Cập nhật thông tin chi tiết về Ngôn Ngữ Và Tiếng Việt Từ Cách Tiếp Cận Của Lôgic Học mới nhất trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
(Văn hóa) – Nói đến tư duy là nói đến ý thức, tri thức, văn hóa, đạo đức của con người. Ngôn ngữ không phải là tư duy, nhưng ngôn ngữ không tách rời tư duy, vì ngôn ngữ là vỏ vật chất của tư duy. Ngôn ngữ là phương tiện để con người thực hiện hoạt động tư duy và truyền đạt tư duy cho nhau. Những hình thức cơ bản nhất của ngôn ngữ là tiếng nói và chữ viết. Giữa tư duy với tiếng nói và chữ viết có quan hệ phức tạp. Điều đó đúng đối với mọi thứ tiếng, trong đó có Tiếng Việt. Tiếng Việt dưới hình thức tiếng nói và chữ viết là tài sản tinh thần vô giá của người Việt Nam. Tiếng nói Việt có khả năng biểu đạt rõ ràng tư duy phong phú, sâu sắc và tinh tế của người Việt. Chữ viết Việt hiện nay là chữ Quốc ngữ; chữ đó dễ đọc, dễ viết, dễ ghi được tiếng nói Việt, dễ tương thích với các phương tiện công nghệ thông tin hiện đại, dễ hội nhập quốc tế. Người Việt Nam cần được trân trọng, nâng niu, giữ gìn và phát triển Tiếng Việt. Trân trọng, nâng niu, giữ gìn và phát triển Tiếng Việt cũng là trân trọng, nâng niu, giữ gìn và phát triển tư duy, văn hóa, tâm hồn của người Việt.Lôgic học là một trong các khoa học triết học. Đối tượng nghiên cứu của lôgic học là tư duy. Các khoa học triết học khác, cũng như các khoa học cụ thể, không nghiên cứu tư duy nói chung, mà chỉ nghiên cứu các hình thức cụ thể của tư duy. Ví dụ: triết học tự nhiên nghiên cứu tư duy tự nhiên, triết học xã hội nghiên cứu tư duy xã hội, toán học nghiên cứu tư duy toán, văn học nghiên cứu tư duy văn, kinh tế học nghiên cứu tư duy kinh tế, chính trị học nghiên cứu tư duy chính trị. Do có đối tượng nghiên cứu như vậy cho nên lôgic học là khoa học chung nhất, là “triết học thuần túy”, là “khoa học của các khoa học”; lôgic học có chức năng cung cấp phương pháp tư duy đúng đắn cho mọi khoa học khác. Khi nghiên cứu tư duy, lôgic học buộc phải nghiên cứu ngôn ngữ; bởi vì ngôn ngữ là vỏ vật chất của tư duy; người ta chỉ nhìn thấy, nghe thấy, sờ thấy ngôn ngữ, chứ không thể nhìn thấy, nghe thấy, sờ thấy tư duy. Nghiên cứu tư duy và nghiên cứu ngôn ngữ không thể tách rời nhau. Khi nghiên cứu ngôn ngữ, người nghiên cứu có thể xuất phát từ tư duy (đây là cách tiếp cập của lôgic học), hoặc là xuất phát từ các hình thức biểu hiện của ngôn ngữ (đây là cách tiếp cập của ngôn ngữ học). Nghiên cứu tư duy cũng như nghiên cứu ngôn ngữ đã có từ hàng nghìn năm nay. Tuy vậy, nhiều vấn đề về tư duy và ngôn ngữ vẫn chưa hoàn toàn rõ ràng. Nghiên cứu tư duy người Việt và ngôn ngữ người Việt cũng như vậy. Nhiều vấn đề về tư duy người Việt và ngôn ngữ người Việt vẫn còn có ý kiến tranh cãi. Bài viết này góp bàn một số vấn đề về ngôn ngữ nói chung và Tiếng Việt nói riêng từ cách tiếp cận của lôgic học, qua đó góp thêm ý kiến về vấn đề cải cách giáo dục ở Việt Nam hiện nay.
2. Ngôn ngữ từ cách tiếp cận của lôgic học
Con người là động vật duy nhất có tư duy và ngôn ngữ. Tư duy là thuộc tính của bộ não con người, là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan. Ngôn ngữ là cái biểu đạt tư duy. Ngôn ngữ có nhiều hình thức khác nhau. Tiếng nói là hình thức cơ bản đầu tiên của ngôn ngữ 2. Hình thức cơ bản thứ hai của ngôn ngữ là chữ viết. Tiếng nói của con người có từ khi loài người hình thành. Chữ viết chỉ xuất hiện khi con người đạt đến một trình độ văn minh nhất định 3. Ngoài tiếng nói và chữ viết, ngôn ngữ còn có nhiều hình thức khác. Cử chỉ của con người (như lắc đầu, gật đầu, nhắm mắt, trợn mắt, chỉ tay, giơ tay, khoanh tay, chắp tay, cười, khóc, nhảy…), tín hiệu và ký hiệu (như đèn xanh, đèn đỏ, đèn vàng, bảng chỉ dẫn, biểu tượng…) cũng được con người dùng để biểu đạt những ý nghĩ nào đó của tư duy, tức cũng là ngôn ngữ. Vì ngôn ngữ là cái biểu đạt tư duy, nên ngôn ngữ là công cụ để con người suy nghĩ; là phương tiện để con người giao tiếp với nhau, truyền đạt tư duy cho nhau.
Ngôn ngữ và tư duy không thể tồn tại tách rời nhau. Quá trình chuyển hóa từ vượn thành người trong lịch sử hàng chục vạn năm trước đây về thực chất là quá trình chuyển hóa từ động vật chưa có tư duy thành động vật có tư duy, từ động vật chưa có ngôn ngữ thành động vật có ngôn ngữ. Mỗi người khi mới sinh đều chưa có tư duy và ngôn ngữ, đến sáu tuổi tư duy và ngôn ngữ về cơ bản mới hình thành. Ngôn ngữ của con người ngày càng phát triển. Ngôn ngữ càng phát triển thì càng thúc đẩy tư duy của con người phát triển. Ngược lại, tư duy của con người càng phát triển thì càng thúc đẩy ngôn ngữ phát triển.
Tư duy được tạo thành từ các ý (ý nghĩ) khác nhau. Khái niệm và phán đoán là các hình thức cơ bản của tư duy. Mỗi khái niệm và mỗi phán đoán là một ý. Khái niệm và phán đoán là sự phán ánh của đối tượng. Ngôn ngữ là sự biểu đạt của tư duy. Từ và câu là các hình thức của ngôn ngữ; và là sự biểu đạt của khái niệm và phán đoán. Từ là sự biểu đạt của khái niệm. Câu là sự biểu đạt của phán đoán. Mỗi câu được tạo thành bởi nhiều từ; trong đó có chủ từ và vị từ. Từ và câu biểu hiện ở chữ và tiếng, nhưng không phải chữ nào và tiếng nào, cụm chữ nào và cụm tiếng nào cũng là từ và câu. Một chữ (chữ viết), một cụm chữ, một tiếng (tiếng nói), một cụm tiếng có thể là một từ, một câu, cũng có thể không phải là một từ, một câu. Trong tiếng nói và chữ viết của mỗi nước, mỗi từ đều có một cách viết và một cách đọc; mỗi câu cũng đều có một cách viết và một cách đọc. Ví dụ, trong tiếng Việt, chữ “chuỗng” và tiếng “chuỗng” không phải là một từ (vì chữ đó và tiếng đó không có nghĩa, tức là không được dùng để biểu đạt khái niệm nào). Như vậy, nói đến tư duy thì phải nói đến đối tượng mà tư duy phản ánh, phải nói đến các hình thức của tư duy như khái niệm, phán đoán; nói đến tư duy thì phải nói đến ngôn ngữ, các hình thức của ngôn ngữ, trong đó có tiếng, cụm tiếng, chữ, cụm chữ, từ, câu.
