Xem Nhiều 3/2023 #️ Nhà Nước Kiến Tạo Phát Triển: Khái Niệm Và Thực Tế # Top 7 Trend | Tvzoneplus.com

Xem Nhiều 3/2023 # Nhà Nước Kiến Tạo Phát Triển: Khái Niệm Và Thực Tế # Top 7 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Nhà Nước Kiến Tạo Phát Triển: Khái Niệm Và Thực Tế mới nhất trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Vai trò của nhà nước cũng thay đổi, từ chỗ đơn thuần là công cụ thống trị giai cấp chuyển sang làm chức năng cơ quan công quyền, quản lý xã hội, phục vụ, cung cấp dịch vụ công – Nhà nước kiến tạo phát triển.

Từ lý thuyết đến thực tiễn nhà nước kiến tạo phát triển được thể hiện ở các mô hình Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Pháp, Mỹ và ở các nước Scanđinavia đã thể hiện nội hàm, bảnchất của nó.

Đó là một mô hình quản lý nhà nước, trong đó nhà nước đề ra các chính sách mang tính định hướng phát triển,tạo môi trường và điều kiện cho các thành phần kinh tế phát huy mọi tiềm năng trong môi trường cạnh tranh và và hội nhập quốc tế; bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô.

Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Chính phủ nhiệm kỳ 2011 – 2016, được xác định là: “Phải chuyển mạnh từ nhà nước điều hành nền kinh tế sang nhà nước kiến tạo phát triển (NNKTPT)”. Tại phiên họp thường kỳ tháng 4/2016 của Chính phủ, Thủ tướng khẳng định: Chính phủ đẩy mạnh việc chuyển phương thức chỉ đạo điều hành từ mệnh lệnh hành chính sang Chính phủ kiến tạo và phục vụ.

Khái niệm “Nhà nước kiến tạo phát triển” được bàn khá rộng rãi trên các phương tiện truyền thông và diễn đàn khoa học, với những cách lý giải khác nhau về nội hàm, đặc điểm và những điều kiện xây dựng NNKTPT ở Việt Nam. Ở đây, trao đổi về nguồn gốc khái niệm và sự phát triển mô hình nhà nước ấy trong thực tế. Trên cơ sở đó, gợi ý cho việc xây dựng NNKTPT ở Việt Nam.

Từ những thập niên cuối của thế kỷ XX, thế giới đã có những đổi thay nhanh chóng và đứng trước hàng loạt vấn đề mang tính toàn cầu cần phải giải quyết như: Sự phát triển bùng nổ của khoa học – công nghệ, lực lượng sản xuất phát triển nhanh chưa từng thấy. Mạng Internet đã kết nối quá trình sản xuất, sinh hoạt và tư duy của con người…

Làm xuất hiện nền kinh tế tri thức, hoạt động chủ yếu của nền kinh tế ấy là sử dụng và sản xuất tri thức đã làm thay đổi sự tương tác giữa con người và con người trong sản xuất, phân phối, tiêu dùng và trong mọi quan hệ xã hội khác, kể cả quan hệ giữa nhà nước và công dân, giữa các chủ thể lãnh đạo, quản lý và đối tượng lãnh đạo, quản lý.

Khuynh hướng phát triển của thế giới những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI đặt ra yêu cầu phải có tư duy mới về phát triển, xác định lại vai trò của các chủ thể phát triển trong một thế giới toàn cầu hóa, liên kết lẫn nhau, tùy thuộc lẫn nhau.

Trước những thay đổi đó, vai trò của nhà nước cũng thay đổi mạnh mẽ, xuất hiện sự đánh giá lại và xác định lại vai trò của nhà nước trong phát triển. Nhà nước từ chỗ đơn thuần chỉ được coi là công cụ thống trị giai cấp, bộ máy cai trị, đã chuyển sang làm chức năng của cơ quan công quyền, quản lý xã hội, bộ máy phục vụ, cung cấp dịch vụ công… Người ta bắt đầu nói đến NNKTPT.

Ở Việt Nam, người đầu tiên đưa khái niệm này vào một văn kiện nhà nước là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại thông điệp đầu năm 2014. Gần đây, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cũng nhiều lần nhắc đến vai trò một nhà nước kiến tạo ở Việt Nam.

Trên các phương tiện truyền thông và diễn đàn khoa học “Nhà nước kiến tạo phát triển” cũng đã bắt đầu được nói tới với hàm ý, rằng Việt Nam cần phải xây dựng mô hình NNKTPT, chìa khóa để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới – kỳ vọng sẽ rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước khác trong khu vực và trên thế giới.

Nguồn gốc khái niệm

Khi xem xét sự phát triển kinh tế của Nhật Bản từ năm 1925 đến 1975, và đặc biệt khi so sánh với nền kinh tế Mỹ và Anh, Johnson trong cuốn sách MITI and the Japanese Miracle (1982) đã chỉ ra vai trò rất khác biệt của Chính phủ Nhật, mà nổi bật là MITI, trong việc đảm bảo một tốc độ tăng trưởng rất cao từ sau Thế chiến II. Sự khác biệt quan trọng nhất, không phải là sự can thiệp của nhà nước, mà cách thức mà nhà nước can thiệpvào nền kinh tế.

Có 2 cách thức nổi bật được nghiên cứu so sánh trong thời gian dài của cuộc chiến tranh lạnh đó là cách thức “nhà nước chỉ huy” như của Liên Xô và các nước XHCN thời đó (nhấn mạnh kế hoạch tập trung) và “nhà nước điều chỉnh” như các nước Anh, Mỹ và nhiều nước TBCN khác.

Nhưng Johnson chỉ ra, Nhật Bản mặc dù về cơ bản cũng đi theo mô hình TBCN và dân chủ phương Tây, lại thể hiện sự khác biệt là: dù “nhà nước không phải đóng vai trò thống soái như trong các nước XHCN, nhưng cũng không chỉ đóng vai trò thụ động “điều chỉnh” như ở các nước Anh, Mỹ mà có một vai trò lớn hơn nhiều, đặc biệt trong việc định hướng và tập trung nguồn lực cho các lĩnh vực kinh tế trọng tâm một cách nhất quán và trong thời gian dài. Ông dùng khái niệm “Nhà nước [kiến tạo] phát triển” (Developmental state) để chỉ sự khác biệt đó.

Như vậy, NNKTPT (DS) là nhà nước TBCN nên khác với nhà nước XHCN, dù gần gũi về tính chất chỉ huy, định hướng kế hoạch phát triển. Mặt khác, nó cũng khác với “nhà nước điều chỉnh” (Regulatory state) cho dù đều coi trọng thị trường và sở hữu tư nhân.

Trong những năm 1980 – 2000, với sự trỗi dậy mạnh mẽ của các nước NIC Đông Á như Hàn Quốc, Đài Loan, Xinhgapo v.v.. khái niệm NNKTPT và sự ưu việt của nó được quan tâm và tranh luận rộng rãi, thậm chí còn được coi là “phát triển quan trọng nhất” của khoa học chính trị trong những năm cuối thế kỷ XX. Khái niệm NNKTPT dù có nguồn gốc từ “Mô hình Nhật Bản”, sau này được phát triển và áp dụng cho một loạt nước, đặc biệt là các NIC Đông Á.

