không thể thay đổi vai trò. Đây là quan hệ bất đối xứng mà lợi thế nghiêng về phía nhà truyền thông; * Mang tính gián tiếp (không có phản hồi trực tiếp); cùng với * Tính chu kỳ của việc sản xuất thông tin; và * Các tư liệu truyền thông được cung cấp mang tính liên tục. Những ®Æc trng cña truyÒn th”ng ®¹i chóng (Về kênh dẫn truyền) * TÝnh gi¸n tiÕp cña truyÒn th”ng ®¹i chóng Nhà truyền thông Công chúng Phương tiện kỹ thuật Những ®Æc trng cña truyÒn th”ng ®¹i chóng (Về nhà truyền thông) 1. TÝnh cøng nh¾c cña viÖc chuyÓn ®æi vai trß giao tiÕp 2. TÝnh tËp thÓ của nhà truyền thông Những ®Æc trng cña truyÒn th”ng ®¹i chóng (Về thông tin) 1. TÝnh chu kú cña th”ng tin 2. TÝnh ®Þnh híng cña th”ng tin trong truyÒn th”ng ®¹i chóng Những ®Æc trng cña truyÒn th”ng ®¹i chóng (Về công chúng) 1. TÝnh ®¹i chóng cña c”ng chóng. 2. TÝnh ph©n t¸n cña c”ng chóng: vÒ kh”ng gian, thêi gian, nh©n khÈu x· héi. 3. TÝnh v” nh©n xng cña c”ng chóng: VÊn ®Ò “giao tiÕp mê”. Chøc năng cña truyÒn th”ng ®¹i chóng 1. Cấp độ hệ thống: Chøc năng x· héi 2. Cấp độ nhóm: Chøc năng t©m lý x· héi 3. Cấp độ cá nhân: Chøc năng t©m lý Chøc năng cña truyÒn th”ng ®¹i chóng Chức năng xã hội * Là công cụ của giai cấp lãnh đạo * Liên kết xã hội * Tổ chức, cổ động, tuyên truyền * Giáo dục, xã hội hóa * Hình thành và phản ánh DLXH Chøc năng cña truyÒn th”ng ®¹i chóng Chức năng tâm lý xã hội * Định hướng xã hội – Quan hệ giữa cá nhân và xã hội – Vấn đề hiện thực bậc 1 và bậc 2 * Liên kết nhóm – Quan hệ cá nhân – nhóm – Nhu cầu liên kết * Tương tác xã hội – Quan hệ cá nhân với cá nhân – Các chủ thể của tương tác Chøc năng cña truyÒn th”ng ®¹i chóng Chức năng tâm lý * Giải trí – Giải toả tình cảm – Giải toả những căng thẳng thần kinh – Các hình thức giải trí * Tự khẳng định – Củng cố quan điểm đã có – Thay đổi quan điểm Những xu híng ph¸t triÓn cña c¸c ph¬ng tiÖn truyÒn th”ng ®¹i chóng 1. Xu híng phi ®¹i chóng ho¸ (demassification) 2. Xu híng th¬ng m¹i hãa (commercalization) 3. Xu híng tương tác hóa (interactive vs. traditional media) 4. Xu híng toàn cầu hóa (globalization)

Bạn đang xem bài viết Một Khái Niệm Ngôn Ngữ Hay Bị Nhầm Trên Truyền Thông trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!