Vì khái niệm và phán đoán là các hình thức của tư duy, nên mỗi khái niệm và mỗi phán đoán (nếu đúng) đều giống nhau ở mọi người. Ví dụ, khái niệm “ngựa”, khái niệm “động vật”, phán đoán “ngựa là động vật” ở mọi người trên thế giới từ xưa đến nay đều giống nhau, nhưng được biểu đạt bởi nhiều từ và nhiều câu khác nhau tùy theo từng ngôn ngữ. Ví dụ 1: khái niệm “ngựa” trong Tiếng Việt được biểu đạt bởi từ “ngựa”; từ “ngựa” được thể hiện bởi chữ “ngựa” và tiếng “ngựa”. Khái niệm “ngựa” trong Tiếng Anh lại được biểu đạt bởi tiếng khác và chữ khác. Ví dụ 2: phán đoán “ngựa là động vật” trong Tiếng Việt được biểu đạt bởi cụm chữ “ngựa là động vật” và cụm tiếng “ngựa là động vật”; còn trong Tiếng Anh nó lại được biểu đạt bởi cụm chữ khác và cụm tiếng khác.
Tư duy có quy tắc của tư duy. Quy tắc của tư duy bao gồm quy tắc của khái niệm, quy tắc của phán đoán, quy tắc của suy luận. Đối với khái niệm, quy tắc của tư duy đòi hỏi chúng ta cần phân biệt ngoại diên của khái niệm với nội hàm của khái niệm. Mỗi khái niệm đều có một ngoại diên và nội hàm xác định. Công thức chung của khái niệm là: (A = a + b + c). Trong đó, A là một khái niệm; a, b, c là ba nội dung tạo thành nội hàm của khái niệm A. Nếu A = a + b + c, B = a + b + c, thì A và B trùng nhau về ngoại diên và đồng nhất về nội hàm; khi đó, A và B chỉ là hai từ đồng nghĩa, cùng được dùng để biểu đạt khái niệm “a + b + c”. Nếu A = a + b + c, B = a + b + c + d, thì ngoại diên của A bao hàm ngoại diên của B. Nếu A = a + b + c – d, B = a + b + c + d, thì A và B loại trừ nhau về ngoại diên. Nếu A = a + b, B = a + c, C = a + b + c, thì A và B có một phần trùng nhau về ngoại diên, phần ngoại diên trùng nhau đó là ngoại diên của C. Nếu A là một khái niệm nào đó, thì phủ định của khái niệm ấy (7A) cũng là một khái niệm; phủ định của phủ định của khái niệm ấy (77A) cũng là một khái niệm; A và 77A là hai khái niệm đồng nhất.
Đối với suy luận, quy tắc của tư duy đòi hỏi chúng ta phải phân tích cấu trúc của suy luận. Suy luận là tìm ra phán đoán mới từ các phán đoán đã có. Các phán đoán đã có là tiền đề của suy luận. Phán đoán mới là kết luận của suy luận. Để có kết luận đúng thì tiền đề suy luận phải đúng và cách suy luận phải đúng. Công thức của suy luận là: “vì a + b + c nên d”. Trong đó, a + b + c là tiền đề của suy luận; d là kết luận của suy luận. Suy luận có thể đi từ chung đến riêng hoặc từ riêng đến chung. Suy luận đi từ chung đến riêng là suy luận diễn dịch. Suy luận đi từ riêng đến chung là suy luận quy nạp. Suy luận trong tranh luận nhau là chứng minh. Khi khẳng định một phán đoán nào đó là đúng hay sai, thì chúng ta cần phải chứng minh vì sao chúng ta khẳng định phán đoán đó là đúng hoặc sai. Chứng minh phán đoán A là đúng đồng nghĩa với chứng minh phán đoán 7A là sai. Công thức của phép chứng minh cũng là công thức của suy luận (“vì a + b + c nên d”); tuy nhiên trong đó, a + b + c được gọi là các luận cứ của phép chứng minh; d được gọi là luận đề của phép chứng minh. Khi chứng minh một phán đoán nào đó là đúng hay sai thì: – cần phải xác định đúng nội dung của phán đoán ấy (nói cách khác, nếu chưa hiểu nội dung của một luận điểm nào đó thì không được cho rằng luận điểm đó là đúng hoặc sai, nếu chưa hiểu được đúng câu hỏi thì chưa được trả lời); – cần phải đưa ra các lý do (căn cứ, luận cứ); – các lý do đưa ra phải đúng, đủ và phải được kết hợp (luận chứng) một cách hợp lý. Bác bỏ (phê phán, phản biện) một phán đoán nào đó cũng là chứng minh, bởi vì khi bác bỏ một ý kiến nào đó thì chúng ta phải chứng minh rằng ý kiến đó là sai.
Giống như tư duy, ngôn ngữ cũng có quy tắc. Ngôn ngữ chung có quy tắc của ngôn ngữ nói chung. Mỗi ngôn ngữ riêng lại có quy tắc của ngôn ngữ đó. Tuy nhiên, quy tắc của mọi ngôn ngữ cũng đều phải phù hợp với quy tắc của tư duy. Bởi vì, từ là sự biểu đạt của khái niệm, câu đơn là sự biểu đạt của phán đoán đơn, câu phức là sự biểu đạt của phán đoán phức. Để sử dụng đúng một từ và một câu nào đó (dù câu đơn hay câu phức), chúng ta cần phải xác định được cấu trúc của khái niệm và phán đoán được biểu đạt ở từ và câu ấy. Nói rộng hơn, để sử dụng đúng ngôn ngữ cả ở hình thức tiếng nói và hình thức chữ viết, chúng ta cần phải xác định được cấu trúc của các khái niệm và phán đoán. Nếu không xác định đúng cấu trúc của khái niệm và phán đoán được biểu đạt bởi từ và câu được sử dụng, thì bài nói hoặc bài viết sẽ lủng củng, không rõ ràng, không lôgic, gây hiểu lầm. Chúng ta viết và nói vì muốn truyền đạt tư duy của mình cho người khác. Nếu người nghe và người đọc không hiểu được hoặc hiểu lầm tư duy của chúng ta, thì bài viết và bài nói của chúng ta là không thành công.
Khái niệm và phán đoán được biểu đạt bởi từ và câu, cụ thể hơn bởi chữ và tiếng. Tuy nhiên, giữa khái niệm và phán đoán với chữ và tiếng có quan hệ phức tạp. Tính phức tạp trong quan hệ giữa khái niệm với chữ và tiếng thể hiện ở những điểm sau. Thứ nhất, một khái niệm có nhiều tiếng nói và nhiều chữ viết. Ví dụ, khái niệm “Mặt Trời” là sự phản ánh của đối tượng Mặt Trời. Khái niệm “Mặt Trời” trong tư duy của mọi người trên thế giới đều giống nhau, nhưng nó được biểu đạt bằng những tiếng nói khác nhau và những chữ viết khác nhau (tùy theo từng dân tộc, từng địa phương, từng thời điểm). Trong Tiếng Việt, khái niệm “Mặt Trời” được biểu đạt bởi chữ “Nhật” và tiếng “Nhật”, chữ “Mặt Trời” và tiếng “Mặt Trời”. “Nhật” và “Mặt Trời” là hai từ khác âm đồng nghĩa. Trên thế giới, khái niệm “Mặt Trời” được biểu đạt bởi hàng nghìn chữ khác, và hàng chục nghìn tiếng khác. Thứ hai, nhiều khái niệm có một tiếng nói và một chữ viết. Ví dụ: trong Tiếng Việt, chữ “nhật” và tiếng “nhật” được dùng để biểu đạt cả khái niệm “nhật” và khái niệm “ngày”. Từ “nhật” trong Tiếng Việt là từ đa nghĩa (đồng âm khác nghĩa). Thứ ba, nhiều khái niệm có nhiều chữ viết nhưng chỉ có một tiếng nói. Ví dụ: trong Tiếng Việt, khái niệm “ca” (một loại đồ dùng trong gia đình) được biểu đạt bởi chữ “ca”; khái niệm “k” (một loại bệnh) được biểu đạt bởi chữ “k”; nhưng chữ “ca” và chữ “k” được đọc như nhau. Nói cách khác, trong tiếng Việt, hai chữ “ca” và “k” được phát âm giống nhau, hai chữ này được dùng để biểu đạt hai khái niệm khác nhau. Ví dụ khác, trong Tiếng Việt chữ “cuốc” và chữ “quốc” được phát âm giống nhau nhưng được dùng để biểu đạt hai khái niệm khác nhau. Thứ tư, một khái niệm có một chữ nhưng có nhiều tiếng nói. Ví dụ, trong Tiếng Việt chữ “lôgic học” (được dùng để biểu đạt một khoa học) có nhiều cách phát âm khác nhau cùng được chấp nhận (do chưa có quy định thống nhất). Nó có thể được đọc là: lo-gíc học”, “lô-gíc học” “lo-gích học”, “lô-gích học”. Ví dụ khác, chữ “HDI” có thể đọc là: “hát-đê-i”, “hát-dê-i”, “hát-đi-ai”, “ết-đi-ai”. Đối với những chữ vay mượn từ ngôn ngữ khác thường có tình trạng đọc không thống nhất.
