Xem Nhiều 5/2023 #️ Quá Trình Phát Triển Của Cơ Học Thiên Thể # Top 7 Trend | Tvzoneplus.com

Xem Nhiều 5/2023 # Quá Trình Phát Triển Của Cơ Học Thiên Thể # Top 7 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Quá Trình Phát Triển Của Cơ Học Thiên Thể mới nhất trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Quá trình phát triển của cơ học thiên thể

Hình ảnh này giới thiệu các công trình nghiên cứu của các nhà vật lý học làm thay đổi cách nhìn của chúng ta về vũ trụ.

Vật lý

Từ khoá

Kepler, Galileo Galilei, Newton, Einstein, Copernicus, Tycho Brahe, Bruno, Giordano Bruno, nhà thiên văn học, nhà vật lý, Trái đất, chuyển động, nhật tâm, mô hình vũ trụ, Hệ mặt trời, Vũ trụ, lực, mô hình, đường elip, học thuyết, khối lượng, quỹ đạo, Mặt Trời, ngày, hành tinh, mặt trăng, Sao Mộc, Ngân Hà, Điều tra, đầu mối, pháp luật, vô hạn, đốt cháy cổ phần, tính toán, trọng lực, định luật lực, thuyết tương đối, không thời gian, tốc độ ánh sáng, science, Isaac Newton, Albert Einstein, khoa học, cơ khí, thiên văn học, vật lý thiên văn, Định luật đầu tiên của Newton, định luật đầu tiên của Newton, thời gian, ánh sáng, state of motion, vật lý, nhà khoa học, quan sát

Quá Trình Hình Thành Và Phát Triển

Quá trình hình thành và phát triển

Quân đội nhân dân Việt Nam » Quân đội nhân dân » Giới thiệu

Quá trình hình thành và phát triển

( chúng tôi ) – Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, là đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ, sẵn sàng chiến đấu hy sinh “vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân”. Tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam là Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, đội quân chủ lực đầu tiên được thành lập ngày 22 tháng 12 năm 1944 theo chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (Tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam) thành lập ngày 22/12/1944.

Khi mới thành lập, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân chỉ có 34 cán bộ, chiến sĩ nhưng đã sớm phát huy được truyền thống chống ngoại xâm và nghệ thuật quân sự lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ thắng lớn của dân tộc. Ngay từ lần đầu ra quân, đội quân chính quy đầu tiên của Việt Nam đã lập nên những chiến công vang dội, giải phóng những khu vực rộng lớn làm căn cứ cho các hoạt động đấu tranh giành độc lập, mở đầu truyền thống quyết chiến quyết thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam sau này. Ngày 15 tháng 5 năm 1945, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân sáp nhập với lực lượng Cứu quốc quân và đổi tên thành Giải phóng quân, trở thành lực lượng quân sự chủ yếu của Mặt trận Việt Minh khi tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Lá cờ Quyết chiến Quyết thắng tung bay trong chiến dịch Điện Biên Phủ tháng 5 năm 1954.

Thời gian từ năm 1945 đến năm 1954 là thời kỳ phát triển vượt bậc cả về số lượng và khả năng chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam. Chỉ một thời gian ngắn, từ khi đất nước giành được độc lập đến tháng 11 năm 1945, Giải phóng quân đã phát triển từ một đội quân nhỏ trở thành Quân đội Quốc gia Việt Nam với quân số khoảng 50.000 người, tổ chức thành 40 chi đội. Năm 1950, Quân đội Quốc gia Việt Nam đổi tên thành Quân đội nhân dân Việt Nam. Cũng thời gian này, các đại đoàn (đơn vị tương đương sư đoàn) chủ lực quan trọng như các đại đoàn 308, 304, 312, 320, 316, 325, 351 lần lượt được thành lập, đến nay vẫn là những đơn vị chủ lực của Quân đội nhân dân Việt Nam. Từ một đội quân chỉ vài trăm người khi tham gia Tổng khởi nghĩa, Quân đội nhân dân Việt Nam đã phát triển thành quân đội với các sư đoàn chủ lực mạnh, lập nên những chiến công lẫy lừng mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử ngày 07 tháng 05 năm 1954, đập tan mưu toan thiết lập lại chế độ thuộc địa của thực dân Pháp.