Ở tầm khái quát nhất, NNKTPT có thể được định nghĩa là nhà nước với vai trò chủ động và tích cựctrong phát triển kinh tế. “Sự chủ động và tích cực” có hàm ý là ngược với sự thụ độngcủa nhà nước đi theo quan điểm thị trường tự do (laissez-faire capitalism). Nếu nhìn nhận rộng như vậy, có thể thấy NNKTPT đã từng tồn tại từ lâu và ở nhiều nước rất khác nhau, cả về điều kiện tự nhiên và xã hội.

Bagchi (2003) đã khảo sát vai trò của các nhà nước và chỉ ra các NNKTPT đã từng tồn tại trong lịch sử ở một loạt nước phát triển ngày nay như Hà Lan, Đức, Anh v.v. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, ông cũng liệt cả Liên Xô và Trung Quốc thời kỳ trước 1980 vào các nước có NNKTPT.

Vấn đề NNKTPT có thể được nhìn nhận hẹp hơn trong điều kiện hiện nay, khi mà phần lớn các nước đều chấp nhận sở hữu tư nhân và nền kinh tế thị trường cạnh tranh như là cách thức chính trong tổ chức hoạt động kinh tế.

Sâu xa hơn, khái niệm này phản ánh một quan điểm khác trong cuộc tranh luận về mối quan hệ giữa “Nhà nước và thị trường” trong chính trị học và kinh tế học. Câu hỏi chính yếu ở đây là: Nhà nước nên chủ động dẫn dắt, kiến tạohay nên để cho các tín hiệu (cung – cầu) thị trường dẫn dắt, và do vậy chỉ nên làm các chức năng mang tính điều chỉnh, điều tiết ?

Sự thành công của Nhà nước Nhật Bản cũng như các NIC ở Đông Á, đặc biệt trong các thập kỷ 1980 và 1990 là các gợi ý cho các mô hình, chính sách phát triển khác.

Vấn đề nghiên cứu, tranh luận không phải là mô hình nào là tốt nhất cho sự phát triển, mà là liệu mô hình NNKTPT có phải là mô hình tốt hơnso với mô hình nhà nước tự do Âu – Mỹ đối với các nước đang phát triển? trong điều kiện hiện tại, Johnson và nhiều tác giả khác tin tưởng rằng, mô hình NNKTPT đúng là tốt hơn với các điều kiện nhất định mà nổi bật là về các thể chế chính trị của nhà nước đó.

NNKTPT với tư cách là một nhà nước đóng vai trò chủ đạo dẫn dắt sự phát triển kinh tế trong nền kinh tế thị trường, theo đó, khác với nhà nước điều chỉnh ở phương thức điều hành (tính “chủ đạo”) và khác với nhà nước chỉ huy ở đối tượng dẫn dắt (kinh tế thị trường chứ không phải nền kinh tế kế hoạch tập trung, quan liêu bao cấp). Nói cách khác, nó nằm giữa 2 thái cực: nền kinh tế chỉ huy tập trung và nền kinh tế thị trường tự do.

2. Nhà nước kiến tạo phát triển trong thực tế

Như trên đã đề cập, Nhật Bản là trường hợp được nghiên cứu đầu tiên bởi Johnson và là cơ sở chính cho sự hình thành ban đầu của khái niệm “Nhà nước kiến tạo phát triển”. Johnson, mặc dù dùng thuật ngữ “Mô hình Nhật Bản”, cũng đã cảnh báo về sự khái quát quá mức nếu chỉ dựa vào nghiên cứu Nhật Bản.

Nói cách khác, việc gọi cách thức mà Chính phủ Nhật định hướng và dẫn dắt phát triển kinh tế là một “mô hình” cần phải được dùng một cách thận trọng vì tính khái quát lý thuyết còn rất thấp và do vậy tiếp tục nghiên cứu các trường hợp tương tự ở các nước NIC Đông Á cũng như tại chính nước Nhật.

Các đặc điểm của mô hình NNKTPT Nhật Bản sau này cũng được đối chiếu và phân tích trong các trường hợp khác, đặc biệt là tại các nước NIC Đông Á.

Tuy nhiên, nhìn nhận rộng hơn (và ít bị sức ép về “xây dựng mô hình” hơn), trong tổng kết của mình, Chang cho rằng, nếu dùng định nghĩa chung nhất về NNKTPT (tức nhà nước có sự can thiệp chủ động để đẩy mạnh phát triển kinh tế) sẽ có thể thấy 3 kiểu nhà nước kiến tạo phát triển đã từng có trong các giai đoạn lịch sử khác nhau: Đông Á (và Pháp), Scandinavia, Mỹ.

Mô hình nhà nước kiến tạo của Đông Á

Đây được coi là mô hình “kinh điển”, nhất là Nhật Bản trong thời kỳ 1950 – 1980. Tuy nhiên, trong mô hình Đông Á cũng có các khác biệt nhất định.

Hàn Quốc chẳng hạn, mặc dù hiện nay đã chuyển theo hướng Tân Tự do và mang tính “nhà nước điều tiết”, nhưng trong thời kỳ 1960 – 1980 cũng đã thể hiện sự chủ động dẫn dắt sự phát triển, thông qua các chính sách đột phá (lựa chọn 1 vài ngành công nghiệp mũi nhọn), cơ quan điều phối siêu bộ (EPB – Ủy ban Kế hoạch Kinh tế) và sở hữu nhà nước trong toàn bộ khối ngân hàng. Đây là các đặc điểm mà Nhật Bản không có.

So với Nhật Bản và Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc) không có sự chủ động và mạnh mẽ định hướng như vậy, một phần là vì khu vực kinh tế tư nhân ở Đài Loan còn nhỏ, không có các đại công ty tư nhân như ở hai nước trên. Tính chủ động dẫn dắt được thể hiện chủ yếu ở vai trò thúc đẩy R&D và các doanh nghiệp nhà nước.

Xinhgapo cũng là mô hình NNKTPT khác biệt, với kết hợp cả thương mại và đầu tư tự do với khu vực doanh nghiệp nhà nước lớn.

Theo Chang, điều thú vị là mô hình Đông Á không chỉ có ở Đông Á mà Pháp cũng đã từng sử dụng chiến lược phát triển tương tự: nhà nước thông qua Ủy ban Kế hoạch (Commissariat Général du Plan) để chủ động định hướng và dẫn dắt các đầu tư và cũng sử dụng sức mạnh của các doanh nghiệp nhà nước là đầu tàu.

Mô hình nhà nước kiến tạo ở các nước Scandinavia

Ngoại trừ Phần Lan, các nước Scandinavia, cho đến những năm 1970, đều đã có các đặc điểm của NNKTPT với các điểm chính là:

– Các nước Scandinavia cũng có các định hướng chủ động trong các chính sách phát triển các ngành công nghiệp, cho dù không ở phạm vi rộng như các nước Đông Á.

