Xem Nhiều 3/2023 #️ Phân Tích Khổ Thơ Đầu Của Bài Thơ “Từ Ấy” Của Tố Hữu # Top 6 Trend | Tvzoneplus.com

Xem Nhiều 3/2023 # Phân Tích Khổ Thơ Đầu Của Bài Thơ “Từ Ấy” Của Tố Hữu # Top 6 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Phân Tích Khổ Thơ Đầu Của Bài Thơ “Từ Ấy” Của Tố Hữu mới nhất trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Đề bài: phân tích khổ thơ đầu của bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu

Tố Hữu là nhà thơ lớn của Việt Nam ở đầu thế kỷ XX, là cánh chim đầu đàn, là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng, ông làm thơ để tuyên truyền, cổ vũ cho cách mạng, con đường thơ ca của ông song hành cùng với con đường cách mạng của Việt Nam, của dân tộc. Sự gắn bó ấy đem đến cho thơ ông một vẻ đẹp độc đáo như đóa hoa lớn rực rỡ.

“Từ ấy” nằm trong tập thơ cùng tên, được sản xuất trong vòng 10 năm từ 1936 đến 1946. Khổ thơ đầu của tác phẩm thể hiện niềm vui sướng và hạnh phúc vô bờ bến của tác giả khi bắt gặp lý tưởng, lẽ sống của đời mình, khi ông còn băn khoăn giữa lẽ sống của đời, cảm thấy chán cuộc sống này thì cũng là lúc Tố Hữu bắt gặp lý tưởng cộng sản, lý tưởng của đời mình.

Câu thơ đầu tiên được bắt đầu bằng cụm từ “từ ấy” thể hiện sự đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời của nhà thơ. Đây là thời điểm tác giả giác ngộ lý tưởng cách mạng, bắt gặp lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, được giác ngộ vào năm 1938 ông vinh dự được đứng vào hàng ngũ của Đảng khi tròn 18 tuổi, Đảng là tập thể bao gồm những thanh niên ưu tú nhất của cả nước, nguyện hy sinh và phấn đấu vì sự nghiệp của đất nước và nhân dân.

” Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lý chói qua tim

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim”

Bài thơ “từ ấy” thuộc phần “máu lửa” của tập thơ cùng tên, phần thơ ra đời trong không khí đầy sục sôi, đấu tranh giành độc lập, tự do của các dân tộc, nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lúc này nhà thơ cũng không hoạt động phong trào học sinh, sinh viên ở Huế. Bài thơ ra đời vào tháng 7 năm 1938 ghi lại những tâm tư, tình cảm của nhà thơ khi được đứng trong hàng ngũ của Đảng đây là việc vô cùng thiêng liêng, sự kiện trọng đại của nhà thơ, đã mang đến cho Tố Hữu niềm xúc động mạnh mẽ.

Khổ thơ mở ra là những cảm nhận vẻ đẹp sâu sắc lý tưởng của cách mạng và tá c giả đón nhận nó bằng một tâm hồn tươi trẻ, “từ ấy” ở nhan đề và được nhắc lại ngay câu mở đầu để tô đậm giây phút thiêng liêng, sự kiện trang trọng trong đời của Tố Hữu, là bước ngoặt lớn lao cho thanh niên tiểu tư sản trở thành một chiến sĩ cộng sản thay đổi về nhận thức, về lẽ sống. Hoàn cảnh ra đời của bài thơ khi đất nước đang còn trong cảnh chiến tranh, nhân dân lầm than, bị đô hộ, trước tình hình ấy nhiều thanh niên muốn giải cứu đất nước nhưng hầu như đều rơi vào cảnh bế tắc, bơ vơ, một cái tôi mặc cảm, đầu thai nhầm thời đại, dù rất uất hận, đau xót nhưng chưa đủ dũng khí để cầm súng, cầm gươm và rồi khi may mắn tìm được lẽ sống cho mình, cho quê hương ta thấy được sự hào hứng và niềm vui sướng vô bờ bến của nhà thơ, hòa vào cuộc đấu tranh sinh tử, nhiều gian khổ, hy sinh nhưng rất đỗi vinh quang. “Từ ấy” đã cho nhà thơ thấy cuộc sống ý nghĩa và giây phút thiêng liêng sự nghiệp một hồn thơ.

Trong niềm xúc động lơn lao, nhà thơ đã có nhận thức sâu sắc về vẻ đẹp của lý tưởng Đảng, Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời chỉ cho dân tộc con đường sống, đã có bao lời ca tiếng hat ca ngợi Đảng vinh quang, nhưng cách ca ngợi Đảng của Tố Hữu thật đặc sắc.

Dòng thơ thứ hai sử dụng nhiều âm điệu ở âm vực cao, phấn chấn như một tiếng reo, tiếp tục ca ngợi vẻ đẹp lý tưởng cách mạng, không chỉ là nguồn sáng chói mà là nguồn sống lớn lao, lý tưởng sống đúng đắn, cao cả. Khái niệm lý tưởng cách mạng một khái niệm chính trị trừu tượng đã được nhà thơ cụ thể hóa bằng hình ảnh ẩn dụ rất đỗi trữ tình. “Mặt trời chân lý”, tiếp nối động từ “bừng” và từ “chói” ở câu hai để khẳng định lý tưởng cách mạng như nắng hạ chói lòa, như mặt trời vĩ đai, bất diệt đã tác động sâu sắc vào lý trí, tình cảm và thấm nhuần vào con tim, khối óc của nhà thơ và nhân dân những con người cần lao trong đêm trường nô lệ được ánh sáng cách mạng soi rọi, chỉ đường dẫn lối đến với hạnh phúc, ấm no, tương lai tươi sáng. Với cách diễn đạt vừa gợi hình vừa gợi cảm, tôn vinh lý tưởng cộng sản, giúp cho bao nhiêu người được sáng mắt, sáng lòng. Khẳng định bản chất cao đẹp của lý tưởng ấy là giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột, thống khổ, chỉ cho họ con đường sống ý nghĩa nhất.

Qua cách thể hiện sáng tạo, hai câu thơ còn mang hàm ý: với dân tộc Việt Nam, với tầng lớp trí thức, thanh niên trẻ những năm 30, 45. Lý tưởng cần thiết như mặt trời, tất yếu như chân lý. Hai câu thơ còn diễn tả sự phục sinh mạnh mẽ của một tâm hồn tươi trẻ khi được mặt trời lý tưởng soi rọi, chỉ lối, niềm vui tràn ngập trong lòng, người thanh niên yêu nước đã cất thành tiếng hát sôi nổi, náo nức, say mê:

“Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đạm hương và rộn tiếng chim”

Với phép so sánh độc đáo, đầy thi vị nhà thơ đã làm cho thế giới tinh thần, hồn thơ tươi trẻ tràn đầy nhiệt huyết, yêu đời, yêu cuộc sống ” hồn tôi là một vườn hoa lá” từ hình tượng vô hình thành hữu hình. Ánh sáng chói lọi của lý tưởng, nguồn sống mãnh liệt của mặt trời cách mạng tác động vào tâm hồn nhà thơ, tạo ra sự biến đổi sâu sắc. Trước khi bắt gặp lý tưởng cách mạng, người thanh niên trí thức trẻ này sống một cách buồn bã, ảm đạm, lụi tàn như mảnh vườn trong mùa đông giá lạnh nhưng sau khi được gặp và giác ngộ được lý tưởng cách mạng cuộc sống lẫn tâm hồn của nhà thơ như môt mảnh hồn thơ đầy hương sắc giữa mùa xuân, mang đến nguồn sinh lực dồi dào cho biết bao tâm hồn trẻ trung, nhiệt huyết. Cuộc sống của họ có lý tưởng thật âm sắc, đượm hương. Nhịp thơ sôi nổi cùng với hai tính từ “đậm”, “rộn” được dung thật thẩm mỹ, đặc biệt với lối vắt dòng đặc sắc, hai câu thơ của Tố Hữu diễn tả chân thực, tinh tế bao cảm xúc dâng trào, niềm vui, niềm hạnh phúc vô hạn trong buổi đầu gặp gỡ lý tưởng. Có thể nói mặt trời chân lý đã xua tan những bóng đêm u ám, mở ra một tương lai tươi sáng, vẫy gọi bao tâm hồn hăm hở bước vào đời với tất cả niềm tin yêu, hy vong. Với nhà thơ đâu phải chuyện của nhận thức, của lý trí mà còn là chuyện của tình cảm, trái tim nên có sức sống cuốn hút khiến cho những thanh niên trí thức trẻ như Tố Hữu khiến cho tất cả dân tộc Việt Nam nguyện suốt đời theo Đảng.

Khổ thơ vừa hay về nội dung và đẹp về hình thức, ngôn ngữ, hình ảnh thơ sáng tạo đẹp đẽ, cảm xúc thơ chân thành mãnh liệt là sự ngợi ca lý tưởng cách mạng, ngợi ca Đảng cộng sản Việt Nam quang vinh. Qua đoạn thơ nhà thơ đã giúp chúng ta nhận thức sâu sắc hơn về lý tưởng cách mạng chính là lẽ sống, con đường sống đúng đắn của cả dân tộc tộc, khổ thơ như khúc hát của một trái tim mà cũng là khúc hát say mê của triệu triệu trái tim hướng về Đảng, hướng về cách mạng

Phân Tích Bài Thơ “Nhàn” Của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Phân tích bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà Nho có tài, một vị quan thanh liêm lỗi lạc. Ông đã có nhiều đóng góp cho triều đình, nhưng thời cuộc rối ren, ông trở về sống ẩn dật ở quê nhà. “Nhàn” là bài bài được ông sáng tác trong khoảng thời gian đó.

Giữa cảnh triều đinh mục nát, ông lui về với cảnh nhà hạ:

“Một mai một cuốc một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”

Cuộc sống của ông mộc mạc, giản dị. Không có người bầu bạn, nhưng ông vẫn đang vui với những thú vui của riêng mình: làm vườn, câu cá… Ông không quan tâm đến xung quanh, mặc cho thế sự cuộc đời. Đối với ông cuộc sống của ông lúc này thật đáng sống.

Ta dại , ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người dến chốn lao xao

“Nơi vắng vẻ” chính là nơi thôn quê yên tĩnh nơi ông đang sống. “Chốn lao xao” ám chỉ thành thị, chốn quan trường đầy rẫy những thị phi. Lẽ thường, con người vẫn hay chọn cho mình lợi ích vật chất, giành giật, bon chen vinh hoa, phú quý. Nhưng ông thì ngược lại. Tự nhận mình “dại”, từ bỏ bổng lộc vua ban mà sống tại vùng quê nghèo. Ông không muốn bị muốn bụi bặm của xã hội nhiễu nhương vấy bẩn. Đó thực sự là cái “dại” của bậc đại nhân.

Là người yêu nước thương dân, chọn cho mình lối sống ẩn dận dẫu có làm tâm ông thanh sạch nhưng lại không yên. Ý thơ có gì đó mỉa mai chê trách những kẻ tham lam, ham muốn vinh hoa. Cùng với đó, phảng phất nỗi niềm bất lực của chính ông với thời cuộc. Quant ham, vua bạc nhược, nhân dân lầm than, ông không thể nào xoay chuyển được thời thế. Ông đành buông xuôi tất cả để sống cuộc sống bình lặng.

Làng quê thanh bình mang đến cho ông những thú vui tao nhã khác nhau vào mỗi mùa quanh năm:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao

Ông sống cuộc sống giản dị, đạm bạc. Mùa nào thức nấy, ông thuận theo ý trời, hòa nhập cùng thiên nhiên đất trời. Ở ông toát ra một dáng vẻ ung dung, điềm đạm giữa thời cuộc rối ren.

Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quí tựa chiêm bao.

Hai câu thơ trên được tác giả dựa theo điển tích Trung Hoa nói về cái hư ảo, không thực chất, qua nhanh, có cũng như không, có đấy mà tan ngay đấy của giàu sang phú quý. Ông coi thường, xem nhẹ giàu sang phú quý, xem đó chỉ là trong chốc lát. Ông ung dung tự tại ngồi dưới gốc cây uống rượu mà xem thế sự cuộc đời. Ta tưởng như ông như một vị tiên ông đang ngồi trên cao nhìn xuống dương gian vậy.

“Nhàn” là một bài thơ chứa đựng nhiều tâm sự của nhà thơ về cuộc đời. Là một người hết lòng vì dân vì nước nhưng gặp cảnh thị phi nhiễu nhương, ông chọn cho mình cách sống ẩn dật để giữ tâm hồn mình được thanh cao, trong sạch. Vẫn còn có phảng phất trong ý thơ nỗi đau đáu hướng về nhân dân lầm than, đói rét của ông.

Phân Tích Bài Thơ Vội Vàng Đoạn 3

11 bài văn mẫu Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 3

VnDoc xin giới thiệu tới bạn đọc Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 3. Tài liệu chắc chắn sẽ giúp các bạn nắm chắc đoạn cuối của bài thơ Vội vàng một cách đơn giản hơn. Mời các bạn tham khảo bài văn mẫu lớp 11 này.

Lưu ý: Đây là bài phân tích đoạn 3 bài thơ Vội vàng nên có thể chưa đủ ý toàn bộ tác phẩm này. Để theo dõi bài phân tích toàn bộ bài thơ này, mời bạn tham khảo bài viết: Phân tích bài Vội vàng của chúng tôi.

Phân tích đoạn 3 bài thơ Vội vàng

1. Dàn ý Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 3

a. Mở bài

Giới thiệu về tác giả Xuân Diệu và bài thơ Vội vàng

Dẫn dắt vào vấn đề: khổ thơ cuối bài thơ Vội vàng

Khái quát chung

Xuất xứ: Trích trong tập “Thơ -Thơ” (1938).

Bố cục: Ba phần:

Câu 1-11: Tâm trạng reo vui trước vẻ đẹp thiên nhiên.

Câu 12-30: Tâm trạng u buồn, hoài nghi.

Câu 31-40: Lòng yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt.

Phân tích

Cảm hứng bao trùm: Tình yêu cuộc sống đến độ cuồng si và khát khao giao cảm mãnh liệt của Xuân Diệu đối với cuộc đời

Bức tranh thiên nhiên lại được sống dậy với những phẩm chất đẹp đẽ như ban đầu, ngồn ngộn sức sống, căng tràn sức xuân

Sự sống mới bắt đầu, ngồn ngộn một sự sống, căng tràn sức xuân

Mây đưa và gió lượn: Quấn quýt, giao hòa

Cánh bướm say với tình yêu

Non nước, cỏ cây chuếnh choáng trong men say cuộc đời

Không gian ngập tràn sánh sáng

Tình yêu cuộc sống và niềm khao khát giao cảm

Động thái của chủ thể trữ tình: Ở điệp khúc: Ta muốn… ôm, say, thâu riết

Chủ thể trữ tình đã cảm nhận cuộc sống bằng nhiều giác quan: xúc giác, thị giác, và cả những cảm nhận vô hình

Sự diệu kì đã xảy ra trong hồn thơ của Xuân Diệu, chính tình yêu cuộc sống đã làm sống lại phẩm chất tươi đẹp, đầy sinh khí như ban đầu, còn đọng lại vẫn là tình yêu mãnh liệt

Kết thúc là lúc tình cảm của tác giả mãnh liệt đến độ cao trào của bài thơ

Nghệ thuật:

Sắp xếp ngôn từ: Tạo nên những làn sóng ngôn từ đan xen, cộng hưởng nhau theo chiều tăng tiến, càng lúc càng dâng lên cao trào

Điệp liên từ, Và non nước, và cây và cỏ rạng. Giới từ: điệp một cách nguyên vẹn với trạng thía càng ngày càng mãnh liệt. “Cho chuếnh choáng cho đã đầy”, “cho no nê“

c. Kết bài

Những nhận xét, cảm nhận, đánh giá chung về vấn đề

Mở rộng vấn đề bằng suy nghĩ và liên tưởng của mỗi cá nhân

2. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 3 – Mẫu 1

Bài thơ “Vội vàng”, in trong tập “Thơ thơ” (1938), đã thể hiện nhân sinh quan mới và tiến bộ ấy. Đây là phần kết thúc của bài thơ vội vàng nói lên khát vọng tận hưởng:

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn; Ta muốn riết mây đưa và gió lượn, Ta muốn say cánh bướm với tình yêu, Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều Và non nước, và cây, và cỏ rạng, Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng Cho no nê thanh sắc của thời tươi; -Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

Thời gian cứ lạnh lùng, tàn nhẫn mang theo mọi vẻ đẹp của cỏ cây, hoa lá lẫn với tiếng chim trời cùng tuổi trẻ ra đi để cho lòng tiếc nuối. Xuân Diệu như muốn dang tay ra ôm lấy tất cả:

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;

Đang từ những câu thơ 8 chữ, bỗng rút ngắn lại với câu thơ 3 chữ – câu ngắn nhất trong toàn bài thơ, làm cho giọng thơ đanh lại, rắn chắc như một mệnh lệnh đòi hỏi hiện thực hoá những khát vọng. “Ta” ở đây là “cái tôi” đầy kiêu hãnh của thi nhân, đồng thời cũng là cái tôi của mỗi con người chúng ta. Bởi ai mà chẳng có nỗi niềm khát khao như khao khát của nhi nhân. Mỗi người đọc hãy cảm nhận lấy khát vọng của mình trong cái “ta” ấy. Ai mà chẳng muốn ôm giữ lấy những vẻ đẹp non tươi của cuộc sống đang diễn ra quanh mình: từ cái mơn mởn của một nụ hoa xuân hoặc một nụ đời và tất cả những sự sống đang bắt đầu hé nhú, để nó khỏi trôi đi, song dù có ôm chặt được tất cả, nhưng chắc gì đã giữ được cho chọn vẹn. Vì vậy cần phải “riết” cho chặt hơn nữa:

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn

Nghĩa là “riết” cho chặt cả những thứ không thể ôm. Mây đưa và gió lượn là những vẻ đẹp lớn lao của tạo vật nhưng đồng thời cũng là hình ảnh biểu trưng đó thôi. “Ôm” rồi “riết”, dù có chặt đến mấy đi nữa thì vẫn chỉ ở bên ngoài nên còn đòi hỏi phải “say” cho đến tận hồn”

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,

Cho dù say đến mấy đi nữa thì vẫn còn là mối quan hệ giữa khách thể và chủ thể. Nên cần phải “thâu tóm” mọi vẻ đẹp kia về phía mình”

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều Và non nước, và cây, và cỏ rạng,

“Cái hôn nhiều” ở đây, muốn nói về độ dài của thời gian. “Cái hôn” không phải là mục đích mà chỉ là một phương tiện để thu hút lấy tất cả mọi hương sắc. Mọi thần khí, thần hồn về phía mình cho thỏa mãn.

Những điệp ý “ta muốn” kết hợp với hành động ngày càng tăng: “ôm, riết, say thâu” đã thể hiện được lòng ham muốn đến cuồng nhiệt của thi nhân. Con người như muốn trải lòng ra với tất cả muôn cảnh, muôn lòng. khi là sự sống non tươi, khi là mây đưa gió lượn, khi là cánh bướm tình yêu, khi là non nước, cỏ cây, hoa lá rực lên trong ánh sáng. Cho dù có đầy vòng tay, đầy hồn khát mà vẫn chẳng ngừng: Bởi đã tận hưởng thì phải tới tột đỉnh:

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng Cho no nê thanh sắc của thời tươi;

“Chếnh choáng”, “đã đầy”, “no nê” là những từ biểu thị sự hưởng thụ đến mức tối đa. Ấy thế mà xem chừng vẫn còn chưa hả. Cuối cùng còn đòi hỏi cao hơn nữa:

– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

“Xuân hồng” là mùa xuân đương độ với hoa lá măng tơ đầy hương sắc. “Xuân hồng” cũng có thể là hình ảnh biểu trưng cho tuổi trẻ và cũng có thể là một dáng Xuân đời. “Cắn vào ngươi”, tưởng như thô thiển mà lại đầy chất thơ. Đó chỉ là cách nói về sự hưởng thụ cả tinh thần lẫn vật chất đến mức cuồng nhiệt. Đến với hoa xuân đừng đứng ở bên ngoài, xin hãy vào giữa vườn xuân cho hương sắc tràn đầy mọi giác quan của ta. Với tuổi trẻ cũng vậy, xin đừng chỉ nhìn ngắm gương mặt tuổi trẻ của chính mình ở trong gương mà hãy biến nó thành sức mạnh, thành giá trị vật chất để làm cho đời thêm ý nghĩa.

Đây cũng không chỉ là ham muốn hưởng thụ mà còn là nỗi buồn, là sự hoảng hốt trước sự ra đi của mọi vẻ “xuân hồng”. Vì vậy mà cuống quít, phải “cắn” để giữ lấy, không để cho nó rơi đi và trôi đi. Phải “cắn” để giữ lấy thời gian, tuổi trẻ, đừng để cho nhanh về cái bến già nua tuổi tác.

Đặc biệt trong tình yêu lứa đôi, con người luôn luôn có khát vọng đi tìm sự hòa đồng đến vô biên, tuyệt đích giữa hai cá thể, cả về tâm hồn lẫn thể chất. “cắn vào ngươi” là đòi hỏi được hóa thân trong tình yêu,

Nhìn chung lại, đây là nhân sinh quan mới, có nét tích cực. Trong khi những cái tôi lãng mạng khác lại xa lánh cuộc sống trần gian, đi tìm cõi bồng lai ở chốn hư vô, thì Xuân Diệu không đi đâu cả mà coi trần gian chính là thiên đường và sống hết mình trong cõi trần gian ấy. Hãy biết hướng đời mình về phía ánh sáng, đừng để cho tuổi xanh trôi đi một cách uổng phí. Bởi “tuổi xanh … trở về”. Song nếu chỉ biết tận hưởng một cách vội vàng, cuống quít mà không biết làm gì để cho sự tận hưởng ấy thì lại là tiêu cực.

Về nghệ thuật, nét nổi bật ở khổ thơ này là cách dùng một loạt động từ và tính từ ngày cành mạnh, càng tăng, tạo nên một giọng điệu liên hoàn, sôi nổi như khát vọng mãi không thôi.

3. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 3 – Mẫu 2

Xuân Diệu được mệnh danh là ông hoàng thơ tình Việt Nam, là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh). Ông đem đến cho thơ ca đương thời một sức sống mới, một nguồn cảm xúc mới mẻ, thể hiện quan niệm sống mới, quan niệm thẩm mĩ độc đáo cùng những các tân nghệ thuật táo bạo. Được in trong tập “Thơ thơ”, “Vội vàng” là bài thơ tiêu biểu cho nhịp sống vội vàng, cuống quýt của Xuân Diệu. Là người yêu đời, ham sống tha thiết, mãnh liệt nên trong bất cứ hoàn cảnh nào, Xuân Diệu không bao giờ bỏ cuộc, vẫn cứ bám chặt vào cuộc đời. Trong tâm thế sống “Chẳng bao giờ chán nản”, Xuân Diệu đã có giải pháp tích cực khi ước muốn níu giữ mùa xuân không thành. Sau lời hối thúc, giục giã phải sống mau, sống vội, Xuân Diệu say sưa cụ thể hóa lẽ sống vội vàng bằng lẽ sống thiết thực. Với thi sĩ, vội vàng không đơn thuần chỉ là sống gấp sống vội mà còn là sống với cường độ cao nhất: “Sống toàn tâm, toàn trí, toàn hồn”:

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn; Ta muốn riết mây đưa và gió lượn; Ta muốn say cánh bướm với tình yêu Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều Và non nước, và cây, và cỏ rạng Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng Cho no nê thanh sắc của thời tươi – Hỡi xuân hồng! Ta muốn cắn vào ngươi”

Mở đầu khúc thơ cuối là câu thơ ba chữ được tách riêng ra đặt chính giữa khổ thơ. Câu thơ làm nổi bật lên hình ảnh một cái tôi ham hố đang dang rộng cánh tay ôm hết, ôm khắp, ôm trọn tất cả sự sống mơn mởn non tơ đang bày ra trước mắt. Điệp ngữ “ta muốn” còn lặp đi lặp lại với mật độ dày đặc ở những câu tiếp theo. Khát khao tận hưởng cuộc sống non tơ đang trào dâng mãnh liệt ngày càng nồng nàn và cháy bỏng hơn trong trái tim yêu đời đến tham lam của Xuân Diệu. Đại từ nhân xưng “tôi” bất ngờ chuyển hóa thành “ta”. Trước sự sống rộng lớn bao la của vũ trụ, thi sĩ cần xưng ta chăng? Hay ở đây thi sĩ đang nói lên khát vọng của bao người, hối thúc, lay tỉnh bao người hãy sống mãnh liệt, hãy sống tận độ trong từng phút giây cho nên phải xưng “ta”?

Say đắm thiên nhiên, cảnh trời, Xuân Diệu muốn tận hưởng thiên nhiên và sự sống. Dĩ nhiên, với một trái tim xanh non biếc rờn, thiên nhiên và sự sống mà Xuân Diệu khát khao phải là thiên nhiên giữa thời tươi, phải là sự sống mới bắt đầu mơn mởn, phải là xuân hồng căng mọng, quyến rũ. Điều ấy có nghĩa là Xuân Diệu tham lam, ham hố tận hưởng tất cả những gì ngon nhất, đẹp nhất của sự sống. Nàng xuân mà Xuân Diệu đắm đuối hết sức thanh tân quyến rũ, rạo rực xuân sắc, đắm đuối xuân tình. Đến với thiên nhiên, đến với mùa xuân như đến với người tình tuyệt vời của mình, thi sĩ tình tự với thiên nhiên, ái ân cùng sự sống. Hàng loạt động từ mạnh theo trình tự tăng tiến lần lượt xuất hiện trong các dòng thơ: “ôm”, “riết”, “say”, “thâu”, “cắn” là biểu hiện của tình yêu ngày càng say đắm mãnh liệt. Ôm chọn khắp, riết thật chặt, say sưa mê đắm và đỉnh điểm là cắn. Xuân Diệu đã tận hưởng thiên nhiên như tận hưởng ái tính. Hình ảnh “thâu trong một cái hôn nhiều” rất Tây. Đi liền đó là câu thơ thừa thãi liên từ “và”: “và non nước, và cây, và cỏ rạng”. Chính sự lặp lại có vẻ như thừa thãi ấy lại là một sáng tạo rất hiện đại của Xuân Diệu. Sự lặp lại liên tiếp liên từ “và” trong một dòng thơ đã truyền đến người đọc một cảm xúc hăm hở cuồng nhiệt của một gã suy tình trước tình nhân đắm đuối.