Sau khi Hiệp định Giơnevơ năm 1954 được ký kết, đất nước Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành hai miền. Nhân dân Việt Nam đứng trước hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước. Nhiệm vụ của quân đội thời kỳ này là vừa xây dựng chính quy, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa vừa tham gia đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Ngày 15 tháng 02 năm 1961, Quân Giải phóng miền Nam, lực lượng quân sự của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập trên cơ sở thống nhất lực lượng vũ trang tại chỗ và lực lượng tăng viện từ miền Bắc. Trước sự can thiệp trực tiếp của quân đội Mỹ, Quân đội nhân dân Việt Nam đã sát cánh cùng với nhân dân và các lực lượng vũ trang khác, tiến hành chiến tranh toàn dân, toàn diện, lâu dài và gian khổ, lập nên những kỳ tích mà tiêu biểu là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1968, chống chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của Mỹ ở miền Bắc mà đỉnh cao là chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” tháng 12 năm 1972; kết thúc thắng lợi bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, thống nhất đất nước, mở ra thời kỳ phát triển mới cho đất nước.

Xe tăng Quân Giải phóng miền Nam tiến vào Dinh Độc Lập ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Sau chiến thắng lịch sử năm 1975, Quân đội nhân dân Việt Nam lại cùng với nhân dân cả nước tiến hành thắng lợi các cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam vừa mới kết thúc thì chế độ diệt chủng do Pônpốt cầm đầu ở Cămpuchia đã kích động hận thù dân tộc, tiến hành chiến tranh xâm lấn ở biên giới Tây Nam của Tổ quốc. Chúng gây ra nhiều cuộc thảm sát man rợ với nhân dân Việt Nam sống dọc biên giới, đồng thời thực hiện chính sách diệt chủng đối với nhân dân Cămpuchia. Đứng trước yêu cầu bảo vệ Tổ quốc, ngày 23 tháng 12 năm 1978 Quân đội nhân dân Việt Nam đã mở cuộc phản công chiến lược, đập tan cuộc tiến công của quân đội Pônpốt. Sau đó, đáp ứng lời kêu gọi khẩn thiết của nhân dân và Mặt trận dân tộc cứu nước Cămpuchia, Quân tình nguyện Việt Nam đã phối hợp với các lực lượng vũ trang Cămpuchia, đánh tan 21 sư đoàn quân Pônpốt, xoá bỏ chế độ diệt chủng tàn bạo.

Quân tình nguyện Việt Nam giúp nhân dân Campuchia xây dựng cuộc sống mới (ảnh: Tư liệu)

Bước vào thời kỳ hoà bình xây dựng đất nước, Quân đội nhân dân Việt Nam đã thực hiện điều chỉnh biên chế, tổ chức, cắt giảm gần hai phần ba quân số. Các thế hệ sĩ quan, chiến sĩ quân đội vẫn kế tiếp nhau phát huy truyền thống và bản chất tốt đẹp của “Bộ đội cụ Hồ”, luôn làm đúng chức năng của một đội quân chiến đấu, một đội quân công tác, một đội quân sản xuất, xứng đáng với lời khen ngợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.

Thực hiện chức năng là một đội quân công tác, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn giữ vững mối quan hệ máu thịt với nhân dân. Là một trong các lực lượng nòng cốt tham gia công tác vận động quần chúng, các đơn vị quân đội đã tích cực thực hiện công tác dân vận. Nhiều đơn vị quân đội đã đi đầu trong phát triển kinh tế – xã hội ở các vùng sâu, vùng xa; tham gia công tác cứu hộ và giảm nhẹ thiên tai, phòng chống lụt, bão. Quân đội cũng tích cực tham gia xoá đói, giảm nghèo, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tình thần cho các tầng lớp nhân dân, phấn đấu đến năm 2010 hoàn thành chỉ tiêu xóa đói giảm nghèo cho 100.000 hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn.

Quân đội tham gia mở đường Hồ Chí Minh góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệ hoá, hiện đại hoá đất nước.