Quan hệ giữa phán đoán với chữ và tiếng cũng có tính phức tạp giống như quan hệ giữa khái niệm với chữ và tiếng. Cụ thể, trong quan hệ đó: một phán đoán có nhiều tiếng nói và nhiều chữ viết, nhiều phán đoán có một tiếng nói và một chữ viết, nhiều phán đoán có nhiều chữ viết nhưng chỉ có một tiếng nói, một phán đoán có một chữ viết nhưng có nhiều tiếng nói. Trường hợp một phán đoán có nhiều tiếng nói và nhiều chữ viết là trường hợp các câu khác nhau có cùng một ý. Các câu khác nhau có cùng một ý là các câu khác nhau cùng được dùng để biểu đạt một phán đoán hoặc được dùng để biểu đạt các phán đoán tương đương nhau. Ví dụ, “không có sách thì không có tri thức”, “nếu không có sách sẽ không có tri thức”, “nếu không có sách thì không có tri thức”, “không có tri thức nếu không có sách”, “muốn có tri thức thì phải có sách”, “nếu có tri thức thì có sách”, “không phải rằng không có sách mà vẫn có tri thức”, “hoặc là phải có sách hoặc là không có tri thức”, “hoặc là không có sách hoặc là có tri thức” là 9 câu khác nhau nhưng có cùng một ý. Những câu như vậy có thể thay thế cho nhau. Đối với những câu có cùng một ý thì chỉ cần sử dụng một câu trong số đó. Nhưng muốn biết các câu nào đó có cùng một ý hay không, chúng ta cần phải xác định được cấu trúc của các phán đoán được biểu đạt ở các câu ấy. Nói cách khác, khi sử dụng ngôn ngữ thì chúng ta phải hiểu được tư duy. Hiểu được các quy tắc của tư duy là để sử dụng ngôn ngữ một cách đúng đắn. Sử dụng ngôn ngữ một cách đúng đắn là để trình bày đúng đắn nội dung của tư duy. Chúng ta cần trình bày đúng đắn nội dung của tư duy để người nghe và người đọc bài nói và bài viết của chúng ta hiểu đúng được điều chúng ta muốn nói và muốn viết.
3. Tiếng Việt từ cách tiếp cận của lôgic học
Tiếng Việt gồm có tiếng nói Việt và chữ viết Việt. Tiếng nói Việt và chữ viết Việt là tiếng nói và chữ viết của người Việt (người Kinh). Tiếng nói Việt xuất hiện cách đây hàng chục nghìn năm, bởi vì khi người Việt xuất hiện thì tiếng nói Việt cũng xuất hiện. Người Việt sử dụng chữ viết mới cách đây vài nghìn năm. Chữ viết được người Việt sử dụng lúc đầu là chữ Hán, sau đó là chữ Nôm và chữ Quốc ngữ. Ở Việt Nam hiện nay, có 54 dân tộc (sắc tộc), trong đó dân tộc đông người nhất là dân tộc Kinh. Mỗi dân tộc trong 54 dân tộc đó đều có một tiếng nói riêng, nhưng một số dân tộc vẫn chưa có chữ viết riêng.
Chữ viết Việt thời xưa là chữ Hán và chữ Nôm. Chữ Hán là chữ của người Hán. Người Việt và người Hán tuy cùng sử dụng chữ Hán nhưng đọc khác nhau. Chữ Nôm là chữ do người Việt sáng tạo ra trên cơ sở chữ Hán. Chữ Hán và chữ Nôm khó học, khó nhớ. Vì thế, trong thời phong kiến, hầu hết người dân không biết đọc và biết viết chữ Hán và chữ Nôm. Chữ Hán và chữ Nôm không những khó học, khó nhớ, mà còn khó biểu đạt được tư duy phong phú của người Việt. Chữ Hán và chữ Nôm không thể biểu đạt được nhiều bài ca dao, bài hát, bài thơ của người Việt. Vì thế, người ta chỉ có thể truyền miệng cho nhau các bài ca dao, bài hát, bài thơ này. Cách truyền miệng rất hạn chế, rất dễ làm sai lệch nội dung tư duy. Nhiều bài ca dao, bài hát, bài thơ đã bị thất truyền vì những người thuộc lòng bài ca dao, bài hát, bài thơ rất ít, và không phải bao giờ cũng được truyền lại được cho hậu thế.
Chữ viết Việt hiện nay là chữ Quốc ngữ. Chữ Quốc ngữ là chữ tượng thanh (chứ không phải là chữ tượng hình như chữ Hán và chữ Nôm), có thể ghi lại được bất kỳ tiếng nói nào của người Việt, thậm chí có thể ghi lại được cả tiếng nói có ngữ điệu tinh tế. Chữ Quốc ngữ dễ viết, dễ đọc, dễ học, dễ nhớ. Chính vì thế, hầu hết người Việt Nam hiện nay đều biết đọc và biết viết chữ Quốc ngữ chỉ sau vài tháng học. Chữ Quốc ngữ là công cụ thuận lợi cho hoạt động tư duy; là tài sản vô giá của Việt Nam mà không phải quốc gia nào ở Đông Á cũng có được. Người có công lớn trong việc sáng tạo ra chữ Quốc ngữ là Alexandre de Rhodes (phiên âm Hán Việt là A Lịch Sơn Đắc Lộ, sinh 15 tháng 3 năm 1591, mất 5 tháng 11 năm 1660), một nhà truyền giáo Dòng Tên và một nhà ngôn ngữ học người Pháp. Vào năm 1651, ông cho in cuốn Từ điển Việt-Bồ-La dựa trên các ký tự tiếng Việt của những giáo sĩ người Bồ Đào Nha và Ý trước đó. Sự kiện này được coi là sự kiện đánh dấu sự ra đời của chữ Quốc ngữ. Ngoài ra, Alexandre de Rhodes còn soạn cuốn Phép giảng tám ngày, một tác phẩm văn xuôi, phản ảnh văn ngữ và ghi lại cách phát âm của tiếng Việt vào thế kỷ XVII. Hai tác phẩm này đã khai sinh ra chữ Quốc ngữ cho người Việt [7].
Theo quy định của Nhà nước Việt Nam, chữ Quốc ngữ hiện nay có 29 chữ cái và 5 dấu thanh (huyền, sắc, nặng, hỏi, ngã). Nếu kết hợp 29 chữ cái và 5 dấu thanh, thì sẽ có 89 chữ cơ bản (viết thường) là: a, à, á, ạ, ả, ã, ă, ằ, ắ, ặ, ẳ, ẵ, â, ầ, ấ, ậ, ẩ, ẫ, b, c, d, đ, e, è, é, ẹ, ẻ, ẽ, ê, ề, ế, ệ, ể, ễ, g, h, i, ì, í, ị, ỉ, ĩ, k, l, m, n, o, ò, ó, ọ, ỏ, õ, ô, ồ, ố, ộ, ổ, ỗ, ơ, ờ, ớ, ợ, ở, ỡ, p, q, r, s, t, u, ù, ú, ụ, ủ, ũ, ư, ừ, ứ, ự, ử, ữ, v, x, y, ỳ, ý, ỵ, ỷ, ỹ. Trên sách báo hiện nay, nhiều người còn sử dụng cả 4 chữ cái tiếng Anh như f, j, w, z (như trong các từ: wifi, zalo, file, film, festival, sóng FM, máy fax, đèn flash, cafe, quần jeans, áo jacket, nhạc jazz, súng DKZ, xí nghiệp Z751, UNICEF, FAO, IMF, FIFA, WTO, WHO, WB). Trong số 89 chữ cơ bản nói trên, một số chữ cơ bản được đọc (phát âm) giống nhau. Ví dụ: “c”, “k” và “q” được đọc giống nhau; “i” và “y” được đọc giống nhau. Chữ cơ bản là chữ có một thành phần. Nhiều chữ cơ bản khi được ghép lại sẽ thành chữ đa thành phần. Ví dụ 1: ba, bà, bá, bả, bạ, bã, ân, ần, ấn, ận, ẩn, ẫn là các chữ hai thành phần. Ví dụ 2: ban, bàn, bán, bản, bạn, bãn, cân, cần, cấn, cận, cẩn, cẫn là các chữ ba thành phần. Nhiều chữ kết hợp lại sẽ thành cụm chữ. Một chữ và một cụm chữ có một âm (tiếng) và một cụm âm (cụm tiếng) tương ứng. Ví dụ, “ăn cơm” là một cụm chữ gồm hai chữ và hai âm; “con cò bay lả bay la” là một cụm chữ gồm sáu chữ và sáu âm. Một chữ, một âm có thể là một từ, một cụm chữ và một cụm âm cũng có thể chỉ là một từ. Ví dụ, “cơm” là một chữ, một âm và cũng là một từ; “nhà ở” là một cụm hai chữ, cụm hai âm và cũng chỉ là một từ; “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” là một cụm chín chữ, cụm chín âm, nhưng cũng chỉ là một từ.