Xuân Diệu tận hưởng sự sống mơn mởn như tận hưởng ái tình và phải đạt đến độ no nê, đã đầy, chênh choáng. Nghĩa là phải thỏa thuê, ngây ngất, mê đi, lịm đi:

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng Cho no nê thanh sắc của thời tươi

Xuân Diệu hiện ra đúng là một gã si tình chếnh choáng men say. Hàng loạt điệp từ “cho” liên tiếp lặp lại dồn đầy cảm xúc yêu đương cuồng nhiệt, mãnh liệt đến vô biên, tuyệt đích. Lời yêu cháy bỏng không thể kìm nén trong lòng, thì thầm trong trái tim mà vang lên thành lời đối thoại dõng dạc, trực tiếp: “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”. Đọc câu thơ, ta tưởng nhu thi sĩ đang muốn hét lo lên để cả đất trời, vũ trụ hiểu được niềm yê cuồng nhiệt của mình. Ôm, riết, say, thâu chưa đủ, no nê, đã đầy, chếnh choáng vẫn chưa thỏa mà phải cắn vào xuân hồng, phải tận hưởng bằng cả tâm hồn, bằng cả trái tim đắp đuối, ham hố mới thỏa niềm khát khao. Ở đây, dường như có để biểu đạt niềm yêu đời cuồng nhiệt vô biên của mình, Xuân Diệu đã dùng đến yếu tố phi lí, phi hiện thực. Cũng chính vì thế mà câu thơ: “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!” trở thành một trong những vần thơ độc đáo, táo bạo nhất trong thơ hiện đại. Cùng với “Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”, Xuân Diệu đã làm cả một cuộc cách mạng lớn trong thi ca để trở thành nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới.

“Với những nguồn cảm hứng mới, yêu đương và tuổi xuân, dù lúc vui hay lúc buồn, Xuân Diệu cũng ru thanh niên bằng giọng yêu đời, thấm thía”. Và khúc thơ cuối trong “Vội vàng” là một trong những khúc thơ tiêu biểu trong giọng thơ yêu đời nhát. Đọc đoạn thơ, ta như nghe thấy giọng nói, hơi thở, nhịp đập sôi nổi bồng bột trong trái tim thi sĩ. Qua bài thơ “Vội vàng”, ta thấy được phần nào cái nhịp sống vội vàng, niềm say mê cuộc đời mãnh liệt của Xuân Diệu. Đồng thời, ta còn thấy được một thông điệp vô cùng ý nghĩa, sâu sắc của Xuân Diệu: Hãy sống vội vàng, sống hết mình trong những khoảnh khắc tuyệt đẹp nhưng lại mong manh của tuổi thanh xuân bởi thời gian trôi đi sẽ kéo theo mùa xuân và tuổi trẻ, cả những

4. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 3 – Mẫu 3

Thời gian chẳng bao giờ chiều lòng người, con người thì nhỏ bé nhưng khát khao lại lớn lao, càng yêu đời, yêu người bao nhiêu thì lại càng thảng thốt khi nhận ra quy luật khắc nghiệt của tạo hóa. Là một nhà thơ mới có cái nhìn tinh tế và trái tim dễ say đắm nhưng cũng bộn bề lo sợ – Xuân Diệu hơn ai hết luôn dằn dặt trước sự trôi chảy của thời gian và tuổi xuân. Có lẽ thế mà nhà thơ luôn sống vội vàng, sống gấp gáp và cũng yêu đắm say. Bài thơ Vội Vàng được xem là châm ngôn sống của Xuân Diệu cũng là tác phẩm thể hiện cái tôi mãnh liệt trong cảm xúc và nhiều khám phá mới mẻ ở hình ảnh thơ. Trong đó khổ thơ cuối bài với tiết tấu nhanh và mạnh như một lời kết luận cho châm ngôn sống vội của ông.

Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm, Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn; Ta muốn riết mây đưa và gió lượn, Ta muốn say cánh bướm với tình yêu, Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều Và non nước, và cây, và cỏ rạng, Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng Cho no nê thanh sắc của thời tươi; – Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”

Ông hoàng thơ tình Xuân Diệu luôn khao khát sống và sống gấp, sống vội. Nếu ở khổ thơ đầu và khổ thứ hai là tình yêu mãnh liệt cùng với sự nuối tiếc chia lìa thì đoạn thơ cuối bài là lời giải đáp cho câu hỏi: sống vội vàng là như thế nào. Cụm từ “mau đi thôi” như một lời thúc giục khi tác giả nhận ra rằng vẫn còn kịp để yêu thương và sống trọn vẹn với tuổi xuân cho đến phút cuối cùng. Phải rồi! “mùa chưa ngã chiều hôm”, xuân vẫn còn đó, người đang yêu tha thiết thì tại sao phải nghĩ nhiều đến chia lìa để hao hụt niềm vui hiện tại. Vì thế mà Xuân Diệu bừng tỉnh và giọng điệu thơ trở lại sự nồng nhiệt thiết tha.

Điệp từ “ta muốn” tạo thành một cấu trúc câu đều đặn, hối hả như thúc giục mọi người hãy yêu quý tuổi trẻ của mình, hãy làm những điều mà chỉ có tuổi trẻ mới làm được và trước hết là say đắm với thiên nhiên, tình yêu của mùa xuân. Thêm vào đó là các động từ chỉ tâm thế: ôm, riết, say, thâu, cắn diễn tả được tình cảm vồ vập và niềm khao khát tận hưởng đến tham lam. Các động từ này có sự tăng tiến rõ rệt trong ước muốn. Ban đầu chỉ là một cái ôm nhẹ nhàng nhưng ôm nào đủ cho sự khát khao, phải riết mạnh thì mới cảm nhận được tình yêu. Khi gần bên, nhà thơ say sưa thâu tóm tất cả vào mình và cuối cùng là hành động mạnh nhất là cắn, như muốn chiếm hữu làm của riêng.

Những câu thơ tiếp theo, Xuân Diệu sử dụng điệp từ cho kết hợp với tính từ “no nê, chếnh choáng, đã đầy” để khẳng định tâm thế của một con người lúc nào cũng hòa mình vào thiên nhiên, cuộc sống. Không phải chỉ vừa đủ mà để cuộc đời hóa thân thành tâm hồn, tâm hồn thì chan chứa tình yêu. Sự cộng hưởng của điệp từ “và” tạo nên sự rộng lớn, bao quát như chính vòng tay tham lam muốn ôm trọn tất cả của nhà thơ. Bài thơ khép lại trong sự hóa thân từ cái tôi cá nhân nhỏ bé thành cái ta chung. Nhà thơ đi từ những khát vọng riêng tư vươn lên thành khát vọng muốn được sông đẹp và cống hiến trọn vẹn với vũ trụ, đất trời. “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào người”, câu thơ mới lạ và táo bạo. Cảm xúc được cụ thể hóa bằng hành động cũng là điều hợp lí trong trái tim của nhà thơ đang yêu điên cuồng.

Khổ thơ cuối của bài khép lại bằng những sáng tạo độc đáo trong cách dùng từ, đặt câu. Nhà thơ bộc lộ quan điểm sống của mình cũng là quan điểm chung của tuổi trẻ: sống là phải biết tận hưởng, yêu đời nhưng cũng phải dâng hiến và trân trọng những điều tốt đẹp mà cuộc đời ban tặng.

5. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 3 – Mẫu 4

Đến với Xuân Diệu-nhà thơ có cội nguồn hòa hợp giữa vùng gió Lào cát trắng cùng với sự cần cù của xứ Nghệ.

“Cha đằng ngoài, mẹ đằng trong Ông đồ nghề lấy cô hàng nước mắm”.

Cả đời Xuân Diệu là cả đời lao động nghệ thuật không lúc nào ngừng bút. Đối với ông sự sống không bao giờ chán nản. Là con người xứ Nghệ cần cù, kiên nhẫn, lao động và sang tạo nghệ thuật. Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất cả về nội dung lẫn nghệ thuật trong nền văn học hiện tại. “Vội vàng” là một trong những tác phẩm thơ xuất xắc của ông. Bài thơ cũng là lời giục giã sống mãnh liệt, sống hết mình. Hãy quý trọng từng giây từng phút của cuộc đời mình, thể hiện khát vọng sống của tác giả. Tiêu biểu là 10 câu cuối của đoạn thơ. Chính là lời giục giã mọi người và cũng chính là lời giục giã cho chính mình. Vì vậy mà tác giả đã nói:

“Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm, Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn; Ta muốn riết mây đưa và gió lượn, Ta muốn say cánh bướm với tình yêu, Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều Và non nước, và cây, và cỏ rạng, Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng Cho no nê thanh sắc của thời tươi; – Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”

Vội vàng” được in trong tập “Thơ thơ”, là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Xuân Diệu trước cách mạng tháng tám. Ở phần trên của bài thơ, thi sĩ luận giải cho người đọc thấy được tạo hóa có sinh ra con người để mãi mãi hưởng lạc thú ở chốn trần gian này đâu. Đời người ngắn ngủi, tuổi xuân có hạn và thời gian trôi đi vĩnh viễn không trở lại. Vì vậy thi nhân “giục giã” chúng ta phải “nhanh lên”, “vội vàng lên” để tận hưởng bữa tiệc của trần gian khi mà “mùa chưa ngả chiều hôm”, khi mà xuân đang non, xuân chưa già:

“Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm”

Đoạn thơ mở đầu bằng ba chữ “Ta muốn ôm” như phơi bày ra hết sự ham hố và cuồng nhiệt của Xuân Diệu với cuộc sống trần thế: Trước đó nhà thơ xưng “tôi” với ước muốn táo bạo “tắt nắng, buộc gió” nhưng ở đoạn thơ cuối này cái tôi ấy đã hòa thành cái ta chung để tận hưởng hết những hương sắc của cuộc đời. Ngay liền đó là câu thơ thể hiện cái tươi non của “Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn”. “Mơn mởn” là từ láy rất gợi cảm và giàu ý nghĩa diễn tả. Nó gợi cảm sự vật, cây cối đang ở độ non mướt, tươi tốt đầy sức sống “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”,

Và đằng sau khao khát “ôm cả sự sống mơn mởn” ấy là những câu thơ mạnh bạo, gấp gáp, giục giã tràn đầy nỗi yêu:

“Ta muốn riết mây đưa và gió lượn, Ta muốn say cánh bướm với tình yêu, Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều Và non nước, và cây, và cỏ rạng, Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng, Cho no nê thanh sắc của thời tươi;”

Một đoạn thơ ngắn mà có tới bốn, năm từ “ta muốn” được lặp đi, lặp lại như nhịp điệu hối hả, như hơi thở gấp gáp của thi nhân. Chứng tỏ Xuân Diệu nồng nhiệt đối rối rít, cuống quýt, như muốn cùng lúc giang tay ôm hết cả vũ trụ, cả cuộc đời, mùa xuân vào lòng mình. Sống như thế với Xuân Diệu mới thực là sống, mới đi đến tận cùng của niềm hạnh phúc được sống. Điệp ngữ “Ta muốn” như ý nghĩa của nó đã nói lên được cái ham muốn khát thèm đến hăm hở, cuồng nhiệt của nhà thơ. Thi nhân như muốn ôm hết vào lòng mình “mây đưa và gió lượn”, muốn đắm say với “cánh bướm tình yêu”, muốn gom hết vào lồng ngực trẻ trung ấy “một cái hôn nhiều”. Muốn thu hết vào hồn nhựa sống dạt dào “Và non nước, và cây, và cỏ rạng”Để rồi, chàng như con ong bay đi hút nhụy đời cho đến say “chếnh choáng” hút cho đã cho đầy ánh sáng, “Cho no nê thanh sắc của thời tươi” mới lảo đảo bay đi.

“Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng, Cho no nê thanh sắc của thời tươi;”

Điệp từ “cho” với nhịp độ tăng tiến nhấn mạnh các cấp độ khát vọng hưởng thụ đạt đến độ thỏa thuê, sung mãn, trọn vẹn. Xuân Diệu muốn tận hưởng cuộc sống cho đến “no nê”, “chếnh choáng”, “đã đầy”. Trong niềm cảm hứng ở độ cao nhất, Xuân Diệu nhận ra cuộc đời, mùa xuân như một cái gì quý nhất, trọn vẹn như một trái đời đỏ hồng, chín mọng, thơm ngát, ngọt ngào, xuân hồng, để cho nhà thơ tận hưởng trong niềm khao khát cao độ.

Thơ Xuân Diệu có đặc trưng là sự vồ vập, cuồng nhiệt, mạnh bạo. Mỗi một lần khao khát “Ta muốn” thì lại đi liền với một động từ chỉ trạng thái yêu đương mỗi lúc một mạnh mẽ, nồng nàn hơn “ôm – sự sống” – “riết – mây đưa, gió lượn” – “say – cánh bướm, tình yêu” – “thâu – cái hôn nhiều”, để cuối cùng là một tiếng kêu của sự cuồng nhiệt, đắm say thể hiện niềm yêu đời, khát sống chưa từng có trong thơ ca Việt Nam: “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”. Đây chính là đỉnh điểm của sự khao khát cháy bỏng của nhà thơ.

Dưới ngòi bút của Xuân Diệu và trong ánh mắt “xanh non”, “biếc rờn” của thi sĩ, mùa xuân hiện lên rõ rệt và sống động như có hình có dáng, có hồn có sắc “Xuân hồng”. Mùa xuân như môi, như má của một người thiếu nữ trẻ trung, tràn trề nhựa sống và đẹp xinh, trinh nguyên đang rạo rực yêu đương, hay như một quả chín ngọt thơm trong vườn “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Đứng trước cái hấp dẫn của mùa xuân, cuộc sống, thi sĩ hình như không nén nỗi lòng yêu đã đi đến một cử chỉ cũng thật đáng yêu:

“Ta muốn cắn vào ngươi!”

Có lẽ trong các bài thơ của Xuân Diệu trước Cách mạng thì đây là những vần thơ Xuân Diệu nhất. Vì mỗi câu, mỗi chữ đều mang hơi thở nồng nàn, đắm say, ham sống của “một nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”.

Bài thơ là một quan niệm sống mới mẻ và táo bạo mà trước đây chưa từng có. Đến với “Vội Vàng” Xuân Diệu kêu gọi mọi người hãy biết yêu và tận hưởng những thứ cuộc sống ban tặng. Xuân Diệu đã bộc lộ một cái tôi tràn đầy sự thèm khát được sống, được tận hưởng một cách cuồng nhiệt những thanh sắc của cuộc đời. Thi sĩ như muốn giang rộng cả đôi tay, cả lồng ngực của mình để đón nhận mùa xuân của tình yêu, của tuổi trẻ. Nỗi khát thèm ấy là xuất phát từ một quan niệm nhân sinh tiến bộ, tích cực của Xuân Diệu trước cuộc đời: “Mau với chứ, vội vàng lên với chứ – Em, em ơi, tình non đã già rồi” . Đoạn thơ đã giúp ta hình dung được tâm hồn Xuân Diệu, một cái tôi yêu đời, giàu xúc cảm, một nhân sinh quan tiến bộ về cuộc đời. Với những gì thể hiện ở trên, Xuân Diệu rất xứng đáng với danh hiệu: “Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”.

6. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 3 – Mẫu 5

Xuân Diệu yêu đời, ham sống, nhưng trong thân phận của một thi nhân mất nước lúc bây giờ, ông luôn lo sợ vì thấy cuộc đời ngắn ngủi, tuổi trẻ, tuổi xuân qua nhanh, nên ông “sống vội vàng, sống cuống quýt” để tận hưởng cuộc đời của mình. Cách sống ấy của thi nhân đã được nâng lên thành quan niệm, triết lí trong bài thơ Vội vàng như lời tự bạch của ông trước cuộc đời. Và cao trào tình cảm của thi phẩm chính là lúc lòng yêu đời, ham sống của nhà thơ bùng lên dữ dội, hối hả, cuồng nhiệt ở cuối bài:

Vì sao ở cuối bài thơ, lòng yếu đời, ham sống của tác giả lại bùng lên dữ dội, hối hả, cuồng nhiệt như vậy?

– Đó chính là cao trào tình cảm tất yếu phải đến trong mạch thơ Vội vàng của tác giả:

+ Mở đầu bài thơ là những biểu hiện của lòng yêu đời, yêu cuộc sống đến si mê, ngây ngất của nhà thơ.

+ Tiếp đến, lại là những băn khoăn, lo lắng của nhà thơ khi ông cảm thấy cuộc đời mình ngắn ngủi, tuổi trẻ, tuổi xuân qua nhanh.

+ Trong nỗi băn khoăn, lo sợ đó, nhà thơ thấy rõ nếu không đến nhanh với cuộc sống để tận hưởng thì sẽ mất nó, vì thế mà ông phải vội vàng đến ngay để ôm ghì lấy nó trong vòng tay của mình.

– Câu thơ bản lề để cho cao trào tình cảm trào ra cuồng nhiệt chính là: “Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm”. Đó là lời tự giục giã của nhà thơ. Chính vì “mùa chưa ngả chiều hôm” nên phải “mau đi thôi” để đến với cuộc sống đó, để Ta muốn ôm… tất cả những gì có trong cuộc sống đó.

Cách sống vội vàng, hối hả, cuồng nhiệt của nhà thơ được biểu hiện như thế nào?

– Nhà thơ muôn ôm ghì, riết chặt cuộc sống trong vòng tay của mình vì sợ mất nó:

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn; Ta muốn riết mây đưa và gió lượn Ta muốn say cánh bướm với tình yêu…

– Nhà thơ muốn tận hưởng cuộc sống đó ở những cảm giác cuồng nhiệt, mãnh liệt nhất:

+ Từ ôm đến riết, đến say, đến thâu, đến cắn…

+ Từ rất nhiều sự vật, hiện tượng của cuộc sống: mây đưa, gió lượn, cánh bướm, tình yêu, cái hôn, non nước, cây, cỏ, mùi thơm, ánh sáng, thanh sắc, xuân hồng…

+ Và rất nhiều cảm giác: chuếnh choáng, đã đầy, no nê…

+ Diện tận hưởng rất rộng mà cường độ tận hưởng lại rất cao, rõ nhất là trong câu thơ cuối ” – Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!” Chưa bao giờ trong văn chương lại có một tiếng nói thơ ca mới mẻ và táo bạo đến thế. Đó chính là sự bùng nổ mãnh liệt của “cái tôi – cảm xúc” trong Thơ mới thời kì 1932 – 1941 mà Xuân Diệu là một gương mặt tiêu biểu. Cả đoạn thơ, đặc biệt câu thơ cuối, đã nói lên rất rõ thần thái của Xuân Diệu.

– Tất cả những điều nói trên đã được thi nhân bộc lộ bằng một tiếng nói thơ đặc sắc, mang tính nghệ thuật cao. Đúng là sự bùng nổ của “cái tôi – cảm xúc” đã kéo theo sự bùng nổ về nghệ thuật thơ, đem đến những cách tân nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu ở đoạn thơ này:

+ Cảm xúc dâng trào mạnh mè làm cho âm điệu câu thơ cuồn cuộn, dồn dập, diễn tả được sự vội vàng, hôi hả, cuồng nhiệt đến với cuộc sống của nhà thơ.

+ Dùng nhiều động từ chỉ hành động và chỉ cảm giác mạnh, ngày càng tăng tiến để bộc lộ cái cảm xúc bùng nổ của thi nhân:

Cái gì cũng ở cường độ cao, ở trạng thái mê say, ứ tràn.

+ Sử dụng nhiều điệp từ: ta (5 lần), và (3 lần) cho (3 lần) càng khiến câu thơ thêm dồn dập, cảm xúc thơ dâng trào, và con người thơ vội vàng, cuống quýt, cuồng nhiệt của Xuân Diệu được bộc lộ rõ với cái thần thái, sắc diện riêng của thi nhân, không thể lẫn được.

Nếu Vội vàng là lời tự bạch của Xuân Diệu trước cuộc đời lúc bấy giờ, khắc họa rõ nét gương mặt riêng của con người thi nhân, thì đoạn cuối bài thơ chính là những nét tiêu biểu, sinh động nhất của hồn thơ đó.

7. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 3 – Mẫu 6

Mỗi nhà thơ đều lấy cho mình nhũng dư vị để làm chất riêng cho chất thơ của mình. Nếu Huy Cận là say mê bất tận với cảnh sắc và không gian, Xuân Quỳnh là những rạo rực đắm chìm trong tình yêu thì khi đến với Xuân Diệu ta lại thấy được sự hưng phấn, cuồng si tột độ với những khoảnh khắc lí thú chảy trôi của thời gian. Nỗi niềm ấy được bộc lộ rõ nét qua lời thơ Vội vàng, và đặc biệt qua khổ thơ cuối:

Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây, và cỏ rạng,

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng

Cho no nê thanh sắc của thời tươi

Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

Guồng chảy của thời gian cứ thế chảy trôi, cuốn đi những thanh sắc tươi đẹp của cỏ cây đất trời. Vì yêu vì đắm say mà hơn ai hết Xuân Diệu cảm nhận xiết bao từng khoảnh khắc quý giá ấy để rồi bâng khuâng:

Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;

Những câu thơ 8 chữ bỗng ngắt lại nhường chỗ cho câu thơ 3 chữ. Giọng thơ trở lên dục dã, rạo rực như chính nỗi lòng thiết tha của nhà thơ. Danh từ xưng hô Tôi đến đây đã chuyển sang ta, ta vừa là cái tôi thi nhân vừa chỉ cái ta chung của tất cả mọi người. Cái tôi cá nhân đã hòa chung với cái ta chung cộng đồng nói lên khát vọng, hoài bão lớn lao. Cuộc đời người mấy ai chả mong được sống mãi với tuổi trẻ căng tràn, mơn mở như nụ xuân mới nhú; ai chả ước ao được níu giữ mãi tuổi xuân nồng nàn, đời xanh hừng hực đam mê cháy. Song nào đâu cứ ôm là được cứ giữ là trọn vẹn nên ta cần phải “riết” để níu giữ gần hơn nữa:

“Ta muốn riết mây đưa và gió lượn”

Ôm là chưa đủ để níu giữ bước chân chuyển dịch thời gian mà chúng ta phải xiết chặt cái đáng giá vào lòng. Mây đưa gió lượn là sự chuyển dịch tuần hoàn của thời gian, là thứ hữu hình, lớn lao thế nhưng nhà thơ lại muốn riết chặt vào tim. Phải chăng nhà thơ muốn ôm cho kì hết những gì của thiên nhiên đất trời vào trong lòng. Và rồi ôm rồi riết thôi vẫn chỉ là những biểu hiện bên ngoài nhà thơ còn muốn cả tâm hồn mình ngự trị:

“Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây, và cỏ rạng,”

Bướm và tình yêu là biểu trưng cho sự ngọt ngào, nồng cháy, lãng mạn. Xuân Diệu khao khát biết mấy được đắm say trong ly rượu dịu nhẹ, nồng nàn của tình yêu đất trời. Nhưng dù say đến mấy thì vẫn là sự tồn tại độc lập giữa 2 chủ thể chỉ cho đến câu thơ tiếp theo người và cảnh mới thực sự quấn quýt, hòa điệu cùng nhau:

“Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cỏ cây và cỏ rạng”

Không chỉ là cảm giác, xúc giác nhà thơ dùng cả vị giác để lột tả hết cái đam mê tột độ của mình. Nhà thơ dùng “cái hôn nhiều” để thưởng thức cảnh vật để thu vào lòng hết hương vị của cỏ cây, hơi thở của núi sông, vạn vật.

Nhưng với một tâm hồn đầy thi vị và nhạy cảm như Xuân Diệu thì điều đó đâu là đủ để thỏa mãn ông. Đã tận hưởng thì phải tận hưởng cho kì hết, cho thỏa cái thú vui lãng mạn. Bởi thế mà suy nghĩ cũng biến thành ý thơ:

“Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng

Cho no nê thanh sắc của thời tươi”

Tình cảm của nhà thơ đến đây đã dâng lên đến tột độ. Xuân Diệu như muốn ôm, muốn riết cho hết và muốn say muốn thâu với tạo hóa để được cảm nhận những dư vị ngọt ngào, để được ánh sáng và thanh sắc đời xuân tắm mát. Tâm hồn nhà thơ như được tắm táp hả hê, thỏa thê, trọn vẹn, sung mãn với âm thanh, mùi vị, ánh sáng, hương vị rạo rực đất trời.

Trong niềm hưng phấn tột độ ấy, nhà thơ bất chợt buông một dấu chấm lửng:

“Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”

Nhà thơ nhận ra mùa xuân, tuổi trẻ giống như một trái chín đỏ mọng, căng tràn, quyến rũ , ngọt ngào, và đầy hấp dẫn khiến nhà thơ không nén nổi lòng mình mà thẳng thắn mạnh bạo, khao khát được ” cắn”. Càng say mê quấn quýt với thiên nhiên Xuân Diệu lại càng sợ thiên nhiên biến mất và càng sợ mất lại càng mãnh liệt được làm chủ, níu giữ vĩnh cửu.

Với cách sử dụng ý thơ theo cấp độ tăng tiến, sử dụng từ ngữ mạnh bạo, giàu sức gợi sức tả kết hợp với nhịp điệu hồ hởi, vồ vập, giục giã đoạn thơ đã diễn tả quan niệm nhân sinh tiến bộ và mới mẻ của Xuân Diệu. Với ông thiên nhiên đẹp nhất vào mùa xuân cũng giống như đời người đẹp nhất là tuổi trẻ, tuổi trẻ được tô vẽ với tình yêu mãnh liệt. Con người sống là phải biết trân trọng từng giây phút đáng giá được sống đừng để đến khi chực chào mất đi mới thấy quý báu, thấy hối tiếc và đớn đau. Nhịp tim và nỗi lòng trăn trở của tác giả đã được gửi gắm vào từng câu từng chữ và từng ý trong bài thơ, trở thành quan niệm sống có ý nghĩa và sức lan tỏa lâu bền.

8. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 3 – Mẫu 7

Như người ta đã nói, Xuân Diệu chính là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Đặc biệt bài thơ Vội vàng, với khổ thơ cuối đã cho ta thấy rõ một tâm thế “rất mới” của Xuân Diệu:

Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,

Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây và cỏ rạng

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng

Cho no nê thanh sắc của thời tươi;

– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi

Nếu như ở đầu bài thơ, Xuân Diệu đã nhấn mạnh mới ước mơ rất lạ, vượt quyền tạo hóa và gần như không thể có thực:

Tôi muốn tắt nắng đi

………

Cho hương đừng bay đi

Gần như đó là một khát khao, một ước vọng quá sức mơ hồ và phi lí. Chẳng ai có thể vượt quyền tạo hóa được bằng cách đó, một sự thiết tha và mãnh liệt tột cùng của cái tôi thơ mới, cái tôi Xuân Diệu. Hơn ai hết, một người đam mê tình yêu, đam mê khát khao và sống trọn vẹn với đời. Vì vậy ở những khổ thơ cuối, Xuân Diệu không thể thực hiện được những khát khao ước vọng như vậy. Nên Xuân Diệu đã thúc giục chúng ta, mỗi người hãy “vội vàng” nữa lên.

Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,

…….

– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi

Câu đầu tiên là Xuân Diệu đang tự thúc giục chính mình. Muốn được sống được yêu, được cống hiến và không sống hoài sống phí. Điều duy nhất ta làm được là phải tăng tốc nhịp sống lên, sống vội vàng, cuống quýt lên, hãy cố gắng sống trọn vẹn từng cảm xúc, từng khoảnh khắc, nhiệt huyết với cuộc đời này hơn nữa.

Cuộc đời đẹp thế, “mơn mởn” là thế, vậy chẳng có nghĩa gì ta lại để nó trôi qua một cách uổng phí cả. Xuân Diệu thay xưng hô, tôi bằng ta, là đổi cách để giao cảm, nói với đời. Đó là thái độ của một chàng thanh niên như muốn đối thoại với cuộc đời này, đối diện với toàn bộ những sự sống, những khát khao mãnh liệt mà mình còn muốn thực hiện. Thật sự Xuân Diệu đã cho ta thấy rõ một cái tôi rạo rực say sưa, và yêu đời thắm thiết làm sao

Xuân Diệu qua đó cũng sử dụng những động từ mạnh, cùng với việc mở rộng những giác quan để tận hưởng cuộc đời. Nếu phần đầu là ước ao được sống thì phần sau đây thực sự là một sự lí giải tại sao phải sống vội. Cuộc đời còn đẹp thế, những “cánh bướm” “tình yêu” và “cây, và cỏ rạng” thiên đường trong cuộc sống là đây chứ đâu.

Xuân Diệu là một nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới, vì thế tâm hồn ông luôn có những khao khát ham sống đến tột cùng, thể hiện một tâm hồn trẻ trung, năng động và nhiệt huyết với đời. Nếu muốn được giao cảm với đời nhiều hơn nữa, không còn cách gì khác ta phải tăng tốc độ và cường độ sống lên nhiều hơn nữa. Một cái tôi không những trẻ trung mà còn rất tích cực. Đó cũng là một trong những châm ngôn sống mà thế hệ trẻ cần học hỏi từ Xuân Diệu

Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt

Còn hơn le lói suốt trăm nă

Xuân Diệu chính là đây, hồn thơ Xuân Diệu vì sao luôn được coi là trẻ trung nhất là đây. Cảm ơn Xuân Diệu đã dạy cho ta một cách sống ý nghĩa và tích cực. Cuộc đời ngắn ngủi, vì thế mỗi chúng ta hãy luôn vận động, nhiệt huyết tối đa với cuộc đời. Cảm ơn những lời thơ của Xuân Diệu, đó sẽ mãi là bài học muôn đời dành cho muôn thế hệ.

Xuân Diệu đã thực sự sống trong sự trẻ trung của mình, đây cũng là khổ thơ cuối cùng của bài thơ, khép lại cả một tràng cảm xúc về vội vàng. Nhờ đoạn thơ này, tác giả đã làm nổi bật lên vì sao và làm thế nào để ta được hưởng trọn vẹn thanh sắc cuộc sống. Bằng việc sử dụng những biện pháp nghệ thuật đắt giá, như điệp từ, điệp cấu trúc, liệt kê, các biện pháp tương giao đầy nghệ thuật. Khiến cho ta như cảm nhận rõ hơn một tư tưởng lớn, một trái tim không khi nào vơi cạn tình yêu với cuộc đời – là Xuân Diệu.

9. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 3 – Mẫu 8

Xuân Diệu là cái tên không hề xa lạ trong văn đàn Việt Nam. Ông được mệnh danh là ” nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Thơ của ông mang màu sắc tươi mới, tràn trề sức sống và chứa đựng khát khao mãnh liệt được tận hưởng cuộc đời. Tình yêu cái đẹp và yêu cuộc sống của ông được thể hiện vô cùng sâu sắc qua trong bài thơ “Vội vàng”. Đặc biệt là khổ thơ thứ ba của tác phẩm với khát vọng tận hưởng mãnh liệt.

Hồn thơ Xuân Diệu cực kỳ nhạy cảm với những bước đi của thời gian. Bởi thời gian một đi sẽ không trở lại nên trong suy nghĩ của Với Xuân Diệu, khoảng thời gian đẹp đẽ và đáng sống nhất là tuổi trẻ với đam mê và tình yêu say đắm. Tuổi trẻ tràn trề sức sống và rực cháy những hoài bão, sống và cống hiến hết mình. Tuổi trẻ đẹp nhưng ngắn ngủi và trôi mau. Có lẽ vì vậy mà Xuân Diệu luôn sống vội vàng, có phần gấp gáp và luôn yêu say đắm.

Nếu ở những khổ thơ trước, Xuân Diệu giãi bày tâm sự về tình yêu mãnh liệt và nỗi nuối tiếc chia lìa thì đến đây, nhà thơ đưa ra câu trả lời cho châm ngôn sống vội, sống tận hưởng của mình:

“Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm “

Cụm từ “mau đi thôi” vang lên như một lời thúc giục. Tác giả nhận ra vẫn còn kịp để yêu và sống trọn vẹn tuổi xuân, với những gì đẹp đẽ nhất. “mùa chưa ngả chiều hôm” tức là xuân vẫn còn đó, giọng điệu nồng nhiệt, thiết tha theo cảm xúc ấy cũng vui tươi trở lại. Dấu chấm than đặt giữa câu càng nhấn mạnh thêm cảm xúc hối hả đang trào dâng trong lòng người thi sĩ.

Xuân Diệu vẫn ý thức được thời gian đang chảy trôi không ngừng, tuổi trẻ chưa hết nhưng chắc chắn nó sẽ biến mất. Phải khẩn trương và nhanh hơn nếu không muốn bản thân rơi phải hối hận khi thời gian qua đi. Đây là quan niệm sống vô cùng mới mẻ, thể hiện khát khao muốn sống và tận hưởng hết mình của con người. Nhà thơ vội vàng muốn sống, muốn chiến thắng cả dòng chảy của thời gian.

Tất cả những dồn nén và khát khao cùng đánh thức những ham muốn tột cùng của người thi sĩ.

“Ta muốn ôm

Cả sự sống đang bắt đầu mơn mởn

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây, và cỏ rạng “

Cụm từ “ta muốn” được nhắc lại nhiều lần liên tiếp khiến nhịp thơ bỗng nhanh hơn, dồn dập hơn. Nó thể hiện khát khao mãnh liệt của nhà thơ, muốn ôm trọn vào lòng vẻ đẹp của thiên nhiên, ôm cả vũ trụ, cả mùa xuân của đất trời. “Tôi” đến đây đã chuyển hóa thành “ta”. Cái tôi cá nhân đã hòa chung với cái ta chung cộng đồng. Khát khao cháy bỏng kia không phải của riêng ai mà là của tất cả mọi người. Nó thôi thúc, gịuc giã những ai đang mang trong mình sức sống của tuổi trẻ.

Với một trái tim xanh non biếc rờn, thiên nhiên và sự sống mà Xuân Diệu khát khao là thiên nhiên giữa thời tươi, là sự sống mới bắt đầu mơn mởn. Sự vội vàng đến đây ngày càng trở nên rõ ràng. Hàng loạt động từ mạnh theo trình tự tăng tiến xuất hiện trong các dòng thơ: “ôm”, “riết”, “say”, “thâu”, “cắn”.

Nhà thơ muốn ôm sự sống bắt đầu chớm nở. Xiết chặt vào lòng để níu giữ bước chân chuyển dịch thời gian “mây đưa gió lượn”. Đắm say trong sự ngọt ngào, nồng cháy của tình yêu đất trời “cánh bướm với tình yêu”.

Đặc biệt, nhà thơ muốn dùng cả vị giác để lột tả hết khát khao tột độ của mình. “Thâu trong những xái hôn nhiều” để thưởng thức trọn vẹn hương vị và hơi thở của thiên nhiên, của vạn vật. Tất cả cùng truyền cho người đọc dòng cảm xúc hăm hở cuồng nhiệt của một tâm hồn say tình đắm đuối.

Xuân Diệu muốn tận hưởng mọi thứ:

“Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng

Cho no nê thanh sắc của thời tươi “

Điệp từ “cho” liên tiếp kết hợp với tính từ “no nê, chếnh choáng, đã đầy” không chỉ thể hiện cảm xúc cuồng nhiệt, mãnh liệt mà còn khẳng định tâm thế của người luôn sẵn sàng hòa mình vào thiên nhiên, cuộc sống. Sự cộng hưởng của điệp từ “và” tạo hình ảnh rộng lớn, bao quát như khao khát muốn ôm trọn tất cả của nhà thơ.

Lời yêu cháy bỏng đã không thể kìm nén mà vang lên đầy tha thiết:

“- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”

Động từ “cắn” ở câu thơ cuối đồng thời khép lại bài thơ chính là điểm nhấn ấn tượng nhất của cả bài. Xúc giác, khứu giác hay vị giác cũng không đủ để tận hưởng. Nhà thơ muốn dùng hành động táo bạo mạnh mẽ hơn để chiếm hữu tối đa vẻ đẹp của mùa xuân, của cuộc đời. Nhà thơ muốn chạm vào nhiều hơn, muốn nuốt trọn hương sắc của đất trời không cho nó biến mất.

Có thể nói, với cách sử dụng ý thơ theo cấp độ tăng tiến. Cách sử dụng từ ngữ mạnh bạo, giàu sức gợi kết hợp với nhịp thơ biến hóa vui tươi, vồ vập, giục giã. Đoạn thơ thứ 3 trong bài thơ “Vội Vàng” đã diễn tả chân thực quan niệm nhân sinh tiến bộ và mới mẻ của Xuân Diệu. Không chỉ bộc lộ cái tôi khát khao mãnh liệt sống, tận hưởng. Nhà thơ còn muốn gửi gắm tới mọi người thông điệp nhân sinh ý nghĩa. Sống phải biết trân trọng thời gian, sống phải biết tận hưởng, yêu hết mình và cũng phải hiến dâng hết mình.

Với những giá trị đó, đoạn thơ nói riêng, bài thơ “Vội vàng” nói chung đã thể hiện thái độ sống vô cùng tích cực. Đồng thời giúp người đọc cảm nhận được tâm hồn Xuân Diệu, một hồn thơ yêu đời, giàu xúc cảm và có nhân sinh quan tiến bộ về cuộc đời.

10. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 3 – Mẫu 9

“Thơ là âm nhạc của tâm hồn, của những tâm hồn cao cả và đa cảm”. Ai đã từng nghe khúc nhạc ca của Xuân Diệu sẽ chẳng thể nào quên về một bản nhạc thiết tha tình yêu cuộc sống và khát khao giao cảm với đời. Bước vào thế giới “Thơ mới” với một “bộ y phục tối tân…với hình thức phương xa”, ở mỗi tác phẩm ta đều nhìn ra chất Xuân Diệu. Tiêu biểu trong đó là bài thơ “Vội vàng”. Trong tác phẩm, ta không chỉ nhìn ra một Xuân Diệu rất say sưa, mê đắm với cuộc đời mà còn nhận ra nhiều triết lý của ông về thời gian và tuổi trẻ qua đoạn ba của bài thơ.

Xuân Diệu sinh ra và lớn lên trong một gia đình có bố là ông đồ dạy học ở xứ Nghệ, mẹ là người Bình Định. Hoàn cảnh ấy cùng với biển xanh cát trắng Quy Nhơn, những cơn gió nồm nam đã nuôi dưỡng hồn thơ Xuân Diệu với chất giọng mượt mà, đắm say. Vốn chịu ảnh hưởng của nền văn học Pháp một cách có hệ thống trên ghế nhà trường, Xuân Diệu thoát khỏi hệ thống ước lệ của thơ cũ, nhìn đời bằng cặp mắt xanh non, biếc rờn. Tiêu biểu cho hồn thơ ấy là bài “Vội vàng”.

“Vội vàng” in trong tập “Thơ thơ”. Ngay từ tựa đề bài thơ đã chứa đựng cả một tâm thế sống. Yêu sống, yêu đời mãnh liệt nên Xuân Diệu luôn ám ảnh với bước đi của thời gian và báo động với chính mình. Chủ đề thời gian trong thơ Xuân Diệu thể hiện quan niệm mới của ông. “Thời gian trong thơ Xuân Diệu mang tính trần thế. Cả trăm bài thơ tình cũng bị thời gian ám ảnh”. Mở đầu đoạn thơ, ông đã thể hiện những quan niệm mới mẻ:

Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua,

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,

Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất

Xuân qua, hạ tới, đông sang là quy luật muôn đời của tạo hóa. Nếu thi ca trung đại nhận ra vòng tuần hoàn quy luật của thời gian: “Xuân qua xuân lại lại” nên con người ung dung, thanh thản, hòa mình vào vũ trụ để tận hưởng thì Xuân Diệu lại tỉnh táo nhận ra thời gian là một đường thẳng tuyến tính, một đi không bao giờ trở lại. Mỗi giây phút đi qua là một mảnh đời đã mất, vì thế con người của thời đại luôn vội vàng, cuống quýt, lo âu. Mùa xuân là biểu tượng cho thiên nhiên tươi tắn, cho tuổi thanh xuân đẹp nhất cuộc đời nhưng với tâm hồn nhạy cảm, tinh thế, Xuân Diệu như nghe được trong bước chân của thời gian, mùa xuân đang trôi rất nhanh giữa dòng đời trôi chảy. Các cặp từ đối lập như “tới – qua”, “non – già” được đặt trong biện pháp điệp cấu trúc càng nhấn mạnh sự đi qua, trôi chảy không ngừng của thời gian trong con mắt thi nhân Xuân Diệu. Cùng một lúc thi sĩ nhận ra trong hiện tại đang tới đã có một màu ly biệt, trong “dáng vẻ còn non” đã biểu hiện trước một tương lai sẽ già, đang sống giữa một bữa tiệc tràn đầy mùa xuân, hương sắc nhưng lại lo sợ bàn tay thô bạo của thời gian sẽ cướp đi tất cả. Điệp từ “nghĩa là” lặp lại ba làm cho mạch thơ trở nên chặt chẽ, diễn tả một quan niệm sống tích cực và sâu sắc vô cùng.

Trong bài thơ “Giục giã”, Xuân Diệu cũng nhận ra rằng:

Tình yêu đến, tình yêu đi ai biết

Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt

Vì vậy nhà thơ giục giã:

Mau đi chứ, vội vàng lên với chứ

Em em ơi, tình non đã già rồi

Gấp nhanh lên anh rất sợ ngày mai

Các hình ảnh thơ được xây dựng trong tương quan đối lập thế bởi những quan niệm sâu sắc, về thời gian như một nhà phê bình đã từng nhận xét rằng: “Xuân Diệu là người có năng lực đặc biệt trong việc cảm nhận bước đi của thời gian”. Có lẽ do lòng yêu tuổi trẻ muốn ngăn lại sự già nua nên nhà thơ luôn cảnh giác với thời gian và báo động với chính mình. Xuân Diệu là người yêu mùa xuân tha thiết, nồng nhiệt nhưng lại ý thức rằng thời gian đi cùng với sự tàn phai, hủy diệt. Vì thế, ông không giấu nổi sự bâng khuâng, đau xót : “Lòng tôi giận là muốn trường sinh bất tử, muốn trẻ mãi không già để tận hưởng vẻ đẹp của nhân gian” nhưng quy luật khiến tuổi trẻ không thể kéo dài. Hạnh phúc của con người rất mong manh nên ta như nghe thấy trong thơ Xuân Diệu có tiếng thở dài, đầy tiếc nuối:

Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật

Không cho dài thời trẻ của nhân gian

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại

Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi

Nên bâng khuân tôi tiếc cả đất trời

Người xưa từng than thở về kiếp người như áng mây trời: “Ôi nhân sinh là thế, như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao”. Tuy nhiên, Xuân Diệu không thể lấy cái sinh mệnh bao la, rộng lớn của vũ trụ để đo thời gian mà lấy sinh mệnh hữu hạn của cá nhân để tính đếm và cá nhân ông lo sợ, chạy đua với thời gian. Chữ “xuân” lặp lại sáu lần, xuân ấy là xuân cuộc đời, nhưng cũng là xuân của đời người. Ông cho rằng tuổi trẻ là quãng thời gian quan trọng và đẹp đẽ nhất của đời người, một đi không bao giờ trở lại nên trong từng câu chữ của Xuân Diệu luôn có sự ngậm ngùi, tiếc nuối về quy luật tạo hóa của thời gian. Từ thấu hiểu quy luật của thời gian để xót xa, để có ý thức về một tâm thế sống tích cực: trân trọng từng khoảnh khắc, tận hưởng, tận hiến với cuộc đời .

Là người chịu ảnh hưởng đậm nét thơ tượng trưng Pháp nên Xuân Diệu phát huy triệt để các giác quan để cảm nhận thế giới:

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi

Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt

Cơn gió xinh rì rào trong lá biếc

Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?

Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi

Phải chăng sợ độ tàn phai sắp sửa?

Nỗi sợ xuân qua lan từ chủ thể trữ tình sang cả thiên nhiên Thi sĩ cảm nhận vị chia phôi của tháng năm, lắng nghe lời thì thầm tiễn biệt của sông núi để nhận ra rằng tất cả đang tan tác, chia lìa. Những phần đời của từng sinh mệnh đang ra đi, không thể nào cưỡng lại được quy luật của tạo hóa. Gió đùa trong lá tạo ra những âm thanh vui tươi của mùa xuân tràn đầy hương sắc, những chú chim ca đang rộn ràng chào xuân nhưng qua cái nhìn của Xuân Diệu, mang một sự buồn thương, tiếc nuối. Chẳng phải con người mà đến cả thiên nhiên, vạn vật cũng đang cảm nhận được sự tàn phai của thời gian. Từ nỗi lo âu về dòng thời gian nghiệt ngã, nhà thơ cất lên tiếng kêu giục giã vội vàng:

Chẳng bao giờ, ôi chẳng bao giờ nữa

Mau đi thôi, mùa chưa ngả chiều hôm

Một lời than vãn về thời gian đầy tiếc nuối. Câu thơ cảm thán với cách ngắt nhịp biến hóa vừa làm nổi bật nỗi lòng vừa thể hiện sự lo lắng của thi nhân. Không thể ngừng nắng, không thể ngăn gió, không thể ngăn lại dòng chảy của thời gian, của tạo hóa, với Xuân Diệu, việc duy nhất ông có thể làm là chọn cho mình một lối sống tích cực. Vì vậy, ông giục giã “mau đi thôi”. Không phải là một thái độ sống gấp gáp, hưởng thụ mà là một cái tôi tích cực cần khẳng định. Lưu luyến với trời đất nhưng không đắm chìm vào ảo tưởng mà thể hiện bằng hành động tích cực, níu kéo thời xuân sắc của đời người, để hưởng cái màu của nắng, cái hương của gió. Đây là những ước muốn rất trần thế, thể hiện lòng yêu đời, yêu sống mãnh liệt của thi nhân.

Chỉ với mười bảy câu thơ đã thể hiện một quan niệm sâu sắc của Xuân Diệu. “Vội vàng” nói chung và khổ thơ thứ ba nói riêng thể hiện một lối sống rất nhân văn của thi sĩ: khao khát sống, sống hết mình và quan niệm về thời gian, hạnh phúc. Bằng cách dùng ngôn ngữ thơ điêu luyện kết hợp với mạch cảm xúc mãnh liệt, dồi dào, tất cả tạo nên một khổ thơ đặc sắc, giàu ý nghĩa, mang đâm dấu ấn Xuân Diệu, để lại trong lòng người đọc nhiều dư ba.

11. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 3 – Mẫu 10

Hoài Thanh đã từng nhận xét rằng: “Thơ Xuân Diệu là một nguồn sống dạt dào chưa từng có ở chốn nước non lặng lẽ này”. Đúng thật vậy, Xuân Diệu luôn để lại những vần thơ gây thổn thức, tràn đầy năng lượng, nhiệt thành với cuộc sống cho người đọc. Vội vàng chính là bài thơ chuyển tải sâu sắc nỗi ám ảnh về thời gian và khao khát níu giữ, cuống quýt với cuộc sống tươi đẹp của thi nhân. Đó là tiếng lòng của một trái tim sục sôi sức sống của nhà thơ sẽ rõ ràng hơn trong đoạn thơ cuối của bài thơ Vội Vàng

Đoạn ba của bài thơ mở ra một trang sách của khát vọng tràn đầy, tâm hồn hết mình, vội vã với cuộc sống. Con người chẳng thể nào níu giữ lại mà chỉ còn cách chạy đua hết mình để bắt kịp trong cuộc chạy marathon này trước sự chảy trôi của thời gian. Và đó cũng là lí do nhà thơ gọi đây là vội vàng, những điều đổi thay quanh ta phải vội để nhận ra, vội đón những điều tươi đẹp của cuộc sống trước khi không còn cảm nhận thấy nó được nữa:

“Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm”

Câu cảm thán ở đầu đoạn cũng như một lời khẳng định, thúc giục sự tăng tốc cần phải nhanh chóng của con người để mọi điều tuyệt vời của cuộc sống, thiên nhiên nơi trần thế muôn màu muôn vẻ này đều có thể tận hưởng được tròn đầy. Nhà thơ một lần nữa thể hiện khát vọng yêu và được yêu một cách mạnh mẽ, tràn đầy. Cụm từ “mau đi thôi” là lời thúc giục đầy chân thành của một người nhận thức được quy luật của cuộc sống, nhà thơ mong mọi người có thể kịp thời, kịp lúc để yêu thương và sống trọn vẹn với cái tuổi xuân tươi đẹp của đời người trước khi nó qua đi.

Thời gian của tạo hóa sẽ chẳng lúc nào chiều theo lòng người, nếu ngồi đó chờ đợi chì chẳng mấy chốc lại hối tiếc. Nhà thơ đặt sự nồng nhiệt, thiết tha vào trong câu thơ:

“Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn

Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi”

Đọc những câu thơ ta cảm nhận ngay được nhịp thơ, tiết tấu lúc này có sự tăng tốc nhanh hơn như chính châm ngôn nhà thơ muốn giục giã mọi vậy. thì đến với Ở đoạn thơ này ông khao khát sống vội, sống gấp và chúng ta thấy được Xuân Diệu khi đã nhận thức rõ về mọi thứ ở những dòng thơ trong khổ một, khổ hai. Ý nghĩa của việc sống nhanh ở đây không phải chỉ là sống thật nhanh cho qua ngày một cách rỗng tuếch mà là sống vội từng giây từng phút để tận hưởng trọn vẹn hết tất cả tinh hoa, hương trời mà tạo hóa ban tặng cho con người. Điệp từ “ta muốn” được tạo thành một cấu trúc đều đặn, lặp lại nhưng rất tài tình để thấy được sự hối hả, niềm ước muốn từ sâu thẳm trái tim để mong được sống thật đẹp, trọn vẹn những ngày còn trẻ trong cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp. Cùng với đó là những động riết, say, thâu, cắn càng chứng tỏ hơn nữa trái tim cuồng nhiệt đến điên dại, vồ vập của tác giả. Sự tăng tiến rõ rệt hơn trong từng ước muốn, bởi chẳng bao giờ là đủ để nắm trọn vẹn mọi thứ tươi đẹp của cuộc đời. Có thể quay lại nhiều mùa xuân kế tiếp nhưng khi đó chưa chắc rằng ta còn có thể ngắm nhìn mùa xuân tươi đẹp đấy lại lần nữa. Động từ cắn được đặt ở dòng cuối cùng là sự kết thúc của những ước muốn, lúc này nhà thơ như muốn được chiếm hữu mọi thứ vào trong lòng mình.

Xuân Diệu chưa dừng lại ở đó, các tính từ “no nê, choáng, đã đầy” thật sự rất rõ ràng, chân thực nhất khẳng định một tâm hồn của người không lúc nào ngừng suy nghĩ sẽ hòa mình vào thiên nhiên, đất trời, cuộc sống này. Sự cộng hưởng của cách dùng từ, nghệ thuật điệp từ, sắp xếp từ ngữ trong những dòng thơ ít ỏi nhưng mở rộng ra rất nhiều, bao quát như một cái dang tay khổng lồ dang ra thâu tóm hết trọn tất cả vào lòng cảm nhận, sống hết mình. Ở đây Xuân Diệu đi từ những cái cá nhân, riêng tư rồi tinh tế mở nó ra thành cái chung, rộng lớn. Thi sĩ không phải ích kỷ chỉ muốn hưởng trọn cái đẹp của đất trời mà luôn không ngừng muốn sống đẹp, cống hiến hết lòng cho đất nước, vũ trụ.

Khổ thơ cuối khép lại nguyên bài thơ với những dòng thơ rất đặc biệt, lạ nhưng rất có tính kêu gọi, thuyết phục cao. Từ cách dùng từ, đặt câu, nghệ thuật đặt để vào khiến cho nỗi lòng của nhà thơ nhanh chóng được bộc lộ rõ ràng, đầy đủ. Tuổi trẻ hãy nên sống hết mình, làm điều mình, đi đến nơi mình chưa từng và không ngừng yêu thương nhiều hơn để thanh xuân sẽ trọn vẹn tươi đẹp.

12. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 3 – Mẫu 11

Vội vàng được đánh giá là một bài thơ rất Xuân Diệu, mang đậm chất hồn và nét phong cách riêng của thi nhân in dấu vào trong từng nhịp thơ, từng điệu hồn thơ, và khổ thơ thứ 3, khổ thơ cuối cùng này chính là sự lên ngôi của tinh thần thơ Xuân Diệu một cách mạnh mẽ nhất.

“Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,

Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây, và cỏ rạng,

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng

Cho no nê thanh sắc của thời tươi;

– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”

Vội vàng được đánh giá là một bài thơ rất Xuân Diệu, mang đậm chất hồn và nét phong cách riêng của thi nhân in dấu vào trong từng nhịp thơ, từng điệu hồn thơ, và khổ thơ thứ 3, khổ thơ cuối cùng này chính là sự lên ngôi của tinh thần thơ Xuân Diệu một cách mạnh mẽ nhất.