Là một đội quân sản xuất, các đơn vị trong toàn quân đã tận dụng mọi tiềm năng lao động, đất đai, kỹ thuật… để đẩy mạnh tăng gia sản xuất, tạo nguồn sản phẩm bổ sung tại chỗ, góp phần giữ ổn định và cải thiện đáng kể đời sống bộ đội. Các nhà máy, xí nghiệp của quân đội đã sản xuất được các loại vũ khí, khí tài phù hợp với yêu cầu tác chiến hiện đại, đáp ứng các yêu cầu sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của quân đội. Nhiều đơn vị làm kinh tế của quân đội đã sản xuất và kinh doanh có hiệu quả, trở thành các tổ chức kinh tế lớn của đất nước, đi đầu trong kết hợp kinh tế với quốc phòng, góp phần xứng đáng vào công cuộc phát triển kinh tế – xã hội và củng cố quốc phòng – an ninh của đất nước. Các doanh nghiệp quân đội đã tham gia nhiều dự án công trình trọng điểm của quốc gia như đường Hồ Chí Minh, đường dây 500 KV Bắc – Nam, dịch vụ dầu khí và nhiều công trình thuỷ điện lớn như Sông Đà, Drây H’ling. Hiện có 98 doanh nghiệp quân đội đang tham gia hoạt động trên nhiều lĩnh vực kinh tế như dịch vụ bay, dịch vụ cảng biển, viễn thông, công nghiệp đóng tàu… Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ của các doanh nghiệp này ngày một tăng.

Thực hiện chức năng cơ bản là sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và các quyền lợi quốc gia của đất nước, Quân đội nhân dân Việt Nam được tổ chức theo hướng tinh gọn, được trang bị các loại vũ khí, khí tài hiện đại cần thiết, thực hiện huấn luyện thường xuyên, sẵn sàng hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.

Hiện nay, Quân đội nhân dân Việt Nam có lực lượng thường trực gồm bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương với tổng quân số khoảng 450.000 người và lực lượng quân dự bị khoảng 5 triệu người. Bộ đội chủ lực là thành phần nòng cốt của Quân đội nhân dân Việt Nam gồm lực lượng cơ động của các quân đoàn, quân chủng, binh chủng, bộ đội chủ lực của quân khu và bộ đội chuyên môn kỹ thuật. Bên cạnh các đơn vị huấn luyện sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu còn có hệ thống hoàn chỉnh các đơn vị bảo đảm hậu cần, kỹ thuật; các học viện, viện nghiên cứu, các trường đào tạo sĩ quan và trường nghiệp vụ các cấp.

Cổng TTĐT BQP

File đính kèm :

Quá trình hình thành và phát triển

Lục quân

Phòng không – Không quân

Hải quân

Bộ đội Biên phòng

Bộ đội địa phương

Lực lượng dự bị động viên

Học viện, nhà trường

Viện nghiên cứu

Đơn vị Kinh tế – Quốc phòng

mod/sa-mod-site/sa-qdndvn/sa-qdndvn-child/sa-qdndvn-gt/d9037f46-33e3-43c4-8cc3-0e4842afd15c

Quá trình hình thành và phát triển

Khái Niệm Và Quá Trình Phát Triển Của Viên Nén

Viên nén (tabellae) là dạng thuốc rắn, được điều chế bằng cách nén một hay nhiều loại dược chất (có thêm hoặc không thêm tá dược), thường có hình trụ dẹt, mỗi viên là một đơn vị liều.

Quy trình sản xuất viên nén được mô tả chính thức vào năm 1843 trong bằng phát minh của Thomas Brockedon. Đến 1874 máy dập viên nén ra đời. Tuy vậy, việc sản xuất viên nén vẫn phát triển rất chậm. Cho đến 1932 trong Dược điển Anh (B.P) mới chỉ có một chuyên luận viên nén. Nguyên nhân của sự phát triển chậm của viên nén là do thiếu phương pháp đánh giá chất lượng dạng thuốc.