Nhà nước Thụy Điển đã từng tập trung đột phá vào các ngành như luyện kim (giữa thế kỷ XVIII), đường sắt (1850), thủy điện (1890) v.v.. thông qua sự hợp tác và chủ động dẫn dắt khối doanh nghiệp tư nhân. Những năm đầu thế kỷ XX, Nhà nước Thụy Điển cũng thông qua các chính sách bảo vệ các ngành công nghiệp nặng (Chang, 2002, p. 39).

Nhà nước Đan Mạch cũng đã từng can thiệp và các chính sách ưu tiên định hướng cho sự phát triển xuất khẩu nông sản, và là động lực tăng trưởng chính trong những năm 1930.

– Các nước Scandinavia có sự chủ động trong đầu tư cho các hướng nghiên cứu phát triển, làm nền tảng cho các ngành công nghiệp được lựa chọn và ưu tiên. Cho đến nay, các viện, trung tâm nghiên cứu và phát triển lớn ở các nước này phần lớn là của nhà nước.

– Các chính sách phúc lợi được quan tâm, trong đó góp phần định hướng thúc đẩy sự biến đổi cơ cấu kinh tế; do vậy làm giảm sức ép chính trị đối với các lần tái cơ cấu kinh tế do nhà nước chủ động dẫn dắt.

Mô hình của các nước Scandinavia cho thấy, có thể có nhiều cách thức khác nhau mà không nhất thiết phải quá nhấn mạnh vai trò thống trị của nhà nước một cách thái quá như ở các mô hình Đông Á, và nhà nước kiến tạo có thể được thực hiện thông qua nhiều công cụ khác nhau, như chính sách phúc lợi, R&D… tùy thuộc vào bối cảnh chính trị – xã hội và điều kiện phát triển.

Mô hình nhà nước kiến tạo ở Mỹ

Mỹ, mặc dù được xem là “đối cực” của nhà nước kiến tạo hiện nay, cũng đã là nơi phát kiến các ý tưởng và thực hiện các chính sách của nhà nước kiến tạo. Một trong các ý tưởng cốt lõi của nhà nước kiến tạo là việc bảo vệ các ngành công nghiệp non trẻ (Infantry industry) chính là xuất phát từ Bộ trưởng Tài chính đầu tiên (Treasury Secretary), Alexander Hamilton, năm 1791.

Từ những năm 1830 cho đến Chiến tranh thế giới thứ II, Mỹ là nước có chính sách bảo hộ mậu dịch mạnh mẽ nhất. Sự bảo hộ đó không phải là bảo vệ chung chung mà có định hướng của nhà nước đối với đường sắt, nông nghiệp, giao thông thủy v.v. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng chủ động ưu tiên khu vực R&D.

Ngay cả sau Chiến tranh thế giới thứ II, khi đã nắm giữ các địa vị thống trị, và bắt đầu kêu gọi “tự do hóa thương mại và đầu tư”, Mỹ vẫn ẩn giấu các đặc điểm của NNKTPT theo cách đặc biệt, đó là sự chủ động tạo lập mạng lưới giữa các chuyên gia trong và ngoài nhà nước, để áp dụng các thành tựu khoa học – công nghệ mới vào kinh tế một cách nhanh và có lợi nhất.

Block gọi đây là kiểu “Nhà nước mạng lưới phát triển” (Developmantal network state), khác biệt với “Nhà nước hành chính phát triển” (Developmental bureaucratic state) của các nước Đông Á.

Dù có thể còn nhiều tranh cãi, nhưng thực tế là rất nhiều ngành công nghiệp của Mỹ có được lợi thế cạnh tranh do chính các định hướng, các đơn đặt hàng và đầu tư của nhà nước mà các ví dụ nổi bật là công nghiệp máy tính điện tử, dược phẩm, công nghệ gen v.v..

Như vậy, NNKTPT từ lý thuyết đến thực tiễn đã thể hiện nội hàm, bản chất của nó. Đó là một mô hình quản lý nhà nước, trong đó nhà nước đề ra các chính sách mang tính định hướng phát triển, tạo môi trường và điều kiện cho các thành phần kinh tế phát huy mọi tiềm năng trong môi trường cạnh tranh và hội nhập quốc tế; tăng cường giám sát để phát hiện các mất cân đối có thể xảy ra, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô.

Vậy, mô hình nhà nước đó có những đặc trưng gì? Các chính sách chủ động như thế nào? lãnh đạo chính trị đã làm gì để thúc đẩy chúng: về tổ chức, thể chế, về tập trung nguồn lực để đột phá.v.v. và các hành động cụ thể khác? Việt Nam có nên đi theo mô hình nhà nước kiến tạo phát triển này không? Trả lời những câu hỏi đó cần sự nghiên cứu của các nhà khoa học và những người quan tâm.

1. BagchiA. K: The Developmental State in History and in the Twentieth Century, Regency Publications, New Delhi, 2003. 2. Chang, Ha Joon: Globalisation, Economic Development and the Role of the State, London: Zed Books, 2003. 3. Chang, Ha Joon: “How to ‘do’ a developmental state: Political, 2010. Organizational, and Human Resource Requirements for the Developmental State”, trong O. Edigheji (ed.), Constructing a Democratic Developmental State in South Africa – Potentials and Challenges (Human Science Research Council Press, Cape Town, 2010. 4. Johnson, Chalmers: MITI and the Japanese Miracle. Stanford, CA: Stanford University Press. 1982. 5. Johnson, Chalmers (1985). “Political Institutionsand Economic Performance: The Government ,Business Relationsin Japan, SouthKorea, and Taiwan, in Asian Economic Development: Present and Future, eds. Robert Scalapino, Seizaburo Sato, and Jusuf Wanandi (Berkeley: University of California Press, 1985). 6. Johnson, Chalmers: “The Nonsocialist NICs: East Asia,” in International Organization, Số 40:2, 1986, tr.557-65. 7. Acemoglu D. và Robinson J: The Origin of Power, Prosperity, and Poverty: Why Nations Fails (Nguồn gốc của quyền lực, thịnh vượng và nghèo khó: Tại sao các quốc gia thất bại), Randon House, 2012.

Nhà Nước Kiến Tạo Phát Triển

Thứ hai, 26 Tháng 2 2018 16:52

(LLCT) – Nhà nước kiến tạo phát triển là một khái niệm để chỉ nhà nước có vai trò to lớn trong việc dẫn dắt, thúc đẩy phát triển kinh tế ở tốc độ cao hơn các nhà nước truyền thống và hiện được nhiều quốc gia vận dụng. Từ cách tiếp cận nhà nước của triết học Mác – Lênin thì nhà nước kiến tạo phát triển là một hình thức nhà nước, và nó cũng có thể vận dụng vào các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Lý luận và thực tiễn nhà nước kiến tạo phát triển thế giới có ý nghĩa tham khảo đối với quá trình hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

1. Khái niệm nhà nước kiến tạo phát triển

Khái niệm nhà nước kiến tạo phát triển (NNKTPT) (Developmental State – DS) xuất hiện từ năm1982 trong cuốn sách MITT and the Japanese Miracle của Chalmers Johnson. Khái niệm NNKTPTđược đưa ra nhằm phân biệt với hai kiểunhà nước phổ biến thời bấy giờ là “nhà nước chỉ huy”, tức nhà nước thực hiện kế hoạch hóa tập trung ở các nước XHCNvà “nhà nước điều chỉnh” theo chủ thuyết thị trường tự doở các nước TBCN.

