Xem Nhiều 5/2023 #️ Quan Điểm Lý Luận Của Đảng Cộng Sản Việt Nam Về Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Xã Hội Chủ Nghĩa Qua 30 Năm Đổi Mới # Top 12 Trend | Tvzoneplus.com

Xem Nhiều 5/2023 # Quan Điểm Lý Luận Của Đảng Cộng Sản Việt Nam Về Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Xã Hội Chủ Nghĩa Qua 30 Năm Đổi Mới # Top 12 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Quan Điểm Lý Luận Của Đảng Cộng Sản Việt Nam Về Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Xã Hội Chủ Nghĩa Qua 30 Năm Đổi Mới mới nhất trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Đặc biệt, từ sau khi đất nước ta tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện (1986), tư tưởng, quan điểm của Đảng về Nhà nước pháp quyền đã được phát triển ngày càng toàn diện, ở một tầm cao mới. Đó cũng là kết quả của quá trình tìm tòi, thể nghiệm, phát triển quan điểm, nhận thức. Bài viết này sẽ khái quát quá trình đó thông qua các văn kiện chính thức của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Năm 1922, trong ” Việt Nam yêu cầu ca” (được diễn ca trên cơ sở ” Bản yêu sách của nhân dân An Nam” gửi đến Hội nghị Versailles năm 1919″) gồm tám điểm, Hồ Chí Minh đã viết:

Người Tây người Việt hai phương cùng đồng.

Các yêu sách trong ” Việt Nam yêu cầu ca ” đã phản ánh rõ ràng tư tưởng của Hồ Chí Minh về sự cần thiết, tất yếu phải có hiến pháp và pháp quyền, cũng như mối quan hệ giữa hiến pháp và pháp quyền, trong đó hiến pháp là tiền đề của pháp quyền và các yêu sách này cũng chính là bước đầu yêu cầu về một nền pháp quyền ở Việt Nam[2]. Tư tưởng của Bác cũng đã thể hiện một quan điểm hoàn chỉnh về yêu cầu quản lý xã hội theo pháp luật trong một xã hội dân chủ, một Nhà nước hợp hiến, theo tinh thần pháp quyền và thượng tôn pháp luật.

Trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng với những giá trị phổ biến về tư tưởng Nhà nước pháp quyền của nhân loại, quan điểm của Đảng về Nhà nước pháp quyền ngày càng được hoàn chỉnh, đặc biệt là từ sau khi đất nước ta bước vào công cuộc đổi mới (năm 1986), với việc đẩy mạnh cải cách, mở cửa, hội nhập.

1. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã mở ra công cuộc đổi mới đất nước toàn diện đất nước, bắt đầu từ đổi mới kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế. Sự kiện này đã tạo ra nhiều tiền đề về kinh tế xã hội, kiến trúc hạ tầng cho sự đổi mới kiến trúc thượng tầng về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền.

Mặc dù ở giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới, khái niệm “Nhà nước pháp quyền” chưa được đề cập đến trong các văn kiện chính thức của Đảng, nhưng những tư tưởng, nội dung của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay chịu sự chi phối bởi những kết quả cụ thể của công cuộc đổi mới đất nước từ những năm này.

Nhận thức về Nhà nước pháp quyền đã thể hiện một bước phát triển mới tại Đại hội VII (1991) của Đảng, khi đã đề cập đến những nội dung thể hiện được các đặc trưng, yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền.

Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) có nêu một số nguyên tắc pháp quyền để xây dựng nhà nước, như: Nhà nước định ra các đạo luật nhằm xác định các quyền công dân và quyền con người, quyền đi đôi với nghĩa vụ và trách nhiệm; Nhà nước ta phải có đủ quyền lực và đủ khả năng định ra luật pháp và tổ chức, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật; Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với sự phân công rành mạch ba quyền đó[3].

Năm 1994, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, lần đầu tiên Đảng ta chính thức sử dụng thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền”. Trong văn kiện của Hội nghị này có đề ra nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân như sau: “Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng XHCN. Nhà nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng trên cơ sở tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng ta lãnh đạo” [4] Có thể nói, quan điểm về Nhà nước pháp quyền thể hiện trong văn kiện này đã đánh dấu bước phát triển quan trọng, rõ nét và toàn diện hơn trong nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Nghị quyết số 08-NQ/HNTW ngày 23/1/1995 của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, có nêu năm quan điểm để xây dựng Nhà nước, trong đó có quan điểm về Nhà nước pháp quyền, gắn với yêu cầu tăng cường pháp chế XHCN. Tại quan điểm thứ tư: “Tăng cường pháp chế XHCN; xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức XHCN. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, theo pháp luật. Đó là cơ sở chủ yếu điều chỉnh các quan hệ cơ bản trong xã hội. Đồng thời coi trọng giáo dục nâng cao đạo đức XHCN, kết hợp biện pháp hành chính với giáo dục tư tưởng, nâng cao dân trí. Cán bộ viên chức nhà nước phải nêu gương đạo đức. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân, trước hết trong đảng và cơ quan nhà nước, làm cho mọi người hiểu và làm theo pháp luật” [5]

Tiếp đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) tiếp tục khẳng định quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền tương tự như quan điểm đã được nêu tại Nghị quyết số 08-NQ/HNTW ngày 23/1/1995 của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII.

Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII (1997) về phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam trong sạch, vững mạnh có nêu ba yêu cầu để xây dựng Nhà nước trong thời kỳ mới (gồm: phát huy tốt hơn và nhiều hơn quyền làm chủ của nhân dân; xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; t ǎ ng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước) và khẳng định: “[6] Có thể nói rằng, với thể hiện tại văn kiện này, Đảng ta đã đưa ra quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền như một quan điểm chủ đạo, có tính chất bao trùm, chi phối toàn bộ nội dung về đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nước. Ba yêu cầu trên quan hệ chặt chẽ với nhau, dựa trên nền tảng chung là xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, thực hiện đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết dân tộc mà nòng cốt là liên minh công nhân, nông dân và trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”

Đại hội IX (2001) tiếp tục đánh dấu bước pháp triển mới và toàn diện hơn của Đảng trong quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền. Văn kiện Đại hội khẳng định “Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật” [7]

Như vậy, đến Đại hội IX, nhận thức về Nhà nước pháp quyền của Đảng ta được phát triển lên một tầm cao mới có tính đột phá về tư duy lý luận, phù hợp với thực tiễn nước ta. Đến lúc này, “Nhà nước pháp quyền, xét về cơ sở nhận thức và cơ sở thực tiễn, đã có chỗ đứng ở Việt Nam” [9]

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006), Đảng đã tổng kết một trong những bài học lớn qua thực tiễn 20 năm đổi mới là: ” Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là yêu cầu bức thiết của xã hội”[10] Đồng thời, văn kiện tại Đại hội X tiếp tục khẳng định Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Cùng với đó, Đại hội X đã đề ra các nhiệm vụ, giải pháp để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN là: Hoàn thiện hệ thống pháp luật; đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội; cải cách hành chính; cải cách tư pháp; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, đấu tranh phòng chống tham nhũng; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng.