Một chữ chỉ có một âm tương ứng, trong đó có chữ nguyên âm và chữ phụ âm. Những chữ nguyên âm và những chữ phụ âm được sử dụng để đánh vần. Ngoài 89 chữ và âm cơ bản nói trên, một số chữ khác (như: oa, òa, óa, ọa, ỏa, õa, oe, òe, óe, ọe, ỏe, õe, uy, ùy, úy, ụy, ủy, ũy, ch, gh, kh, ng, ngh, nh, ph, th, tr, gi, qu, ia, ìa, ía, ịa, ỉa, ĩa, ie, ìe, íe, iẹ, ỉe, ĩe,…) cũng được sử dụng để đánh vần. Các nhà ngôn ngữ học chưa có sự thống nhất trong việc xác định các chữ nguyên âm và các chữ phụ âm được sử dụng để đánh vần. Tuy nhiên, cách tạo chữ và cách đọc chữ trên cơ sở các nguyên âm và các chữ phụ âm là đặc trưng của Tiếng Việt hiện nay. Cách tạo chữ này giúp cho chúng ta, nhất là cho trẻ em người Việt, dễ học Tiếng Việt. Nếu viết đúng và đọc đúng các chữ nguyên âm và các chữ phụ âm nói trên (khoảng hơn 100 chữ), thì chúng ta sẽ dễ dàng đọc được và viết được mọi chữ khác 4. Trong Tiếng Việt, có một số trường hợp tuy nói giống nhau nhưng viết khác nhau (như: c và k, ca và ka, i và y, si và sy, sĩ và sỹ, cuốc và quốc,…); có một số trường hợp tuy viết giống nhau nhưng nói khác nhau (ví dụ: “logic học”, “HDI”,…). Ngoài ra, tùy theo từng vùng, từng miền, một chữ có thể được đọc theo nhiều cách khác nhau. Mặc dù vậy, nhìn chung trong Tiếng Việt, nói như thế nào thì viết như thế ấy, viết như thế nào thì nói như thế ấy. Đây là một ưu điểm của Tiếng Việt. Do Tiếng Việt có ưu điểm đó nên những người đã nói được tiếng Việt, đã thuộc các chữ nguyên âm và chữ phụ âm, thì sẽ dễ dàng viết và đọc được chữ Quốc ngữ.
4. Giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ và giáo dục tư duy cho trẻ em
Giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ cho trẻ em là việc được xã hội đặc biệt quan tâm. Cha và mẹ, nhất là mẹ, có vai trò quan trọng đối với việc giáo dục nhân cách nói chung và giáo dục tiếng mẹ đẻ nói riêng cho con của mình. Từ hàng nghìn năm nay, kể từ khi gia đình hình thành, mẹ bao giờ cũng là giáo viên đầu tiên và quan trọng nhất của con mình. Giáo dục quan trọng nhất cho trẻ em là giáo dục cho trẻ em biết cách đối xử đúng đắn với mọi người, có ý thức trách nhiệm đối với xã hội; sau đó mới là giáo dục cho trẻ em biết nói, biết đọc và biết viết. Trẻ em sáu tuổi đã hình thành nhân cách rồi, đã biết sống có văn hóa rồi. Việc giáo dục để trẻ em có được điều đó là rất công phu, công lao đó chủ yếu thuộc về mẹ của trẻ em. Công lao chủ yếu trong việc giáo dục tiếng mẹ đẻ cho trẻ em cũng thuộc về mẹ của trẻ em, dù cho họ không biết chữ. Bởi vì, tiếng mẹ đẻ không phải chỉ là chữ viết, mà còn là tiếng nói. Từ lúc con mình mới sinh, mẹ đã giáo dục con của mình rồi. Khi con được vài tháng tuổi, mẹ và con đã giao tiếp được với nhau (chẳng hạn, ở một số việc, mẹ nói con đã hiểu, con nói mẹ đã hiểu). Bình thường, trẻ em ba tuổi có thể giao tiếp lưu loát với mẹ, hiểu được nhiều câu chuyện, thuộc được nhiều bài hát và bài thơ, nói được nhiều câu dài; trẻ em sáu tuổi đã nói tương đối lưu loát, đã giao tiếp được ở mức độ cơ bản, đã biết cách đối xử đúng đắn với mọi người. Trẻ em có hiểu biết như vậy là nhờ có sự giáo dục của mẹ của mình.
Trình bày các quy tắc cơ bản của tư duy là nội dung cơ bản của môn lôgic học. Ở Việt Nam hiện nay (và ở nhiều nước khác), môn lôgic học mới chỉ được giảng dạy cho sinh viên đại học. Tuy nhiên, nhiều sinh viên vẫn không hiểu và không biết vận dụng thành thạo các quy tắc của tư duy. Sở dĩ có chuyện đó không phải là vì các quy tắc cơ bản của tư duy có nội dung phức tạp, mà là vì các quy tắc đó đã bị làm phức tạp hóa. Các quy tắc cơ bản của tư duy nhẽ ra cần phải được trình bày đơn giản và cần phải được dạy cho trẻ em ở bậc tiểu học. Bởi vì, điều đó sẽ giúp cho trẻ em có được phương pháp tư duy đúng đắn ngay từ nhỏ. Ở bậc tiểu học (không chỉ ở Việt Nam, mà cả ở nhiều nước khác), việc dạy ngôn ngữ đã bị làm tách rời với việc dạy các quy tắc của tư duy; điều đó không những làm hạn chế sự phát triển tư duy của trẻ em, mà còn làm hạn chế sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em. Nếu ở bậc tiểu học vì các lý do nào đó mà các quy tắc cơ bản của tư duy không được dạy cho trẻ em, thì ở nhà, cha mẹ nên dạy cho con mình các quy tắc cơ bản của tư duy. Bởi vì, hiểu biết các các quy tắc cơ bản của tư duy rất quan trọng đối với trẻ em; trong khi đó việc dạy các quy tắc cơ bản của tư duy lại rất đơn giản, mọi người lớn đều dễ dàng dạy được nội dung các quy tắc ấy. Nếu trẻ em không được dạy các quy tắc cơ bản của tư duy ở bậc tiểu học, thì khi lớn lên họ sẽ dễ mắc các lỗi sơ đẳng của tư duy. Các lỗi đó ví dụ là: sử dụng khái niệm mà không hiểu nội dung của khái niệm, sử dụng từ mà không hiểu nghĩa của từ, sử dụng câu mà không hiểu nghĩa của câu, nói mà không biết điều mình nói, viết mà không biết điều mình viết, chưa hiểu câu hỏi mà vẫn trả lời, không hiểu quan điểm của người khác mà vẫn ca ngợi hoặc phê phán họ, tuy cho rằng một điều nào đó là đúng nhưng lại không chứng minh vì sao điều ấy là đúng, tuy cho rằng một điều nào đó là sai nhưng lại không chứng minh vì sao điều ấy là sai. Sự vi phạm các quy tắc của tư duy còn thể hiện ở những lỗi như: nói huyên thuyên, nói lòng vòng, nói vòng vo, nói luẩn quẩn, nói lan man, nói nửa vời, nói nửa chừng, nói lạc đề, nói cùn, nói bừa, nói ẩu, nói để mà nói, nói không có sách mách không có chứng, nói lấy được, nói cho xong chuyên, nói lời nhưng lại nuốt lời, nghĩ một đằng nhưng lại nói một nẻo, nói vậy nhưng không nghĩ vậy, giận cá chém thớt, nói không nhất quán, nói ba phải, nói tự mâu thuẫn với mình, khẳng định một điều gì đó nhưng đồng thời lại phủ định điều ấy hoặc phủ định hệ quả tất yếu từ điều đó, v.v.. Những lỗi này khá phổ biến ở người lớn. Khi đã dạy các quy tắc cơ bản của tư duy cho cho trẻ em ở bậc tiểu học, thì không cần dạy lại các quy tắc đó cho sinh viên ở bậc đại học và sau đại học nữa. Tuy nhiên, ở bậc đại học, cần dạy cho sinh viên về phép biện chứng. Phép biện chứng chính là lôgic học biện chứng. Phép biện chứng và lôgic học biện chứng là hai từ khác nhau được dùng để chỉ một môn khoa học duy nhất; do đó, không cần hai từ, chỉ cần một trong hai từ đó. Lôgic học biện chứng là lôgic học cao cấp. Lôgic học đang được giảng dạy ở bậc đại học hiện nay là lôgic học sơ cấp. Lôgic học biện chứng cung cấp cho chúng ta phương pháp tư duy sâu sắc hơn so với các phương pháp tư duy mà lôgic học sơ cấp cung cấp. Dạy phép biện chứng (= dạy lôgic học biện chứng) có ý nghĩa quan trọng đối với những người muốn nghiên cứu các vấn đề của “thế giới rộng lớn”. Còn đối với những người chỉ muốn nghiên cứu những vấn đề “thuộc phạm vi của bốn bức tường trong gia đình”, thì những kiến thức về các quy tắc cơ bản của tư duy được trình bày ở môn lôgic học sơ cấp (và cần được dạy ở bậc tiểu học) cũng đủ cho họ sử dụng rồi 5.