Thơ Xuân Diệu bao giờ cũng thổi đến tâm hồn người đọc nhịp đập căng tràn, hối hả của một trái tim yêu đời, yêu sống, và nhất là thái độ sống vội vàng cuống quýt để tận hưởng và tận hiến với cuộc đời. Nhưng nếu như Hàn Mặc Tử cũng mang một tấm chân tình với lòng yêu sống và ham sống mãnh liệt, cũng hối hả cuống quýt trong từng phút giây để được sống, thì đó mang tính chất khác hẳn với thơ Xuân Diệu vì đó là sự vội vàng, cuống quýt của một hồn thơ đau luôn nơm nớp lo sợ về lưỡi hái của tử thần. Còn cái vội vàng của Xuân Diệu là cái vội vàng vì ám ảnh bởi sự chảy trôi vô hạn của thời gian, vì muốn khao khát những mùa hoa, mùa yêu để nó chưa ngả sắc phai tàn. Vậy nên “ôm, riết, say, thâu, cắn” một loạt những động từ mạnh là cách diễn tả rõ nét, mãnh liệt nhất lòng ham sống cuồng nhiệt của Xuân Diệu. Cụm từ “ta muốn ôm” đứng ở giữa dòng thơ, như cái dang tay đầy âu yếm, đầy ham hố vồ vập của thi nhân muốn ôm cho trọn, thâu cho hết bàn tiệc nhân gian đẹp đẽ, ngập tràn xuân sắc rạo rực xuân tình này. Điệp từ “ta muốn” điệp lại ba lần ở đầu mỗi câu thơ là một cách nhấn mạnh rõ ràng niềm bỏng cháy mãnh liệt và sự khát khao vô biên của cái tôi cá nhân đầy mãnh liệt, hăng say. Trước đó, trong thơ trung đại ham muốn của cái tôi cá nhân luôn là điều cấm kỵ, khắc lại cái phi ngã để hòa vào cái chung, vậy nên trong thơ cổ, những câu thơ thể hiện sử sở hữu cá nhân là điều cấm kị, và tâm tư của thi nhân chủ yếu sẽ thường được ẩn mình trong những bức tranh phong cảnh. Do đó, mà rất khổ để cảm nhận được ra nét riêng trong điệu hồn của một nhà thơ nào đó, vì nó đã được tước hết những sơ nguyên ban đầu của tâm cảm, mà thay vào đó, là những nỗi niềm thế thời. Sự đối sánh này là một bản lề để ta nhìn ra phần nào nét mới mẻ trong thơ Xuân Diệu, cũng là sự lột xác lớp vỏ tâm tình đã cũ của thơ xưa để khoác lên mình một tấm áo mới.

Ở khổ thơ cuối, thi nhân hiện lên vừa như người nghệ sĩ chếnh choáng trong men say của nghệ thuật, đi hút cạn những niềm thơ vơi đầy từ cảnh sắc thiên nhiên để đem chất thơ ấy lên trang thơ, mà dẫn đường cho người đọc đến xứ sở của cái đẹp. Lại vừa như một người tình nhân chếnh choáng trong men say của ái tình, vì thế khiến cho hình ảnh thơ hiện lên thật giàu sức gợi, và cứ vang lên những nhịp đập hối hả giục giã trong tâm hồn người đọc.

“Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”.

Có mong ước nào vồ vập, cuống quýt và táo bạo như Xuân Diệu, nhà thơ coi mùa xuân là nàng xuân đang mang những hương sắc của tình yêu và sự sống đến muôn nơi. Từ “cắn” thực sự đã lột tả được chính xác tinh thần và điệu hồn trong thơ Xuân Diệu, thơ ông bao giờ cũng là thể hiện của những cảm xúc ái tình, của những lời yêu gọi mời trong gió. Nó là khát khao, mà cũng là một lời tỏ bày đầy tha thiết của cái tôi Xuân Diệu, cảm tưởng như nhà thơ đã từng nói trước đó:

“Muốn ngoạm sự sống để làm êm nỗi khát thèm”

Nên thật dễ hiểu khi nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng nhận xét:

“Xuân Diệu đã mang một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lạnh lẽo này, và lúc nào lòng thi nhân cũng rộn ràng để mang phấn thông của tình yêu gửi đến muôn nơi”.

Có lẽ điệu sống ấy, chất trẻ ấy, và chất mơn mởn xuân tình ấy đã khiến độc giả không thể khước từ Xuân Diệu, chỉ muốn mượn câu thơ của thi nhân để hát lên những điệu hồn trong tâm hồn mình.

Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Của Trần Tế Xương Hay Chọn Lọc

13 mẫu Phân tích bài Thương vợ

Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương tổng hợp nhiều bài văn mẫu phân tích bài thơ Thương vợ hay được chúng tôi sưu tầm và tổng hợp. Qua bài phân tích bài Thương vợ này, chúng ta thấy được tiếng thở dài đau xót của một con người rất có ý thức trách nhiệm, nhưng bất lực, cùng với tấm lòng thương yêu cảm phục và biết ơn rất chân thành của người chồng đối với người vợ vì mình mà chịu nhiều đắng cay vất vả. Mời các bạn cùng tham khảo.

1. Dàn ý Phân tích bài thơ Thương vợ

I. Mở bài Thương vợ

– Đôi nét về tác giả Trần Tế Xương: một tác giả mang tư tưởng li tâm Nho giáo, tuy cuộc đời nhiều ngắn ngủi.

– Thương vợ là một trong số những bài thơ hay và cảm động nhất của Tú Xương viết về bà Tú.

II. Thân bài 1. Hai câu đề

– Hoàn cảnh bà Tú: mang gánh nặng gia đình, quanh năm lặn lội “mom sông”.

+ Thời gian “quanh năm”: làm việc liên tục, không trừ ngày nào, hết năm này qua năm khác.

+ Địa điểm “mom sông”: phần đất nhô ra phía lòng sông không ổn định.

⇒ Công việc và hoàn cảnh làm ăn vất vả, ngược xuôi, không vững vàng, ổn định.

– Lí do:

+ “nuôi”: chăm sóc hoàn toàn

+ “đủ năm con với một chồng”: một mình bà Tú phải nuôi cả gia đình, không thiếu cũng không dư.

⇒ Bản thân việc nuôi con là người bình thường, nhưng ngoài ra người phụ nữ còn nuôi chồng ⇒ hoàn cảnh éo le trái ngang.

+ Cách dùng số đếm độc đáo “một chồng” bằng cả “năm con”, ông Tú nhận mình cũng là đứa con đặc biệt. Kết hợp với cách ngắt nhịp 4/3 thể hiện nỗi cực nhọc của vợ.

⇒ Bà Tú là người đảm đang, chu đáo với chồng con.

2. Hai câu thực

– Lặn lội thân cò khi quãng vắng: có ý từ ca dao “Con cò lặn lội bờ sông” nhưng sáng tạo hơn nhiều (cách đảo từ lặn lội lên đầu hay thay thế con cò bằng thân cò):

+ “Lặn lội”: Sự lam lũ, cực nhọc, nỗi gian truân, lo lắng

+ Hình ảnh “thân cò”: gợi nỗi vất vả, đơn chiếc khi làm ăn ⇒ gợi tả nỗi đau thân phận và mang tình khái quát.

+ “khi quãng vắng”: thời gian, không gian heo hút rợn ngợp, chứa đầy những nguy hiểm lo âu.

⇒ Sự vất vả gian truân của bà Tú càng được nhấn mạnh thông qua nghệ thuật ẩn dụ.

– “Eo sèo… buổi đò đông”: gợi cảnh chen lấn, xô đẩy, giành giật ẩn chứa sự bất trắc

+ Buổi đò đông: Sự chen lấn, xô đẩy trong hoàn cảnh đông đúc cũng chứa đầy những sự nguy hiểm, lo âu.

– Nghệ thuật đảo ngữ, phép đối, hoán dụ, ẩn dụ, sáng tạo từ hình ảnh dân gian nhấn mạnh sự lao động khổ cực của bà Tú.

⇒ Thực cảnh mưu sinh của bà Tú: Không gian, thời gian rợn ngợp, nguy hiểm đồng thời thể hiện lòng xót thương da diết của ông Tú.

3. Hai câu luận

– “Một duyên hai nợ”: ý thức được việc lấy chồng là duyên nợ nên “âu đành phận”, Tú Xương cũng tự ý thức được mình là “nợ” mà bà Tú phải gánh chịu.

– “nắng mưa”: chỉ vất vả

– “năm”, “mười”: số từ phiếm chỉ số nhiều

– “dám quản công”: Đức hi sinh thầm lặng cao quý vì chồng con, ở bà hội tụ cả sự tần tảo, đảm đang, nhẫn nại.

⇒ Câu thơ vận dụng sáng tạo thành ngữ, sử dụng từ phiếm chỉ vừa nói lên sự vất vả gian lao vừa nói lên đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con của bà Tú.

4. Hai câu kết

– Bất mãn trước hiện thực, Tú Xương đã vì vợ mà lên tiếng chửi:

+ “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc”: tố cáo hiện thực, xã hội quá bất công với người phụ nữ, quá bó buộc họ để những người phụ nữ phải chịu nhiều cay đắng vất vả.

– Tự ý thức:

+ “Có chồng hờ hững”: Tú Xương ý thức sự hờ hững của mình cũng là một biểu hiện của thói đời.

– Nhận mình có khiếm khuyết, phải ăn bám vợ, để vợ phải nuôi con và chồng.

→ Từ tấm lòng thương vợ đến thái độ đối với xã hội, Tú Xương cũng chửi cả thói đời đen bạc.

III. Kết bài

– Khẳng định lại những nét đặc sắc tiêu biểu về nghệ thuật làm nên thành công nội dung của tác phẩm.

– Liên hệ, bày tỏ quan điểm, suy nghĩ của bản thân về người phụ nữ trong xã hội hôm nay.

2. Audio Phân tích bài thơ Thương vợ

3. Video Phân tích bài thơ Thương vợ

4. Phân tích bài thơ Thương vợ mẫu 1

Thơ văn Trần Tế Xương gồm hai mảng lớn: trào phúng và trữ tình. Có bài hoàn toàn là đả kích, châm biếm, có bài thuần là trữ tình. Tuy vậy, hai mảng không tuyệt đối ngăn cách. Thường là châm biếm sâu sắc nhưng vẫn có chất trữ tình. Ngược lại, trữ tình thấm thìa cũng pha chút cười cợt theo thói quen trào phúng. Thương vợ là một bài thơ như vậy.

Thương vợ là bài thơ phản ánh hình ảnh bà Tú vất vả, đảm đang, lặng lẽ hi sinh vì chồng vì con, đồng thời thể hiện tình thương yêu, quý trọng và biết ơn của Tú Xương đối với người vợ của mình.

Quanh năm buôn bán ở mom sông,Nuôi đủ năm con với một chồng.

Chỉ bằng vài lời kể nôm na, bình dị, Tú Xương đã giúp người đọc hình dung ra cảnh bà Tú một mình mang trên vai gánh nặng gia đình, lặn lội nơi đầu sông, bến chợ.

Mom sông là mỏm đất nhô ra dòng sông, cũng là một địa điểm ở phía Bắc thành phố Nam Định. Ngày xưa, đây là nơi trên bến dưới thuyền, người từ các nơi đổ về buôn bán. Quanh năm, bà Tú làm ăn ở đó để kiếm tiền trang trải cho cuộc sống gia đình gồm hai vợ chồng và năm đứa con thơ.

Tại sao bà Tú lại chấp nhận sự lam lũ, vất vả như thế? Đương nhiên là để nuôi chồng, nuôi con. Ngày xưa, xã hội phong kiến dành cho phụ nữ bổn phận là thờ chổng, nuôi con. Với bà Tú, chắc chắn là có chuyện thờ chồng. Thờ chồng bao hàm cả nghĩa vụ nuôi chồng. Đó là sự bất công của xã hội, nhưng xét về mặt đức độ thì sức đảm đang tháo vát của những người vợ như bà Tú thật đáng nể phục.

Cái không bình thường trong bài thơ là cách đếm số người. Giá như tính gộp lại là sáu miệng ăn và một mình bà Tú mà phải cáng đáng đến chừng ấy cũng đã là nhiều. Trên đời, phần lớn phụ nữ cũng gặp cảnh như thế. Đằng này, tác giả đếm rõ ràng là: năm con với một chồng. Đặc biệt là tách riêng ông chồng ra và đếm là một. Xuân Diệu có nhận xét rất hay khi đọc câu thơ này: “Hoá ra ông chồng cũng phải nuôi, tựa hồ như lũ con bé bỏng nên mới đếm ngang hàng với chúng nó: một miệng ăn, hai miệng ăn…”.

Mà bà Tú nuôi chồng đâu có đơn giản như nuôi con. Cơm ăn đã đành, đôi khi phải có tí rượu tí trà cho ông ngâm nga câu thơ câu phú. Áo mặc đã đành, còn phải có bộ cánh tử tế cho ông đi đây đi đó, chứ ai lại để cho ông quanh năm “Bức sốt nhưng mình vẫn áo bông” và “Một đoàn rách rưới con như bố”. Lại phải cho ông xỏng xảnh ít tiền trong túi để gặp bạn, gặp bè. Ấy thế mà bà nuôi đủ, tức là đủ cả về số lượng lẫn chất lượng. Như vậy là bà Tú không chỉ nuôi ông Tú mà còn cung phụng, còn thờ.

Lặn lội thân cò khi quãng vắng,Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Nhưng kể ra được những điều ấy chứng tỏ là ông chồng thấu hiểu và biết đánh giá một cách xứng đáng công lao của bà vợ. Như vậy là thương vợ.

Đến câu thứ ba, hình ảnh bà Tú một mình thui thủi làm ăn càng hiện lên cụ thể và rõ nét hơn:

Tú Xương dùng một hình tượng quen thuộc trong văn chương dân gian nói về người phụ nữ lao động ngày xưa: Con cò lặn lội bờ sông… nhưng ông không so sánh mà đồng nhất thân phận bà Tú với thân cò. Tấm thân mảnh dẻ, yếu đuối của bà Tú mà phải chịu dãi nắng dầm sương thì đã là gian nan, tội nghiệp, vậy mà bà còn phải lặn lội sớm trưa. Nghĩa đen của từ này cũng gợi ra đầy đủ cái vất vả, khó nhọc trong nghĩa bóng. Tấm thân cò ấy lại lặn lội trên quãng vắng đường xa. Nói quãng vắng là tự nhiên nổi lên cái lẻ loi, hiu quạnh, lúc cần không biết nương tựa vào đâu, chưa nói đến những hiểm nguy bất trắc đối với thân gái dặm trường. Eo sèo chi sự nói đi nói lại, có ý bất bình. Đò đông có thể hiểu hai cách: một là đò ngang đã chở đầy người, hai là đò từ các nơi tập hợp lại rất đông. Hiểu cách nào cũng đúng với ý định đặc tả nỗi khó nhọc, gian nan trong cảnh kiếm ăn của bà Tú.

Một duyên hai nợ âu đành phận,Năm nắng mười mưa dám quản công.

Bên cạnh nỗi khổ vật chất còn có nỗi khổ tinh thần. Vì chồng con mà phải lặn lội đường xa quãng vắng, nhưng liệu chồng con có biết cho chăng? Và bà Tú cứ âm thầm lo toan như vậy cho đến hết đời, hết kiếp… số phận bà là vậy.

Câu thơ miêu tả mà đầy chất trữ tình, nghe thật xót xa, tội nghiệp! Ông Tú tỏ ra thông cảm với nỗi khó nhọc của vợ và thương vợ đến vậy là sâu sắc.

Ông Tú hiểu thấu công việc làm ăn của bà Tú. Khi quãng vắng, buổi đò đông, bà đều vất vả khó nhọc, không kể gian nan, không quản thân mình, một lòng vì chồng, vì con. Bà Tú mà nghe được những lời như thế của ông chắc cũng thấy gánh nặng trên vai mình nhẹ bớt và trong thâm tâm bà cũng được an ủi ít nhiều.

Nhưng không phải chỉ có thế, giọng điệu trữ tình kín đáo lồng trong hai câu tường thuật miêu tả (câu 3, 4) chứng tỏ tim ông Tú không phải dửng dưng. Thương vợ nhưng cũng là tự trách mình. Không phải chỉ tự coi mình là một miệng ăn để vợ phải nuôi mà còn hổ thẹn, thấy mình có cái gì đó như nhẫn tâm. Ông chồng trụ cột gia đình là mình ở đâu rồi mà để vợ phải nhọc nhằn, gian nan đến vậy? Tự trách mình như thế cũng là thương vợ thêm sâu.

Tú Xương lại vận dụng thêm một thành ngữ, một câu ca dân gian khác: Vợ chồng là duyên là nợ, Một duyên hai nợ ba tình… Vợ chồng gặp nhau là do ông Tơ bà Nguyệt sắp đặt từ kiếp trước. Có duyên thì tốt đẹp, hạnh phúc, là nợ thì đau khổ một đời.

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,Có chồng hờ hững cũng như không.

Có lẽ ở đây, ông Tú mượn tâm tư bà Tú mà suy ngẫm hay đúng ra, ông hoá thân vào bà để cảm thông sâu sắc hơn: lấy chồng như thế này thì cũng là duyên hoặc nợ thôi, số phận đã thế thì cũng đành thế. Cho nên có khổ cực bao nhiêu, năm nắng mười mưa cũng phải chịu, phải lo, nào dám quản công. Chẳng còn là chuyện thân nữa, dù là thân cò, mà đã là chuyện phận rồi, chuyện số phận.

Ôi! Lấy vợ lấy chồng, người ta bảo là duyên là nợ, nghĩ cũng đúng thật! Số phận đã như thế thì cũng đành thôi, chứ biết làm thế nào?! Cái số kiếp người phụ nữ như tấm lụa đào, như hạt mưa sa, như con thuyền lênh đênh mười hai bến nước, như cơm nguội đỡ khi đói lòng… Trách làm sao được! Vậy thì còn dám kể gì gian lao, dám quản gì mưa nắng!

Lại thêm nghĩa của mấy nhóm từ âu đành, dám quản. Âu đành là một sự bất đắc dĩ, xếp lại, nén xuống những gì bất bình, tủi nhục.. Dám quản tức là không dám kể gì đến công lao, là thái độ chấp nhận gánh chịu mọi sự nhọc nhằn. Thêm âm thanh nặng nề của từ phận ở cuối câu khép lại càng làm cho câu thơ phù hợp với cảm xúc bị dồn nén vào trong.

Vậy là chỉ bốn câu thơ mà chân dung bà Tú hiện lên hoàn chỉnh: từ vất vả bon chen, lăn lộn ở ngoài đời, đến năm liệu bảy lo trong gia đình, từ con người của công việc làm ăn, đảm đang tháo vát, chịu thương chịu khó, đến con người của đức độ, thảo hiền, đầy tinh thần vị tha. Hình ảnh bà Tú tiêu biểu cho phẩm chất tốt đẹp của những người vợ, người mẹ Việt Nam.

Thương vợ mà nói ra là mình thương thì cũng đã quý. Ở đây, ông Tú đã nhập thân vào bà Tú để thấu hiểu nỗi niềm và thể hiện tình cảm của mình bằng những lời thơ chân thành, thấm thía. Như vậy mà không phải là thương vợ sâu sắc hay sao?

Đó là thương vợ, còn tự trách mình? Ngày ngày ngồi không, làm một miệng ăn cho vợ nuôi, điềm nhiên hưởng thụ trong khi vợ phải ngược xuôi tần tảo, nghe cũng đã có cái gì đó bất nhẫn. Nay vợ thầm oán trách, tủi hờn mà quy số phận bất hạnh ấy là do một duyên hai nợ, thử hỏi ông chồng làm sao mà không nhận thấy lỗi của mình? Tự trách đến như vậy là ngoài tình thương vợ đã có thêm ý thức trách nhiệm.

Câu kết là một tiếng chửi đổng cái thói đời ăn ở bạc. Không phải lần này ông Tú mới chửi như thế. Trong bài Gặp người ăn xin, ông cũng đã từng chửi – chửi mình mà thực ra là chửi đời: Người đói, ta đây cũng chẳng no,/ Cha thằng nào có, tiếc không cho. Chỉ khác ở chỗ là lần này, lời chửi tuy có ném thẳng vào đời, nhưng trước hết là ném vào mình. Để tự trách mình thì ông phải chửi. Mà ông phải đặt câu chửi ấy vào miệng bà Tú thì mới đích đáng! Nhưng bà Tú vốn con gái nhà dòng, chẳng đời nào lại chanh chua, thô tục dám chửi chồng. Nhưng đối với ông Tú thì tự trách đến mức phải bật ra tiếng chửi như thế là giận mình thật sự. Bài thơ ông viết ra cốt để bày tỏ tình thương yêu, quý trọng người vợ đảm đang và tự trách mình là đồ tầm thường, vô tích sự.

Quanh năm buôn bán ở mom sông, Nuôi đủ năm con với một chồng. Lận lội thân cò khi quãng vắng, Eo sèo mặt nước buổi đò đông. Một duyên hai nợ âu đành phận, Năm nắng mười mưa dám quản công Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không.

Bà Tú vất vả đến thế, ông Tú tự trách mình đến thế thì đương nhiên là phải bực bội đến bật ra tiếng chửi. Nhận lỗi chưa đủ, nguyền rủa mình bằng câu chửi đổng mới xứng với tội lỗi, ông Tú lại chẳng dè dặt gì với chữ nghĩa mà dùng luôn cách chửi dân gian: Cha mẹ thói đời.

Bà Tú không hề coi chồng là ăn ở bạc, nhưng ông Tú thì gọi đích danh tội lỗi của mình ra như vậy, vợ chồng với nhau mà như thế thì còn gì mà không ông Tú lại không nói trực tiếp là mình ăn ở bạc mà khái quát nó lên thành thói đời. Thói đời đen bạc tượng trưng cho bản chất của xã hội kim tiền dưới thời thực dân phong kiến, ở thành thị điều đó càng tệ hại hơn. Hoá ra đệ tử của thánh hiền là ông Tú mà cũng bị nhiễm cái thói đời xấu xa ấy. Như vậy là từ hổ thẹn, ông Tú đã đi tới chỗ xót xa, tự trách.

Quanh năm buôn bán ở mom sông, Nuôi đủ năm con với một chồng.

Câu kết là sự phán xét vô cùng đau đớn nhưng cũng rất công minh, ông Tú xỉ vả mình là ăn ở bạc, nhưng xét ra cái bạc ấy cũng chỉ mới ở mức hờ hững. Hờ hững trước việc nhà, trước mọi lo toan, vất vả, trước thái độ cam phận của vợ. Đã là vợ chồng, trăm sự cùng lo mới phải. Bà Tú không bắt buộc ông vất vả như bà mà chỉ mong ông đừng hờ hững, ông hãy quan tâm lo cho gia đình chút ít, trước hết là ông hiểu cho bà, như thế cũng đủ cho bà ấm lòng và có niềm vui.

Cả bài thơ cô đúc lại ở ý này: ở câu đề, ông chồng có mặt với tư cách là một miệng ăn phải nuôi, ở câu thực, câu luận, ông chồng vắng bóng. Bài thơ chấm dứt bằng sự day dứt, ân hận trong câu kết: Có chồng hờ hững cũng như không, càng làm tăng thêm nỗi thương vợ của nhà thơ. Đó là cách nói của Tú Xương, đã nói gì là nói ráo riết đến tận cùng. Tuy nhiên, có điều này ông đã nói oan cho mình: đó là hai chữ hờ hững. Vì giận mình mà ông nói thế thôi, chứ thực lòng ông đâu có hờ hững với bà. Bởi nếu ông hờ hững thì đã không có bài Thương vợ thấm thía và cảm động đến như vậy.

5. Phân tích bài thơ Thương vợ mẫu 2

Lặn lội thân cò khi quăng vắng Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Nói đến thơ trào phúng không ai có thế quên ông, một giọng thơ đả kích, phê phán sắc sảo, cay độc, mạnh mẽ hiếm có. Chế Lan Viên từng viết: “Tú Xương cười như mảnh vỡ thủy tinh”. Nhưng Trần Tế Xương không chỉ là một nhà thơ hiện thực chủ nghĩa như vậy, nói như Nguyễn Tuân, chất hiện thực ấy chỉ là “chân trái”, còn “chân phải” của ông là chất trữ tình. Trân trọng cảm phục và nhớ tới thơ Tú Xương nhiều hơn có lẽ do người đời được nghe nhịp đập của một trái tim chân thành, giàu cảm xúc, biết trọng nhân cách, mang một nỗi đau vời vợi không nguôi. Buồn vì không có tiền để giúp một người ăn mày, một đồng bào cùng cảnh ngộ, ông thề độc: “Cha thằng nào có tiếc không cho”. Mang nỗi nhục nô lệ của một tri thức, ông chua chát: “Nhân tài đất Bắc kìa ai đó! Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà”…

Đó là ngoài xã hội, còn trong gia đình ông luôn bị dày vò bởi cảm giác thiếu trách nhiệm, Tú Xương “thương vợ”, có chồng mà phải gánh vai trụ cột, ông tự xỉ vả cái vai trò “hờ hững” của mình.

Nổi bật trong bài thơ là hình ảnh hai con người: một người vợ tần tảo giàu đức hi sinh và một người chồng biết cảm thông chia sẻ, thương yêu và quý trọng vợ rất mực.

Hai câu thơ đầu giới thiệu về nghề nghiệp của bà Tú cũng như trách nhiệm nặng nề của bà:

Một duyên hai nợ âu đành phận, Năm nắng mười mưa dám quản công.

Buôn bán cũng là một nghề như mọi nghề khác, người ta hành nghề để kiếm sống. Người xưa còn coi đây là nghề duy nhất nếu muốn làm giàu (phi thương bất phú). Nhưng việc buôn bán của bà Tú thì không được thế. Chẳng có cửa hàng, cửa hiệu, quán xá gì, mà chỗ bà “kinh doanh” là ở “mom sông”. Hai chữ “mom sông” đã gợi lên hình ảnh một khoảnh đất nhô ra ở bờ sông, có thể nước xuống thì còn, nước lên thì mất, có thuyền qua thì thành chợ không thì thôi, cũng có thể chợ họp một lát vào buổi sáng hoặc buổi chiều. Lèo tèo đôi ba gánh hàng, chỗ dành cho người buôn thúng bán bưng, lưng vốn ít ỏi, lấy công làm lãi, chắc chắn thu nhập chẳng đáng là bao. Thế mà công việc khó nhọc ấy, bà Tú không chỉ chịu đựng một hai buổi mà phải theo đuổi “quanh năm”. Chữ “quanh năm” gợi một thời gian đằng đẵng, là 12 tháng, từ tháng giêng đến tháng chạp, cũng có nghĩa là hết năm này đến năm khác. Cái công việc nặng nề ấy dường như theo đuổi bà Tú suốt cả đời, bởi nó chẳng làm cho bà khá hơn lên để có việc khác nhàn nhã hơn hoặc phát triển việc “buôn bán” lên một cấp độ cao hơn.