Đầu những năm 50, Higuchi và cộng sự đã nghiên cứu phương pháp đo lực dập viên, làm cơ sở để đi sâu nghiên cứu về viên nén. Tiếp đó là sự phát triển của SDH bào chế. Hàng loạt công trình nghiên cứu về viên nén ra đời, đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của dạng thuốc. Cùng với quá trình hiện đại hóa máy dập viên, cải tiến đóng viên vào vỉ, nhiều loại tá dược mới ra đời, đã làm cho viên nén trở thành một dạng thuốc phát triển rộng rãi nhất, phổ biến nhất hiện nay.

Đã được chia liều 1 lần tương đối chính xác.

Thể tích gọn nhẹ, dễ vận chuyển, mang theo người.

Dễ che dấu mùi vị khó chịu của dược chất.

Dược chất ổn định, tuổi thọ dài hơn dạng thuốc lỏng.

Dễ đầu tư sản xuất lớn, do đó giá thành giảm.

Diện sử dụng rộng: Có thể để nuốt, nhai, ngậm, cấy, đặt, pha thành dung dịch hay hỗn dịch.

Người bệnh dễ sử dụng: Phần lớn viên nén dùng để uống, trên viên thường có chữ dễ nhận biết tên thuốc.

Tuy nhiên viên nén cũng có nhiều nhược điểm, cần phải chú ý khắc phục thì mới đảm bảo chất lượng, nhất là về mặt SKD. ‘

Không phải tất cả các dược chất đều chế được thành viên nén.

Sau khi dập thành viên, diện tích BMTX của dược chất với môi trường hòa tan bị giảm rất nhiều, do đó với dược chất ít tan nếu bào chế viên nén không tốt, SKD của thuốc có thể bị giảm khá nhiều.

SKD viên nén thay đổi thất thường do trong quá trình bào chế, có rất nhiều yếu tố tác động đến độ ổn định của dược chất và khả năng giải phóng dược chất của viên như: Độ ẩm, nhiệt độ, tá dược, lực nén,…

Công Nghiệp Chế Tạo Robot Và Quá Trình Phát Triển

Công nghiệp chế tạo Robot là gì ?

Robot ,” Người máy” là một loại máy móc ngành công nghiệp tự động hóa, có thể thực hiện những công việc một cách tự động bằng sự điều khiển của máy tính hoặc các vi mạch điện tử được lập trình. Robot là một tác nhân cơ khí, nhân tạo, ảo, thường là một hệ thống cơ khí-điện tử. Mỹ và Nhật Bản là những nước đi đầu thế giới về lĩnh vực này.

Công nghiệp dầu khí là gì? Công nghiệp điện lực là gì?

Lịch sử phát triển của robot công nghiệp :

Thuật ngữ Robot ra đời từ tiếng Sec là ” Robota” nghĩa là công cụ làm việc tạp dịch.

Đầu thấp kỉ 60, công ty Mỹ AMF ra đời một loại máy có tên “Người máy công nghiệp” (Industrial Robot).

Về mặt kỹ thuật, Robot ngày nay có nguồn gốc từ hai lĩnh vực kỹ thuật ra đời sớm hơn đó là các cơ cấu điều khiển từ xa, và máy công cụ điều khiển.

Mỹ phát minh lại Robot Unimate năm 1900 được dùng trong kỹ nghệ. Sau Mỹ là các nước Anh- 1967, Thụy Điển và Nhật Bản năm 1968, CHLB Đức- 1971 và Pháp 1972, Ý năm 1973,..

Robot mô hình ” mắt tay ” ra đời năm 1967 tại Trường đại học Tổng hợp Stanford(Mỹ ) có khả năng nhận biết và điều hướng bằng các cảm biến.

Năm 1974, Công ty Cincinnaty (Mỹ) ra đời loại robot điều khiển bằng máy vi tính, gọi là Robot T3 ( The Tomorow Tool).

Hiện nay, Robot công nghiệp được định nghĩa theo : Tiêu chuẩn RIA, Tiêu chuẩn AFNOR, .. Robot công nghiệp là một cơ cấu máy có thể lập trình làm việc tự động và các tay máy có thể hợp tác với nhau, không cần đến sự trợ giúp của con người.

Phân loại Robot công nghiệp:

Phân loại robot : Theo số bậc tự do, Theo cấu trúc động học, Theo dạng hình học, Theo hệ truyền động.