Như vậy, theo quan điểm của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và gắn chặt với việc đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước; đồng thời, gắn bó chặt chẽ với đẩy mạnh cải cách trên các lĩnh vực cũng như với việc đấu tranh phòng chống tham nhũng. Điều này là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn đặt ra của đất nước ta trong giai đoạn này. Theo chúng tôi Đào Trí Úc, tư tưởng của Đại hội X về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân vừa là nội dung của mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, vừa là con đường, phương thức để đi đến mục tiêu đó[11].

Đến Đại hội thứ XI (2011), trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (được bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng đã xác định mô hình xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng dựa trên tám phương hướng và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là một trong tám phương hướng cơ bản đó.

Đại hội lần thứ XI cũng tiếp tục khẳng định: ” Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” [12] . Như vậy, kiểm soát việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên nguyên tắc thống nhất quyền lực, có sự phân công, phối hợp là một trong những yếu tố cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta.

Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2020 và Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa X tại Ðại hội XI đề ra các yêu cầu, nhiệm vụ và giải pháp cụ thể xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Yêu cầu tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN là phải bảo đảm Nhà nước ta thật sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; Nhà nước phải chăm lo, phục vụ nhân dân, bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của mọi người dân. Ðồng thời, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN phải bảo đảm Nhà nước thực hiện tốt chức năng quản lý kinh tế, quản lý xã hội phù hợp yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế; mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế XHCN, kỷ luật, kỷ cương trong mọi lĩnh vực của xã hội.

cùng với quá trình đổi mới và phát triển đất nước, quan điểm, tư tưởng của Đảng về Nhà nước pháp quyền được nhận thức, đổi mới và phát triển không ngừng; đây cũng là quá trình đúc kết tư tưởng và học thuyết về Nhà nước pháp quyền trong vận dụng, bổ sung, hoàn thiện cả về lý luận cũng như thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta. Quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền của Đảng ta đã chính thức được thể chế hoá tại Điều 2 Hiến pháp nước cộng hoà XHCN Việt Nam năm 2013: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”.

Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII http://caicachhanhchinh.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/71/0/101/0/137/Van_kien_Hoi_nghi_dai_bieu_toan_quoc_giua_nhiem ky_khoa_VII_20_25_1_1994

Nghị quyết số 08-NQ/HNTW ngày 23/1/1995 của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII chúng tôi

GS.TSKH Đào Trí Úc, ‘Báo cáo chuyên đề: Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân – Tổng kết 30 năm hình thành và phát triển’, nguồn: Bộ Tư pháp.

Quan Điểm Lý Luận Của Đảng Cộng Sản Vn Về Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Xhcn Qua 30 Năm Đổi Mới

Đặc biệt, từ sau khi đất nước ta tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện (1986), tư tưởng, quan điểm của Đảng về Nhà nước pháp quyền đã được phát triển ngày càng toàn diện, ở một tầm cao mới. Đó cũng là kết quả của quá trình tìm tòi, thể nghiệm, phát triển quan điểm, nhận thức. Bài viết này sẽ khái quát quá trình đó thông qua các văn kiện chính thức của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Năm 1922, trong ” Việt Nam yêu cầu ca” (được diễn ca trên cơ sở ” Bản yêu sách của nhân dân An Nam” gửi đến Hội nghị Versailles năm 1919″) gồm tám điểm, Hồ Chí Minh đã viết:

“…. Hai xin phép luật sửa sang, Người Tây người Việt hai phương cùng đồng. …. Bảy xin hiến pháp ban hành,

Trǎm đều phải có thần linh pháp quyền” .

Các yêu sách trong ” Việt Nam yêu cầu ca ” đã phản ánh rõ ràng tư tưởng của Hồ Chí Minh về sự cần thiết, tất yếu phải có hiến pháp và pháp quyền, cũng như mối quan hệ giữa hiến pháp và pháp quyền, trong đó hiến pháp là tiền đề của pháp quyền và các yêu sách này cũng chính là bước đầu yêu cầu về một nền pháp quyền ở Việt Nam . Tư tưởng của Bác cũng đã thể hiện một quan điểm hoàn chỉnh về yêu cầu quản lý xã hội theo pháp luật trong một xã hội dân chủ, một Nhà nước hợp hiến, theo tinh thần pháp quyền và th ượng tôn pháp luật.

Trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng với những giá trị phổ biến về tư tưởng Nhà nước pháp quyền của nhân loại, quan điểm của Đảng về Nhà nước pháp quyền ngày càng được hoàn chỉnh, đặc biệt là từ sau khi đất nước ta bước vào công cuộc đổi mới (năm 1986), với việc đẩy mạnh cải cách, mở cửa, hội nhập.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã mở ra công cuộc đổi mới đất nước toàn diện đất nước, bắt đầu từ đổi mới kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế. Sự kiện này đã tạo ra nhiều tiền đề về kinh tế xã hội, kiến trúc hạ tầng cho sự đổi mới kiến trúc thượng tầng về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền.

Mặc dù ở giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới, khái niệm “Nhà nước pháp quyền” chưa được đề cập đến trong các văn kiện chính thức của Đảng, nhưng những tư tưởng, nội dung của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay chịu sự chi phối bởi những kết quả cụ thể của công cuộc đổi mới đất nước từ những năm này.

Nhận thức về Nhà nước pháp quyền đã thể hiện một bước phát triển mới tại Đại hội VII (1991) của Đảng, khi đã đề cập đến những nội dung thể hiện được các đặc trưng, yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền.

Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) có nêu một số nguyên tắc pháp quyền để xây dựng nhà nước, như: Nhà nước định ra các đạo luật nhằm xác định các quyền công dân và quyền con người, quyền đi đôi với nghĩa vụ và trách nhiệm; Nhà nước ta phải có đủ quyền lực và đủ khả năng định ra luật pháp và tổ chức, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật; Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với sự phân công rành mạch ba quyền đó.

Năm 1994, tại ây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân như sau: Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII,lần đầu tiên Đảng ta chính thức sử dụng thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền”. Trong văn kiện của Hội nghị này có đề ra nhiệm vụ x “ Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng XHCN. Nhà nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng trên cơ sở tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng ta lãnh đạo” Có thể nói, quan điểm về Nhà nước pháp quyền thể hiện trong văn kiện này đã đánh dấu bước phát triển quan trọng, rõ nét và toàn diện hơn trong nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Tiếp đó,Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) tiếp tục khẳng định quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền tương tự như quan điểm đã được nêu tạiNghị quyết số 08-NQ/HNTW ngày 23/1/1995 của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006), Đảng đã tổng kết một trong những bài học lớn qua thực tiễn 20 năm đổi mới là: ” Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là yêu cầu bức thiết của xã hội”. Đồng thời, văn kiện tại Đại hội X tiếp tục khẳng định Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Cùng với đó, Đại hội X đã đề ra các nhiệm vụ, giải pháp để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN là: Hoàn thiện hệ thống pháp luật; đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội; cải cách hành chính; cải cách tư pháp; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, đấu tranh phòng chống tham nhũng; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng.