Công việc thì nhọc nhằn, thu nhập thì ít ỏi, nhưng bà Tú lại phải lo lắng cho cả một gia đình sáu miệng ăn. Hơn nữa, không phải là sáu mà là “năm con với một chồng”, “Năm con” là số nhiều, nhưng dù sao cũng chịu được, lo cho chúng chỉ cần bát cơm, manh áo. Nhưng ông chồng, là “một”, nhưng là chi phí bằng cả năm đứa con kia. Có khi còn hơn thế nữa! Mỗi khi ông lều chõng đi thi, tiền lưng gạo bị lại đổ lên đầu vợ, chưa nói đến khi đồng chè đồng rượu, cao hứng còn lên phố đi hát, cũng tiền vợ nốt.. Nhiều khoản chi như thế nhưng lúc nào bà cũng lo “đủ”. Thật là đảm đang tháo vát biết chừng nào, chiều chồng biết chừng nào!

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không.

Được cái tiếng thơm ấy, thật không dễ dàng gì, bà Tú phải đổi bằng biết bao công sức:

Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm Cầm bằng làm mướn mướn không công. Thân này ví biết đường này nhẽ Thà trước thôi đành ở vậy xong.

Câu thơ gợi hình ảnh con cò trong những câu ca dao quen thuộc:

… Con cò lặn lội bờ sông

Hình ảnh về một loài chim hiền lành, chăm chỉ âm thầm nhặt nhạnh, kiếm ăn nơi ruộng lúa, bãi sông đã trở thành biểu tượng về những người phụ nữ lam lũ suốt đời vì chồng, vì con, chẳng mấy khi nghĩ đến bản thân mình.

Trong thơ Tú Xương, không phải là con cò mà là thân cò. Không còn là một con vật cụ thể mà là thân phận, số phận, một cái gì rất mỏng manh, nhỏ bé trước biết bao vần vũ của cuộc đời (Thương thay thân phận con rùa / Thân em như chẽn lúa đòng đòng / Thân em như hạt mưa sa…). Yếu đuối quá, bị động quá mà luôn phải lăn lộn, bươn chải. Khi quãng vắng thì lặn lội; buổi đò đông thì chịu cảnh eo sèo. Hai tính từ được đối nhau ở đầu hai câu thơ vừa giàu tính tạo hình vừa giàu tính biểu hiện. Kia một người phụ nữ gầy yếu như thân cò, gánh nặng trên vai, một thân một mình, bước trầy trật trên con đường lầy lội. Hàng cất về rồi, tránh mưa gió thì mất tiền, nên phải lặn lội ra đi. Và kia nữa cũng thân cò ấy lại phải xù lông xù cánh chao chát, cãi cọ tranh mua tranh bán, tranh xuống cho kịp đò, tranh lên cho kịp chợ. Chỗ đông người thì vã mồ hôi, quãng vắng thì trào nước mắt.

Nhưng đó là bà Tú trong con mắt của ông Tú, còn với bà không hề có một lời kêu ca phàn nàn mà là một thái độ chịu đựng vốn thường có của người phụ nữ phương Đông.

Những số từ được dùng rất khéo, vừa theo thứ tự tăng dần vừa đối nhau: một, hai, năm, mười, gợi được những khó khăn chồng chất ngày một tăng dần, và sức lực phi thường của người vợ, gánh vác tất cả. Thật là kiên cường nhưng sao mà tội nghiệp! Phần lớn phụ nữ nhờ chồng mà được hưởng niềm sung sướng, còn với bà Tú chỉ là thêm một món nợ cả đời. Nhập thân vào nhân vật, Trần Tế Xương nói hộ những nỗi thiệt thòi của vợ nhưng đồng thời cũng thấy rõ cái đức hi sinh của người bạn đời. Kết thúc hai câu thơ cũng là sau những khó khăn được đưa ra là lời khẳng định: âu đành phận / dám quản công. Một thái độ dứt khoát, một sự chấp nhận không cần bàn cãi, một cách ứng xử hiển nhiên. Người phụ nữ Việt Nam là vậy, bà Tú Xương là vậy, họ coi “giang sơn nhà chồng” là việc của mình, họ tự nguyện gánh vác không so đo oán than.

“Quanh năm buôn bán ở mom sông, Nuôi đủ năm con với một chồng”

Bà chỉ âm thầm chịu đựng, cho nên ông Tú đã trách hộ bà:

Lời thơ như là tiếng chửi. Mà là chửi thật: “Cha mẹ thói đời…”. Không phải là người vợ chịu nhiều vất vả thiệt thòi chửi mà người chồng tự chửi mình đấy thôi. Chữ “hờ hững” nghe sao mà chua chát. Bà Tú lấy phải một ông chồng bạc bẽo, chẳng giúp gì cho gia đình, cho vợ, chẳng làm được trụ cột lại còn để vợ phải nuôi báo cô. Thật là có chồng mà như không có, thậm chí còn khổ hơn không chồng. Câu thư có chút vị đắng trong thơ Lấy lẽ của Hồ Xuân Hương:

Tóm lại, nổi bật trong bài thơ là hình ảnh bà Tú hiện thân của cuộc đời vất vả lận đận, là hội tụ của bao đức tính tốt đẹp: tần tảo, đảm đang, nhẫn nại… quên mình lo toan cho cuộc sống của chồng con.

Có một con người không xuất hiện trực tiếp là ông Tú, nhưng con mắt và trái tim của ông thì luôn luôn hiện hữu. Con mắt ông nhìn thấy rõ mọi nỗi đắng cay cực nhọc hàng ngày, và con tim thì thấu hiểu những nỗi cô đơn, tâm trạng âm thầm chịu đựng của bà. Bài thơ Thương vợ là một bản tự kiểm điểm, tự khiển trách hết sức chân thành và nghiêm khắc của Tú Xương. Mỗi lời thơ như một tiếng thở dài đau xót của một con người rất có ý thức trách nhiệm, nhưng bất lực. Đó là tấm lòng thương yêu cảm phục và biết ơn rất chân thành của người chồng đối với người vợ vì mình mà chịu nhiều đắng cay vất vả.

“Lặn lội thân cò nơi quãng vắng Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

6. Phân tích bài thơ Thương vợ mẫu 3

“Một duyên hai nợ, âu đành phận, Năm nắng, mười mưa dám quản công.”

Tú Xương là nhà thơ trào phúng bậc thầy trong nền văn học Việt Nam. Ngoài những bài thơ trào phúng sắc nhọn, lấy tiếng cười làm vũ khí chế giễu và đả kích sâu cay bộ mặt xấu xa, đồi bại của cái xã hội thực dân nửa phong kiến, ông còn có một số bài thơ trữ tình, chứa chất bao nỗi niềm của một nhà nho nghèo về tình người và tình đời sâu nặng.

“Thương vợ” là bài thơ cảm động nhất trong những bài thơ trữ tình của Tú Xương. Nó là một bài thơ tâm sự, đồng thời cũng là một bài thơ thế sự. Bài thơ chứa chan tình thương yêu nồng hậu của nhà thơ đối với người vợ hiền thảo.

Sáu câu thơ đầu nói lên hình ảnh bà Tú trong gia đình là một người vợ rất đảm đang, chịu thương chịu khó. Nếu bà vợ của Nguyễn Khuyến là một phụ nữ “hay lam hay làm, thắt lưng bó que, xắn vấy quai cồng, tất tả chân nam đá chân chiêu, vì tớ đỡ đần trong mọi việc” (câu đối của Nguyễn Khuyến) thì bà Tú lại là một người đàn bà:

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không!”

“Quanh năm buôn bán” là cảnh làm ăn đầu tắt mặt tối, từ ngày này qua ngày khác, từ tháng này qua tháng khác, không được một ngày nghỉ ngơi. Bà Tú “buôn bán ở mom sông”, nơi mỏm đất nhô ra, ba bề bao bọc sông nước, nơi làm ăn là cái thế đất chênh vênh. Hai chữ “mom sông” gợi tả một cuộc đời nhiều mưa nắng, một cảnh đời lắm cay cực, phải vật lộn kiếm sống, mới “nuôi đủ năm con với một chồng”.

Một gánh gia đình đè nặng lên đôi vai người mẹ, người vợ. Thông thường người ta chỉ đếm mớ rau, con cá, đếm tiền bạc,… chứ ai “đếm” con, “đếm” chồng. Câu thơ tự trào ẩn chứa nỗi niềm chua chát về một gia cảnh gặp nhiều khó khăn: đông con, người chồng đang phải “ăn lương vợ”.

Có thể nói, hai câu thơ trong phần đề, Tú Xương ghi lại một cách chân thực hình ảnh người vợ tần tảo, đảm đang của mình.

Phần thực, tô đậm thêm chân dung bà Tú, mỗi sáng mỗi tối đi đi về về “lặn lội” làm ăn như “thân cò” nơi “quãng vắng”. Ngôn ngữ thơ tăng cấp, tô đậm thêm nỗi cực nhọc của người vợ. Câu chữ như những nét vẽ, gam màu nối tiếp nhau, bổ trợ và gia tăng; đã “lặn lội” Lại “thân cò”, rồi còn “khi quãng vắng”. Nỗi cực nhọc kiếm sông ở “mom sông” tưởng như không thể nào nói hết được! Hình ảnh “con cò” cái cò trong ca dao cổ: “Con cò lặn lội bờ sông…”, “Con cò đi đón cơn mưa…”, “Cái cò, cái vạc, cái nông,..” được tái hiện trong thơ Tú Xương qua hình ảnh “thân cò” lầm lũi, đã đem đến cho người đọc bao liên tưởng cảm động về bà Tú, cũng như thân phận vất vả, cực khổ, của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ:

“Eo sèo” là từ láy tượng thanh chi sự làm rầy rà bằng lời đòi, gọi liên tiếp dai đẳng: gợi tả cảnh tranh mua tranh bán, cảnh cãi vã nơi “mặt nước” lúc “đò đông”. Một cuộc đời “lặn lội”, một cảnh sống làm ăn “eo sèo”. Nghệ thuật đối đặc sắc đã làm nổi bật cảnh kiếm ăn nhiều cơ cực. Bát cơm, manh áo mà bà Tú kiếm được “nuôi đủ năm con với một chồng'” phải. “lặn lội” trong mưa nắng, phải giành giật “eo sèo”, phải trả giá bao mồ hồi, nước mắt giữa thời buổi khổ khăn! Tiếp theo là hai câu luận, Tú Xương vận dụng rất sáng tạo hai thành ngữ: “một duyên hai nợ” và “năm nắng mười mưa”, đối xứng nhau hài hòa, màu sắc dân gian đậm đà trong cảm nhận và ngôn ngữ biểu đạt:

“Duyên” là duyên số, duyên phận, là cái “nợ” đời mà bà Tú phải cam phận, chịu đựng.”Nắng”, “mưa” tượng trưng cho mọi vất vả, khổ cực. Các số từ trong câu thơ tăng dần lên: “một… hai…năm.. mười… làm nổi rõ đức hi sinh thầm lặng của bà Tú, một người phụ nữ chịu thương, chịu khó vì sự ấm no, hạnh phúc của chồng con và gia đình. “Âu đành phận”,… “dám quản công”… giọng thơ nhiều xót xa, thương cảm, thương mình, thương gia cảnh nhiều éo le.

Tóm lại, sáu câu thơ đầu bằng tấm lòng biết ơn và cảm phục, Tú Xương đã phác họa một vài nét rất chân thực và cảm động về hình ảnh bà Tú, người vợ hiền thảo của mình với bao đức tính đáng quý: đảm đang, tần tảo, chịu thương chịu khó, thầm lăng hi sinh cho hạnh phúc gia đình. Tú Xương thể hiện một tài năng điêu luyện trong sử dụng ngôn ngữ và sáng tạo hình ảnh. Các từ láy, các số từ, phép đôi, thành ngữ và hình ảnh “thân Cò”… đã tạo nên ấn tượng và sức hấp dẫn văn chương.

Hai câu kết, Tú Xương sử dụng từ ngữ thông tục, lấy tiếng chửi nơi “mom sông” lúc “buổi đò đông” đưa vào thơ rất tự nhiên, bình dị. Ông tự trách mình:

Trách mình “ăn lương vợ”, mà “ăn ở bạc”. Vai trò người chồng, người cha chẳng giúp ích được gì, vô tích sự, thậm chí còn “hờ hững” với vợ con. Lời tự trách sao mà chua xót thế! Ta đã biết, Tú Xương có văn tài, nhưng công danh dở dang, thi cử lận đận. Sống giữa một xã hội “dở Tây, dở ta”, chữ nho mạt vận, lúc mà “Ông Nghè, ông Cống cũng nằm co”, cho nên nhà thơ tự trách mình đồng thời cũng là trách đời đen bạc. Ông không xu thời để vinh thân phì gia “tối rượu sâm banh, sáng sữa bò”.

Quanh năm buôn bán ở mom sông.

Hai câu kết là cả một nỗi niềm tâm sự và thế sự đầy buồn thương, là tiếng nói của một trí thức giàu nhân cách, nặng tình đời, thương vợ con, thương gia cảnh nghèo. Tú Xương thương vợ cũng chính là thương mình vậy: nỗi đau thất thế của nhà thơ khi cảnh đời thay đổi!

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Bài thơ “Thương vợ” được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú. Ngôn ngữ thơ bình dị như là tiếng nói đời thường nơi “mom sông” của những người buôn bán nhỏ, cách đây một thế kỉ. Các chi tiết nghệ thuật chọn lọc vừa cá thể (bà Tú với “năm con, một chồng”) vừa khái quát sâu sắc (người phụ nữ ngày xưa). Hình tượng thơ hàm súc, gợi cảm: thương vợ, thương mình, buồn về gia cảnh thêm nỗi đau đời. “Thương vợ'” là bài thơ trữ tình đặc sắc của Tú Xương nói về người vợ, người phụ nữ ngày xưa với bao đức tính tốt đẹp, hình ảnh bà Tú được nói đến trong bài thơ rất gần gũi với người mẹ, người chị trong mỗi gia đình Việt Nam.

Tú Xương chiếm một địa vị vẻ vang trong nền văn học Việt Nam. Tên tuổi ông sống mãi với non Côi, sông Vị.

Eo sèo mặt nước buổi đò đông

7. Phân tích bài thơ Thương vợ mẫu 4

Thơ xưa viết về người vợ đã ít, mà viết về người vợ khi còn sống càng hiếm hoi hơn. Các thi nhân thường chỉ làm thơ khi người bạn trăm năm đã qua đời. Kể cũng là điều nghiệt ngã khi người vợ đi vào cõi thiên thu mới được bước vào địa hạt thi ca.

Nuôi đủ năm con với một chồng

Bà Tú Xương có thể đã phải chịu nhiều nghiệt ngã của cuộc đời nhưng bà lại có niềm hạnh phúc mà bao kiếp người vợ xưa không có được: Ngay lúc còn sống bà đã đi vào thơ ông Tú Xương với tất cả niềm thương yêu, trân trọng của chồng. Trong thơ Tú Xương, có một mảng lớn viết về người vợ mà bài Thương vợ là một trong những bài xuất sắc nhất.

Tình thương vợ sâu nặng của Tú Xương thể hiện qua sự thấu hiểu nỗi vất vả gian lao và phẩm chất cao đẹp của người vợ.

Năm nắng mười mưa dám quản công

Câu thơ mở đầu nói hoàn cảnh làm ăn buôn bán của bà Tú. Hoàn cảnh vất vả, lam lũ được gợi lên qua cách nói thời gian, cách nêu địa điểm. Quanh năm là suốt cả năm, không trừ ngày nào dù mưa hay nắng. Quanh năm còn là năm này tiếp năm khác đến chóng mặt, đến rã rời chứ đâu phải chỉ một năm. Địa điểm bà Tú buôn bán là mom sông, cái doi đất nhô như lời giới thiệu, lại như một bối cảnh làm hiện lên hình bà Tú tần tảo, tất bật ngược xuôi:

Thấm thía nỗi vất vả, gian lao của vợ, Tú Xương mượn hình ảnh con cò trong ca dao để nói về bà Tú. Có điều hình ảnh con cò trong ca dao đầy tội nghiệp mà hình ảnh con cò trong thơ Tú Xương còn tội nghiệp hơn. Con cò trong thơ Tú Xương không chỉ xuất hiện trong cái rợn ngợp của không gian (như con cò trong ca dao) mà cái rợn ngợp của thời gian. Chỉ bằng ba từ khi quãng vắng tác giả đã nói lên được cả thời gian, không gian heo hút, rợn ngợp, chứa đầy lo âu cái rợn ngợp của thời gian, đã làm hao hụt cả ý thơ. So với câu ca dao: Con cò lặn lội bờ sông, câu thơ của Tú Xương:

Là cả một sự sáng tạo. Cách đảo ngữ – đưa ra từ lặn lội lên đầu câu, cách thay từ – thay từ con cò bằng thân cò, càng làm tăng nỗi vất vả gian truân của bà Tú. Từ thân cò gợi cả nỗi đau thân phận, so với từ con của Tú Xương cũng sâu sắc, thấm thía hơn.

Có chồng hờ hững cũng như không

Nếu câu thơ thứ ba gợi nỗi vất vả đơn chiếc thì câu thứ tư lại làm rõ sự vật lộn với cuộc sống của bà Tú:

Câu thơ gợi cảnh chen chúc, bươn bả trên sông nước của những người buôn bán nhỏ. Sự cạnh tranh chưa đến mức sát phạt nhau nhưng cũng không thiếu lời qua tiếng lại. Buổi đò đông đâu phải là ít lo âu, nguy hiểm hơn khi quãng vắng. Trong ca dao, người mẹ từng dặn con: Con ơi nhơ lấy câu này / Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua. “Buổi đò đông” không chỉ có những lời phàn nàn, mè nheo, cau gắt, những sự chen lấn xô đẩy mà còn chứa đầy bất trắc hiểm nguy. Hai câu thực đối nhau về ngữ (khi quãng vắng đối với buổi đò đông) nhưng lại thừa tiếp nhau về ý để làm nổi bật sự vất vả gian truân của bà Tú: đã vất vả, đơn chiếc, lại thêm sự bươn bả trong hoàn cảnh chen chúc làm ăn. Hai câu thực nói thực cảnh bà Tú đồng thời cho ta thấy thực tình của Tú Xương: tấm lòng xót thương da diết.

Cuộc sống vất vả gian truân càng ngời lên phẩm chất cao đẹp của bà Tú. Bà là người đảm đang tháo vát:

Mỗi chữ trong câu thơ Tú Xương đều chất chứa bao tình ý, từ đủ trong nuôi đủ vừa nói số lượng, vừa nói chất lượng. Bà Tú nuôi đủ cả con, cả chồng, nuôi đảm bảo đến mức: “Cơm hai bữa: cá kho rau muống – Quà một chiều: khoai lang, lúa ngô” (Thầy đồ dậy học).

Trong hai câu luận, Tú Xương một lần nữa cảm phục sự hy sinh rất mực của vợ:

Ở câu thơ này, “nắng mưa” chỉ sự vất vả, “năm, mười” là số lượng phiếm chỉ, để nói số nhiều, được tách ra tạo nên một thành ngữ chéo (năm nắng mười mưa) vừa nói lên sự vất vả gian lao, vừa thể hiện được đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con của bà Tú.

Trong những bài thơ viết về vợ của Tú Xương, bao giờ ta cũng bắt gặp hình ảnh hai người: bà Tú hiện lên phía trước, ông Tú khuất lấp ở phía sau, nhìn tinh mới thấy. Khi đã thấy rối thì ấn tượng thật sâu đậm. Ở bài thơ Thương vợ cũng vậy. Ông Tú không xuất hiện trực tiếp nhưng vẫn hiển hiện trong từng câu thơ. Đằng sau cốt cách khôi hài, trào phúng là cả một tấm lòng, không chỉ thương mà còn tri ân vợ. Về câu thơ: “Nuôi đủ năm con với một chồng”, có người cho rằng ở đây ông Tú tự coi mình là một thứ con đặc biệt để bà Tú phải nuôi. Tú Xương đã không gộp mình với con để nói mà tách riêng, con riêng rất rạch ròi là để ông tự riêng tri ân vợ.

“Quanh năm buôn bán ở mom sông, Nuôi đủ năm con với một chồng. Lặn lội thân cò khi quãng vắng, Eo sèo mặt nước buổi đò đông. Một duyên hai nợ âu đành phận, Năm nắng mười mưa dám quản công. Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không!”

Nhà thơ không chỉ cảm phục, biết ơn sự hy sinh rất mực của vợ mà ông còn tự trách, tự lên án bản thân. Ông không dựa vào duyên số để trút bỏ trách nhiệm. Bà Tú lấy ông là do duyên nhưng duyên một mà nợ hai. Tú Xương tự coi mình là cái nợ mà bà Tú phải gánh chịu. Nợ gấp đôi duyên, duyên ít nợ nhiều. Ông chửi thói đời bạc bẽo, vì thói đời là một nguyên nhân sâu xa khiến bà Tú phải khổ. Nhưng Tú Xương cũng không đổ vấy cho thói đời. Sự hờ hững của ông với con cũng là một biểu hiện của thói đời bạc bẽo. Câu thơ Tú Xương tự rủa mát mình cũng là lời tự phán xét, tự lên án:

“Quanh năm buôn bán ở mom sống, Nuôi đủ năm con với một chồng”.

Ở cái thời mà xã hội đã có luật không thành văn bẳn đối với người phụ nữ: “xuất giá tòng phu” (lấy chồng theo chồng), đối với mối quan hệ vợ chồng thì “phụ xướng, phụ tuỳ” (chồng nói, vợ theo), thế mà có một nhà nho dám sòng phẳng với bản thân, với cuộc đời, dám tự thừa nhận mình là quân ăn lương vợ, không những đã biết nhận ra thiếu sót, mà còn dám tự nhân khuyết điểm. Một con người như thế chẳng đẹp lắm sao.

“Nuôi đủ năm con với một chồng”

Nhan đề Thương vợ chưa nói hết sự sâu sắc trong tình cảm của Tú Xương đối với vợ cũng như chưa thể hiện được đầy đủ vẻ đẹp nhân bản của hồn thơ Tú Xương. Ở bài thơ này, tác giả không chỉ thương vợ mà còn ơn vợ, không chỉ lên án “thói đời” mà còn tự trách.

Nhà thơ dám tự nhân khuyết điểm, càng thấy mình khiếm khuyết càng thương yêu, quý trọng vợ hơn.

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng, Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

Tình thương yêu, quý trọng vợ là cảm xúc có phần mới mẻ so với những cảm xúc quen thuộc trong văn học trung đại. Cảm xúc mới mẻ đó lại được diễn tả bằng hình ảnh và ngôn ngữ quen thuộc của văn học dân gian, chứng tỏ hồn thơ Tú Xương dù mới lạ, độc đáo vẫn rất gần gũi với mọi người, vẫn có gốc rễ sâu xa trong tâm thức dân tộc.

“Con cò lặn lội bờ sông Gánh tạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non”

8. Phân tích bài thơ Thương vợ mẫu 5

Trần Tế Xương (bút danh là Tú Xương) là nhà thơ trào phúng nổi tiếng, có lẽ là nhà thơ trào phúng đặc sắc nhất trong nền văn học của nước nhà. Thơ trào lộng, châm biếm, đả kích của Tú Xương sở dĩ được nhiều người yêu thích vì có tính chất trữ tình (trong tiếng cười có nước mắt). Dòng trữ tình trong thơ Tú Xương đôi khi được tách ra thành những bài thơ trữ tình thuần khiết, thấm thía. Hai kiệt tác “Sông Lấp” và “Thương vợ” tiêu biểu cho dòng thơ trữ tình của Tú Xương.

“Một duyên hai nợ âu đành phận, Năm nắng mười mưa dám quản công”

Bài thơ sau đây là bài “Thương vợ” của Tú Xương:

“Năm nắng mười mưa dám quản công”

Trần Tế Xương lận đận trong thi cử, đi thi đến lần thứ tám mới đậu được cái tú tài. Ông học giỏi nhưng phải cái ngông quá, thật ra thái độ ngông của ông là một cách ông phản kháng lại chế độ thi cử lạc lậu, quan trường “ậm ọc” lúc bấy giờ. Mà đậu được cái tú tài thì rồi cũng làm “quan tại gia” thôi. Hồi đó phải đậu cử nhân mới được bổ tri huyện. Thế là bà Tú gần như phải nuôi chồng suốt đời. Ông Tú chỉ còn biết đem tài hoa của mình mà ghi công cho bà Tú:

Từ “mom” thật là hay, vừa thấy được nỗi gian truân của bà Tú buôn bán quanh năm bên bờ sông Vị, vừa thấy được tấm lòng của nhà thơ đối với việc buôn bán khó nhọc của vợ. Từ “mom” là tổng hợp nghĩa của các từ ven, bờ, vực, thềm, thành một từ sáng tạo của nhà thơ làm giầu thêm cho tiếng Việt. Bà Tú buôn thúng bán bưng quanh năm ở “mom sông” mà nuôi chồng, nuôi con:

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không!”

Câu thơ chỉ mấy con số khô khốc thế vậy mà tế toái lắm đó! “Nuôi đủ năm con” là vì con, phải nuôi, nên đếm ra để mà nuôi. Nhưng còn chồng thì một chồng chứ mấy chồng, cớ sao lại cũng phải đếm ra “một chồng”? Là vì chồng cũng phải nuôi, mà bà Tú với cái gánh trên vai nuôi năm đứa con đã là vất vả, lại thêm một ông Tú trong nhà nữa thì gánh nặng gấp đôi. Thời đó mà nuôi một ông Tú, lại là Tú Xương nữa thì nhiêu khê lắm.

Nhưng bà Tú được an ủi là vì ông Tú, cái con người tưởng như chỉ biết bông đùa, cười cợt đó lại để tâm đến từng bước chân của bà trên đường lặn lội buôn bán:

Có thể nói lòng thương vợ của nhà thơ dào dạt lên trong hai câu thơ này. Hình ảnh lặn lội thân cò được tác giả mô phỏng theo một biểu tượng trong thi ca dân gian để nói về người phụ nữ lao động:

Nếu như từ “lặn lội” được đảo ra phía trước chủ ngữ để nhấn mạnh sự vất vả của bà Tú, thì từ “eo sèo” gợi lên âm thanh hỗn tạp (tiếng kì kèo mặc cả, tiếng cãi cọ tranh giành) của “buổi đò đông”. Hai tình huống đối lập thật hay: “vắng” và “đông”. Người phụ nữ gánh hàng lặn lội trên quãng đường vắng thật là khổ. Mà đến chỗ “đò đông” thì thật là đáng sợ! Nghĩa là nhìn từ phía nào, nhà thơ cũng thương vợ, tình thương thấm thía, cảm động.