Johnson nghiên cứu mô hình Nhà nước Nhật Bản trong giai đoạn1925 -1975và nhận thấy: Nhà nước Nhật Bản bằng cách chủ động can dự một cách hiệu quả vào thị trường, đồng thời giữ vai trò dẫn dắt, định hướng đã thúc đẩy kinh tế Nhật Bản phát triển trong nhiều năm ở một tốc độ cao mà”nhà nước chỉ huy” và “nhà nước điều chỉnh” chưa làm được. Ông gọi đó là mô hình thứ ba – NNKTPT.

Theo Johnson, một nhà nước muốn thực hiện được mô hình NNKTPT như ở Nhật Bản cần có bốn yếu tố sau: một là, đội ngũ công chức nhà nước không cần quy mô lớn (để quỹ lương không quá lớn)nhưngcầntinh anh, đủ tài năng quản lý; hai là, thể chế chính trị phải bảođảm cho đội ngũ công chức đủ không gian chính trị để thực thi hiệu quả các chính sách của nhà nước; ba là, nhà nước cần đưa ra được sự can thiệp kinh tế thuận ứng với thị trường; bốn là, phải có một tổ chức dẫn dắt, định hướng phát triển kinh tế tương tự như “tổ chức hoa tiêu” thuộc Bộ Công thương Nhật Bản(1).

Đến nay,khái niệm NNKTPTđãđược dùng để nói đến mô hình nhà nước ở nhữngquốc gia chủ động can dự vào thị trường đểđạt được sự phát triển vượt bậc trong nhiềunăm như Hàn Quốc, Trung Quốc, Thụy Điển, Đan Mạch… Tiêu chí để xem xét một NNKTPTlàmức tăng trưởng GDP trong khoảngthời giandài.

NNKTPT là nhà nước phát huy được mặt tích cực, khắc phục được mặt hạn chế của mô hình”nhà nước chỉ huy” và “nhà nước điều chỉnh”. Nhà nước này không đứng ngoài thị trường nhưng cũng không làm thay thị trường, mà chủ động can dự vào thị trường ở mức độ hợp lý để thúc đẩy phát triển và hiện thực hóa các mục tiêu đề ra(2). Đối với các chủ thể tham gia thị trường, NNKTPT không chỉ đề ra khung khổ pháp lý cho các chủ thể tham gia mà còn định hướng, tạo điều kiện phát triển cho các chủ thể đó trên lĩnh vực kinh tế.

Quá trình phát triển của NNKTPT gồm ba giai đoạn: Giai đoạn đầu từ những năm 20 đến những năm 80 thế kỷ XX- NNKTPT phiên bản 1.0; Giai đoạn thứ hai từ những năm 90 thế kỷ XX- NNKTPT phiên bản 2.0; Giai đoạn thứ ba từ năm 2000 đến nay – NNKTPT phiên bản 3.0(3).

2. Tiếp cận nhà nước kiến tạo phát triển từ góc độ chủ nghĩa Mác – Lênin

Theo Mác và Ăngghen, nhà nước có chức năng giai cấp và chức năng xã hội. Chức năng giai cấp thể hiện ở việcbảo vệ lợi ích và địa vị thống trị của giai cấp cầm quyền. Chức năng xã hội thực hiệnđảm bảo cho xã hội ổn định và phát triển, đáp ứng nhu cầu của các thành viên trong xã hội, mà trước hết là nhu cầu phát triển kinh tế, thể hiện ở việc: Một là, nhà nước phải chăm lo những công việc chung của toàn xã hội, tất cả các thành phần, giai cấp trong xã hội đều được hưởng lợi khi nhà nước thực hiện công việc đó. Hai là, nhà nước phải đáp ứng mọi nhu cầu, lợi ích chính đáng của các cá nhân, tổ chức trong xã hội không thuộc giai cấp cầm quyền, mà trước hết là nhu cầu, lợi ích kinh tế.

Như vậy, NNKTPTlà nhà nước nghiêng về thực hiện chức năng xã hội, tức là tăng cường hiệu quả, chất lượng chức năng xã hội. Chức năng của NNKTPTkhác “nhà nước chỉ huy” và “nhà nước điều chỉnh”ở chỗ là phải đạt hiệu quả trong việc dẫn dắt, thúc đẩy và duy trì kinh tế phát triển ở tốc độ cao hơn.

Chức năng giai cấp và chức năng xã hội có mối quan hệ chặt chẽ, trong đó “chức năng xã hội là cơ sở của sự thống trị chính trị; và sự thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào còn thực hiện chức năng xã hội”(4). Nhà nước thực hiện tốt chức năng xã hội là thúc đẩy xã hội phát triển, khi đó lợi ích giai cấp cầm quyền cũng được thực hiện, tức chức năng giai cấp được thực hiện một cách tốt nhất. Do đó, NNKTPT góp phần to lớn trong việc thực hiện chức năng giai cấp, lợi ích giai cấp cầm quyền.

Theo chủ nghĩa Mác -Lênin, kiểu nhà nước tương ứng với các hình thái kinh tế – xã hội và bị quy định bởi phương thức sản xuất. Lịch sử phát triển của xã hội loài người trải qua 5 hình thái kinh tế – xã hội: chiếm hữu nô lệ, phong kiến,tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Tương ứng với đó là các kiểu nhà nước: chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư sản và xã hội chủ nghĩa. Hình thức nhà nước là cách thức tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước. Hình thức nhà nước rất đa dạng, tùy theo cách tiếp cận mà có những hình thức khác nhau. Tiếp cận theo chính thể sẽ có chính thể quân chủ, chính thể cộng hòa. Tiếp cận theo cấu trúc nhà nước sẽ có nhà nước đơn nhất, nhà nước liên bang…Mỗi quốc gia,tùy theo điều kiện lịch sử cụ thể mà có thể lựa chọn hình thức nhà nước này hay hình thức nhà nước khác.

Hình thức nhà nước có thể ảnh hưởng tới việc tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước nhưng không làm thay đổi bản chất nhà nước, tức không làm thay đổi kiểu nhà nước. Một hình thức nhà nước có thể tương thích với nhiều kiểu nhà nước. Ví dụ hình thức cộng hòa dân chủ có thể được sử dụng trong kiểu nhà nước chiếm hữu nô lệ, nhà nước tư sản và cả nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về nhà nước cho thấy, NNKTPT không phải là một kiểu nhà nước màlà một mô hình nhà nước, bởi mô hình nhà nước đó đã đưa ra cách thức tổ chức và thực thi quyền lực tương đối mới, đặc biệt là trong việc can dự vào thị trường.