Như vậy, theo quan điểm của Đảng,xây dựng Nhà nước pháp quyền phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và gắn chặt với việc đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước; đồng thời, gắn bó chặt chẽ với đẩy mạnh cải cách trên các lĩnh vực cũng như với việc đấu tranh phòng chống tham nhũng. Điều này là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn đặt ra của đất nước ta trong giai đoạn này. T heo chúng tôi Đào Trí Úc, tư tưởng của Đại hội X về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân vừa là nội dung của mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, vừa là con đường, phương thức để đi đến mục tiêu đó.

Đến Đại hội thứ XI (2011), trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (được bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng đã xác định mô hình xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng dựa trên tám phương hướng và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là một trong tám phương hướng cơ bản đó.

Đại hội lần thứ XI cũng tiếp tục khẳng định: ” Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả q yền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” . Như vậy, kiểm soát việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên nguyên tắc thống nhất quyền lực, có sự phân công, phối hợp là một trong những yếu tố cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta.

Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2020 và Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa X tại Ðại hội XI đề ra các yêu cầu, nhiệm vụ và giải pháp cụ thể xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Yêu cầu tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN là phải bảo đảm Nhà nước ta thật sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; Nhà nước phải chăm lo, phục vụ nhân dân, bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của mọi người dân. Ðồng thời, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN phải bảo đảm Nhà nước thực hiện tốt chức năng quản lý kinh tế, quản lý xã hội phù hợp yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế; mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế XHCN, kỷ luật, kỷ cương trong mọi lĩnh vực của xã hội.

Như vậy, cùng với quá trình đổi mới và phát triển đất nước, quan điểm, tư tưởng của Đảng về Nhà nước pháp quyền được nhận thức, đổi mới và phát triển không ngừng; đây cũng là quá trình đúc kết tư tưởng và học thuyết về Nhà nước pháp quyền trong vận dụng, bổ sung, hoàn thiện cả về lý luận cũng như thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta. Quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền của Đảng ta đã chính thức được thể chế hoá tại Điều 2 Hiến pháp nước cộng hoà XHCN Việt Nam năm 2013: “Nhà n ước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”./.

Nhà Nước Pháp Quyền Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam

GS. VS. NGUYỄN DUY QUÍ

1 – Về phương diện lý luận, nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước. Nhà nước pháp quyền là giá trị phổ biến, là biểu hiện của một trình độ phát triển dân chủ

Trong ý nghĩa này, nhà nước pháp quyền được nhìn nhận như một cách thức tổ chức nền dân chủ, cách thức tổ chức nhà nước và xã hội trên nền tảng dân chủ. Điều này có nghĩa là nhà nước pháp quyền gắn liền với một nền dân chủ. Tuy không phải là một kiểu nhà nước được xác định theo lý luận về hình thái kinh tế – xã hội, nhưng nhà nước pháp quyền không thể xuất hiện trong một xã hội phi dân chủ.

Sự phủ nhận quan điểm xem nhà nước pháp quyền như một kiểu nhà nước có ý nghĩa nhận thức luận quan trọng trong việc nhìn nhận đúng bản chất của nhà nước pháp quyền. Ý nghĩa nhận thức luận này bao hàm các khía cạnh sau:

– Chỉ từ khi xuất hiện dân chủ tư sản, mới có cơ hội và điều kiện để xuất hiện nhà nước pháp quyền. Do vậy, trên thực tế, nhà nước pháp quyền tư sản đang được tuyên bố xây dựng ở hầu hết các quốc gia tư bản phát triển và đang phát triển.

– Nhà nước pháp quyền, với tính chất là cách thức tổ chức và vận hành của một chế độ nhà nước và xã hội, không những được xây dựng ở chế độ tư bản mà còn được xây dựng ở chế độ xã hội chủ nghĩa. Như vậy, trong nhận thức lý luận cũng như trong thực tiễn, có nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

– Ngoài các giá trị phổ biến, nhà nước pháp quyền còn bao hàm các giá trị đặc thù. Tính đặc thù của nhà nước pháp quyền được xác định bởi nhiều yếu tố. Các yếu tố này, về thực chất, là rất đa dạng, phong phú và phức tạp, được xác định bởi các điều kiện lịch sử, kinh tế, văn hóa, tâm lý xã hội và môi trường địa lý của mỗi dân tộc. Chúng không chỉ tạo ra các đặc sắc, tính riêng biệt của mỗi dân tộc trong quá trình dựng nước, giữ nước và phát triển mà còn quyết định mức độ tiếp thu và dung nạp các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền. Việc thừa nhận tính đặc thù của nhà nước pháp quyền có ý nghĩa nhận thức luận quan trọng. Với ý nghĩa này, nhà nước pháp quyền là một phạm trù vừa mang tính phổ biến, vừa mang tính đặc thù; vừa là giá trị chung của nhân loại, vừa là giá trị riêng của mỗi dân tộc, quốc gia. Do vậy, không thể có một nhà nước pháp quyền như một mô hình chung, thống nhất cho mọi quốc gia, dân tộc. Mỗi quốc gia, dân tộc, tùy thuộc vào các đặc điểm lịch sử, chính trị, kinh tế – xã hội và trình độ phát triển mà xây dựng cho mình một mô hình nhà nước pháp quyền thích hợp.

2 – Đối với Việt Nam, vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền đang được đặt ra như một tất yếu lịch sử và tất yếu khách quan

Tính tất yếu lịch sử của việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam bắt nguồn từ chính lịch sử xây dựng và phát triển của Nhà nước ta. Ngay từ khi thành lập và trong quá trình phát triển, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã và luôn là một nhà nước hợp hiến, hợp pháp. Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các quy định của Hiến pháp và pháp luật và luôn vận hành trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Các đạo luật tổ chức Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và các đạo luật về chính quyền địa phương được xây dựng trên cơ sở các Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980 và năm 1992. Những lần Hiến pháp được sửa đổi và thông qua là những bước củng cố cơ sở pháp luật cho tổ chức và hoạt động của bản thân các cơ quan nhà nước. Vì vậy, có thể nói, quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là một quá trình lịch sử được bắt đầu ngay từ Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và Hiến pháp năm 1946. Quá trình này đã trải qua hơn nửa thế kỷ với nhiều giai đoạn phát triển đặc thù. Ngày nay, quá trình này đang được tiếp tục ở một tầng cao phát triển mới với nhiều đòi hỏi và nhu cầu cải cách mới.

Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam xuất phát từ định hướng xã hội chủ nghĩa mà mục tiêu cơ bản là xây dựng một chế độ xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chúng ta ý thức sâu sắc rằng, để xây dựng được một chế độ xã hội có tính mục tiêu như vậy, công cụ, phương tiện cơ bản chỉ có thể là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tính tất yếu khách quan ấy còn xuất phát từ đặc điểm của thời đại với xu thế toàn cầu hóa. Nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách nhà nước, cải cách pháp luật, bảo đảm cho Nhà nước không ngừng vững mạnh, có hiệu lực để giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, thực hành dân chủ, củng cố độc lập, tự chủ và hội nhập vững chắc vào đời sống quốc tế.

3 – Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta là một nhà nước vừa phải thể hiện được các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền đã được xác định trong lý luận và thực tiễn của một chế độ dân chủ hiện đại, vừa phải khẳng định được bản sắc, đặc điểm của riêng mình

Sự khác nhau cơ bản giữa nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung, trong đó có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng, đã được các đề tài của Chương trình KX.04 khái quát trên những nét chính sau:

Một là, cơ sở kinh tế của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường không phủ nhận các quy luật khách quan của thị trường, mà là cơ sở để xác định sự khác nhau giữa kinh tế thị trường trong chủ nghĩa tư bản và kinh tế thị trường trong chủ nghĩa xã hội. Do vậy, đặc tính của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa tạo ra sự khác nhau giữa nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đồng thời tạo ra nét đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Hai là, cơ sở chính trị của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là chế độ dân chủ nhất nguyên. Chế độ dân chủ nhất nguyên là điều kiện cơ bản để tạo ra một đời sống dân chủ có tính thống nhất cao, một hệ thống chính trị thống nhất và là một đòi hỏi có tính nội tại của chế độ nhà nước và chế độ xã hội trong các điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do vậy, sự nhất nguyên chính trị phải luôn là thuộc tính của nhà nước xã hội chủ nghĩa – một nhà nước đòi hỏi tính thống nhất và tính tổ chức cao trong tổ chức cũng như trong hoạt động của mọi cấu trúc nhà nước để có thể đạt được các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.

Tính nhất nguyên chính trị được thể hiện trong việc khẳng định vai trò lãnh đạo của một đảng duy nhất cầm quyền ở Việt Nam. Bản chất của một nền dân chủ không lệ thuộc vào chế độ đa đảng hay chế độ một đảng, mà lệ thuộc vào chỗ đảng cầm quyền đại diện cho lợi ích của ai, sử dụng quyền lực nhà nước vào những mục đích gì trên thực tế. Vì vậy, điều kiện để xây dựng nhà nước pháp quyền không thể là chế độ đa đảng hay chế độ một đảng và không thể coi đó là căn cứ để đánh giá tính chất và trình độ của một nền dân chủ. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản – đảng duy nhất cầm quyền đối với đời sống xã hội và đời sống nhà nước không những không trái với bản chất nhà nước pháp quyền nói chung mà còn là điều kiện có ý nghĩa tiên quyết đối với quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta.

Ba là, cơ sở xã hội của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Với khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhà nước pháp quyền có được cơ sở xã hội rộng lớn và khả năng to lớn trong việc tập hợp, tổ chức các tầng lớp nhân dân thực hành và phát huy dân chủ.

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tuy không loại bỏ được sự phân tầng xã hội theo hướng phân hóa giàu, nghèo nhưng có khả năng xử lý tốt hơn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Những mâu thuẫn xã hội phát sinh trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường do được điều tiết thông qua pháp luật, chính sách và các công cụ khác của nhà nước nên ít có nguy cơ trở thành các mâu thuẫn đối kháng và tạo ra các xung đột có tính chất chia rẽ xã hội. Đây là một trong những điều kiện để bảo đảm ổn định chính trị, đoàn kết các lực lượng xã hội vì các mục tiêu chung của sự phát triển.

4 – Một số vấn đề về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của nước ta hiện nay

Để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta hiện nay, một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết là chúng ta phải sớm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.

Nhu cầu đổi mới tư duy pháp lý đã được đặt ra và quán triệt trong giai đoạn đấu tranh loại bỏ cơ chế pháp lý của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, xây dựng cơ chế pháp lý cho cơ chế kinh tế mới. Ngày nay, một lần nữa nhu cầu đổi mới tư duy pháp lý lại được đặt ra với tính cấp thiết mạnh mẽ, kiên quyết, vượt ra khỏi khuôn khổ có tính truyền thống lâu nay trong việc xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật. Tư duy pháp lý mới có thể được phác thảo trên những nét chính sau:

1 – Xác định và quán triệt cơ sở lý thuyết cho mô hình luật pháp nước ta trong giai đoạn phát triển đến 2010 và các giai đoạn tiếp theo. Điều này có nghĩa là chúng ta cần nhanh chóng xác định mô hình luật pháp nước ta được xây dựng theo lý thuyết nào. Dĩ nhiên, chúng ta không thể áp dụng một cách máy móc các mô hình lý thuyết hiện đang được áp dụng ở các quốc gia trên thế giới. Nhưng chúng ta cũng không thể không tính đến sự ảnh hưởng và chi phối của các lý thuyết này đối với sự vận động của đời sống pháp luật hiện đại. Vì vậy, việc nghiên cứu xây dựng các cơ sở lý thuyết cho mô hình luật pháp nước ta cần đặt trong mối quan hệ giữa hai yếu tố: dân tộc và hiện đại.

Cần có các nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm lịch sử của các thế hệ người Việt Nam trong tiến trình xây dựng và thực thi các thể chế pháp lý. Các kinh nghiệm làm luật và thi hành luật trong các giai đoạn lịch sử cho thấy, các thế hệ người Việt Nam khá thành công trong việc tiếp thu các giá trị pháp lý nước ngoài, làm nên một bản sắc pháp lý Việt Nam. Xin hãy lấy Quốc triều hình luật thời Lê (Bộ Luật Hồng Đức) để suy ngẫm: Bộ Luật Hồng Đức, theo đánh giá của sử gia Phan Huy Chú, “Thật là cái mẫu mực để trị nước, các khuôn phép để buộc dân”. Điều cần nhấn mạnh là, mặc dù chịu ảnh hưởng của tư tưởng pháp lý và các quy tắc pháp luật của Trung Hoa thời phong kiến, nhưng Bộ Luật Hồng Đức vẫn là bộ luật của người Việt Nam, là sản phẩm văn hóa của người Việt Nam, chứ không phải là sự sao chép máy móc pháp luật của nhà Đường hay nhà Minh.