Sang hai câu luận, tác giả chuyển sang diễn tả nội tâm của bà Tú, lời thơ như lời độc thoại của người vợ:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông Nuôi đủ năm con với một chồng. Lặn lội thân cò khi quãng vắng Eo xèo mặt nước buổi đò đông. Một duyên hai nợ, âu đành phận Năm nắng mười mưa, dám quản công Cha mẹ thói đời ăn ở bạc! Có chồng hờ hững cũng như không!”

Nhân dân ta thường nói “vợ chồng là duyên nợ”. Nhà thơ Tú Xương đã chỉ từ ghép “duyên nợ” thành hai từ đơn: “duyên – nợ”. “Duyên” thì thiêng liêng rồi vì đã có sự tham gia của đấng vô hình (ông Tơ bà Nguyệt), còn “nợ” thì đã thành trách nhiệm nặng nề. “Một duyên hai nợ” đã diễn tả được sự vận động trong tâm trí của bà Tú. “Một duyên hai nợ âu đành phận” là bà Tú đã thuận theo lòng trời và thuận theo lòng người (tấm lòng của chính bà!). Nói gọn lại là bà Tú đã chấp nhận! Và chấp nhận cuộc hôn nhân duyên nợ này, bà chấp nhận một ông đồ nho ngông “tám khoa chưa khỏi phạm trường quy”, bà chấp nhận vị quan “ăn lương vợ” nên bà đâu “dám quản công”:

Thành ngữ “dầm mưa dãi nắng” được tác giả vận dụng sáng tạo thành “năm nắng mười mưa”. Phải nói những con số trong thơ Tú Xương rất có thần. Ta đã thấm thía với hai số năm – một trong câu thừa đề (Nuôi đủ năm con với một chồng). Giờ đây là sự linh diệu của những con số một – hai và năm – mười trong câu luận. “Một duyên hai nợ” đối với “Năm nắng mười mưa”, cho thấy gian khổ cứ tăng lên, bà Tú chịu đựng hết.

Trước người vợ giỏi giang, tần tảo, chịu đựng mọi gian lao vất vả để “nuôi đủ năm con với một chồng” thì nhà thơ chỉ còn biết tự trách mình.

Vì quá thương vợ mà nhà thơ tự trách mình, trách một cách nặng nề. “Cha mẹ thói đời…” thì đã thành lời xỉ vả mình. Thật ra là một cách ông Tú nhún mình để cho công trạng của bà Tú nổi lên, chứ Tú Xương đâu phải là người “ăn ở bạc”. Ăn chơi sa đà thì có, “hờ hững” nữa, thì nhà thơ đã thành thật nói rồi, chứ bạc tình, bạc nghĩa thì không. Gang thép với cường quyền mà nhũn với vợ như thế thì thật là con người đáng kính.

Bằng tình cảm chân thành, bằng nghệ thuật sống động, Tú Xương đã thể hiện được hình ảnh người phụ nữ giỏi giang, lam lũ, tần tảo nuôi chồng nuôi con. Bà Tú có những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam xưa.

Bao nhiêu công trạng trong gia đình, ông Tú giành cho bà Tú, ông chỉ nhận về cho mình một chữ “không”. Nhưng bình tâm mà xét thì ông Tú cũng xứng với bà Tú vì trên đất nước gian lao và vất vả này có hàng triệu người như bà Tú, nhưng chỉ có một bà Tú là được vào cõi thơ, cõi bất tử!

9. Phân tích bài thơ Thương vợ mẫu 6

Trần Tế Xương hay còn có bút danh là Tú Xương, ông là một tác giả nổi tiếng với nhiều tác phẩm mang chất trào phúng và trữ tình. Ông chỉ sống 37 tuổi và học vị tú tài, nhưng sự nghiệp thơ ca của ông đã trở thành bất tử. Ông để lại khoảng 100 tác phẩm gồm: thơ, văn tế, phú, câu đối,…Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là bài thơ “Thương vợ”. Một bài thơ tô đọng trong đó là những phẩm chất tốt đẹp của người vợ, người phụ nữ đảm đang, chịu thương, chịu khó vì hạnh phúc của chồng con. Bài thơ được Tú Xương viết như sau:

Quanh năm buôn bán ở mom sông Có chồng hờ hững cũng như không.

Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật với bố cục được chia làm bốn phần: đề, thực, luận, kết. Mỗi phần hai câu nhằm khắc họa một cách sắc nét hình ảnh bà Tú- vợ Tú Xương, cũng như đang nói lên một phần nào đó hình ảnh người phụ nữ ở xã hội xưa.

Quanh năm buôn bán ở mom sông Nuôi đủ năm con với một chồng.

Trong hai cầu đề Tú Xương đã giới thiệu một cách khái quát về công việc của bà Tú. Đó là sự tần tảo “quanh năm” buôn bán ở mom sông, việc mua bán này không hề có cửa tiệm hay vốn liếng nhiều. Đây là một công việc vất vả, cực nhọc, thu nhập bất ổn song bà Tú vẫn đang “nuôi đủ” năm con với một chồng mà không một lời oán trách. Trong câu này, tác giả tách mình một bên, con một bên nhằm nhấn mạnh việc, mặc dù ông đỗ tú tài nhưng không được làm quan, phải đặt gánh nặng lên đôi vai của người vợ, người mà ông yêu thương. Câu thơ như là lời trách nặng nề của tác giả đối với chính bản thân mình, Nhưng qua câu thơ ta cũng thấy được cái tình cảm yêu thương mà Tú Xương dành tặng cho vợ mình.

Để diễn tả một cách cụ thể hơn sự vất vả trong công việc của bà Tú, trong hai câu thực tác giả đã mượn hình ảnh con cò trong ca dao Việt Nam để biến thành “thân cò” nhằm thể hiện sự lặn lộn vất vả của bà Tú trong công việc mưu sinh hàng ngày tại nơi “quang vắng”. Bên cạnh đó, Tú Xương còn khai quát một cách sinh động cảnh bán buôn ở mom sông của bà Tú qua câu “Eo xèo mặt nước buổi đò đông”. Đó là hình ảnh nhốn nháo, tranh chấp mua bán của nhiều con người có công việc như bà Tú. Nhìn chung, cuộc đời bà Tú không ít khó khăn gian khổ.

Sự khó nhọc, vất vả của bà Tú không được dừng lại ở hai phần đề và thực mà nó còn tăng lên ở phần luận. Bằng việc sử dụng hai câu thuật ngữ “một duyên, hai nợ” và “năm nắng mười mưa” tác giả đã toát lên sự hi sinh cao cả của bà Tú, đó là việc chấp nhận số phận chăm lo cho chồng con và dù nắng hay mưa cũng không bỏ việc. Ở đây, Tú Xương đã nêu lên đức tính tốt đẹp của bà Tú nói riêng và người phụ nữ nói chung, đó là sự tần tảo, đảm đang, nhẫn nại, sẵn sàng hi sinh vì gia đình. Đồng thời qua đây tác giả cũng bộc lộ nổi niềm biết ơn và quý trọng đối với bà Tú.

Lặn lội thân cò khi quãng vắng Eo sèo mặt nước buổi đò đông

Cùng với quý trọng và biết ơn bà Tú ở hai câu luận, thì hai câu kết là một cách nói ngao ngán về nổi niềm tâm sự của tác giả- Tú Xương. Một lời thở dài về “cái thói đời” ông nhắc đến chính là cái xã hội lúc bấy giờ- một xã hội mang tính nửa tây nửa ta, nửa phong kiến, nửa thực dân với những tư tưởng và đạo lí bị suy thoái. Bên cạnh ông tự trách bản thân sao mà “ăn ở bạc” thi cử hoài mà không đỗ đạt, chẳng thể làm quan, không giúp được gì cho vợ con, đẩy vợ con phải chịu khổ vì mình. Cuối cùng mọi thứ đúc kết trong lời than đầy xót xa của Tú Xương “Có chồng hờ hững cũng như không”.

Cái cò lặn lội bờ sông Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non.

Tóm lại “Thương vợ” là một bài thơ hay mang đậm giá trị cảm xúc của Tú Xương. Nó hay trong cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh trong ca dao, thành ngữ của Tú Xương. Bài thơ lại mang đậm cảm xúc chân thành, lời thơ giản dị mà sâu sắc, nói lên tình cảm yêu thương, sự quý trọng mà Tú Xương dành cho vợ. Bên cạnh đó, bài thơ còn thể hiện đức tính đẹp của người phụ nữ Việt Nam xã hội xưa nói chung và bà Tú nói riêng.

10. Phân tích bài thơ Thương vợ mẫu 7

Một duyên hai nợ âu đành phận Năm nắng mười mưa dám quản công.

Tú Xương là một trong những nhà thơ có cảm quan nhạy cảm trước sự đổi thay của nhân tình thế thái. Xã hội thời Tú Xương sống là xã hội đang bị đảo lộn về tất cả ngay cả giá trị thiêng liêng nhất là tình thương cũng bị mai một, tình người với người chỉ còn là thứ tình cảm hời hợt bán mua, đổi chác quá ư dễ dàng. Giữa xã hội nhố nhăng ấy, nhà thơ tự giữ lại cho mình tình cảm cao quý nhất là tình yêu đối với người vợ. Thương vợ là bài thơ hay ghi lại tình yêu chân thành của nhà thơ dành cho người vợ vừa có sự cảm thông, chia sẻ và biết ơn vừa là lời tự thán, tự trách bản thân về trách nhiệm của người chồng.

Tú Xương ngay mở đầu đã tỏ ra là người chồng biết quan tâm đến vợ, am hiểu công việc làm ăn của vợ:

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc Có chồng hờ hững cũng như không.

Bà Tú buôn bán ấy là công việc chính bà làm để nuôi chồng nuôi con. Quanh năm chứ đâu phải là ngày một ngày hai bà tiến hành việc buôn bán mà là quanh năm suốt tháng, liên tục, không ngừng nghỉ. Nỗi vất vả của bà Tú kéo dài theo năm tháng. Mom sông là không gian làm ăn của bà. Đó là chỗ đất nhô ra ở bờ sông Vị hoàng chảy qua thành phố Nam Định, một thế đất rất chênh vênh, cheo leo, không vững vàng, sẵn sàng đổ ụp xuống sông bất cứ lúc nào. Thế mới thấy sự nguy hiểm cho tính mạng của bà cùng nỗi vất vả, cực nhọc trong công việc làm ăn. Ở đây không gian mom sông, thời gian quanh năm tô đậm hơn hình ảnh của bà Tú tảo tần, ngược xuôi. Đó là người phụ nữ của bao đời và đến bà Tú càng rõ nét hơn.

Câu thơ sau nâng vị thế của bà trở thành người trụ cột của gia đình, còn ông chồng bị hạ xuống hạng ăn bám, là gánh nặng cho vợ. Nuôi đủ năm con với một chồng. Cách đếm năm con với một chồng thật đặc biệt. Nhà thơ đặt ông chồng như những đứa con cũng phải nuôi tựa như ông bé bỏng như con nên phải đếm ngang một miệng ăn, hai miệng ăn. Từ đủ làm toát lên mức độ của việc nuôi nấng ấy. Bà nuôi ông không chỉ cơm no, áo đủ mặc mà còn phải có ít rượu cho ông ngân nga, bộ áo mới cho ông vui vẻ cùng bè bạn. Bà Tú lo tất, bà vừa nuôi, vừa cung phụng cho ông. Gánh nặng chồng con đè nặng lên đôi vai bà Tú. Người phụ nữ như địa vị của bà chỉ làm việc nâng khăn sửa túi cho chồng, việc làm ăn để chồng lo, vậy mà bà phải bứt ra khỏi cảnh sống êm ả bước vào dòng đời xô bồ để lo cơm áo cho sáu miệng ăn, làm thay việc của chồng đủ thấy bà đã hi sinh tất cả vì chồng con. Thấu hiểu hoàn cảnh của vợ, đánh giá xứng đáng công lao của vợ chứng tỏ nhà thơ yêu vợ, thương vợ tha thiết lắm.

Hai câu thực tiếp tục mạch cảm xúc cảm thông, chia sẻ:

Công việc của bà đến đây hiện lên thật rõ nét cụ thể. Bà Tú lặn lội ngược xuôi lúc một mình vượt đường xa, quãng vắng, lúc cãi và giành giật ngay trên sông với những chuyến đò đông khách qua. Sự vất vả, cực nhọc của bà là vậy. Lặn lội, eo sèo thể hiện tính chất gay go của cuộc mua bán. Thương trường là chiến trường, đâu dễ nhường nhịn cho nhau miếng ăn, té ra bà Tú cũng va chạm lời qua tiếng lại gây cảnh eo sèo nhốn nháo trên sông. Câu thơ gợi ta nhớ đến thân phận của người phụ nữ xưa qua câu ca:

Con cò xưa và thân cò dường như có sự đồng dạng. Hình ảnh so sánh độc đáo đó càng làm cho tình cảnh bà Tú thêm tội nghiệp đáng thương. Bà Tú có khác gì dáng cò đâu, gầy lêu khêu, bước lững thững, một thân một mình, lếch thếch, lủi thủi. Đối lập cái đơn độc, lẻ loi của bà với vẻ quạnh hiu khi quãng vắng và vẻ tấp nập, đông đúc của buổi đò đông, nhà thơ cực tả những cực nhọc, gian lao của bà để duy trì sự sống cho chồng, con. Ông Tú thấu hiểu điều ấy. Và ông đâu có dửng dưng. Đằng sau từng câu chữ là nỗi niềm chất chứa tâm can. Ông cảm phục vì sức dẻo dai quanh năm làm việc của bà, ca ngợi bà vì bà hết lòng vì chồng con, nhưng một nỗi xót xa, hổ thẹn ngự trị trong lòng ông: Tự trách mình chưa làm tròn trách nhiệm của người chồng. Bà Tú biết được tâm sự như thế của ông chắc gánh nặng sẽ vơi đi chút nào và trong tâm chắc cũng được an ủi, động viên.

Khó nhọc, gian nan là vậy nhưng bà Tú không một lời than vãn. Ngày tháng, công việc cứ trôi qua im lặng như chính cuộc đời bà:

Câu thơ như lời nói rất tự nhiên, đa thanh, có thể coi là lời của ông hoặc bà đều được. Nhưng xưa nay bà có than thân bao giờ, bà chấp nhận tất cả, giấu kín lòng mình với bao nỗi xót xa tủi cực. Ông Tú vì tấm lòng thương vợ cất lên lời nói thay cho bà. Dùng lối nói dân gian vợ chồng là duyên là nợ. Tú Xương vận rất đúng để nói về bà Tú, cuộc đời bà như vậy vừa là duyên, vừa là nợ, duyên một thì nợ hai, hạnh phúc do duyên mang lại ít, cực nhọc do nợ là phần nhiều, số phận là thế thì đành chấp nhận.Dám quản công tức không dám nề hà, không dám kể công dù có vất vả sương gió nhiều, năm nắng mười mưa. Đã vận vào cái số phận làm sao thoát ra, câu thơ kết thúc bằng thanh trắc âu đành phận cùng khiến cho cảm xúc bị dồn nén nhiều hơn. Hẳn bà Tú không ít lần bực mình, thấy đời sao quá bất công, muốn phản kháng nhưng bà đã dằn lòng an phận, chấp nhận im lặng đến nhẫn nhục, cam chiu. Nước mắt bà chảy ngược vào trong, bà giữ chặt lòng mình, không muốn cho ai biết nỗi khổ tâm, đau xót ấy. Các số đếm một, hai, năm, mười cùng nhịp thơ ngắn 2/2/3 thể hiện tâm trạng tức tưởi, lắng sâu và kéo dài cuộc đời bà gắn với công việc không bao giờ ngừng nghỉ. Đến đây, Tú Xương nhập hẳn mình vào vợ để lắng nghe từng nỗi niềm u uẩn của bà. Ẩn đằng sau ấy là bao nỗi niềm của ông, một người chồng khổ tâm để vợ xuôi ngược mà không giúp được gì? Câu thơ toát lên ý thương vợ, tự trách rất sâu sắc.

Hai câu cuối, tình cảm như được bộc phát mạnh mẽ, không phải lời tâm tình nhẹ nhàng như trước mà là tiếng chửi độc:

Tiếng chửi không phải của bà Tú vì bà chấp nhận, cam chịu suốt đời, ông Tú mong bà chửi để gánh nặng lòng ông được vơi bớt, chí ít vì bà coi ông khác lũ con. Sự dồn nén, bức bối buộc ông mượn lời bà để tự chửi mình. Một đấng chồng mà chỉ ngồi ăn bám, vô lo, có khi hạch sách, lên mặt, nhìn vợ tất tả ngược xuôi vất vả còn xứng là chồng không? Ông tự kết án mình đã ăn ở bạc bẽo, lạnh lùng, thờ ơ, vô trách nhiệm… Sự hờ hững ấy của ông khiến cho bà càng đau khổ hơn gấp ngàn lần. Gánh nặng vật chất dù chồng chất đến mấy bà Tú cũng cố chèo lái lo toan, chịu được nhưng bị hờ hững, bị đối xử tệ bạc, không được sẻ chia sẽ làm cho bà gục ngã ngay. Một ông chồng như thế bà đâu cần, có cũng như không. Lấy bản thân mình, nhà thơ khái quát hiện tượng trên thành thói đời nghĩa là nó rất phổ biến, thường diễn ra. Đó chính là đặc trưng của xã hội đồng tiền buổi giao thời mà nhà thơ sống. Ý nghĩa tố cáo của câu thơ là vạch rõ bản chất xấu xa của xã hội coi nhẹ tình cảm, trọng sĩ diện, danh vọng, tiền tài. Câu thơ khép lại bằng từ không tưởng nhẹ nhàng mà hướng người đọc đến chiều sâu tâm trạng chất chứa nỗi chua xót, tự giận của chồng và niềm đau khổ của người vợ.

Bài thơ là tiếng lòng chân thành vừa ngợi ca, cảm phục, chia sẻ, cảm thông trước vất vả, gian nan của bà Tú vừa là lời tự trách, tự lên án của ông Tú. Phải yêu vợ, thương vợ đến mức sâu sắc nhà thơ mới viết nên bài thơ giàu cảm xúc, chân thực như vậy. Chất trữ tình và trào phúng quyện hòa trong nhau đưa người đọc đến những cung bậc tình cảm rất sâu sắc bình dị, đáng trân trọng, ẩn chứa trong lòng nhà thơ vốn căm ghét thế thái nhân tình đổi thay. Tú Xương qua bài thơ gửi đến những người chồng bức thông điệp: hãy nói lời yêu thương chia sẻ thật nhiều với người vợ.

11. Phân tích bài thơ Thương vợ mẫu 8

Tú Xương nhà thơ trào phúng xuất sắc của văn học trung đại. Ông thuộc lớp nhà Nho cuối mùa, sống giữa buổi giao thời, trong lúc thời đại phong kiến suy tàn, những giá trị của quá khứ đang dần mất đi nhưng cái mới chưa kịp hình thành, những nét đẹp truyền thống đang dần rạn vỡ… Bởi vậy thơ ông đầy tiếng u uất, chua chát. Nhưng chất trào phúng trong thơ ông chỉ là “chân trái” còn “chân phải” vẫn là chất trữ tình. Thơ ông luôn khắc khoải những suy tư, âu lo rộng là với xã hội, hẹp là với gia đình, với bà Tú – người vợ hết thực tần tảo. Bài thơ Thương vợ đã thể hiện đầy đủ chất trữ tình cũng như chất trào phúng ấy trong thơ ông.

Viết về người vợ là điều hiếm thấy trong thơ xưa, đặc biệt là khi người vợ còn sống. Riêng với Tú Xương, ông không chỉ viết về vợ mà còn có hẳn một đề tài riêng về bà Tú: Đau mắt, Văn tế sống vợ, Hỏi mình,… điều đó đã cho thấy vị trí, ý nghĩa to lớn của người vợ trong cuộc đời ông.

Hai câu đề tác giả giới thiệu tổng quan về bà Tú cũng như công lao to lớn của bà đối với gia đình:

Quanh năm buôn bán ở môm sông

Nuôi đủ năm con với một chồng

Tú Xương đã mô tả rất chính xác về nghề nghiệp của bà Tú đó là buôn gạo ở ven sông. Công việc của bà tuần hoàn, đều đặn suốt năm, dường như không có bất cứ lúc nào bà được nghỉ ngơi, có được thời gian cho riêng mình. Không gian bà làm việc cũng chứa đựng đầy sự nguy hiểm. Bà Tú phải làm việc cực nhọc quanh năm, với bao vất vả khó khăn, bà chính là trụ cột của gia đình. Bà không những phải nuôi con mà còn phải nuôi thêm chồng . Vậy là một người đàn bà phải nuôi sáu miệng ăn trong gia đình. Trong câu thơ Tú Xương tự tách mình riêng ra một vế so với năm đứa con, cho thấy ông tự nhận thức được gánh nặng của thân đối với vợ, gánh nặng ấy còn hơn cả năm đứa con. Nếu như những đứa con chỉ cần đáp ứng nhu cầu ăn uống, quần áo cho chúng thì với ông Tú ngoài những nhu cầu cơ bản, còn phải đáp ứng cả thú ăn, thú chơi của ông. Câu thơ thấp một nụ cười tự châm biếm chính mình.

Nỗi vất vả, gian truân của bà Tú tiếp tục được tô đậm ở hai câu tiếp theo: “Lặn lội thân cò khi quãng vắng/ Èo sèo mặt nước buổi đò đông”. Phép đảo ngữ: đẩy “lặn lội” “eo sèo” lên đầu câu, tô đậm nỗi vất vả, nhọc nhằn của bà Tú trong cuộc mưu sinh. “Đò đông” gợi nên sự nguy hiểm trong việc đi lại, buôn bán hàng ngày “Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua”. Hình ảnh bà Tú được miêu tả qua phép ẩn dụ “thân cò” đầy ám ảnh, gợi dáng dấp nhỏ bé, chịu đựng, bơ vơ, côi cút đến tội nghiệp. Hình ảnh cái có lặn lội vốn là mẫu gốc trong văn học dân gian, cho thấy sự tảo tần, lam lũ của người lao động, đồng thời gợi sự đồng cảm nơi ngươi. Câu 3,4 với hình ảnh ẩn dụ “thân cò” kết hợp với từ đầy tình tạo hình”lặn lội” đã khắc sâu hơn nỗi nhọc nhằn trong cuộc mưu sinh của bà Tú.

Duyên vợ chồng vốn do trời định sẵn, còn “nợ” là gánh nặng, nếu hai người có cuộc sống tốt đẹp ấy là duyên, cuộc sống ngang trái, bất hạnh ấy là nợ. Trong câu thơ: “Một duyên hai nợ âu đành phận/ Năm nắng mười mưa dám quản công” cho thấy cái duyên với chồng thì ít mà cái nợ với nhau thì nhiều. Ông Tú tự nhận thấy mình là cái nợ, là gánh nặng suốt đời của bà Tú. Nhưng bà Tú không hề đay nghiến điều đó, mà hết lòng hi sinh, như một lẽ tự nhiên, âm thầm không đòi hỏi hay oán trách bất cứ điều gì với ông Tú. Với sáu câu thơ đầu, Tú Xương đã khắc họa chân thực và đầy đủ nhất vẻ đẹp tảo tần, chịu thương, chịu khó của bà Tú đối với gia đình.

Chỉ đến hai câu thơ cuối cùng hình ảnh ông Tú mới xuất hiện:

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không!

Quanh năm buôn bán ở mom sông, Nuôi đủ năm con với một chồng. Lận lội thân cò khi quãng vắng, Eo sèo mặt nước buổi đò đông. Một duyên hai nợ âu đành phận, Năm nắng mười mưa dám quản công Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không

Tiếng chửi cất lên vô cùng gay gắt, ném vào cuộc đời cũng chính là tự mắng chính mình. “Thói đời” – những quy tắc hà khắc của chế độ phong kiến, phân biệt đối xử, trọng nam khinh nữ, coi việc nhà, việc mưu sinh là của đàn bà. Là cái xã hội thực dân nửa phong kiến đã đẻ ra thói đời bạc bẽo, những bất công vô lí. Tiếng chửi ấy xuất phát từ lòng yêu thương và biết ơn vô bờ của ông Tú dành cho vợ.

Quanh năm buôn bán ở mom sông, Nuôi đủ năm con với một chồng.

Tác phẩm là sự việt hóa của thể thơ thất ngôn bát cú. Tú Xương có sự đan xen, kết hợp hài hòa giữa chất trữ tình và chất trào phú, trong đó chất trữ tình là chủ đạo để nói lên lòng biết ơn sâu sắc với vợ. Đây đồng thời cũng là nét đặc sắc và độc đáo trong thơ Tú Xương. Ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị, như lời ăn tiếng nói hàng ngày. Hình ảnh thơ quen thuộc, giản dị tạo cho câu thơ vẻ đẹp tự nhiên, chân thành nhưng vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ.

Với dung lượng của một bài thơ ngắn nhưng Tú Xương đã đem đến những nét vẽ đầy đủ và trọn vẹn nhất về vẻ đẹp nhân cách, phẩm chất hi sinh cao quý của bà Tú đối với gia đình. Đồng thời đây cũng là những lời thơ tự trào phúng về sự bất lực của bản thân. Ngoài ra, bài thơ cũng là sự thành công trên nhiều phương diện: ngôn ngữ, hình ảnh, kết hợp giữa chất trào phúng và trữ tình.

12. Phân tích bài thơ Thương vợ mẫu 9

Nói đến thơ trào phúng không ai có thể quên ông, một giọng thơ đả kích, phê phán sắc sảo, cay độc, mạnh mẽ hiếm có. Chế Lan Viên từng viết: “Tú Xương cười như mảnh vỡ thủy tinh”. Nhưng Trần Tế Xương không chỉ là một nhà thơ hiện thực chủ nghĩa như vậy, nói như Nguyễn Tuân, chất hiện thực ấy chỉ là “chân trái”, còn “chân phải” của ông là chất trữ tình.

Trân trọng cảm phục và nhớ tới thơ Tú Xương nhiều hơn có lẽ do người đời được nghe nhịp đập của một trái tim chân thành, giàu cảm xúc, biết trọng nhân cách, mang một nỗi đau vời vợi không nguôi. Buồn vì không có tiền để giúp một người ăn mày, một đồng bào cùng cảnh ngộ, ông thề độc: “Cha thằng nào có tiếc không cho”. Mang nỗi nhục nô lệ của một tri thức, ông chua chát: “Nhân tài đất Bắc kìa ai đó! Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà”…

Đó là ngoài xã hội, còn trong gia đình ông luôn bị dày vò bởi cảm giác thiếu trách nhiệm, Tú Xương “thương vợ”, có chồng mà phải gánh vai trụ cột, ông tự xỉ vả cái vai trò “hờ hững” của mình. Chắc rằng các cụ ông ngày xưa phần lớn là thương vợ thương con, nhưng vì một quan niệm nào đấy, thường ngại bộc lộ tình cảm của người chồng, nhất là lại thể hiện tình cảm với người vợ một cách trực tiếp qua giấy trắng mực đen, qua văn chương thì lại càng ít.