Thông thường, khi vào lớp một, trẻ em mới được dạy đọc và viết chữ. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều gia đình (không chỉ ở Việt Nam) đã dạy đọc và viết chữ mẹ đẻ, thậm chí dạy cả ngoại ngữ, cho trẻ em năm tuổi. Nhiều trẻ em năm tuổi đã biết đọc và biết viết chữ. Vậy, có nên dạy cho trẻ em học đọc và học viết chữ trước khi vào lớp một hay không? Có hai ý kiến khác nhau về vấn đề này. Ý kiến thứ nhất cho rằng không nên như vậy. Ý kiến thứ hai cho rằng nên như vậy. Ý kiến thứ hai không phải là vô lý.
Để trả lời câu hỏi “có nên dạy cho trẻ em học đọc và học viết chữ trước khi vào lớp một hay không?”, chúng ta cần phải căn cứ vào tình huống cụ thể. Ví dụ, đối với chữ Quốc ngữ và đối với trẻ em người Việt ở các thành phố hiện nay, bố mẹ nên dạy cho trẻ em học đọc và học viết chữ trước khi vào lớp một. Còn đối với trẻ em người Việt ở các nông thôn hiện nay, hoặc đối với trẻ em các dân tộc thiểu số, thì không nên dạy cho trẻ em học đọc và học viết chữ Quốc ngữ trước khi vào lớp một. Bởi vì, trẻ em người Việt trước khi vào lớp một đã nói được lưu loát tiếng Việt; chữ Quốc ngữ là chữ dễ đọc và dễ viết; mọi người lớn đều có thể dễ dàng dạy cho trẻ em đọc và viết chữ Quốc ngữ. Hơn nữa, ngày nay ở thành phố của Việt Nam, đời sống vật chất sung túc hơn, trình độ dân trí cao hơn, phương tiện thông tin thuận lợi hơn, việc dạy trẻ em Việt đọc và viết chữ Quốc ngữ càng dễ dàng hơn.
Tiếng Việt dưới hình thức tiếng nói gắn liền với lịch sử phát triển lâu dài hàng chục nghìn năm của người Việt. Tiếng nói Việt có khả năng biểu đạt rõ ràng tư duy phong phú của người Việt, kể cả đối với tư duy khoa học sâu sắc và tinh tế, đồng thời là công cụ sắc bén cho người Việt trong hoạt động tư duy. Chữ viết Việt hiện nay (chữ Quốc ngữ) là loại chữ viết đơn giản, dễ đọc, dễ viết, dễ ghi được tiếng nói Việt, dễ tương thích với các phương tiện công nghệ thông tin hiện đại, dễ hội nhập quốc tế. Tiếng Việt (dưới hình thức tiếng nói và chữ viết) là tài sản tinh thần vô giá của người Việt. Người Việt cần trân trọng, nâng niu, giữ gìn và phát triển Tiếng Việt. Trân trọng, nâng niu, giữ gìn và phát triển Tiếng Việt cũng là trân trọng, nâng niu, giữ gìn và phát triển tư duy, văn hóa, tâm hồn của người Việt.
2 Trên thế giới hiện có gần 3.000 tiếng nói khác nhau. Mỗi dân tộc, mỗi sắc tộc, thậm chí mỗi vùng miền có thể có tiếng nói khác nhau. Ở Việt Nam có 54 dân tộc và nhiều vùng miền; mỗi dân tộc đều có tiếng nói riêng; mỗi vùng miền cũng thường có tiếng nói với ngữ điệu riêng. Trong đó, tiếng nói chính thức ở Việt Nam là tiếng nói được sử dụng bởi Đài Tiếng nói Việt Nam (phát thanh từ Hà Nội).
3 Nhờ có chữ viết nên con người có thể truyền đạt tư duy cho nhau một cách gián tiếp, tư duy của nhiều người thời cổ đại có thể truyền lại được cho thế hệ hôm nay. Chữ viết có thể là chữ viết tượng hình (như chữ Hán), hoặc là chữ viết tượng thanh (như chữ Anh). Số lượng chữ viết trên thế giới tuy ít hơn số lượng tiếng nói, nhưng không phải là số nhỏ. Chữ viết được ghi chủ yếu trong sách. Sách có các dạng như: sách bằng tre, sách bằng gỗ, sách bằng vải, sách bằng giấy, sách điện tử.
[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Tiếng Việt 1, Tập một, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
[2] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Tiếng Việt 1, Tập hai, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
[3] Nguyễn Thiện Giáp (2018), Từ và từ vựng học tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
[4] Nguyễn Ngọc Hà (1999), “Tính phức tạp trong việc sử dụng các thuật ngữ triết học”, Tạp chí Triết học, số 5.
[5] Nguyễn Ngọc Hà (2015), “Đơn gián hóa định nghĩa thuật ngữ”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 2.
[6] Nguyễn Văn Hòa (2014), Giáo trình Lôgích học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[7] https://vi.wikipedia.org/wiki/Alexandre de Rhodes, Truy cập ngày 2/9/2018.
[8] http://tiasang.com.vn/-giao-duc/Su-phat-trien-ngon-ngu-cua-tre–truoc-tuoi-den-truong-Ky-cuoi-10273, Truy cập ngày 2/9/2018.
Tác giả: chúng tôi Nguyễn Ngọc Hà Nguồn: Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 – 2018
Từ Điển Tiếng Việt (Viện Ngôn Ngữ Học)
Từ điển tiếng Việt
Bìa cuốn Từ điển tiếng Việt (tái bản năm 2010)
Thông tin sách Tác giảViện Ngôn ngữ học
Quốc giaViệt Nam
Ngôn ngữTiếng Việt
Thể loạiTừ điển
Nhà xuất bảnNhà xuất bản Từ điển Bách khoa
Từ điển tiếng Việt – còn được gọi là Từ điển Hoàng Phê – là một công trình khoa học do tập thể các nhà khoa học thuộc Viện Ngôn ngữ học – cơ quan nghiên cứu ngôn ngữ học hàng đầu của Việt Nam biên soạn dưới sự chủ biên của Hoàng Phê. Công trình đã được tặng Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ năm 2005.
Công trình Từ điển Tiếng Việt được bắt đầu thực hiện từ năm 1963, thu thập 3 triệu phiếu tư liệu, 100.000 phiếu biên soạn để lựa chọn khoảng 40.000 mục từ, hoàn thành và xuất bản lần đầu vào năm 1988.
Từ điển tiếng Việt được khởi thảo Đề cương biên soạn ngay sau khi Viện Ngôn ngữ học được thành lập vào năm 1968. Trên cơ sở gần ba triệu phiếu ngữ cảnh được trích từ các nguồn tài liệu sách báo khác nhau, trong đó có kho tàng ca dao, tục ngữ, thành ngữ Việt Nam, các tác phẩm văn chương, các công trình viết về các lĩnh vực khoa học, cuốn từ điển lần đầu tiên được ra mắt độc giả vào năm 1988. Tác phẩm có sự đóng góp về trí tuệ và công sức lao động của rất nhiều nhà văn hoá, nhà khoa học nổi tiếng khác ở Việt Nam khi thảo luận đề cương hoặc trực tiếp tham gia biên soạn, đặc biệt là các thuật ngữ.