2 – Nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa, bảo đảm sự tương thích của pháp luật quốc gia với các không gian pháp lý có tính quốc tế đang đòi hỏi chúng ta phải đẩy mạnh việc đổi mới công tác lập pháp. Việc đổi mới công tác lập pháp có thể khái quát trên một số nét sau:

Bốn là, tăng cường lắng nghe ý kiến nhân dân đóng góp xây dựng các dự thảo luật: Các dự thảo luật một khi được xây dựng ngắn gọn, ít điều khoản sẽ rất dễ dàng cho nhân dân tiếp cận. Sự tham gia đóng góp ý kiến xây dựng pháp luật của đông đảo các tầng lớp nhân dân là điều kiện quan trọng để pháp luật phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của nhân dân, bảo đảm cho pháp luật thật sự là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Cần quy định, việc lấy ý kiến của nhân dân (chứ không chỉ là lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức hay của một số cán bộ) đối với các dự án luật là điều kiện bắt buộc trong quá trình xây dựng dự thảo. Đặc biệt, việc tiếp thu ý kiến của nhân dân vào các dự thảo (tiếp thu ý kiến nào, không tiếp thu ý kiến nào, vì sao) phải được thông báo công khai và minh bạch. Có như vậy, nhân dân mới cảm thấy ý kiến của mình được tôn trọng và mặt khác, mới củng cố niềm tin của họ vào luật pháp.

Luận Văn: Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Việt Nam, Hay

, DOWNLOAD ZALO 0932091562 at BẢNG BÁO GIÁ DỊCH VỤ VIẾT BÀI TẠI: chúng tôi

Published on

Luận văn thạc sĩ ngành luật: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, cho các bạn tham khảo làm đề tài nghiên cứu

1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGÔ THỊ HƢƠNG THƠM XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số : 60 38 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: chúng tôi TRỊNH ĐỨC THẢO HÀ NỘI – 2014

2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Ngô Thị Hƣơng Thơm

4. 2.4. Thực trạng xây dựng mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân 63 2.4.1. Những thành tựu đạt được 63 2.4.2. Một số hạn chế cần khắc phục 65 2.5. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế 66 Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM HIỆN NAY 70 3.1. Quan điểm 70 3.2. Những giải pháp để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay 71 3.2.1. Đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội 71 3.2.2. Đẩy mạnh cải cách nền hành chính nhà nước 82 3.2.3. Đẩy mạnh cải cách tư pháp 86 3.2.4. Đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật 93 3.2.5. Thực hiện dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội 99 3.2.6. Đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng và những hiện tượng tiêu cực khác trong bộ máy nhà nước 103 3.2.7. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa 108 3.2.8. Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước 111 KẾT LUẬN 114 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 116

5. DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT HĐND : Hội đồng nhân dân QPPL : Quy phạm pháp luật UBND : Ủy ban nhân dân VBQPPL : Văn bản quy phạm pháp luật XHCN : Xã hội chủ nghĩa

6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Học thuyết nhà nước pháp quyền từ lý luận vận dụng vào thực tiễn như thế nào đến nay vẫn còn là một vấn đề cần bàn luận. Việc vận dụng lý luận xây dựng nhà nước pháp quyền trên các quốc gia trên thế giới không theo một khuôn mẫu xác định, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, chế độ chính trị, truyền thống lịch sử và bản sắc văn hoá mà mỗi quốc gia xây dựng một mô hình nhà nước pháp quyền riêng. Hơn hai thế kỷ qua, các quốc gia phát triển đã và đang hoàn thiện việc xây dựng nhà nước pháp quyền, thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, giảm thiểu biên chế trong bộ máy nhà nước, tiết kiệm ngân sách, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực, thực hiện nguyên tắc sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế cũng như giao lưu văn hoá, chuyển giao khoa học – công nghệ, dân chủ hóa toàn diện đời sống xã hội hiện nay, đòi hỏi các quốc gia phải có những quy định pháp lý chung, những chế tài pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ quốc tế. Để hội nhập quốc tế Việt Nam phải cấp thiết xây dựng bộ máy hoàn thiện, trong sạch, vững mạnh, hoạt động linh hoạt có tính hiệu quả cao theo hướng lấy pháp luật làm phương tiện quản lý nhà nước và điều chỉnh các quan hệ xã hội. Xây dựng nhà nước pháp quyền không chỉ là một cuộc cách mạng, nó là một cuộc đại cách mạng chưa từng có tiền lệ trong lịch sử. Cuộc đại cách mạng ấy lại được tiến hành trong bối cảnh đất nước đang trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, còn muôn vàn khó khăn về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…Vì vậy, đây là quá trình lâu dài, khó khăn, phức tạp phải có sự chuẩn bị chu đáo cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn. Điều đó đòi hỏi các nhà nghiên cứu lý luận phải khảo sát đời sống thực tế, phân tích phương diện kinh tế, chính trị, văn hoá – xã hội. Qua phân tích những phương diện đó, phải vạch ra lộ trình, tìm bước đi thích hợp, xây dựng

7. 2 những giải pháp, từng bước hoàn thiện lý luận, đẩy nhanh tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Tuy nhiên cho đến nay, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam là một vấn đề có nội dung rất lớn, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu toàn diện cả về lý luận và thực tiễn. Để góp phần vào quá trình nghiên cứu đó, tôi chọn đề tài Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam làm đề tài luận văn của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn – Mục đích của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu lý luận và đánh giá thực trạng xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, luận văn đề xuất các quan điểm và giải pháp tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay. – Để thực hiện mục đích trên luận văn có những nhiệm vụ sau: + Hệ thống hóa và phân tích cơ sở lý luận về nhà nước pháp quyền và nhà nước pháp quyền Việt Nam. + Phân tích, đánh giá thực trạng xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam từ năm 1986 đến nay. + Đề xuất quan điểm và giải pháp tiếp tục xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu – Dưới góc độ lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, luận văn nghiên cứu lý luận, thực trạng về nhà nước pháp quyền, nhà nước pháp quyền Việt Nam. – Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu về tổ chức bộ máy nhà nước, hệ thống pháp luật, về vấn đề dân chủ và mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam. – Thời gian nghiên cứu từ năm 1986 đến nay (từ thời kỳ đổi mới). 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu – Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về nhà nước pháp quyền và

9. 4 Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM 1.1. Khái quát chung về Nhà nƣớc pháp quyền 1.1.1. Quan điểm, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền qua các thời kỳ 1.1.1.1. Quan điểm, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền thời kỳ cổ đại ở Châu Âu Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền đã hình thành sớm trong lịch sử tư tưởng chính trị – pháp lý, gắn liền với tư tưởng phát triển dân chủ, loại trừ chuyên quyền, độc tài, vô chính phủ, vô pháp luật, đã hình thành ngay từ thời cổ đại, thể hiện trong quan điểm của các nhà tư tưởng thời cổ đại như Xocrat, Đemocrit, Platon, Arixtot, Xixeron… trong đó nổi bật nhất là quan điểm của Đemocrit, Arixtot và Xixeron. Đemocrit (460 – 370 tr. CN): Được coi là người đầu tiên lý giải một cách khoa học về sự xuất hiện và sự hình thành con người, xã hội loài người. Ông cho rằng Nhà nước và pháp luật là sản phẩm của cuộc đấu tranh lâu dài của con người nhằm liên kết với nhau thành cộng đồng. Nhà nước là sự thể hiện quyền lực chung của công dân. Tự do của công dân nằm trong sự tuân thủ pháp luật. Arixtot (384 – 322 tr. CN): Ông được C.Mác đánh giá là nhà tư tưởng vĩ đại nhất của thời cổ đại cho rằng pháp luật cần thống trị trên tất cả. Theo ông thì yếu tố cấu thành cơ bản của phẩm chất chính trị trong pháp luật là sự phù hợp của tính đúng đắn về chính trị của nó với tính pháp quyền; không thể có pháp luật nếu như việc cầm quyền không tuân theo pháp luật, chà đạp lên pháp luật, mưu toan thống trị bằng bạo lực. Những quan điểm nêu trên được Arixtot trình bày trong tác phẩm “Đạo đức học” và “Thuật hùng biện”. Xixeron (106 – 43 tr. CN): Ông là nhà hoạt động nhà nước, nhà luật học và nhà hùng biện của thời kỳ La Mã cổ đại, tác giả của những tác phẩm nổi