Khái niệm NNKTPT đầu tiên được đưa ra từ nghiên cứu một nước tư bản chủ nghĩa là Nhật Bản, mặc dù Nhà nước Nhật Bản được gọi là NNKTPT, nhưng về bản chất vẫn là nhà nước tư sản – nhà nước dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất chủ yếu. Tuy nhiên, đến nay khái niệm NNKTPT không còn là khái niệm độc quyền của chủ nghĩa tư bản nữa mà đã sử dụng rộng rãi trong những quốc gia đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. NNKTPT Trung Quốc được xem là một minh chứng điển hình. Từ sau cải cách mở cửa, Nhà nước Trung Quốc can dự thị trường một cách hợp lý nên đã tạo ra những thành tựu to lớn về phát triển kinh tế. Năm 1980, nền kinh tế Trung Quốc đứng thứ 13, nhưng đến năm 2010, Trung Quốc đã trở thành quốc gia có nền kinh tế đứngthứ haitrênthế giới.Dự báo, khoảng 20 năm nữa Trung Quốc sẽ vượt Mỹ và trở thành nền kinh tế lớn nhất toàn cầu. Sự thành công của Trung Quốc trong việc chuyển hướng từ nhà nước chỉ huy sang NNKTPT đã được các học giả phương Tây nghiên cứu và có những đánh giá tích cực.

Như vậy, NNKTPT là một mô hìnhnhà nước nên có thể thích ứng với các kiểu nhà nước. Một quốc gia cho dù theo kiểu nhà nước nào, tư sản hay vô sản đều có thể lựa chọn mô hình NNKTPT. NNKTPTlà sản phẩm của chủ nghĩa tư bản, nhưng đồng thời cũng là tinh hoa, giá trị của nhân loại được tạo ra, nên các nước xã hội chủ nghĩa có thể kế thừa trong quá trình phát triển. Việt Nam hiện nayđang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hoàn toàn có thể xây dựng thành công NNKTPT.

3. Một số phương hướng xây dựng nhà nước kiến tạo phát triển ở Việt Nam

Trong bài phát biểu nhậm chức trước Quốc hội năm 2016, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc khẳng định, Việt Nam cần”xây dựng một chính phủ kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động quyết liệt, phục vụ nhân dân”.Điềunày hoàn toàn phù hợp yêu cầu thực tiễn đất nước và nhận được sự đồng tình của toàn Đảng, toàn dân. Xây dựng NNKTPT đang là vấn đề thời sự cấp bách ở nước ta hiện nay. Để góp phần xây dựng thành công mô hìnhNNKTPT,xin đề xuấtmột số phương hướng sau:

Một là, kết hợp chặt chẽ xây dựng NNKTPT với quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Xây dựng NNKTPT phải được thực hiện ngay trong quá trình hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN. NNKTPT và nhà nước pháp quyền XHCNlà hai hình thức nhà nướctương thích, bổ sung, hoàn thiện lẫn nhau. Ở Việt Nam hiện nay,hai hình thức này thống nhất về mục tiêu và phương pháp: Về mục tiêu, đều hướng tới thực hiện”dân giàu, nước mạnh, dân chủ,công bằng,văn minh”.Để đạt được mục tiêu đó phải tạo ra sự dân chủ, phát triển trong lĩnh vực kinh tế. NNKTPT kiến tạo cho kinh tế phát triển nhanh, bền vững; ngược lại, hoàn thiện nhà nước pháp quyền giúpkiến tạo sự phát triển nhanh về kinh tế; Về phương pháp, để hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCNphải hoàn thiện pháp luật, cơ chế, chính sách.Việc hoàn thiện các thể chế nàynhằm kiến tạo sự phát triển kinh tế cũng chính là cách thức xây dựng NNKTPT.

Hai là, xây dựng NNKTPTphải đồng bộ trên ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp

Để xây dựng NNKTPT,trách nhiệm trước hết là ở Chính phủ. Tuy nhiên,trong mô hình nhà nước ở Việt Nam, quyền lực là thống nhất và có sự phân công, phân nhiệm giữa ba cơ quan quyền lực là lập pháp, hành pháp và tư pháp. Do đó,xây dựng NNKTPTkhông chỉ là trách nhiệm của cơ quan hành pháp, tức của Chính phủ, mà đòi hỏi có sự vào cuộc đồng bộ của cả cơ quan hành pháp và tư pháp. Lập pháp phải xây dựng được hệ thống pháp luật đồng bộ, phù hợp với thực tiễnxã hội nhằm thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển nhanh, bền vững. Tư pháp phải giải quyết những công việc thuộc lĩnh vực như tài phán, giải quyết tranh chấp, xét xử… một cách công tâm, minh bạch, nhanh gọn nhằm đảm bảo và tạo điều kiện thuận lợi cho xã hộivận hành, phát triển ổn định và bền vững.

Ba là, xây dựng NNKTPT gắn với quá trình tinh gọn bộ máy nhà nước

NNKTPT Nhật Bản cũng như các mô hình NNKTPT trên thế giới hiện nay đã chứng minh rằng, NNKTPT phải có bộ máy tinh gọn để quỹ lương không trở thành gánh nặng cho ngân sách, đội ngũ công chức gọn,tinh anh và hoạt động hiệu quả. Hiện nay, thực tế Nhà nước Việt Nam cho thấy,”Cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước còn cồng kềnh; chức năng, nhiệm vụ nhiều cơ quan, đơn vị vẫn còn chồng chéo và chưa đủ cụ thể, chưa rõ thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Thực hiện tinh giản biên chế chưa đạt yêu cầu. Chi lương và phụ cấp chiếm phần lớn trong tổng kinh phí hoạt động của cơ quan, đơn vị”(5). Thực trạng này không tương thích với một NNKTPT. Do đó, cần phải tiếp tục tinh gọn bộ máy nhà nước trong quá trình xây dựng NNKTPT ở Việt Nam.

Bốn là, nâng cao hiệu quả điều chỉnh dẫn dắt thị trường của bộ máy nhà nước

Trong nền kinh tế thị trường,vai trò của nhà nước rấtquan trọng. Hiệu lực,hiệu quả của nhà nước thể hiện thông qua việc can dự, điều chỉnh, dẫn dắt thị trường. Mô hình NNKTPT đòi hỏisự can dự, điều chỉnh, dẫn dắt thị trườngcủa nhà nướcở mức độ hợp lý nhất để thúc đẩy thị trường vận hành và phát triển thuận lợi. Trong những năm qua,Nhà nước ta đã có nhiều nỗ lực trong điều tiết thị trường, tuy nhiên hiệu quả, hiệu lực còn khiêm tốn.Văn kiện Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Tăng trưởng kinh tế thấp hơn 5 năm trước, không đạt mục tiêu đề ra; năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chậm được hoàn thiện, chưa có cơ chế đột phá để thúc đẩy phát triển”(6). Do đó,nâng cao hiệu quả điều chỉnh, dẫn dắt thị trường của Nhà nước là yêu cầucấp thiết trong quá trình xây dựng NNKTPT ở Việt Nam hiện nay.

Năm là, nâng cao hiệu quả, chất lượng thực hiện chức năng xã hội trong trong lĩnh vực kinh tế

Đểnâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện chức năng xã hội trong lĩnh vực kinh tếcủa NNKTPT đòi hỏi Nhà nước phải tạo môi trường sản xuất kinh doanh lành mạnh, thuận lợi để phát huy năng lực mọi thành phần kinh tế, đặc biệt làkhu vực kinh tế tư nhân.Đại hội XII khẳng định: “Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế”(7). Đây làsự kiến tạo phát triển cho khu vực kinh tế tư nhân về chủ trương,đường lối. Do vậy,Nhà nướcphải hiện thực hóa điều đótrong từng cơ chế,chính sách cụ thể để thúc đẩy lĩnh vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ,tạo động lực quan trọng cho sự phát triển chung của đất nước.