Công trình khoa học từ điển giải nghĩa tiếng Việt được biên soạn và cách thức tổ chức làm việc quy mô rất công phu, từ ngữ được giải thích chính xác, trình bày khoa học, hợp lý. Dựa khối lượng ngữ liệu đồ sộ và hệ thống lý luận từ điển học đúc kết được qua nhiều năm nghiên cứu, kết hợp hài hòa giữa tính hàn lâm và đại chúng trong một công trình, nhóm biên soạn đã xử lý từ đồng âm, đa nghĩa hợp lý, đầy đủ và chính xác, đưa ra nhiều thí dụ phong phú, đa dạng, chuẩn mực và mang tính điển hình rất cao.
“
“Quyển từ điển đã được biên soạn trên cơ sở gần ba triệu phiếu tư liệu của Viện Ngôn ngữ học. Về thực chất nó là quyển từ điển đã được xuất bản tập I (A-C) trước đây dưới tên gọi Từ điển tiếng Việt phổ thông (Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1975), nhưng có phần nào đơn giản hơn, đặc biệt về mặt các thí dụ (không có thí dụ trích dẫn nguyên văn ở các tác phẩm văn học, những thí dụ loại này thật ra chỉ thích hợp với loại từ điển cỡ lớn nhiều tập). Mặt khác nó cố gắng phản ánh đầy đủ hơn tình hình phát triển của tiếng Việt hiện đại với một số biến đổi đã hoặc đang diễn ra trong chuẩn từ vựng và chuẩn chính tả”. – Trích Lời nói đầu (bản in lần thứ nhất).
“
“
“Hiện nay chưa có chuẩn chính tả thống nhất đối với nhiều từ mượn gần đây của tiếng nước ngoài, phần lớn là thuật ngữ khoa học-kỹ thuật. Đối với những từ ngữ có dạng chính tả bằng chữ cái Latin có tính quốc tế, có hai chủ trương: 1. viết “nguyên dạng”; 2. viết phiên âm bằng vần của quốc ngữ.
Chúng tôi nghĩ rằng cách viết nguyên dạng đối với từ ngữ có tính quốc tế là hợp lý, đáp ứng yêu cầu giao lưu văn hoá với các nước ngày càng mở rộng, dễ có chính tả thống nhất và tạo ra được sự thống nhất với quốc tế. Thực tế là mấy năm gần đây, lối viết gọi là nguyên dạng tên riêng nước ngoài và từ ngữ có tính quốc tế có xu hướng ngày càng phổ biến. Một số từ ngữ có tính quốc tế dùng gần đây trong tiếng Việt được viết hoàn toàn nguyên dạng: festival, stress, video, telex, FOB,… Tuy vậy cách viết phiên âm vẫn đang là phổ biến.Từ điển cần phản ánh trạng thái của ngôn ngữ ở vào một thời gian nhất định; nhưng không chỉ phản ánh cái tĩnh, mà điều không kém phần quan trọng là phản ánh cả cái động, cái xu thế phát triển”. – Trích Lời nói đầu (bản in lần thứ hai).
“
Công trình được xuất bản lần đầu năm 1988, được sửa chữa, bổ sung, tái bản nhiều lần. Nó đã được đông đảo độc giả Việt Nam hoan nghênh ngay từ lần ra mắt đầu tiên. Rất nhiều ý kiến, bài viết đã dành cho cuốn từ điển này những lời ngợi ca, đánh giá cao. Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học đã là nguồn tra cứu, trích dẫn đáng tin cậy của hầu hết các bài viết, sách chuyên khảo, đặc biệt là các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, khoá luận tốt nghiệp khi phân tích ý nghĩa của các đơn vị từ ngữ tiếng Việt, là cẩm nang tra cứu không thể thiếu của tất cả những người cầm bút, dù đó là nhà văn, nhà thơ, hay nhà báo, v.v… kể cả các nhà giáo giảng dạy tiếng Việt.
Từ điển tiếng Việt dày 1.208 trang, khổ 16 x 24 cm – Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, năm 1988, được tái bản nhiều lần, thu thập và giải thích khoảng 36.000 từ ngữ thường dùng trong đời sống và thường gặp trên sách báo, các từ ngữ phương ngữ phổ biến, các thuật ngữ khoa học – kỹ thuật thông dụng.
Công trình được chỉnh lý hai lần:
Lần thứ nhất, năm 1992: sửa 2.770 định nghĩa, bổ sung 2.090 mục từ, sửa chữa hoặc thay thế 3.510 thí dụ;
Lần thứ hai, năm 2000: sửa 2.903 định nghĩa, bổ sung 1.670 từ hoặc nghĩa mới, loại bỏ 41 từ hoặc nghĩa cũ, thay hoặc sửa chữa 387 thí dụ.
Tổng cộng số từ được thu thập, giải nghĩa là 39.924 mục. Có bổ sung sáu bản phụ lục: các dân tộc ở Việt Nam; các tỉnh, thành, huyện, thị trong nước; tên viết tắt của các tổ chức quốc tế; đơn vị tiền tệ các nước và đơn vị đo lường quốc tế.
Công trình Từ điển tiếng Việt giữ kỷ lục về số lần tái bản và số lượng phát hành, từ năm 1998 đến 2005 bộ từ điển này đã tái bản đến lần thứ 10, với số bản in kỷ lục: 150.000 bản.
Lần tái bản gần đây nhất của Từ điển tiếng Việt là vào năm 2010 do Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa ấn hành.
“
“Quyển Từ điển tiếng Việt này là quyển từ điển đầu tiên ở nước ta do một tập thể cán bộ ngôn ngữ học biên soạn trên cơ sở tư liệu tương đối đầy đủ. Nó có tác dụng thiết thực đối với việc chuẩn hoá và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Đây là quyển sách cần thiết cho những người muốn tìm hiểu, học tập, trau dồi tiếng Việt.”
“
Công trình này đã được trao tặng Giải thưởng nhà nước về Khoa học công nghệ năm 2005.
Gần đây, một số các nhà xuất bản tại Việt Nam đã cho in một số cuốn từ điển tiếng Việt kém chất lượng với hàng loạt các lỗi định nghĩa từ thiếu chính xác, thậm chí sai nghiêm trọng của một số tác giả như Vũ Chất, Bùi Minh Quốc, Hùng Thắng, Thanh Hương, Bằng Cẩm, Bùi Quang Tịnh, Bùi Thị Tuyết Thanh… Chẳng hạn, cuốn từ điển của Bùi Quang Tịnh và Bùi Thị Tuyết Thanh do Nhà xuất bản Thanh Niên in năm 2000 ở trang 987 định nghĩa “Tâm lý học” là: “ngành y học nghiên cứu các chứng bệnh của tim”. Cuốn Từ điển tiếng Việt của Vũ Chất (Nhà xuất bản Thanh niên – 2001) định nghĩa: “Khai quật” là “đào mồ lên” (nhầm với từ “quật mồ”, “quật mả”), “đề án” là “nghị án đưa ra để bàn cãi”.
Điều đáng nói là hầu hết các cuốn sách đó đều mạo danh cơ quan biên soạn là “Ngôn ngữ học Việt Nam”. Thậm chí, nhiều cuốn từ điển khác như: “Từ điển tiếng Việt” của Mạnh Tường do Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin ấn hành năm 2009, cuốn “Từ điển tiếng Việt” của “Nhiều tác giả” do Nhà xuất bản Hồng Đức ấn hành năm 2008 v.v… còn đề tên cơ quan biên soạn là “Viện Ngôn ngữ” ở phía dưới dòng chữ khó hiểu: “Khoa học – Xã hội – Nhân văn”. Điều này đã làm tổn hại đến uy tín khoa học của Viện Ngôn ngữ học, cơ quan chịu trách nhiệm biên soạn cuốn “Từ điển tiếng Việt” cũng như bản thân công trình Từ điển tiếng Việt của Viện.