Có rất nhiều loại robot được lắp ráp, sản xuất và việc phân loại phụ thuộc vào cánh tay robot.

Cánh tay robot gồm các khâu , khớp. Cổ tay tạo nên sự khéo léo linh hoạt, bàn tay và phần công tac để hoàn thành thao tác được giao.

Robot có khớp nối (loại thông dụng nhất) được sử dụng phổ biến trong công nghiệp tự động.

Robot có khớp nối là một robot có khớp và những khớp quay.

Robot có khớp có thể có hai kết cấu nối với nhau rất đơn giản đến những hệ thống có tới hơn 10 kết cấu tương tác với nhau. Chúng có thể dùng để nhấc các chi tiết nhỏ với độ chính xác cực cao. Các robot thường được dùng để làm các nhiệm vụ như hàn, cắt, sơn, lắp ráp, gắp chi tiết, đánh bóng,v.v …

Robot cộng tác (hay còn được gọi là cobot hoặc co-bot) là loại robot được thiết kế để làm việc cùng với con người trong một không gian chung. Ngược lại, robot công nghiệp thường hoạt động độc lập và ít tương tác vật lý với con người. Chính vì vậy, cobot đang ngày càng trở nên quan trọng đối với công nghiệp 4.0.

Đặc tính của robot :

Khi mô tả robot , chúng ta sẽ cần chú ý vào các đặc điểm sau: số lượng trục, tải trọng, tốc độ, động học, nguồn, kiểm soát di chuyển, truyền động,..

Khi chế tạo robot, Hệ thống điều khiển càng có tác dụng bao nhiêu, máy móc càng có khả năng được gọi là rôbốt bấy nhiêu. Một đặc điểm tiêu biểu để phân biệt robot nữa đó là khả năng đưa ra các lựa chọn. Càng có khả năng đưa ra nhiều lựa chọn để giải quyết một vấn đề bao nhiêu, robot càng được đánh giá cao.

Robot có thể tự động hóa được, đặc biệt nếu nó là một bộ phận giống tay, chân hoặc là một cỗ máy có tay chân (cánh tay rô-bốt) hoặc có khả năng xoay tròn và khi mang hình dáng bên ngoài như con người còn được gọi là người máy.

Người máy hay Rô-bốt là công cụ cơ điện tử, thủy lực, nhân tạo, ảo,… thay thế con người trong công nghiệp hay môi trường nguy hiểm. Rô-bốt công nghiệp còn là công cụ để giúp con người giải trí, tìm hiểu khoa học.

Khi lắp ráp và chế tạo được một loại máy, nếu đáp ứng được các yêu cầu cơ bản này thì sẽ được coi là 1 robot:

Không phải là tự nhiên, tức là do con người sáng tạo ra.

Có khả năng nhận biết môi trường xung quanh.

Có thể tương tác với những vật thể trong môi trường.

Có sự thông minh, có khả năng đưa ra các lựa chọn dựa trên môi trường và được điều khiển một cách tự động theo những trình tự đã được lập trình trước.

Có khả năng điều khiển được bằng các lệnh để có thể thay đổi tùy theo yêu cầu của người sử dụng.

Có thể di chuyển quay hoặc tịnh tiến theo một hay nhiều chiều.

Có sự khéo léo trong vận động.

Ví dụ:

Dương cầm điện tử cũng có thể được gọi là rô-bốt. Máy phay CNC nhiều lúc cũng được gọi là rô-bốt. Cánh tay tự động ở nhà máy là rô-bốt. Đồ chơi cơ khí giống người (Roboraptor) là rô-bốt. Dạng rô-bốt giống người hoặc mang hình dáng bên ngoài giống người (người máy nhưAsimo) hoàn toàn được gọi là rô-bốt.

Vai trò của Robot Công nghiệp:

Trong bối cảnh nền công nghiệp 4.0 phát triển và có nhiều đột phá, Công nghệ robot đang được ứng dụng vào mọi lĩnh vực đời sống, xã hội, mang lại nhiều thay đổi mạnh mẽ cho nền kinh tế.