10. 5 tiếng như “Về nhà nước”, “Về những đạo luật” và “Về các nghĩa vụ”… Ông đã có những tư tưởng tiến bộ như: nhà nước là công việc chung của nhân dân; phân biệt ba hình thức nhà nước: dân chủ, quý tộc và quân chủ; người điều hành công việc nhà nước phải sáng suốt, công minh, có khả năng hùng biện và hiểu biết những nguyên lý cơ bản của pháp luật… Đặc biệt, Xixeron đưa ra quan điểm nổi tiếng: tất cả mọi người đều ở dưới hiệu lực của pháp luật và nhân dân phải coi pháp luật như chốn nương thân của mình. Như vậy, theo các nhà triết học thời kỳ này, pháp luật không chỉ là công cụ cai trị của nhà nước mà còn là phương thức điều chỉnh quan trọng nhất đối với các quan hệ xã hội, bản thân nhà nước cũng phải phục tùng pháp luật. 1.1.1.2. Quan điểm, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền thời kỳ cách mạng tư sản Những quan điểm, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền nêu trên được tiếp tục phát triển, nhất là trong thời kỳ các cuộc cách mạng tư sản đánh đổ chế độ phong kiến chuyên chế, độc tài ở châu Âu thế kỷ XVII, XVIII. Trong thời kỳ này tư tưởng về Nhà nước pháp quyền được phát triển khá phong phú, toàn diện, hình thành hệ thống quan điểm trong các học thuyết chính trị – pháp lý. Những người có công xây dựng tư tưởng ấy là các học giả tư sản tự do ở châu Âu như J.Locke, S.L.Montesquieu, I.Kant, Heghel…trong đó đáng chú ý là học thuyết của S.L.Montesquieu và J.J.Rút – xô Nhà tư tưởng vĩ đại nước Pháp S.L.Montesquieu (1698 – 1755) đã xây dựng thuyết phân quyền trong tổ chức nhà nước, ông là tác giả của cuốn sách nổi tiếng Bàn về tinh thần pháp luật (1748). Trong tác phẩm này từ việc phân tích chế độ chuyên quyền độc đoán, chuyên quyền, tùy tiện xâm hại tự do dân chủ, Montesquieu đề cao cơ quan đại biểu của nhân dân, lập luận về sự cần thiết phải phân chia quyền lực nhà nước thành quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Ông cho rằng ba thứ quyền này phải được tổ chức

13. 8  Tư tưởng của V.I.Lênin Những tư tưởng về Nhà nước pháp quyền nêu trên của C.Mác và Ph.Ănghen được V.I.Lênin tiếp thu và phát triển trong quá trình xây dựng nhà nước Xô Viết. Ông chỉ rõ “Mục đích của chính quyền Xô viết là thu hút những người lao động tham gia vào quản lý nhà nước” và “việc thu hút được mọi người lao động tham gia vào quản lý là một trong những ưu thế quyết định của nền dân chủ XHCN” V.I.Lênin đã khái quát nhiều quan điểm về Nhà nước kiểu mới, đó là “nhà nước không còn nguyên nghĩa”, “nhà nước nửa nhà nước”, “nhà nước quá độ” để rồi chuyển dần tới một chế độ tự quản của nhân dân. Muốn vậy, trước mắt phải thực hiện chế độ dân chủ mà nội dung cơ bản là quyền bầu cử, quyền tham gia quản lý nhà nước, quyền bãi miễn, quyền thẩm tra giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước và cán bộ công chức nhà nước của nhân dân. Về pháp luật, V.I.Lênin khẳng định vai trò của pháp luật và pháp chế trong quản lý xã hội mới, bảo đảm sự tuân thủ pháp luật nghiêm chỉnh, thống nhất trên phạm vi toàn quốc, coi đó là một trong những điều kiện cơ bản để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.  Tư tưởng Hồ Chí Minh Quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền thể hiện trình độ kết hợp nhuần nhuyễn quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin với việc kế thừa, tiếp thu có chọn lọc kho tàng tri thức, kinh nghiệm của nhân loại, vận dụng sáng tạo vào điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam. Có thể khái quát trên những nội dung cơ bản sau đây: – Giai cấp vô sản phải lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng giành chính quyền về tay nhân dân. – Nhà nước XHCN là nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, bảo đảm nền dân chủ thực sự. – Phải xây dựng Hiến pháp dân chủ để bảo đảm quyền tự do dân chủ của nhân dân.

14. 9 – Nhà nước XHCN là nhà nước hợp hiến, hợp pháp, thực hiện quản lý xã hội theo pháp luật và kết hợp chặt chẽ với giáo dục đạo đức. – Pháp luật trong nhà nước XNCN là pháp luật dân chủ, thể hiện được ý chí và lợi ích của nhân dân. – Nhà nước XHCN là nhà nước có trách nhiệm và chịu trách nhiệm trước nhân dân, công dân phải làm tròn nghĩa vụ đối với nhà nước và xã hội. – Nhà nước XHCN của dân, do dân, vì dân là nhà nước trong sạch; ngăn chặn, loại trừ được quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các hiện tượng tiêu cực khác trong bộ máy nhà nước. Cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước là những “công bộc của dân”. – Nhà nước XHCN phải có biện pháp kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước [26, tr.57]. Có thể nói, tư tưởng về nhà nước pháp quyền được hình thành trong cuộc cách mạng giải phóng nhân loại khỏi chế độ phong kiến chuyên chế, nhưng những tư tưởng ban đầu của nó đã bắt nguồn từ thời cổ đại. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền ra đời gắn liền với sự khẳng định chủ quyền của nhân dân, nhân dân là gốc của quyền lực, gắn liền với sự tự do của nhân dân được bảo đảm, với sự tuân thủ pháp luật của nhà nước, sự phụ thuộc của nhà nước vào xã hội. Xu thế chung của các quốc gia trên thế giới là hướng tới xây dựng nhà nước pháp quyền và do đó, tư tưởng về nhà nước pháp quyền lại tiếp tục được bổ sung và hoàn thiện. 1.1.2. Khái niệm Nhà nước pháp quyền Thuật ngữ “nhà nước pháp quyền”, về cơ bản được hình thành vào thời Khai sáng. Hai tác phẩm đặt nền móng tư tưởng nhà nước pháp quyền là “Tinh thần pháp luật” của Montesquiue và “Khế ước xã hội” của Rousseau, trong đó các tác giả đã đề cao quyền công dân và vai trò pháp luật, coi pháp luật như phương tiện quản lý xã hội. Thuật ngữ nhà nước pháp quyền được ba