Nổi bật trong bài thơ là hình ảnh hai con người: một người vợ tần tảo giàu đức hi sinh và một người chồng biết cảm thông chia sẻ, thương yêu và quý trọng vợ rất mực. Hai câu thơ đầu giới thiệu về nghề nghiệp của bà Tú cũng như trách nhiệm nặng nề của bà:

Buôn bán cũng là một nghề như mọi nghề khác, người ta hành nghề để kiếm sống. Người xưa còn coi đây là nghề duy nhất nếu muốn làm giàu (phi thương bất phú). Nhưng việc buôn bán của bà Tú thì không được thế. Chẳng có cửa hàng, cửa hiệu, quán xá gì, mà chỗ bà “kinh doanh” là ở “mom sông”.

Hai chữ “mom sông” đã gợi lên hình ảnh một khoảnh đất nhô ra ở bờ sông, có thể nước xuống thì còn, nước lên thì mất, có thuyền qua thì thành chợ không thì thôi, cũng có thể chợ họp một lát vào buổi sáng hoặc buổi chiều. Lèo tèo đôi ba gánh hàng, chỗ dành cho người buôn thúng bán bưng, lưng vốn ít ỏi, lấy công làm lãi, chắc chắn thu nhập chẳng đáng là bao. Thế mà công việc khó nhọc ấy, bà Tú không chỉ chịu đựng một hai buổi mà phải theo đuổi “quanh năm”.

Chữ “quanh năm” gợi một thời gian đằng đẵng, là 12 tháng, từ tháng giêng đến tháng chạp, cũng có nghĩa là hết năm này đến năm khác. Cái công việc nặng nề ấy dường như theo đuổi bà Tú suốt cả đời, bởi nó chẳng làm cho bà khá hơn lên để có việc khác nhàn nhã hơn hoặc phát triển việc “buôn bán” lên một cấp độ cao hơn.

Công việc thì nhọc nhằn, thu nhập thì ít ỏi, nhưng bà Tú lại phải lo lắng cho cả một gia đình sáu miệng ăn. Hơn nữa, không phải là sáu mà là “năm con với một chồng”, “Năm con” là số nhiều, nhưng dù sao cũng chịu được, lo cho chúng chỉ cần bát cơm, manh áo. Nhưng ông chồng, là “một”, nhưng là chi phí bằng cả năm đứa con kia.

Có khi còn hơn thế nữa! Mỗi khi ông lều chõng đi thi, tiền lưng gạo bị lại đổ lên đầu vợ, chưa nói đến khi đồng chè đồng rượu, cao hứng còn lên phố đi hát, cũng tiền vợ nốt.. Nhiều khoản chi như thế nhưng lúc nào bà cũng lo “đủ”. Thật là đảm đang tháo vát biết chừng nào, chiều chồng biết chừng nào! Được cái tiếng thơm ấy, thật không dễ dàng gì, bà Tú phải đổi bằng biết bao công sức:

Lặn lội thân cò khi quăng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Câu thơ gợi hình ảnh con cò trong những câu ca dao quen thuộc:

… Con cò lặn lội bờ sông

Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non;

… Con cò mà đi ăn đêm

Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao

Hình ảnh về một loài chim hiền lành, chăm chỉ âm thầm nhặt nhạnh, kiếm ăn nơi ruộng lúa, bãi sông đã trở thành biểu tượng về những người phụ nữ lam lũ suốt đời vì chồng, vì con, chẳng mấy khi nghĩ đến bản thân mình.

Trong thơ Tú Xương, không phải là con cò mà là thân cò. Không còn là một con vật cụ thể mà là thân phận, số phận, một cái gì rất mỏng manh, nhỏ bé trước biết bao vần vũ của cuộc đời (Thương thay thân phận con rùa / Thân em như chẽn lúa đòng đòng / Thân em như hạt mưa sa…). Yếu đuối quá, bị động quá mà luôn phải lăn lộn, bươn chải. Khi quãng vắng thì lặn lội; buổi đò đông thì chịu cảnh eo sèo.

Hai tính từ được đối nhau ở đầu hai câu thơ vừa giàu tính tạo hình vừa giàu tính biểu hiện. Kia một người phụ nữ gầy yếu như thân cò, gánh nặng trên vai, một thân một mình, bước trầy trật trên con đường lầy lội. Hàng cất về rồi, tránh mưa gió thì mất tiền, nên phải lặn lội ra đi. Và kia nữa cũng thân cò ấy lại phải xù lông xù cánh chao chát, cãi cọ tranh mua tranh bán, tranh xuống cho kịp đò, tranh lên cho kịp chợ. Chỗ đông người thì vã mồ hôi, quãng vắng thì trào nước mắt.

Nhưng đó là bà Tú trong con mắt của ông Tú, còn với bà không hề có một lời kêu ca phàn nàn mà là một thái độ chịu đựng vốn thường có của người phụ nữ phương Đông.

Một duyên hai nợ âu đành phận,

Năm nắng mười mưa dám quản công.

Những số từ được dùng rất khéo, vừa theo thứ tự tăng dần vừa đối nhau: một, hai, năm, mười, gợi được những khó khăn chồng chất ngày một tăng dần, và sức lực phi thường của người vợ, gánh vác tất cả. Thật là kiên cường nhưng sao mà tội nghiệp! Phần lớn phụ nữ nhờ chồng mà được hưởng niềm sung sướng, còn với bà Tú chỉ là thêm một món nợ cả đời.

Nhập thân vào nhân vật, Trần Tế Xương nói hộ những nỗi thiệt thòi của vợ nhưng đồng thời cũng thấy rõ cái đức hi sinh của người bạn đời. Kết thúc hai câu thơ cũng là sau những khó khăn được đưa ra là lời khẳng định: âu đành phận / dám quản công. Một thái độ dứt khoát, một sự chấp nhận không cần bàn cãi, một cách ứng xử hiển nhiên.

Người phụ nữ Việt Nam là vậy, bà Tú Xương là vậy, họ coi “giang sơn nhà chồng” là việc của mình, họ tự nguyện gánh vác không so đo oán than. Bà chỉ âm thầm chịu đựng, cho nên ông Tú đã trách hộ bà:

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,

Có chồng hờ hững cũng như không.

Lời thơ như là tiếng chửi. Mà là chửi thật: “Cha mẹ thói đời…”. Không phải là người vợ chịu nhiều vất vả thiệt thòi chửi mà người chồng tự chửi mình đấy thôi. Chữ “hờ hững” nghe sao mà chua chát. Bà Tú lấy phải một ông chồng bạc bẽo, chẳng giúp gì cho gia đình, cho vợ, chẳng làm được trụ cột lại còn để vợ phải nuôi báo cô. Thật là có chồng mà như không có, thậm chí còn khổ hơn không chồng. Câu thư có chút vị đắng trong thơ Lấy lẽ của Hồ Xuân Hương:

Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm

Cầm bằng làm mướn mướn không công.

Thân này ví biết đường này nhẽ

Thà trước thôi đành ở vậy xong.

Tóm lại, nổi bật trong bài thơ là hình ảnh bà Tú hiện thân của cuộc đời vất vả lận đận, là hội tụ của bao đức tính tốt đẹp: tần tảo, đảm đang, nhẫn nại… quên mình lo toan cho cuộc sống của chồng con. Có một con người không xuất hiện trực tiếp là ông Tú, nhưng con mắt và trái tim của ông thì luôn luôn hiện hữu. Con mắt ông nhìn thấy rõ mọi nỗi đắng cay cực nhọc hàng ngày, và con tim thì thấu hiểu những nỗi cô đơn, tâm trạng âm thầm chịu đựng của bà.

Bài thơ Thương vợ là một bản tự kiểm điểm, tự khiển trách hết sức chân thành và nghiêm khắc của Tú Xương. Mỗi lời thơ như một tiếng thở dài đau xót của một con người rất có ý thức trách nhiệm, nhưng bất lực. Đó là tấm lòng thương yêu cảm phục và biết ơn rất chân thành của người chồng đối với người vợ vì mình mà chịu nhiều đắng cay vất vả.

13. Phân tích bài thơ Thương vợ mẫu 10

“Văn học nằm ngoài những quy luật của băng hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”. Thơ văn Tú Xương là một trường hợp như vậy. Thể xác của ông hơn 100 năm nay đã hòa tan làm một cùng với đất mẹ nhưng sự nghiệp văn chương của con người tài hoa ấy chưa bao giờ ngừng sống làm lay chuyển lòng người, bất chấp mọi thử thách của thời gian.

Nhắc đến Tú Xương ta không thể không nhắc đến “Thương vợ” bài thơ trữ tình thấp thoáng nụ cười hóm hỉnh, trào phúng bản thân và bày tỏ tấm lòng yêu thương, kính trọng của ông đối với người vợ tần tảo hi sinh suốt một đời vì chồng, vì con, vì gia đình.

Tú Xương lấy vợ năm ông 16 tuổi, vợ ông là bà Phạm Thị Mẫn. Cuộc đời của Tú Xương là cuộc đời của một nghệ sĩ nhưng trước hết ông là một nhà trí thức phong kiến thuộc loại nhà Nho “Dài lưng tốn vải” phải sống nương tựa nhờ vào người vợ của mình. Mọi chi tiêu trong gia đình đều do một tay bà Tú lo liệu. Điều đó đã đi vào trong thơ ca của ông “Tiền bạc phó cho con mụ kiếm” hoặc “Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ”.

Trong bài “Thương vợ” cũng vẫn là những vấn đề ấy được thể hiện sâu sắc qua tám câu thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Hai câu đề mở ra một không gian, thời gian và công việc của bà Tú. Một công việc vất vả, cơ cực và gian nan vô cùng:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng”

Nghề buôn bán theo quan niệm của người xưa là con đường đầu tiên để làm giàu “Phi thương bất phú” nhưng công việc của bà Tú thì lại đối lập hoàn toàn. Chỗ buôn bán ở đây không phải là vùng đất tốt, bằng phẳng mà ở “mom sông”. Theo cách hiểu của Xuân Diệu: “là cái địa điểm cheo leo chênh vênh, chứ không phải ở cái bến ngang sông tấp nập bình thường”.

“Mom sông” đã cụ thể hóa địa điểm buôn bán của bà Tú_ nơi “đầu sóng ngọn gió”, đối mặt với bao nguy hiểm khi nước xuống thì còn, nước lên thì mất. Thời gian ở đây là “quanh năm” hết ngày này qua tháng khác. Thời gian đằng đẵng chẳng bao giờ được nghỉ ngơi. Một công việc nhọc nhằn, vất vả mà người vợ phải gánh vác để lo cho gia đình.

Trước đây với quan niệm “Trọng nam khinh nữ”, “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” những việc lớn như kinh tế gia đình phải do người đàn ông lo liệu nhưng người gánh vác trách nhiệm ấy ở đây là bà Tú_người đàn bà giàu lòng yêu thương, giàu nghị lực có thể “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Đủ ở đây nuôi cho đủ miếng cơm manh áo. Một người làm mà bảy miệng ăn ta thấy trách nhiệm nặng nề đặt lên đôi vai người phụ nữ gia đình.

Trong câu thơ này có sử dụng nghệ thuật đối năm con là số nhiều nhưng lại được đặt ngang hàng để đối với một chồng là số ít. Đủ cơm ăn áo mặc cho năm con ngang bằng với số tiền bạc để nuôi một chồng. Như ta đã biết cuộc đời ông Tú ngắn ngủi và đơn giản, 37 năm, dường như gói gọn trong ba việc chính: đi học, đi thi và làm thơ. 15 tuổi bắt đầu đi thi, 22 năm ròng rã còn lại vẫn đi thi, trải liền tám khóa lều chõng mỗi lần lên kinh dự thi là biết bao chi phí, tiền của do một tay bà Tú trang trải. Khép lại hai câu đề miêu tả không gian, thời gian và công việc của bà Tú đến hai câu thực mở ra một hình ảnh “thân cò”:

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo nước mặt buổi đò đông”

Câu thơ gợi cho ta nhớ đến hình ảnh quen thuộc trong ca dao: “Con cò lặn lội bờ sông/ Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non”. Hình ảnh ấy gắn liền với thân phận người phụ nữ Việt Nam tần tảo sớm hôm lo cho gia đình. Bà Tú ở đây là thân cò một thân phận, số phận cụ thể gợi một sự mỏng manh, nhỏ bé trước cuộc đời. Tác giả sử dụng lối viết đảo ngữ “lặn lội thân cò” làm cho hình ảnh ấy càng trở nên cụ thể, sâu sắc hơn.

Chắc hẳn bà Tú cũng không quên lời dặn của cổ nhân “Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua” nhưng vì miếng cơm manh áo gia đình mà phải liều lĩnh đối mặt với chốn hiểm nguy để rồi phải “eo sèo” nơi “đò đông”. Hai tính từ ở đầu câu và cuối câu đối nhau vừa có tính gợi hình lại gợi cảm.

Dường như nhà thơ đang rất cảm thông và thương xót cho thân phận của vợ mình mà như nhỏ lệ trước hình ảnh ấy. Hai câu thơ có thể được coi là hay nhất trong bài cũng như khiến cho con người ta rung động nhất khi tái hiện về hình ảnh người vợ trong thơ Tú Xương.

Nếu như ở bốn câu thơ đầu tác giả giữ vị trí, đóng vai trò là người chồng đứng ở bên ngoài “khách quan” để quan sát, nhận xét và cảm thông cho bà Tú thì bốn câu thơ sau Tú Xương nhập thân vào trong tâm tư, nỗi niềm của người vợ để cất lên tiếng than “chủ quan” và chân thực hơn. Hai câu luận là lời than thở mà Tú Xương nói hộ lòng vợ:

“Một duyên hai nợ âu đành phận

Năm nắng mười mưa dám quản công”

Chữ “duyên” theo nghĩa Hán Việt có nghĩa là duyên cớ làm phát sinh việc gì đó. Duyên theo quan niệm của Phật giáo là phần trời định cho con người gặp gỡ, có khả năng yêu nhau và trở thành vợ chồng, giúp các cặp đôi yêu thương gắn kết trong cuộc đời. “Tu trăm năm mới thành bạn đồng hành, tu ngàn năm mới được chung chăn gối” dân gian tạo thành một cặp duyên và nợ.

Dưới cái nhìn của Tú Xương duyên thì chỉ có một mà nợ thì hai, duyên ít nợ nhiều. Ngẫm cho kĩ bà Tú lấy được ông Tú cũng là một cái duyên nhưng với người chồng “hờ hững” ấy thì nợ lại nhiều hơn. Chính vì điều đó đã khiến cho sự vất vả cực nhọc của một thân phận được nâng lên thành định mệnh của cả một kiếp người. Vì là duyên là nợ nên “âu đành phận”. Âu có nghĩa là cam chịu, đành là chấp nhận.

Vì là cam chịu và chấp nhận điều đó nên “năm nắng mười mưa dám quản công”. Các số từ theo thứ tự: một, hai, năm, mười được sắp xếp theo sự tăng tiến cho thấy khó khăn chồng chất khó khăn trên đôi vai của bà Tú. “Âu đành phận” và “dám quản công” được đặt ở cuối mỗi câu thơ cho thấy cách ứng xử của người làm vợ luôn nhẫn nhục, chịu đựng tất cả vì chồng con.

Khép lại bài thơ hai câu kết được nâng lên thành tiếng chửi. Thác ra giọng bà Tú, Tú Xương đã chửi rủa cái bạc bẽo của cha mẹ nhà chồng và vô tích sự của bản thân đối với vợ.

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không”

Những bà mẹ chồng xưa kia thường là “nỗi kinh hoàng” của những nàng dâu, vì quan niệm phong kiến hôn nhân gả bán cho phép người ta “mua” vợ cho con khác nào mua người làm không công mà đối xử tệ bạc với con dâu. Ta đã từng bắt gặp tiếng chửi ấy nhẹ nhàng mà thâm thúy trong ca dao như: “Tiếng đồn cha mẹ anh hiền/ Cắn cơm không vỡ, cắn tiền vỡ đôi” hay “Trách cha trách mẹ nhà chàng/ Cầm cân chẳng biết là vàng hay thau”.

Tú Xương không chỉ là một nhà thơ trữ tình mà còn nổi tiếng là nhà thơ trào phúng. Thơ ông không chỉ là tiếng chửi bọn quan lại phong kiến dốt nát mà còn là những vần thơ tự trào bản thân. Trong câu thơ trên nhà thơ mượn lời vợ mình để chửi chính bản thân mình là một người chồng “hờ hững”, vô tích sự không gánh đỡ gì được cho vợ mà ngược lại còn làm nặng trĩu thêm cái gánh nợ đời trên đôi vai của bậc hiền phụ.

Nhà thơ coi mình là kẻ chẳng ra gì cũng là một cách để ca ngợi, đề cao vợ theo cái cách chưa từng thấy trong thơ văn trung đại: “Vuốt râu nịnh vợ, con bu nó/ Quắc mắt khinh đời cái bộ anh”. Cái đặc sắc của hai câu kết tuy là tiếng chửi nhưng vẫn mang hàm ý đùa vui, tự cười, tự trách mình nhưng vẫn là để bày tỏ sự cảm thông với vợ.

Tú Xương cùng với Nguyễn Khuyến là hai đại diện cuối cùng cho nền văn học trung đại Việt Nam cuối thế kỉ XIX, hai nhà thơ tiêu biểu và đặc sắc cho những vần thơ tự trào. Thơ ông với những cách tân mới mẻ về ngôn ngữ viết theo xu hướng khẩu ngữ hóa, sử dụng ngôn ngữ đời thường nhưng vẫn đảm bảo âm điệu trữ tình và có sức gợi hình, gợi cảm.

“Thương vợ” là một bài thơ hay có sự kết hợp tài tình giữa ngôn ngữ dân gian với ngôn ngữ bác học một cách tinh xảo, phong phú khắc họa được chân dung bà Tú và bộ lộ được tâm trạng, tình cảm của Tú xương dành cho vợ của mình. Cùng với đó là cách ngắt nhịp truyền thống trong thơ Đường luật là 4/3 và 2/2/3 càng làm cho bài thơ trở nên mềm mại, uyển chuyển.

Bài thơ “Thương vợ”của Trần Tế Xương thể hiện được ân tình sâu nặng và tình cảm chân thành của nhà thơ đối với hiền phụ của mình. Trước Tú Xương hiếm có thi nhân nào mà có những bài thơ viết về vợ hay và lắng đọng, sâu sắc như ông. Bài thơ không chỉ cho thấy một tâm hồn cởi mở, đôn hậu của nhà thơ đối với vợ mà còn chứng tỏ tài năng, thi bút của một thi sĩ biết vận dụng và sáng tạo ngôn ngữ dân gian.

14. Phân tích bài thơ Thương vợ mẫu 11

Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ thường không được quan tâm nhiều. Một người phụ nữ phải chịu nhiều “gông xiềng” đeo trên vai. Nào là “Xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Nào là “tam tòng, tứ đức”,… Dường như người phụ nữ luôn xuất hiện phía sau người chồng, người con của mình. Họ không có được sự tự do trong cuộc sống và thường là người gánh chịu nhiều nỗi đau về tinh thần do tư tưởng trọng nam khinh nữ của Nho giáo. Vậy nên trong suốt chiều dài lịch sử, những thi nhân thường không đưa hình ảnh người vợ vào trong thơ ca của mình, mà thay vào đó là “mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông”. Bởi thế, Trần Tế Xương đã được người đời nhớ đến khi trong thơ ông, hình ảnh một người vợ lam lũ, vất vả đã được khắc họa một cách đầy đủ với thái độ trân trọng và yêu thương. Đó thực sự là một nét chấm phá đặc biệt của văn học thời kỳ phong kiến. Bài thơ “Thương vợ” của ông được xem như một trong những tác phẩm “khác lạ” giữa nền thi ca.

Nói bài thơ này khác lạ bởi thông thường các thi sĩ chỉ làm thơ về người bạn đời của mình khi họ đã mất đi. Còn với Tú Xương, ông đã viết về người vợ của mình một cách chân thực, sống động và đầy lòng yêu thương ngay khi vợ ông còn sống. Khác lạ còn bởi trong xã hội phong kiến, người đàn ông là chủ gia đình, mọi quyết định đều do họ. Và hiếm ai chấp nhận một sự thật rằng vợ chính là người nuôi sống cả một gia đình. Ấy nhưng với Tú Xương, đó là một điều hiển nhiên, bởi ông còn bận học hành, thi cử để có chút công danh. Và không ai khác ngoài người vợ chính là nguồn sống cho cả gia đình. Điều đó được khẳng định ở ngay câu đầu tiên của bài thơ:

Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng

Sự vất vả, cực nhọc đã được thể hiện một cách rõ ràng. Một mình người vợ mà phải “cõng” tới năm người con và một đức ông chồng. Chữ “mom” ở đây rất có giá trị. Mom là một mô đất nhô ra bên bờ sông, nó nhỏ bé và gợi lên chút gì đó chênh vênh, không bền vững. Đối lập với đó là năm người con và người chồng. Một sự đối sánh có tính chất không cân đối đã nói lên muôn vàn vất vả lo âu của người vợ cho gia đình của mình. Làm sao để có thể kiếm sống để chu đáo cho một gia đình với những đứa con nhỏ.

Người phụ nữ trong thời đại phong kiến thường được ví như những “hạt mưa sa”; “giếng giữa đàng”, ý nói về sự bấp bênh của số phận, may mắn thì được vào gia đình tốt, được yêu thương còn không thì gặp muôn vàn đắng cay, khổ cực mà không biết kêu ai. Ở trong những câu tiếp theo, dường như Tú Xương đã cảm thán thay cho người vợ đáng thương của mình.

Lặn lội thân cò khi quãng vắng,

Eo sèo mặt nước buổi đò đông

Hình ảnh người vợ đã được ông ví như cánh cò nơi dòng nước, nhỏ bé, cô đơn. “Thân cò” là một sự so sánh vô cùng hợp lí và thú vị dành cho người vợ. Động từ “lặn lội” đã phác họa rõ nét hơn tình cảnh của người vợ, người mẹ. Có lẽ đọc đến đây ta cũng xót thương cho những người phụ nữ thời xưa. Hình ảnh người vợ Tú Xương cũng là sự khái quát cho những người phụ nữ Việt Nam thời kỳ phong kiến, phải lam lũ, vất vả một nắng hai sương lo cho gia đình, nhưng lại không được công nhận. Và qua những vần thơ, dường như Tú Xương đang tạo nên một bước chuyển mới trong nhận thức của các đấng nam nhi, cần phải coi trọng người phụ nữ của mình nhiều hơn nữa.

Một duyên, hai nợ, âu đành phận,

Năm nắng, mười mưa, dám quản công

Việc sử dụng cặp từ “một duyên”, “hai nợ” cho thấy Tú Xương không chỉ đồng cảm với sự vất vả của vợ, mà còn nhận thấy giữa hai vợ chồng có sự gắn bó từ kiếp trước. Có duyên mới tới được với nhau và đến được với nhau rồi đó lại là một điều không thể tách rời, bởi đó là “nợ”. Có lẽ ông cho rằng mình đã nợ vợ một món nợ không thể trả. Bởi thế cho nên duyên phận đã gắn bó ông với vợ. Nhưng có một sự “nói hộ” của ông ở đây. Dường như đây là lời của Tú Xương nhưng cũng chính là tâm sự của người vợ. Bởi ở câu thơ sau: Năm nắng, mười mưa, dám quản công, cho thấy dẫu có vất vả, nhọc nhằn, người vợ cũng không dám kể lể công tích của mình, xem như đó là việc mình phải làm cho gia đình. Đó chính là sự vị tha, bao dung và nhẫn nhục của người phụ nữ Việt Nam.

Sự cam chịu của người vợ đã khiến cho Tú Xương không đành lòng. Nhưng người vợ không bao giờ nói ra với ông những nỗi vất vả, khó khăn ấy. Và chính ông đã là người nói ra giúp vợ mình. Một tiếng thơ cũng là tiếng thở than, trách cứ, dằn vặt của người chồng, là tiếng trách mắng nhẹ nhàng của người vợ dành cho người chồng:

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không

Hai câu thơ khép lại tác phẩm là lời tự rủa mát mình của Tú Xương nhưng lại mang đậm ý nghĩa lên án xã hội sâu sắc góp phần khẳng định tình cảm của ông đối với bà Tú là vô bờ bến. Người chồng ấy tuy “ăn lương vợ” nhưng không hề “ở bạc”, “hờ hững” mà rất chu đáo, luôn dõi theo từng bước đi của bà trên đường đời và đặc biệt là luôn bày tỏ lòng biết ơn của mình đối với vợ. Thi phẩm kết thúc thật bất ngờ: vừa thấm đượm cái bi, cái bất hạnh trong niềm riêng của tác giả, lại vừa dí dỏm, hài hước.

Với chất thơ bình dị, dễ đọc, dễ nhớ và đậm chất nhân văn Tú Xương đã khắc họa nên hình ảnh người vợ chịu thương chịu khó của mình trong mối tương quan với chồng, con. Đó cũng là lời nhắc nhở nhẹ nhàng mà ông dành cho những người chồng, người cha còn “bạc” với người vợ đầu gối tay ấp của mình bằng chất liệu trào phúng đặc trưng.

15. Phân tích bài thơ Thương vợ mẫu 12

“Thân em như của ấu gai.

Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen,

Ai ơi nếm thử mà xem.

Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi,”

(Ca dao)

Hình ảnh của người phụ nữ luôn là đề tài muôn thuở cho nền văn chương kim cổ Việt Nam. Tuy nhiên, thơ văn viết về người vợ bằng tình cảm của một người chồng đã ít nay lại viết về người vợ đang sống lại còn hiếm hoi hơn. Và Trần Tế Xương là một trong những bậc thức giả hiếm hoi của nền thơ ca trung đại Việt Nam đã đưa hình ảnh người vợ tần tảo của mình ngay khi bà vẫn còn là một đóa hoa tươi tắn trên đường đời vào những dòng thơ trữ tình nhưng cũng không kém phần trào phúng làm bật lên được đức hi sinh đảm đang, tấm lòng tháo vát chịu thương chịu khó của người bạn đời, bà Tú, qua đó cũng thể hiện tấm lòng tri ân đến người vợ của mình

“Quanh năm buôn bán ở mom sông,

Nuôi đủ năm con với một chồng.