Tiếp Cận Địa Thi Học Từ Góc Độ Triết Học
Chính Roger Caillois, vào một ngày nọ, đã từng so sánh tính phản xạ thái quá của triết học, thứ triết học mà người ta vẫn quen thực hành, với việc ngà của loài voi ma-mut tự cuốn tròn lại : nói khác đi, đó là triệu chứng « hết đường », « ngõ cụt », biểu hiện của việc thiếu hụt một trường sức mạnh thật sự. Đó cũng là cảm tưởng mà rất nhiều bản văn triết học mang lại cho người đọc và có thể cũng chính vì lẽ đó mà thời gian gần đây, có biết bao kẻ học đòi làm triết gia đã đổi hướng sang dân tộc học, xã hội học, hay thậm chí là cả tham luận trên các phương tiện thông tin đại chúng. Tuy nhiên, cần phải nói rằng, ngay trong nội tại của hoạt động triết học theo đúng nghĩa của nó thì ngay từ cuối thể kỉ 19 và trong suốt thể kỉ 20, cũng đã có những chuyển dịch, những đổi thay tâm điểm, những biến đổi topo mang tính nền tảng sâu sắc hơn và cũng lí thú hơn rất nhiều.
Điều này có lẽ cũng lại khởi điểm cùng Nietzsche, người đã tạo ra hình mẫu lí tưởng của một triết gia-nghệ sĩ điển hình. Và dù phê phán một cách triệt để thi ca và các thi nhân, cũng chính ông là người luôn thể hiện bản thân như một « nhà thi sĩ – thi sĩ cho đến tận cùng giới hạn của từ đó » và luôn tuyên bố rằng « hiện tượng người nghệ sĩ là hiển nhiên và tường minh nhất ». Trong đánh giá chủ quan của tôi, cả sự nghiệp triết học của Nietzsche, vốn tự thân nó đã thấm đầy day dứt và mâu thuẫn, chính là một sự quá độ đến sự hiển nhiên và tường minh đó. Cũng chính như thế mà Nietzsche, dù bản thân không hề hứng thú, đã từng đi xuyên qua « vùng trung lập » của thuyết hư vô để ngược dòng tìm đến trước cả thời của thuyết siêu hình (kết giao với những tư tưởng tiền-Xô-crat, đặc biệt là Héraclite), để rồi cố bước vào một không gian lý học không bị ngự trị bởi bất kì lí tưởng siêu nghiệm nào : Thượng đế, Ý tưởng (hay Quan niệm)… Quả vậy, ở Nietzsche có một sự siêu nghiệm, đó là Siêu nhân : « Siêu nhân, hay cái vượt trên cả con người, đó là ý nghĩa của thế gian ». Thiết nghĩ, huyền thuyết này, bởi đích thực không sai khi gọi nó như thế, đối với Nietzsche mà nói, chính là một phương tiện để tiếp tục sống, để sống-trên-tất cả-những gì còn lại. Tuy thế, khi ông nói trên quan điểm Siêu nhân, như trong Zarathoustra đã từng nói thế, diễn thuyết của ông nghe sao trống rỗng, thiếu nội dung, hoàn toàn rơi vào lối nói khoa trương trữ tình. Rất có thể trong bản thân khái niệm « ý nghĩa của trần gian » cũng còn lại chút tàn dư của tư tưởng mục đích, thậm chí là của thần học. Rất có thể đấy không phải là ý nghĩa, cũng chẳng phải số phận (ở đây, tôi nghĩ đến Ecce homo), mà là một cảm giác sống cô đặc. Có thể kể đến ở đây một trong nhiều nhận xét thiên tài và vô cùng khai sáng của Nietzsche : « Xung quanh người anh hùng, tất cả đều trở nên bi kịch ; xung quanh thánh nhân, tất cả đều biến thành thơ trào phúng ; xung quanh thần linh, tất cả đều trở thành thế gian trần tục ». Trong quan niệm của tôi, tư tưởng-cuộc sống của Nietzche nằm giữa bi kịch và thơ trào phúng. Có chăng, cái thiếu hụt ở đây là một sự vận dụng, dàn xếp thi học, hay một cái nhìn thi học về thế gian (mà hoàn toàn gạt bỏ được huyền thuyết). Nhưng điều tôi ghi nhận lại được từ Nietzsche, bên cạnh cách phân tích văn hóa triệt để của ông, đó là ông đã phác ra một nền mỹ học khác (« Một ý nghĩa của sự vĩnh cửu và sự ít phương tiện ») cũng như hình mẫu của nhà tư tưởng-thi sĩ.
Chính hình mẫu này đã ám ảnh triết học trong suốt một thế kỉ dài. Qua hết tiểu luận này đến tiểu luận khác, chúng ta có thể thấy được biết bao nỗ lực trong lĩnh vực triết học nhằm khai thông ra một cái gì đó gần giống với một tư tưởng thi học. Hình dung của tôi là, nhìn một cách đại thể, thông qua sự phá vỡ của thuyết siêu hình, chúng ta bước ra khỏi lịch sử của chủ nghĩa siêu hình để bước đến một nền địa lí học tinh thần mới, đến một không gian lí học và thi học mới, dù rằng phải thừa nhận rằng điều đó không hề dễ dàng gì. Khi thảo ra như một lời mào đầu những dòng suy nghĩ này, nhất là khi vấn đề đề cập đến ở đây là mối quan hệ giữa triết học và thi ca, tôi nghĩ Heidegger chính là gương mặt không thể không nhắc đến. Cũng như Nietzsche, ông cũng đã từng cố thử đi theo lối mòn của một « tư tưởng nhập môn » để hướng về cái mà ông gọi là những « quản hạt nguyên lai hơn », về một « khoảng trời quang mây mà triết học không hề biết gì đến », về một nơi nằm ngoài những khuôn khổ đã được định sẵn và cũng không khai thác được.
Trên những con đường đó, Heidegger hiển nhiên đã gặp những triết học gia, mà chủ yếu theo tư tưởng tiền-Xô-crat, nhưng đặc biệt ông còn đối thoại với cả những nhà thơ, với những kẻ lang thang đi tìm một topo mới về bản thể như Hölderlin, Rilke, René Char. Những cuộc hội ngộ với các nhà thơ này làm cho ông cảm thấy họ đứng trên một mảnh đất nền tảng hơn, cơ bản hơn mảnh đất triết học, và trên hết, ông cảm thấy họ đã suy nghĩ và trải nghiệm xa hơn rất nhiều. Dù rất thận trọng trong việc duy trì một khoảng cách nào đó giữa triết học và thi ca (thay vì đánh đồng hai lĩnh vực), Heidegger sau này khi viết về mối giao du của ông với Hegel và Hölderlin, đã nói rằng ngay từ cuối thế kỉ 18, « trong khi nhà thơ […] đã đi qua và phá vỡ chủ nghĩa duy tâm tự biện thì Hegel mới chỉ đang trên đường định hình ra điều đó ». Tuy thế, chúng ta cũng không còn lạ gì việc tinh thần kiên tín tỉnh lẻ cùng sự sùng tín quê hương của Heidegger, điều mà tôi tuyệt đối không tán đồng, đã đưa nhà triết học Đức đến những địa hạt tế nhị nào.
Deleuze đã triển khai những ghi chú này đặc biệt là trong Nghìn cao nguyên (1980), rồi sau đó tóm lược lại trong Triết học là gì ? (1991). Ở đó, tác giả nói đến ngành…. địa-triết học : « Chủ thể và Khách thể vốn không đủ bởi chúng khiến người ta phỏng chừng không chính xác về tư duy. Tư duy không phải là một sợi dây căng ra nối giữa một chủ thể và một khách thể, cũng chẳng phải sự xoay vần của một trong hai thể quanh cái còn lại. Tư duy cần phải hiểu trong mối quan hệ giữa địa và địa hạt ». Nếu chỉ dừng ở đó thì địa thi học hoàn toàn phù hợp và có chỗ đứng. Lí thú không kém phần phải kể đến phép biện chứng của Deleuze về khái niệm và hình (mà ở đó ông nói đến một « nhân vật khái niệm »), cùng sự phân tích của ông về tình hình chính trị-văn hóa chung : « Chúng ta thiếu một bản hoạch định thực sự (một hoạch định nội tại) ». Tuy nhiên, khi Deleuze đi đến định nghĩa khái niệm « địa-triết học », khi ông nói rằng « Nietzsche đã sáng lập ra ngành địa-triết học trong khi tìm cách xác định những đặc tính quốc gia của nền triết học Pháp, Anh và Đức », nhận định của ông, từ quan điểm của chúng ta, thật sự rất đáng thất vọng. Bởi trước hết, nếu đúng là như thế thì ngành địa-triết học chỉ là một giai đoạn rất sơ khởi trong tư tưởng Nietzsche khi ông đi dạo trên cao nguyên Engadine hay dọc vịnh Gênes. Cùng điều đó, những luồng, những cường độ của Deleuze và Guattari có lẽ mang trong mình một cái gì đó náo nhiệt, bồn chồn, một cái gì đó sớm vội và thậm chí là mang tính tâm thần phân liệt.