15. 10 nhà tư tưởng là Carl Theodor Welcker (1790-1869), Johann Christopher Freiher (1772-1824) và Robert von Mohl (1799-1875) chính thức vận dụng vào thực tế nước Đức đầu thế kỷ XIX với nghĩa Nhà nước coi trọng tính tối cao của pháp luật, không ai có quyền đứng trên, đứng ngoài vòng pháp luật. Hiện nay, trong lý luận còn có các quan điểm khác nhau về khái niệm và các yếu tố cơ bản của nhà nước pháp quyền (tính tối cao của pháp luật, nghĩa vụ tuân thủ pháp luật của nhà nước, nguyên tắc phân công quyền lực lập pháp, hành pháp, tư pháp; dân chủ, xã hội công dân; quyền tự do cơ bản của công dân; chủ quyền nhân dân…). Có quan điểm cho rằng, nhà nước pháp quyền là nhà nước mà trong đó mọi chủ thể (không ngoại trừ nhà nước) đều tuân thủ nghiêm chỉnh, phục tùng pháp luật – một pháp luật có tính pháp lý cao, phù hợp với lí trí, thể hiện đầy đủ những giá trị cao nhất của xã hội, của con người. Quan điểm khác cho rằng: Nhà nước pháp quyền đòi hỏi phải có sự thống nhất giữa tính tối cao của pháp luật với hình thức pháp lý của tổ chức quyền lực chính trị; đó là hai yếu tố không thể thiếu khi nói đến nhà nước pháp quyền. Quan điểm khác nữa lại định nghĩa về nhà nước pháp quyền dựa trên các đặc trưng của nó, theo đó, nhà nước pháp quyền là nhà nước dựa trên các nguyên tắc như tính tối cao của luật; chủ quyền của nhân dân; phân công quyền lực; tính vững chắc của các quyền tự do của con người… Tuy có nhấn mạnh về các khía cạnh khác nhau trong nội dung nhà nước pháp quyền, nhưng quan điểm chung đều cho rằng, nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước mới. Trong lịch sử loài người chỉ có 4 kiểu nhà nước là nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản và nhà nước XHCN. Nhà nước pháp quyền là hình thức phân công và tổ chức quyền lực nhà nước, nó có những đặc trưng riêng: đó là nhà nước mà hiến pháp và các đạo luật phải giữ vị trí tối cao; quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc phân công quyền lực; con người là giá trị cao quý và mục tiêu cao nhất; bảo đảm chủ quyền của nhân dân. Như vậy, Nhà nước pháp quyền là vị

16. 11 thế pháp lí hay một hệ thống thể chế, nơi mỗi người đều phải phục tùng và tôn trọng luật pháp, từ cá nhân đơn lẻ cho tới cơ quan công quyền. Nhà nước pháp quyền liên hệ chặt chẽ với sự tôn trọng trật tự thứ bậc của các quy phạm, tôn trọng sự phân chia quyền lực và tôn trọng các quyền căn bản. Nhà nước pháp quyền là nhà nước nơi những người được ủy giao trọng trách thông qua phiếu bầu phải có trách nhiệm với những luật lệ mà họ đặt ra. 1.1.3. Đặc điểm chung của Nhà nước pháp quyền Nhìn chung, lý luận về nhà nước pháp quyền là hệ thống các quan điểm tư tưởng rất phức tạp, phong phú và có các cách tiếp cận khác nhau. Tuy vậy, nghiên cứu tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong lịch sử có thể khái quát những đặc điểm cơ bản của nhà nước pháp quyền như sau: Nhà nước pháp quyền được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật, đảm bảo tính tối cao và vị trí tối thượng của Hiến pháp và pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản. Đây là một trong những đặc trưng quan trọng của nhà nước pháp quyền. Tính tối cao của pháp luật được thể hiện trên hai phương diện: một là, đảm bảo sự thống trị của pháp luật trong các lĩnh vực của đời sống xã hội; hai là, tính bắt buộc của pháp luật đối với bản thân nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân. Pháp luật là tiêu chuẩn, là căn cứ cho mọi hoạt động của nhà nước và xã hội. Muốn vậy, hệ thống pháp luật phải hoàn thiện, có cơ chế hữu hiệu để đảm bảo vai trò tối thượng của các đạo luật. Tất cả các đạo luật phải phù hợp với Hiến pháp và các văn bản cao nhất của cơ quan lập pháp. Những văn bản dưới luật phải phù hợp với luật, quá trình áp dụng pháp luật, các hoạt động cá nhân đều phải tuân thủ theo luật và các văn bản dưới luật. Nhà nước pháp quyền là nhà nước mà trong đó các quyền tự do, dân chủ của công dân được nhà nước tôn trọng và bảo đảm. Mọi hành vi vi phạm pháp đều phải được xử lý kịp thời, nghiêm minh, đúng pháp luật. Mục tiêu cao nhất của nhà nước pháp quyền là đảm bảo quyền tự do, dân chủ của con

17. 12 người. Nhà nước pháp quyền không chỉ công nhận và tuyên bố các quyền tự do của công dân mà còn phải bảo đảm thực hiện và bảo vệ các quyền đó khi chúng bị xâm hại. Tự do của một người là được làm những gì pháp luật không cấm trong khuôn khổ không xâm phạm đến tự do của người khác. Pháp luật chỉ cấm những gì có hại cho xã hội. Pháp luật trong nhà nước pháp quyền là phương tiện ghi nhận quyền dân chủ, tự do và lợi ích chính đáng của con người, đồng thời cũng qui định cả những biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn và trừng trị những hành vi xâm hại đến các quyền và lợi ích đó. Nhà nước pháp quyền là nhà nước bảo đảm chịu trách nhiệm trước công dân về những hoạt động của mình, còn công dân phải thực hiện các nghĩa vụ với nhà nước. Nhà nước coi quyền của công dân là nghĩa vụ của mình và công dân cũng xem quyền của nhà nước là nghĩa vụ của mình. Khi vi phạm pháp luật thì cả hai bên đều phải chịu trách nhiệm pháp lý như nhau, không có ngoại lệ. Để đảm bảo yêu cầu đó trong nhà nước pháp quyền phải có hình thức tổ chức quyền lực nhà nước thích hợp và có cơ chế giám sát sự tuân thủ pháp luật, xử lý các vi phạm pháp luật, đảm bảo cho pháp luật được thực hiện. Theo đó, ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp phải được phân định rõ ràng, rành mạch cho ba hệ thống cơ quan tương ứng trong mối quan hệ cân bằng, đối trọng, chế ước lẫn nhau, tạo thành cơ chế đồng bộ bảo đảm sự thống nhất của quyền lực nhà nước, thực hiện quyền lực nhân dân. Hành pháp mạnh, đủ năng lực xây dựng chính sách, thể chế hóa chính sách thông qua cơ chế làm luật, năng lực tổ chức thực hiện chính sách và pháp luật. Tư pháp phải độc lập và bảo đảm công lý cho mọi cá nhân trong xã hội. Nguyên tắc này cũng đặt ra yêu cầu mọi thiết chế quyền lực nhà nước phải được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, không ai có thể lạm dụng quyền lực, và vì lẽ đó, cần phải sắp xếp quyền lực sao cho không có sự lạm quyền. Cơ chế bảo hiến là một bộ phận không thể thiếu trong nhà nước pháp quyền. Cơ chế bảo hiến ngày nay đã trở thành một phần quan trọng trong tổ