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Một duyên hai nợ âu đành phận

Năm nắng mười mưa dám quản công.

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,

Có chồng hờ hững cũng như không.”

Trần Tế Xương, thường gọi là Tú Xương, sống trong buổi giao thời đầy nghèo khổ nửa thực dân Pháp – nửa phong kiến. Ông là người thông minh, ham học, hào hoa, phóng túng, có tài làm thơ hay nhưng lại lận đận trên con đường thi sử và nổi tiếng chủ yếu ở hai mảng thơ: trào phúng và trữ tình có pha chút giọng cười châm biếm sắc xảo bắt nguồn từ tâm huyết với dân, với nước, với đời. Ông từng được mệnh danh là nhà thơ trào phúng xuất sắc của văn học Việt Nam giai đoạn cuối thế kỉ XIX.

Kho tàng thơ văn của Tú Xương tuy không nhiều chỉ với 100 bài, chủ yếu là thơ Nôm, gồm nhiều thể thơ như thất ngôn bát cú đường luật, lục bát,… và một số bài văn tế, phú, câu đối… nhưng có nhiều bài rất đặc sắc, đạt đến trình độ tuyệt mĩ về cả nội dung và nghệ thuật và được xem như những bài thơ bất tử. Minh chứng rõ ràng nhất đó là thi phẩm “Thương vợ” được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Bài thơ đề cập đến nhiều khía cạnh trong xã hội, đồng thời cũng là tiếng lòng tha thiết, sự tri ân đầy xót xa của Tú Xương – nạn nhân của xã hội lố lăng, đảo điên biến con người trở thành vô tích sự với chính mình và gia đình, đối với bà Tú, qua đó, người đọc cũng phần nào thấy được những đức hi sinh to lớn của những người phụ nữ lúc bấy giờ hay của bà Tú đối với người chồng của mình.

Mở đầu tác phẩm, Tú Xương giới thiệu về hoàn cảnh và công việc mưu sinh của bà Tú, qua đó bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với người vợ tảo tần sớm mai của mình:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông,

Nuôi đủ năm con với một chồng.”

Mạch cảm xúc của thi phẩm dần dần mở ra với bức tranh toàn cảnh đầy nỗi khó nhọc, lo toan của bà Tú – tên thật là Phạm Thị Mẫn. Tác giả đã sử dụng “Quanh năm” – cụm từ chỉ một khoảng thời gian trường kì lặp đi lặp lại như một vòng tuần hoàn khép kín của tự nhiên để cực tả nỗi vất vả triền miên của bà Tú trải dài hết ngày tháng này sang ngày tháng khác, năm này qua năm nọ mặc cho nắng gắt hay mưa rào vẫn không bỏ sót giây phút nào cả. Chỉ có thế thôi cũng đủ để lại trong lòng độc giả một ấn tượng khó phai về hình ảnh người vợ đầu tắt mặt tối chu toàn mọi sự trong gia đình như bà Tú. Chưa dừng lại ở đó, cách cân đo, đong đếm như thế của thời gian còn góp phần làm bật lên cái không gian, địa điểm bán buôn của bà Tú thông qua hình ảnh “mom sông”. Địa thế “mom sông” rất trắc trở, đầy rẫy những hiểm nguy khôn lường bởi lẽ đó chỉ là một doi đất nhô ra phía lòng sông nơi người làng chài thường tụ tập buôn bán nên những khi tiết trời khắc nghiệt, địa thế chênh vênh mỏng manh kia sẽ dễ sạt lở gây nhiều khó khăn cho bà Tú. Khó khăn là thế, gian nan là vậy nhưng bà Tú vẫn mạnh mẽ vượt qua, luôn luôn cố gắng để cho gia đình được ấm no:

“Nuôi đủ năm con với một chồng.”

Với giọng thơ hóm hỉnh cùng tài năng trong nghệ thuật thơ trào phúng, câu thơ thứ hai như lời lên án gay gắt xã hội phong kiến xưa đã biến những người đàn ông vốn là những trụ cột vững chắc trong gia đình thành những kẻ vô tích sự chỉ biết sống dựa vào vợ, mà đặc biệt là “ăn lương vợ”:

“Trống hầu chưa dứt bố lên thang,

Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ.”

(Quan tại gia – Trần Tế Xương)

Đôi vai của bà Tú đã nặng nay còn nhân lên bội phần khi bà “bất đắc dĩ” trở thành trụ cột chính trong gia đình. Hai chữ “nuôi đủ” là vừa đủ, vừa đủ nuôi, không thiếu mà cũng không thừa vang lên tạo cho câu thơ một âm điệu trang trọng nhưng cũng không kém phần tự hào gợi tả sự đảm đang tột cùng nơi bà Tú khi chỉ với công việc buôn bán “quanh năm” ở nơi “mom sông” chênh vênh, nguy hiểm mà bà vẫn có thể đảm bảo cuộc sống vật chất và tinh thần đầy đủ cho “năm” đứa con và người chồng của mình. Bên cạnh đó, cách đặt hai danh từ số đếm “năm” và “một” song song với nhau tưởng chừng như khập khiễng nhưng lại rất độc đáo và mới lạ. Tú Xương tự chế giễu mình khi so sánh bản thân ngang hàng với “năm đứa con thơ” vì ông là một “đứa con đặc biệt” ngầm nâng cao vị thế người vợ tảo tần của mình lên một thứ bậc thiêng liêng khác như một người “mẹ hiền” để có thể đề cao công lao của bà Tú một cách chí lí và chuẩn xác nhất. Hơn thế nữa, cấu trúc “năm” – “một” cùng liên từ “với” chất chứa bao nỗi hổ thẹn, buồn bã đã khắc họa nên chiếc đòn gánh mà ở giữa là đôi vai gầy guộc, nhỏ bé của người phụ nữ chịu thương chịu khó còn hai bên đều trĩu nặng với “năm con” và “một chồng” nhưng dường như sự khó khăn lại nghiêng lệch về phía người chồng vô tích sự nhiều hơn vì chế độ “trọng nam khinh nữ” rẻ rúng trong xã hội cũ. Có thể nói, bà Tú “nuôi đủ” cho Tế Xương không chỉ chu toàn cho ông “chăn ấm, nệm êm” mà còn lo cho ông đủ thứ cao sang tốn kém khác để khiến ông phải nở mày nở mặt vì suy cho cùng, Tế Xương vẫn là một tú tài, là người có chí thi cử công danh:

“Biết thuốc lá, biết chè tàu,

Cao lâu biết vị, hồng lâu biết mùi.”

(Hỏi ông trời – Trần Tế Xương)

Hay:

“Hôm qua anh đến chơi đây,

Giày “giôn” anh dận, “ô Tây” anh cầm.”

(Đi hát mất ô – Trần Tế Xương)

Hai câu đề mở đầu thi phẩm tuy chỉ gói gọn trong mười bốn chữ nhưng đã thể hiện được tất cả những đức tính cao đẹp nơi bà Tú với sự chịu thương chịu khó, tần tảo không quản nắng mưa để chu toàn mọi việc trong gia đình. Qua đó, Tú Xương cũng khéo léo thể hiện sự biết ơn của mình đối với bà Tú, đồng thời cũng phần nào miêu tả sự hổ thẹn của tác giả khi là một đấng nam nhi mà lại không thể làm gì giúp đỡ vợ đến nỗi phải đặt mình trong mối tương quan với “năm đứa con thơ”. Thật xót xa!

Thấu hiểu được những nỗi lo toan, vất vả của người vợ vĩ đại của mình, Tú Xương liên tưởng đến hình ảnh “con cò” năm xưa trong ca dao:

“Con cò lặn lội bờ sông,

Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.”

(Ca dao)

để cực tả nỗi khổ tâm mà bà Tú đang trải qua trong hai câu thực:

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông.”

Tú Xương sử dụng “thân cò” chứ không phải “con cò” như trong ca dao xưa vừa thể hiện được cá tính riêng, sự sáng tạo mang tính chất thời đại trong phong cách thơ ca của thi sĩ, vừa đồng nhất thân phận của bà Tú nói riêng và người phụ nữ nói chung với hình ảnh gầy guộc của “con cò” để nói lên sự cơ cực trong cuộc sống của một người phụ nữ trụ cột. Tiếp đó, chữ “thân” tuy đơn giản nhưng nghe sao cay đắng quá, nó luôn gợi cho mọi người về một thứ gì đó nhỏ bé tội nghiệp đến vô cùng. Và khi xưa, nhà thơ Hồ Xuân Hương cũng đã từng ngậm ngùi trên trang giấy khi nói đến chữ “thân” bạc mệnh:

“Thân em vừa trắng lại vừa tròn,

Bảy nổi ba chìm với nước non.”

(Bánh trôi nước)

“Khi quãng vắng” là một cụm từ rất đặc biệt vì nó không chỉ gợi lên cái không gian rợn ngợp cảm giác đơn lẻ đầy nguy hiểm rình rập nơi bờ sông heo hút, giá lạnh lúc bấy giờ mà còn diễn tả sâu sắc nỗi khắc khoải về thời gian của sự tảo tần và một khi được song hành cùng với biện pháp nghệ thuật đảo ngữ của từ láy “lặn lội”, hình ảnh giản dị, chất phác của người phụ nữ gầy guộc chân trần mưu sinh nơi rừng sông núi bãi vào ban đêm – thời gian mà những người phụ nữ khác đang hạnh phúc bên chồng con, đang tận hưởng những giấc ngủ say, hằng mong có thể kiếm thêm thu nhập để trang trải cuộc sống càng trở nên nổi bật và chói lọi hơn trong khung cảnh hiu quạnh đến ghê sợ nơi doi đất chênh vênh.

Nếu như câu thơ thứ ba gợi nỗi cực nhọc đơn chiếc thì câu thơ thứ tư lại là sự vật lộn đầy cam go của bà Tú giữa thời buổi mua bán đông đúc:

“Eo sèo mặt nước buổi đò đông.”

Một lần nữa, biện pháp nghệ thuật đảo ngữ lại được sử dụng trong lời thơ của Tú Xương nhưng với từ láy tượng thanh “eo sèo” gợi sự tấp nập, ồn ào để nhấn mạnh tính chất thường tình nơi chợ búa và sự lam lũ của người phụ nữ “năm con với một chồng”. Mặt khác, hình ảnh “buổi đò đông” cũng góp phần mạnh mẽ trong việc xây dựng hình tượng một bà Tú cần mẫn, tất bật và sự đông đúc, xô bồ đó đã từng được ca dao xưa nhắc đến:

“Con ơi nhớ lấy câu này,

Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua.”

Mặc dù văng vẳng bên tai là lời dạy chân tình của cha ông ta: “Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua” nhưng bà Tú vẫn cứ khăng khăng dấn thân vào cuộc chiến tranh âm thầm và dai dẳng của những lần đôi co “eo sèo”, chen chúc, tranh giành khách, phân mua với các gian hàng khác, bất chấp người qua kẻ lại đếm nhiều không xuể khi “đò đông” để bươn chải miếng cơm, manh áo cho chồng, con vì chỉ khi tấp nập như thế, cơ hội kiếm thêm thu nhập sẽ tăng vọt hơn “khi quãng vắng” cho dù phải chịu cảnh đau nhức khi “đầu đội trời, chân đạp đất”, tổn thương về thể xác khi bị dòng người xô ngã. Ôi ! Quả là một người phụ nữ chan hòa tình yêu thương, bà đã đánh đổi cả bản thân mình mà chen lấn bán đi từng món hàng của mình để kiếm từng đồng tiền ít ỏi lo cho cuộc sống gia đình mình, thật đáng khâm phục !

Bằng cách đảo những từ láy hô ứng vừa giàu tính tạo hình vừa giàu tính biểu cảm “lặn lội”, “eo sèo” lên ngay vị trí đầu câu thơ kết hợp với hai hình ảnh đối nhau rất chỉnh “khi quãng vắng” – “buổi đò đông” trong hai câu thực, hình tượng người vợ tháo vát vã mồ hôi chỗ đông đúc vì phải giành giật, trào nước mắt nơi quạnh hiu khi tìm được khách hàng hiện lên với tất cả niềm tự hào của nhà thơ cả về thể chất mạnh mẽ lẫn tinh thần thép của bà Tú dù trong mọi hoàn cảnh khắc khổ nhất.

Đến với những câu thơ tiếp theo, Tú Xương như nhập vai vào chủ thể trữ tình nhằm mượn lời tâm sự của vợ để ngầm ca ngợi những công lao âm thầm vì chồng vì con mà bà Tú đang gồng gánh trên vai:

“Một duyên hai nợ âu đành phận,

Năm nắng mười mưa dám quản công.”

Theo quan niệm phong kiến xưa, “duyên” và “nợ” là hai định nghĩa hết sức thiêng liêng về mối quan hệ vợ chồng do trời định sẵn, xuất phát từ số phận, từ sợi chỉ hồng của ông Tơ bà Nguyệt:

“Kiếp người sao mãi long đong,

Ông tơ bà Nguyệt chỉ hồng se duyên”

Thế nhưng khi đi vào lời thơ của một bậc thức giả dày dặn kinh nghiệm như Tú Xương, định nghĩa đó dường như đã đánh mất đi tính chất quyền quý của mình mà trở nên nặng nề vô cùng như một lời than thở khi “duyên” thì chỉ có một mà “nợ” lại hai:

“Chồng gì anh, vợ gì tôi,

Chẳng qua là cái nợ đời chi đây”

(Ca dao)

Bên cạnh đó, cách sử dụng hai thành ngữ xưa song song với nhau “Một duyên hai nợ” – “năm nắng mười mưa” vừa đối nhau về từ: “một” – “hai”, “năm” – “mười”, vừa đối nhau về ý đã không những khiến cho nhạc thơ bỗng trầm lắng trước nỗi khổ tâm chồng chất ngày một dâng lên theo cấp số nhân của bà Tú mà còn thể hiện rất rõ tài năng văn chương điêu luyện của thi sĩ khi biết vận dụng triệt để giá trị của các thành ngữ cùng các con số mộc mạc để thiêng liêng hóa hình ảnh bà Tú. Có thể nói, dẫu có khó khăn muôn trùng, chông gai trước mắt, “nợ” nghiêng về mình nhưng bà Tú chưa một lần chùn bước mà chỉ gật đầu nhẫn nhục cho qua và ba tiếng đối ứng thượng, hạ: “âu đành phận”, “dám quản công” đã thể hiện được điều đó. Nguyên nhân dẫn đến sự cần cù, âm thầm đầy cam chịu của bà Tú tuy giản đơn nhưng cũng rất cao quý: đó là vì mối nhân duyên thiên định và vì tương lai của đàn con nhỏ. Quả là một người mẹ, người vợ giàu đức hi sinh!

Từ việc pha trộn lời thơ đan xen những thành ngữ đã đạt đến độ hoàn hảo về nội dung với các phép đảo ngữ cực tinh tế cùng các cấp số nhân rất thực và chuẩn xác, nhà thơ Tú Xương đã khắc họa thành công tấm chân dung một người vợ kết tinh đầy đủ đức hi sinh, sự nhẫn nại, sự tần tảo chịu thương chịu khó của người phụ nữ Việt Nam truyền thống trong hai câu luận. Qua đó, ông còn ngầm ý bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến người vợ thân thương của mình khi bà đã quên đi cái tôi mà gánh vác hết mọi trách nhiệm của một trụ cột trong gia đình. Thật vậy:

“Có con phải khổ vì con,

Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng.”

(Kho tàng lục bát dân gian)

Vì quá thương vợ, quá thương cho phận đời nữ nhi mà lại sắm vai trụ cột, Tú Xương tự trách bản thân mình và thông qua đó cũng nói lên tiếng chửi vừa đắng cay vừa phẫn nộ cho định kiến khắt khe “trọng nam khinh nữ” đã biến ông thành một kẻ vô tích sự :

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,

Có chồng hờ hững cũng như không.”

Mạch cảm xúc của thi phẩm dường như có sự chuyển biến đột ngột khi giờ đây, Tú Xương không còn “ẩn mình” sau những vần thơ để tán dương vợ nữa mà ông đã chịu xuất hiện để nói thay cho sự oán trách chồng, trách phận của bà Tú. “Cha mẹ thói đời” thật là một cách nói có phần thô cứng, xù xì nhưng lại rất phù hợp với phong cách thơ ca trào phúng của thi sĩ. Đó là sự giận đời, hận đời vì cái xã hội “Tây tàu lố lăng” lúc bấy giờ không cho phép ông san sẻ gánh nặng gia đình cùng vợ.

Thêm vào đó, ít ai biết được rằng đằng sau tiếng chửi đầy dứt khoát ấy lại là một bi kịch của một con người chất chứa bao niềm phẫn uất, đau xót và tê tái:

“Có chồng hờ hững cũng như không.”

Tú Xương chửi “đời” nhưng cũng “tự chửi” mình, “tự chửi” cái thói sĩ diện của một đấng nam nhi đang trên đường công danh, thói gia trưởng chỉ biết ngồi than vãn sự đời, mà không biết được mọi người xung quanh đang khổ cực vì mình. Tú Xương coi mình như kẻ vô tâm, “ăn ở bạc” với vợ con, luôn luôn “hờ hững” trong trách nhiệm và vai trò của một kẻ làm cha, làm chồng. Thật là “có chồng hờ hững cũng như không”! Thế nhưng nếu nhìn nhận lại sự việc một cách lạc quan thì Tú Xương không hề đáng trách mà lại rất đáng thương bởi suy cho cùng, chính xã hội lem luốc kia đã đẩy ông, một tài năng xuất chúng vào bước đường cùng khiến cho người vợ vốn thuộc dòng dõi cao quý phải chịu khổ. Thật đau đớn !

“Con gái nhà dòng lấy chồng kẻ chợ

Tiếng có miếng không, gặp chăng hay chớ”

(Văn tế sống vợ – Trần Tế Xương)

Hai câu thơ khép lại tác phẩm là lời tự rủa mát mình của Tú Xương nhưng lại mang đậm ý nghĩa lên án xã hội sâu sắc góp phần khẳng định tình cảm của ông đối với bà Tú là vô bờ bến. Người chồng ấy tuy “ăn lương vợ” nhưng không hề “ở bạc”, “hờ hững” mà rất chu đáo, luôn dõi theo từng bước đi của bà trên đường đời và đặc biệt là luôn bày tỏ lòng biết ơn của mình đối với vợ. Thi phẩm kết thúc thật bất ngờ: vừa thấm đượm cái bi, cái bất hạnh trong niềm riêng của tác giả, lại vừa dí dỏm, hài hước.

Nói tóm lại, sau khi đi sâu phân tích bài thơ Thương vợ ta thấy đây là một thi phẩm mang đậm tính nhân văn sâu sắc. Với chất thơ bình dị mà trữ tình pha chút trào phúng, Tú Xương đã không những khắc họa nên một bức chân dung tuyệt đẹp về người vợ tảo tần, chịu thương chịu khó của mình mà còn thể hiện vẻ đẹp trong nhân cách của bản thân và hình ảnh bà Tú cần mẫn, đầy lo toan đó chính là hình ảnh đẹp đẽ nhất của người phụ nữ Việt Nam lúc bấy giờ: vừa mộc mạc, chất phác, vừa cứng rắn, mạnh mẽ.

16. Phân tích bài thơ Thương vợ mẫu 13

Khi nhắc đến Tú Xương, người ta thường nhớ đến một nhà thơ trào phúng bậc thầy. Ông là một tác giả viết nhiều, viết hay các bài thơ nội dung châm biếm, đả kích nhưng dù vậy, những tác phẩm thuộc mảng trữ tình như Sông Lấp, Thương Vợ, Áo bông che bạn,… vẫn vô cùng xuất sắc. Trong đó, “Thương vợ” được xem như tác phẩm nổi bật có sự hòa quyện giữa chất trữ tình và chất trào phúng trong phong cách thơ Tú Xương.

“Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông

Một duyên hai nợ âu đành phận

Năm nắng mười mưa dám quản công

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không”

Nổi bật của bài thơ trước hết là hình tượng bà Tú qua khắc họa đầy thương yêu, trân trọng của Tú Xương. Đó là một người phụ nữ vất vả, tảo tần để chăm lo cho chồng con, gồng gánh gia đình:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông”

Câu vào đề tác phẩm như giới thiệu, lại như mở ra bối cảnh của câu chuyện về bà Tú. Bà hiện lên với dáng vẻ tần tảo, tất bật ngược xuôi:

“Quanh năm” là suốt cả năm, không trừ ngày nào dù mưa hay nắng. Nó còn là biểu tượng cho sự tuần hoàn khép kín của thời gian. Chẳng có cửa hàng, cửa hiệu, quán xá gì, mà chỗ bà “kinh doanh” là ở “mom sông”, phần đất nhô ra phía lòng sông, một địa điểm có phần cheo leo, nguy hiểm. Chỉ qua câu mở đầu, tác giả đã gợi lên cho ta suy nghĩ: cả thời gian lẫn không gian như hùa nhau làm nặng thêm gánh nặng đang đè trên vai bà Tú. Đó là gánh nặng:

“Nuôi đủ năm con với một chồng”!

Công việc vất vả, thu nhập lại ít nhưng bà Tú còn phải lo lắng cho cả một gia đình sáu miệng ăn. “Năm con” là số nhiều, nhưng dù sao chúng chỉ cần bát cơm, manh áo. Nhưng lại còn thêm “một” ông chồng chi phí bằng cả năm đứa con kia.

Hai câu thực gợi tả cụ thể hơn cuộc sống tảo tần, buôn bán ngược xuôi của bà Tú:

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

“Lặn lội thân cò” đã bao gồm trong đó cái thân hèn, sức mọn, cả nỗi lẻ loi, đơn độc. Con cò trong thơ Tú Xương không chỉ xuất hiện giữa cái rợn ngợp của không gian mà còn trong cái rợn ngợp của thời gian. Chỉ bằng ba từ “khi quãng vắng”, tác giả đã nói lên được cả không gian, thời gian heo hút, rợn ngợp chứa đầy lo âu, nguy hiểm.Cùng với đó, cách nói đảo ngữ, thay con cò bằng “thân cò” cũng góp phần nhấn mạnh nỗi vất vả, gian truân của bà Tú. Nó gợi lên một nỗi đau về thân phận những con người nghèo khổ trong xã hội đương thời.

Nếu câu thơ thứ ba gợi nỗi vất vả đơn chiếc, cô đơn thì câu thơ thứ tư lại làm rõ nỗi vất vả mưu sinh của bà Tú.

“Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

Câu thơ gợi cảnh chen chúc, bươn chải trên sông nước của những người buôn bán nhỏ. “Buổi đò đông” đâu phải ít lo âu, nguy hiểm hơn “khi quãng vắng”? Hai câu thực đối nhau về từ ngữ nhưng lại nâng đỡ nhau về ý để qua đó nổi bật lên nỗi vất vả, gian truân của bà Tú. Qua đó, ta cũng thấy được tấm lòng xót thương, yêu quý và trân trọng của nhà thơ dành cho vợ mình.

Dưới ngòi bút của Tú Xương, bà Tú cũng hiện lên với những đức tính cao đẹp nhất. Đó là người phụ nữ đảm đang, tháo vát, chu đáo với chồng con:

“Nuôi đủ năm con với một chồng”

Bà cũng là người giàu đức hi sinh. Trong hai câu luận, Tú Xương một lần nữa cảm phục sự quên mình của vợ:

“Duyên” một mà “nợ” hai nhưng bà Tú không một lời phàn nàn mà lặng lẽ, cam chịu, chấp nhận vì cuộc sống gia đình. Ở câu trên, nắng mưa chỉ sự vất vả, năm mười là số lượng phiếm chỉ để nói số nhiều, được tách ra tạo nên một thành ngữ đan chéo “năm nắng mười mưa” vừa nói lên sự vất vả, gian truân vừa thể hiện được tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng con của bà Tú.

Bên cạnh bà Tú, hình tượng Tú Xương cũng hiện lên với tấm lòng thương vợ thiết tha. Ông không xuất hiện trực tiếp nhưng thông qua những câu thơ đầy yêu thương, trân trọng dành cho vợ và giọng điệu có phần trào phúng khi nói về mình, ta thấy được tình cảm sâu đậm của ông. Nhập thân vào nhân vật, Trần Tế Xương nói hộ những nỗi thiệt thòi của vợ nhưng đồng thời cũng thấy rõ cái đức hi sinh của người bạn đời.

Tú Xương kể chuyện bà Tú nuôi con đã đành, mà còn kể thêm việc bà Tú nuôi mình một cách thẳng thắn, chẳng ngượng ngùng. Ở đây, ta như thấy được nụ cười tủm tỉm tự trách mình thật vô tích sự của ông Tú. Ông không gộp lại mà tách “năm con” riêng, “một chồng” riêng. Điều đó cho thấy Tú Xương nhận thức rõ mình là cái nợ đời mà bà Tú phải gánh chịu. “Duyên” một mà “nợ” hai. Sự “hờ hững” của ông cũng là một biểu hiện của “thói đời” bạc bẽo. Xã hội xưa trọng nam khinh nữ, coi người phụ nữ là thân phận phụ thuộc, Tú Xương dám sòng phẳng với bản thân, với cuộc đời, dám tự nhận khiếm khuyết.

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không”

Ông chửi thói đời bạc bẽo vì thói đời là một nguyên nhân sâu xa khiến bà Tú phải khổ. Từ hoàn cảnh riêng. Tác giả lên án thói đời bạc bẽo nói chung. Lời chửi rủa trong hai câu kết là lời Tú Xương Tự rủa mát mình nhưng lại mang ý nghĩa xã hội sâu sắc.

Đặt bài thơ vào lịch sử thơ ca trung đại, chúng ta lại càng thấy được nó đáng quý đến bao nhiêu. Bởi, thời kì ấy, đã mấy ai trực tiếp làm văn thơ về vợ ngay khi còn sống như Tú Xương? Phải yêu quý, trân trọng và biết ơn lắm, Tú Xương mới viết được những lời thơ cảm động và sâu sắc như thế. Có thể nói, bằng việc sử dụng từ ngữ giản dị, giàu sức biểu cảm và cách vận dụng sáng tạo những chất liệu văn học dân gian, “Thương vợ” đã thể hiện tình cảm thương yêu, quý trọng của ông Tú dành cho bà Tú thông qua sự thấu hiểu nỗi vất vả, gian truân và ca ngợi sự hy sinh và những phẩm chất tốt đẹp của bà Tú. Đồng thời, bài thơ cho chúng ta thấy được nỗi lòng, tâm sự và nhân cách cao đẹp của nhà thơ Tú Xương.

Bạn đang xem bài viết Phân Tích Khổ Thơ Đầu Của Bài Thơ “Từ Ấy” Của Tố Hữu trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!