Ưu tiên hàng đầu khi thiết kế cobot chính là sự an toàn. Các cobot đầu tiên ra mắt vào những năm 90 không có động cơ và người công nhân sẽ chịu trách nhiệm vận hành. Các mô hình sau này có thêm động cơ vận hành, mặc dù vẫn còn khá hạn chế. Ngoài ra, cobot phải thông minh hơn các robot công nghiệp truyền thống, phải có nhận thức về bối cảnh, chuyển động của cả cobot và con người nhằm mục đích hỗ trợ công nhân một cách an toàn nhất.

Trong các nhà máy, Robot công nghiệp gia công kim loại, cắt may và chế biến thực phẩm.

Nhà sáng lập Dự án Robot 3T cũng cho biết, một robot đa năng tại nước ngoài 6 bậc tự do có giá 30-40 nghìn đô la Mỹ, ứng dụng vào các sản phẩm phục vụ thị trường ASEAN…

Trong công nghệ sinh học, công nghệ thực phẩm , Robot tạo ra năng xuất không giới hạn, độ chính xác cao.

Máy hút bụi và các thiết bị gia dụng khác.

Trong ngành khoa học, nghiên cứu, Robot hộ trợ tạo điều kiện tối ưu cho nghiên cứu hoặc phân tích với độ chính xác 0.1mm (0.004 in).

Tại Nhật Bản và các nước phát triển, Robot thay thế con người làm việc, quản lý và giải trí.

Nâng cao hiệu quả điều trị cho người bệnh

Robot thay thế con người làm công việc hàng ngày với hiệu quả và linh hoạt chưa từng thấy.

Đưa Robot và phát triển giáo dục, trở thành công cụ giảng dạy.

Dữ liệu của Liên đoàn robot quốc tế (IRF) cho thấy, trong năm 2015, ngành công nghiệp sản xuất có 66 robot trên mỗi 10.000 người lao động. Năm 2017, dữ liệu tăng lên 77 robot trên 10.000 người lao động. Lượng robot xuất khẩu cực kì lớn, mang lại lợi nhuận cho nhiều tập đoàn.

Theo những nhà tổ chức triển lãm lần này, ngành công nghiệp robot có thể phát triển gấp 10 lần hiện nay trong 15 năm tới và sẽ đạt giá trị khoảng 8,1 tỷ USD. Đi kèm những phát minh hiệu quả đó thì việc sản xuất hàng lọat Robot công nghiệp sẽ đe dọa con người về cuộc sống, cơ hội nghề nghiệp.

Mối tương tác chặt chẽ giữa người và robot sẽ dẫn đến gia tăng năng suất và một quy trình sản xuất hiệu quả hơn, tạo ra mức lợi nhuận lớn trên toàn thế giới.

Tuy nhiên tại Việt Nam và 1 và quốc gia nhỏ khác,nhưng thực tế để ứng dụng rô-bốt tại Việt Nam, các doanh nghiệp vẫn còn nhiều khó khăn về nhân sự. Mặc dù việc tự động hóa có thể giải phóng sức lao động, vốn đầu tư hệ thống công nghệ, trình độ kỹ thuật… Theo báo cáo của Bộ Công thương, hiện nay, số lượng các doanh nghiệp Việt Nam quan tâm đầu tư, ứng dụng những công nghệ mới, công nghệ lõi vào quá trình sản xuất còn thấp.

Các viện nghiên cứu, trường đại học cần phối hợp, hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình đổi mới công nghệ sản xuất, sáng tạo và phát triển sản phẩm mới. Khi đã có nguồn nhân lực, trí tuệ và một hệ thống hạ tầng, các ngành công nghệ cao sẽ có thể phát triển ở Việt Nam, tạo đà thúc đẩy nền kinh tế thuận lợi để phát triền ngành công nghiệp chế tạo Robot nói chung và công nghiệp 4.0 nói riêng.

Một vài trường giảng dạy về Công nghiệp Robot tại Hồ Chí Minh:

ĐH công nghiệp tp Hồ Chí Minh

ĐH công nghệ tp Hồ Chí Minh – HUTECH

ĐH Bách Khoa tp Hcm

Công nghiệp dệt may

Bạn đang xem bài viết Quá Trình Phát Triển Của Cơ Học Thiên Thể trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!