Sáu là, xây dựng NNKTPTcần kế thừa có chọn lọc giá trị đương đại của các mô hình NNKTPT trên thế giới

Hiện nay trên thế giới có nhiều mô hình NNKTPT, như mô hình NNKTPT ở Đông Á gồm các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc), Trung Quốc; mô hình NNKTPT Scandinavia gồm các nước như Thụy Điển, Đan Mạch…. Mỗi mô hình ngoài những đặc điểm chung của NNKTPT còn có những đặc điểm riêng tùy theo điều kiện hoàn cảnh cụ thể mỗi nước. Các mô hình NNKTPT không phải “nhất thành bất biến”, mà có sự vận động và phát triển.NNKTPT ở mỗi nước trong từng giai đoạn khác nhau cũng có những đặc điểm khác nhau. Do đó kinh nghiệm và bài học về xây dựng NNKTPT tương đối đa dạng. Là một nước nước đi sau trong việc xây dựng NNKTPT, Việt Nam cần tham khảo kinh nghiệm của các nước đi trước trên tinh thần kế thừa có chọn lọc trong xây dựng NNKTPT phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam hiện nay.

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 9-2017

(1) Chalmers Johnson: MITI and the Japanese Miracle: The Growth of Industrial Plicy. 1925-1975, Stanford University Press, 1982, tr 18-19.

(2) Xem Nguyễn Sĩ Dũng:”Nhà nước kiến tạo phát triển”, Báo Nhân dân hằng tháng.

(3) Hoàng Tông Hạo(黄宗昊): “Lý luận về nhà nước kiến tạo phát triển và mô hình Trung Quốc”, Tạp chí Thế giới đương đại và chủ nghĩa xã hội (tiếng Trung), Trung Quốc, số 4 năm 2016, tr.173.

(4) Mác – Ăngghen: Toàn tập, t.20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.253.

(5), (6), (7)ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 29, 60, 174.

TS Đinh Văn Thụy

Viện Triết học,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Bài 2: Nhà Nước Kiến Tạo Phát Triển Tại Việt Nam

Tổng thống Mỹ Đô-nan Trăm (Donald Trump) vừa ký sắc lệnh về độc lập năng lượng, hạ thấp các tiêu chuẩn phát thải cho các nhà máy điện dùng than. Việc hạ thấp tiêu chuẩn này được tin là sẽ tạo điều kiện để mở rộng sản xuất điện than, nhờ đó mà ngành khai thác than cũng có thể mở rộng sản xuất. Hệ quả tiếp theo là công ăn việc làm mới sẽ được tạo ra cho những người dân Mỹ. Cách hành xử như vậy là rất đặc trưng cho mô hình nhà nước điều chỉnh. Nhà nước chỉ tác động lên các ngành công nghiệp bằng cách điều chỉnh chính sách, pháp luật chứ không trực tiếp xây dựng kế hoạch rồi đầu tư phát triển các ngành này. Và đây cũng là điểm khác biệt hết sức quan trọng giữa mô hình nhà nước điều chỉnh với mô hình nhà nước kiến tạo phát triển.

Thực ra, thu&acirc%3ḅt ngữ “nhà nước kiến tạo phát triển” được nhà nghiên cứu C.Giôn-xơn (Chalmers Johnson) đưa ra từ những năm 80 của thế kỷ trước khi ông nghiên cứu về sự phát triển thần kỳ của Nh&acirc%3ḅt Bản. Ông nh&acirc%3ḅn thấy rằng trong sự phát triển thần kỳ ấy có vai trò rất quan trọng của nhà nước. Nhà nước Nh&acirc%3ḅt Bản đã không chỉ tạo ra khuôn khổ cho sự phát triển mà còn định hướng và thúc đẩy sự phát triển đó. Sau này, ngoài Nh&acirc%3ḅt Bản ra, Hàn Quốc, Trung Quốc và nhiều nước đang phát triển khác… đều được xem là những nhà nước kiến tạo phát triển. Đặc trưng hết sức cơ bản của mô hình nhà nước này là nhà nước trực tiếp đề ra một kế hoạch phát triển công nghiệp (với những tham vọng lớn) và đầu tư mạnh mẽ về cơ chế, chính sách và nhiều khuyến khích khác để thúc đẩy công nghiệp phát triển. Theo các nhà nghiên cứu, đây là mô hình nhà nước nằm ở giữa nhà nước điều chỉnh (theo chủ thuyết thị trường tự do) và nhà nước kế hoạch hóa t&acirc%3ḅp trung (theo mô hình xã h&ocirc%3ḅi chủ nghĩa truyền thống). Nhà nước kiến tạo phát triển không đứng ngoài thị trường, nhưng cũng không làm thay thị trường mà nhà nước kiến tạo phát triển chủ đ&ocirc%3ḅng can thi&ecirc%3ḅp mạnh mẽ vào thị trường để thúc đẩy phát triển và hi&ecirc%3ḅn thực hóa các mục tiêu phát triển đã được đề ra. Để đạt được mức tăng trưởng GDP gấp đôi, m&ocirc%3ḅt nhà nước điều chỉnh (như Hoa Kỳ) sẽ phải mất đến 50 năm, trong lúc đó m&ocirc%3ḅt nhà nước kiến tạo phát triển (như Trung Quốc) chỉ mất 10 năm. Từ ví dụ về sắc lệnh độc lập năng lượng của Tổng thống Mỹ Đ.Trăm, chúng ta cũng sẽ thấy khá rõ những hạn chế của mô hình nhà nước điều chỉnh. Cụ thể, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng việc hạ thấp tiêu chuẩn phát thải chưa chắc đã khiến các doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất điện than nhiều hơn; việc khai thác than vì vậy chưa chắc đã được mở rộng; công ăn việc làm mới cho người dân Mỹ chưa chắc đã được tạo ra.

Nhiều người cho rằng, nhà nước kiến tạo phát triển là mô hình nhà nước kết hợp được ưu điểm, đồng thời khắc phục được nhược điểm của cả hai mô hình nhà nước điều chỉnh và nhà nước kế hoạch hóa t&acirc%3ḅp trung.

Tuy nhiên, chúng ta cũng phải thấy rằng mô hình nhà nước kiến tạo phát triển mạnh mẽ nhất trong những thập niên nửa cuối của thế kỷ trước. Sự hấp dẫn của mô hình này đã suy giảm ít nhiều khi cuộc khủng khoảng tài chính châu Á năm 1997 xảy ra ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhiều nước, đặc biệt các nước Đông Á (là những nước theo mô hình nhà nước kiến tạo phát triển). Nhiều học giả bắt đầu có cái nhìn phê phán hơn đối với mô hình nhà nước kiến tạo phát triển và họ chỉ ra không ít những hạn chế của mô hình này. Ví dụ như sự hoạch định kế hoạch phát triển công nghiệp của nhà nước có thể dẫn đến hiện tượng dư thừa năng lực sản xuất quá lớn như ở Trung Quốc hay trong thời đại toàn cầu hóa, khi các tập đoàn xuyên quốc gia đang làm chủ việc hoạch định chính sách phát triển nhiều ngành công nghiệp thì nhà nước không dễ đi ngược lại với các tập đoàn này.