Trong cuốn Họa đồ phân tích phân lập (1989), nếu như Félix Guattari ra sức nói đến tính tất yếu của việc phải « định vị lại một cách cơ bản con người đối với môi trường », đến « trường khả dĩ », đến ham muốn được « mở ra một cái gì đó dài lâu hơn là những sôi động điên cuồng, chốc lát và tự phát », thì ngược lại, sự « diễn ngôn hóa duy năng » của ông chỉ khiến người ta cảm thấy hoài nghi, nhất là khi điều đó cuối cùng đưa đến một thứ ngôn ngữ vừa không tưởng vừa trữ tình, giống kiểu : « Chỉ có sự cô đặc lại của tiếng nói thứ ba, theo nghĩa tự quy chiếu, – hay nói khác đi, sự chuyển giao từ kỉ nguyên đồng thuận thông tin đại chúng sang một kỉ nguyên bất đồng thuận hậu thông tin đại chúng -, mới cho phép mỗi người đảm nhận một cách đầy đủ nhất những tiềm tàng mang tính quy trình của mình, cũng như có thể biến đổi hành tinh này, nơi mà ngày nay 4/5 dân số sống không khác gì trong địa ngục, thành một thế giới của những phép màu kiến tạo ». Tôi cảm thấy run sợ khi nghĩ đến việc những tư tưởng có lẽ hoàn toàn đầy thiện ý tiến hành thực hiện những « phép màu kiến tạo » như vậy.
Đối diện với những ý kiến lệch lạc và phô trương này, tôi có thể thấu hiểu việc một vài nhà triết học, những người mà ít theo đuổi thuyết sức sống, ít duy năng một cách trữ tình, thường thích thú hơn khi ẩn mình đằng sau tấm màn bảo vệ của Chủ thể-Khách thể hay của luật và pháp lí. Tôi thông cảm với họ, đồng thời cũng luôn nhủ với bản thân. Tuy nhiên, thông cảm ở đây không phải bởi vì họ sẽ bỏ lỡ dịp may (về điều này thì chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng họ), mà bởi vì họ rất có thể sẽ bỏ lỡ tư duy, cuộc sống, thế gian.
Kenneth WHITE
(Trích từ Plateau de l’Albatros, 1994)
(Bản dịch của Huy Linh Dao)
Lôgic Là Gì, Nghĩa Của Từ Lôgic
Kỹ thuật chung
Nghĩa chuyên ngành
lôgic Tranzito-Tranzito
logical security logical record report writer logical record logical design logical device table logical unit status table (LUST) LUST (logicalunit status table) logical variable logical variable logical expression logical chart logical unit (LU) LU (logicalunit) logical unit of work diactive logical unit (DACTLU) origin logical unit (OLU) OLU (originlogical unit) primary logical unit SLU (secondarylogical unit) independent lu (logicalunit) logical page identifier (LPID) LPID (logicalpage identifier) logical storage logical analyzer Network Logical Data Manager (NLDM) logical volume manager PLU (primarylogical unit) logical controller logical timer logical byte logical unit services logical drives Multiplexer Logical Elements (MLE) logical data structure logical construction logical structure logical indicator logical indicator network logical data manager (NLDM) NLDM (networklogical data manager) logical volume manager logical database logical gate logical gate Logical Page List (LPL) logical shift Shift Logical Right (SHR) Shift Logical Left (SHL) logical line logical value logical value logical input value Logical Link Control Sub-network Access Protocol (LLC/SNAP) LLC Protocol (LogicalLink Control Protocol) Logical Link Control Protocol (LLCprotocol) logical addition function logical function logical function ham logic. logical function logical multiplication function logical constant logical constant LCQ (logicalchannel queue) logical channel queue (LCQ) logical relation logical end of media logical channel Logical Channel (LC) Open Logical Channel (OLC) specific logical structure logical link Permanent Logical Link Connection (PLLC) logical end of media logical notion Logical Link Protocol Data Unit (LLPDU) logical block Logical Unit (LU) logical volume LU (LogicalUnit) system logical unit Primary Logical Unit (PLU) Secondary logical unit (SNA) (SLU) Control Logical Unit (CLU) Independent Logical Unit (ILU) Arithmetic and Logical Unit (AALU) logical unit control block (LUCB) LUCB (logicalunit control block) LDNCB (logicaldevice node control block) logical device node control block (LDNCB) logical check generic logical structure logical data type logical type logical line end symbol logical symbol logical channel identifier logical page identifier (LPID) LPID (logicalpage identifier) logical editing symbol logical escape symbol logical line delete symbol logical character delete symbol logical instruction logical link logical type logical error LLC sublayer (logicallink controlsublayer) logical link control sublayer (LLCsublayer) logical object class logical net logical flowchart logical circuit logical network logical record logical computer logical model logical model Logical Data Base Description (IMS) (LDB) Logical Terminal Profile (LTP) logical level logical access level logical paradox Logical Channel Identification (LCI) group of logical units LLG (logicalline group) logical line group (LLG) logical group logical terminal pool logical destination logical node Logical Group Node (LGN) logical drive logical drive logical complement logical element compound logical element compound logical element Logical Link Identifier (LLI) Logical Device Element (LDE) logical view logical selection logical shift logical calculus logical operation logical synthesis logical negation logical relationship Logical Volume Management (IBM) (LVM) logical decision logical false logical layout, organization logical term LGN (logicalgroup number) logical group number (LGN) Logical Channel Number (X.25) (LCN) Logical Unit Number (LUN) logical number Logical Channel Group Number (X.25) (LCGN) Logical Group Number (LGN) logical comparison Logical Inferences Per Second (LIPS) logical inferences per second (LIPS) LIPS (logicalinferences per second) Logical Page Number (LPN) LPN (logicalpage number) logical chart logical schema diode logical circuit logical unit number logical edit logical shift logical shift right logical shift left logical logging logical swapping logical addressing logical unit description (LUD) LUD (logicalunit description) logical partition logical paging logical comparison logical design logical swapping logical aid LLC (logicallink control) logical link control (LLC) enhanced logical link control (ELLC) logical link control type 1 ELLC (enhancedlogical link control) QLCLC (qualifiedlogical link control) qualified logical link control (QLLC) logical access control logical file join logical file ILF (independentlogical file) independent logical file (ILF) logical unit name logical file logical completion logical component logical “or” component logical “or” component logical “and” component logical AND completion logical file member logical device logical unit (LU) LU (logicalunit) logical unit DACTLU (de-active logical unit) diactive logical unit (DACTLU) peripheral logical unit destination logical unit (DLU) DLU (destinationlogical unit) logical output device logical terminal (LTERM) LTERM (logicalterminal) logical message logical order LDO (logicaldevice order) logical device order (LDO) logical product logical axiom logical layout, organization logical operator logical operator logical design logical synthesis logical sum logical workstation logical page logical low millions of logical inferences per second (MLIPS) logical field logical connector Logical Link (LL) Logical Unit Application (interface) (LUA) logical ring logical terminal pool logical algebra logical block address logical address LDA (logicaldevice address) Logical Device Address (LDA) Logical Disk logical destination Logical Link Control (LIC) LLC (LogicalLink Control) logical link control type 1/LLC type 1 logical link control type 2/LLC type 2 logical link control type 3/LLC type 3 Qualified Logical Link Control (QLLC) Common management information protocol Logical link control (CMOL) Logical Block Addressing (LBA) logical page length logical shift logical shift right logical shift left logical parent logical child logical object basic logical object composite logical object logical unit logical unit (LU) LU (logicalunit) DACTLU (de-active logical unit) diactive logical unit (DACTLU) OLU (originlogical unit) origin logical unit (OLU) ILU (initiatinglogical unit) initiating logical unit (ILU) activate logical unit (ACTLU) ACTLU (activatelogical unit) programmer logical unit primary logical unit PLU (primarylogical unit) SLU (secondarylogical unit) destination logical unit (DLU) DLU (destinationlogical unit) independent lu (logicalunit) logical link path logical path logical channel (packetmode operation) logical line pathlogical (a-no)
Nghĩa chuyên ngành
Bạn đang xem bài viết Ngôn Ngữ Và Tiếng Việt Từ Cách Tiếp Cận Của Lôgic Học trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!