Tuy nhiên, nhà nước kiến tạo phát triển vẫn là một mô hình đầy tiềm năng, phù hợp với điều kiện văn hóa, kinh tế, xã hội, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của mỗi quốc gia.

Kiến tạo phát triển chính là tạo ra những cải cách đột phá

Ở Việt Nam, thuật ngữ “Chính phủ kiến tạo phát triển” lần đầu tiên được đưa ra trong một bài viết của nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vào năm 2014. Thế nhưng, thuật ngữ này chỉ thật sự trở thành một định hướng của cải cách, từ khi Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đưa ra cam kết xây dựng một “Chính phủ kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động quyết liệt, phục vụ nhân dân” trong phát biểu nhậm chức của mình và nỗ lực đẩy mạnh thực hiện trong thời gian qua.

Nếu đặt câu hỏi: Các Thủ tướng của chúng ta có chịu ảnh hưởng của lý thuyết về mô hình nhà nước kiến tạo phát triển được các nhà nghiên cứu đưa ra từthế kỷ trước hay không? Câu trả lời có lẽ là không. Kể từ khi từ bỏ nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, quan liêu, bao cấp và xây dựng nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, về cơ bản chúng ta đã đi theo mô thức của một nhà nước kiến tạo phát triển. Cái mà các Thủ tướng của chúng ta quan tâm là thúc đẩy những cải cách để kiến tạo ra sự phát triển nhanh chóng và vượt bậc cho đất nước.

Có lẽ, trong điều kiện của Việt Nam thì để kiến tạo phát triển Nhà nước cần phải hoạch định đường lối phát triển cho đất nước (đặc bi&ecirc%3ḅt là đường lối công nghi&ecirc%3ḅp hóa và chương trình xóa đói giảm nghèo) và thúc đẩy vi&ecirc%3ḅc hi&ecirc%3ḅn thực hóa đường lối đó. Thúc đẩy vi&ecirc%3ḅc hi&ecirc%3ḅn thực hóa thì không có nghĩa là làm thay người dân và các doanh nghi&ecirc%3ḅp mà tối thiểu phải làm được những vi&ecirc%3ḅc sau đây:

Trước hết, Nhà nước phải tạo ra được h&ecirc%3ḅ thống khuyến khích để các nguồn lực của xã h&ocirc%3ḅi được t&acirc%3ḅp trung đầu tư cho các mục tiêu phát triển. H&ecirc%3ḅ thống khuyến khích đó có thể là chi tiêu công, là thuế, là tín dụng, là thương quyền… Ngoài ra, Nhà nước còn cần phải phát huy thế mạnh của nhà nước điều chỉnh là tạo ra khuôn khổ thể chế và mọi điều ki&ecirc%3ḅn cần thiết khác để từng người dân có thể dễ dàng làm ăn và mưu cầu hạnh phúc. Khi và chỉ khi hàng tri&ecirc%3ḅu người dân Vi&ecirc%3ḅt Nam có điều ki&ecirc%3ḅn làm ăn dễ dàng, có năng lực làm chủ cu&ocirc%3ḅc sống và sáng tạo tương lai thì sự giàu có và thịnh vượng bền lâu mới đến với đất nước ta. Và đó cũng mới chính là sự phát triển thực chất nhất. Điều quan trọng là phải xây dựng cho được những khuôn khổ thể chế cần thiết để cho công vi&ecirc%3ḅc làm ăn của người dân ngày m&ocirc%3ḅt dễ dàng hơn. Quan trọng nhất ở đây là quyền tự do kinh doanh, quyền tự do tài sản, quyền tự do khế ước… phải được bảo đảm; sự minh bạch phải được tăng cường; các hợp đồng phải được tôn trọng và bảo v&ecirc%3ḅ; các tranh chấp phải được giải quyết nhanh chóng và hi&ecirc%3ḅu quả. Ngoài ra, m&ocirc%3ḅt điều ki&ecirc%3ḅn không thể thiếu ở đây là vi&ecirc%3ḅc bảo đảm sự ổn định kinh tế vĩ mô. Vì thiếu sự ổn định kinh tế vĩ mô, không doanh nghi&ecirc%3ḅp cũng như m&ocirc%3ḅt người dân nào có thể làm ăn dễ dàng được. Đây vì v&acirc%3ḅy là m&ocirc%3ḅt trong những nhi&ecirc%3ḅm vụ quan trọng hàng đầu của Chính phủ kiến tạo phát triển.

Hai là, Nhà nước cần tìm mọi cách để cung cấp các dịch vụ công chất lượng, giá rẻ cần thiết cho sự phát triển năng lực và vi&ecirc%3ḅc làm ăn của các doanh nghi&ecirc%3ḅp, của những người dân. Muốn làm được điều này, phải xây dựng được m&ocirc%3ḅt b&ocirc%3ḅ máy hành chính-công vụ hết sức chuyên nghi&ecirc%3ḅp và hi&ecirc%3ḅu quả. B&ocirc%3ḅ máy này phải được tuyển dụng, bổ nhi&ecirc%3ḅm nghiêm ngặt dựa trên cơ sở của trình đ&ocirc%3ḅ chuyên môn, nghi&ecirc%3ḅp vụ.

Ba là, nhà nước phải biết tạo ra cạnh tranh lành mạnh để tất cả mọi chủ thể trong xã h&ocirc%3ḅi đều phải vươn lên và để thu hút được người tài. Tiêu chí để cạnh tranh trong đời sống kinh tế là chất lượng hơn và giá rẻ hơn. Tiêu chí để cạnh tranh trong đời sống chính trị là tài giỏi hơn và đạo đức hơn. Trong đời sống kinh tế, thúc đẩy cổ phần hóa các doanh nghi&ecirc%3ḅp nhà nước và kiểm soát gắt gao những doanh nghi&ecirc%3ḅp còn chiếm giữ vị thế đ&ocirc%3ḅc quyền là rất quan trọng. Đ&ocirc%3ḅc quyền không chỉ dẫn đến lạm quyền mà còn làm cho hoạt đ&ocirc%3ḅng kinh tế kém hi&ecirc%3ḅu quả và xã hội kém năng đ&ocirc%3ḅng. M&ocirc%3ḅt cơ chế để người tài được tuyển chọn cũng hết sức quan trọng. M&ocirc%3ḅt phần của cơ chế này là áp đặt chế đ&ocirc%3ḅ trách nhi&ecirc%3ḅm rất rõ ràng, để những người đứng đầu bắt bu&ocirc%3ḅc phải chọn cho được người tài (không chọn được người tài không thể hoàn thành được công vi&ecirc%3ḅc). Tất nhiên, chúng ta cũng phải trao quyền tuyển chọn cho những người đứng đầu này.

Với m&ocirc%3ḅt khuôn khổ khái ni&ecirc%3ḅm như trên, Nhà nước ta quả thực có thể kiến tạo ra sự phát triển nhanh chóng và bền vững cho đất nước. Vấn đề là chúng ta cần sớm làm rõ khung khái ni&ecirc%3ḅm về nhà nước kiến tạo phát triển (chính phủ kiến tạo phát triển) mà chúng ta mong muốn xây dựng trên đất nước Việt Nam.

TS NGUYỄN SĨ DŨNG, TS NGUYỄN MINH PHONG,

HOÀNG GIA MINH, HỒ QUANG PHƯƠNG

Khái Niệm Kinh Tế Nhà Nước Và Doanh Nghiệp Nhà Nước

“Ở Việt Nam, khái niệm “kinh tế Nhà nước” và “doanh nghiệp Nhà nước” (DNNN) cũng được hiểu không chính xác lắm ở nhiều nhóm đối tượng hay ở nhiều quãng thời gian khác nhau. “

Kinh tế Nhà nước bao hàm khu vực DNNN

T.S Nguyễn Minh Phong: Trên nguyên tắc, mặc dù, kinh tế Nhà nước và DNNN đều phản ánh những tài sản vật chất và phi vật chất thuộc về sở hữu toàn dân mà do Nhà nước đại diện sở hữu và thống nhất quản lý theo như pháp luật trước đây và được tái khẳng định lại trong Hiến pháp 1992 sửa đổi mới được thông qua cách đây vài hôm.

Về nguyên tắc, DNNN ngày càng có sự phân định rõ hơn. Trước đây, đó là những DNNN hoạt động theo Luật DNNN, nhưng đến khi Luật DNNN bỏ vào năm 2010 để cam kết hội nhập, tất cả các DN hoạt động chung theo Luật DN, thì lúc này, DNNN bao gồm: Một là, những DN do Nhà nước sở hữu 100% và chuyển đổi hoạt động thành công ty TNHH một hoặc hai thành viên do NN sở hữu 100%. Thứ hai, phần vốn và tài sản của các DNNN đã cổ phần hóa mà vẫn còn ở những DN hoạt động theo luật DN. Thứ ba, một số phần vốn nằm trong các DN do các tổ chức chính trị xã hội khác nắm giữ và hoạt động theo luật DN, đó là khái niệm DNNN.

DNNN không thể ‘chỉ đạo’ Vậy theo như giải thích của T.S thì điều này có nghĩa rằng DNNN chỉ là một bộ phận của KTNN và không thể “đánh đồng” giữa 2 khái niệm này?

T.S Nguyễn Minh Phong: Trong so sánh như vậy, có thể thấy rõ ràng DNNN chỉ là một bộ phận của Kinh tế NN, vì thế, khi mà Hiến pháp đưa ra khẳng định “kinh tế NN là chủ đạo” thì điều đó hoàn toàn hợp lý xét theo cách hiểu về nội hàm như đã nói ở trên. DNNN rất khó có thể đóng một vai trò chủ đạo mãi mãi được, về nguyên tắc, nó càng ngày càng bị thu hẹp cả về quy mô lẫn tỷ trọng, cũng như lĩnh vực tham gia. Theo chủ trương của Đảng và NN Việt Nam thì trong thời gian tới, DNNN sẽ tập trung nhiều hơn vào lĩnh vực hạ tầng, phúc lợi xã hội, những lĩnh vực tạo điều kiện cho các DN khác hoạt động chứ không còn trong lĩnh vực kinh doanh thuần túy đặc biệt là về lợi nhuận nữa.

Hiện nay, có tới 50% số các tỉnh của VN (tức là trên 30 tỉnh) không còn các DNNN hoạt động vì lợi nhuận, mà chỉ còn hoạt động vì công ích. Điều này cho thấy, vai trò chủ đạo của kinh tế NN là đương nhiên, nhưng nó không che lấn, không ngăn cản các hoạt động của các DN khác mà nó hoàn toàn bình đẳng với các DN khác theo nghĩa mọi DN đều được làm những việc mà pháp luật không cấm, tiếp cận với các nguồn vốn, các nguồn lực đầu tư là như nhau. Những thời kỳ bao cấp, tín chấp dành cho DNNN dường như đã giảm thiểu rất nhiều và càng ngày càng không còn nữa. Đặc biệt, trong thời gian tới đây, VN chính thức tuân thủ và được công nhận kinh tế thị trường thì chắc chắn sự bình đẳng đó là theo đúng các cam kết hội nhập, vì thế, nếu ai đó hiểu rằng Kinh tế Nhà nước chủ đạo đồng nghĩa với DNNN chủ đạo là không đúng.

Mẫu số kinh tế càng to, tỉ trọng DNNN càng nhỏ Theo T.S, trong thời gian tới, VN cần làm gì để nâng cao hơn nữa hiệu quả của khu vực KTNN cũng như DNNN ạ?

T.S Nguyễn Minh Phong: Có một ngộ nhận là dường như có một số ai đó hiểu rằng cải cách nhà nước có nghĩa là làm cho Kinh tế NN cũng như DNNN ngày càng bé đi, yếu đi và thậm chí xóa bỏ. Chúng tôi cho rằng đây là một ngộ nhận cực đoan, bởi trên thực tế của tất cả các nước trên thế giới, kể cả Mỹ, Nhật, Anh, Đức…thì nước nào cũng còn ít hay nhiều các tỷ trọng trong nền kinh tế của khu vực kinh tế nhà nước cũng như của DNNN. Thường các tỷ trọng này chiếm từ 5% đến 20%, hiện nay, DNNN Việt Nam đang chiếm khoảng 30% GDP.

Vì thế, trong rất nhiều chủ trương của Đảng và NN, được nhiều chuyên gia VN phát biểu và được ghi nhận thì xu hướng tới đây, Kinh tế NN có thể giảm chậm hơn vì nó bao gồm cả tài nguyên thiên nhiên, rồi lãnh hải…sẽ giảm chậm trừ khi chúng ta thay đổi quan niệm nội hàm thì sẽ khác. Nhưng DNNN sẽ giảm nhanh hơn về tỷ trọng bởi 2 lý do: Thứ nhất, khi nền kinh tế ngày càng phát triển, mẫu số càng to, DNNN trên mẫu số càng to thì tỷ trọng càng nhỏ đi. Thứ hai, chúng ta tiếp tục cổ phần hóa mạnh hơn nữa, đặc biệt là giảm thiểu những loại doanh nghiệp nào mà không cần thiết nắm giữ 100%, cũng như không cần thiết nắm giữ các tỷ lệ cổ phần tuyệt đối khống chế, thì rõ ràng sẽ khiến tỷ trọng của DNNN giảm xuống.

Bên cạnh đó, trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm quy trình quản lý hoạt động kinh doanh và giám sát xã hội, đồng thời các chế tài cũng sẽ được làm tốt hơn, minh bạch hơn, cụ thể hơn. Tất cả những điều đó, sẽ giúp cho DNNN trở nên minh bạch hơn và việc quản lý khác cũng sẽ tốt hơn.

Xin cám ơn T.S rất nhiều đã dành thời gian cho đài chúng tôi.

Nguồn: Vũ Hoàng/RFA

Bạn đang xem bài viết Nhà Nước Kiến Tạo Phát Triển: Khái Niệm Và Thực Tế trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!