18. 13 chức của đại đa số các nhà nước đương đại, do tư tưởng về nhà nước pháp quyền đã được thừa nhận rộng rãi với đặc trưng cơ bản nhất là tính tối cao của của Hiến pháp và pháp luật. Trong hệ thống pháp luật mỗi quốc gia, Hiến pháp là văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất, là đạo luật cơ bản và quan trọng nhất. Với ý nghĩa quan trọng và giá trị pháp lý của Hiến pháp như trên, việc hình thành cơ chế bảo vệ và bảm đảm thực thi Hiến pháp là không thể thiếu, đặc biệt là trong nhà nước pháp quyền, nơi Hiến pháp và pháp luật giữ vị trí thượng tôn. Để đảm bảo sự tuân thủ pháp luật, xử lý nghiêm minh mọi vi phạm pháp luật phải bảo đảm sự độc lập của Tòa án và tính chất dân chủ, minh bạch của pháp luật. Có thể nói, những đúc kết cơ bản trên về nhà nước pháp quyền của các triết gia, các nhà lý luận, các nhà tư tưởng vĩ đại cho thấy, nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức và hoạt động của quyền lực nhà nước trong một “xã hội công dân” thay thế “xã hội thần dân”. Giá trị của lý luận về nhà nước pháp quyền trong lịch sử được thể hiện ở chỗ: coi nhà nước là tổ chức công quyền chịu sự ràng buộc của pháp luật và thống nhất quản lý xã hội bằng pháp luật, chống lại sự chuyên quyền, độc đoán và sự tùy tiện trong bộ máy nhà nước và nhân viên của nó; coi công dân là chủ thể của “xã hội công dân”, công dân là đối tượng phục vụ của nhà nước, nhà nước có trách nhiệm với công dân và bảo đảm tự do của công dân trong khuôn khổ pháp luật, ngăn ngừa sự xâm hại tự do của người khác và lợi ích của xã hội. Các đặc điểm, tiêu chí của nhà nước pháp quyền có những mức độ thể hiện khác nhau ở các quốc gia tùy thuộc và điều kiện cụ thể của mỗi đất nước. Có thể nói về nguyên tắc phân chia quyền lực nhà nước, một trong những tiêu chí quan trọng nhất của nhà nước pháp quyền tư sản thì các nước cũng có cách áp dụng khác nhau, không theo một khuôn mẫu chung. Có những nhà nước tư sản áp dụng việc phân quyền một cách mềm dẻo (ở các nước theo chính thể đại nghị, giữa lập pháp, hành pháp, tư pháp có sự phối hợp với nhau

19. 14 và hành pháp phải chịu trách nhiệm trước lập pháp); có những nhà nước áp dụng phân quyền một cách cứng rắn (ở các nhà nước theo chính thể cộng hòa tổng thống có sự độc lập của các cơ quan quyền lực, hành pháp không chịu trách nhiệm trước lập pháp). Như vậy, có thể thấy rằng không có một khuôn mẫu nhất định về nhà nước pháp quyền để áp dụng cho mọi nhà nước tư sản với các hình thức nhà nước khác nhau và càng không thể có một khuôn mẫu chung về nhà nước pháp quyền áp dụng cho mọi nhà nước với những chế độ chính trị khác nhau. 1.2. Khái niệm, đặc trƣng và nội dung xây dựng nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam 1.2.1. Khái niệm về nhà nước pháp quyền Việt Nam Ở Việt Nam, thuật ngữ “nhà nước pháp quyền” được nguyên Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười nêu ra tại Hội nghị tư pháp toàn quốc năm 1989: “Hiện nay trên thế giới đang trở lại khái niệm nhà nước pháp quyền mà nội dung quan trọng của nó là thừa nhận sự thống trị của pháp luật đối với xã hội. Ở nước ta, có dùng khái niệm đó hay không thì tuỳ, các nhà khoa học nên nghiên cứu” [36, tr.83]. Tiếp sau đó, tại Hội nghị lần thứ hai, Ban chấp hành Trung Ương Đảng khóa VII (1991), khái niệm nhà nước pháp quyền một lần nữa được nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đề cập đến. Vậy nhà nước pháp quyền là gì? Theo cách hiểu của các nhà lý luận Việt Nam, nhà nước pháp quyền có những đặc trưng cơ bản nào? Trong cuốn “Từ điển xã hội học” do Nguyễn Khắc Viện chủ biên viết: “Nhà nước pháp quyền xây dựng trên cơ sở dân chủ, đối lập với nhà nước độc tài, chuyên chế toàn trị….Nhà nước pháp quyền không đồng nghĩa với nhà nước cai trị bằng pháp luật….Nhà nước pháp quyền xây dựng trên cơ sở “xã hội công dân”… pháp luật là thước đo của tự do” [35, tr.135]. Đây là cách hiểu bao quát, dễ hiểu về khái niệm nhà nước pháp quyền. Quan niệm này đưa ra sự đối lập giữa nhà nước pháp quyền với nhà nước độc tài, chuyên chế

20. 15 toàn trị mà điển hình là nhà nước chiếm hữu nô lệ và nhà nước phong kiến, một kiểu nhà nước mà quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đều nằm trong tay một hoặc một nhóm người. Tuy nhiên, cách hiểu này còn nặng về phương diện xã hội học mà chưa quan tâm đến phương diện luật học, trong đó nhấn mạnh hai điểm cơ bản là đảm bảo dân chủ và tự do mà chưa phản ánh được tính tối thượng của pháp luật và vai trò quản lý xã hội bằng pháp luật. Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vấn đề nhà nước pháp quyền thu hút sự tham gia đông đảo của các nhà lý luận. Ở Việt Nam hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm nhà nước pháp quyền. chúng tôi Nguyễn Duy Quý cho rằng, một nhà nước được công nhận là nhà nước pháp quyền khi đạt các tiêu chí: 1.Tôn trọng tính tối cao của luật; 2. Lập pháp, hành pháp, tư pháp phân định rõ rệt nhằm kiểm soát, kiềm chế nhau; 3. Bảo đảm quyền công dân; 4. Thực hiện các cam kết quốc tế. Nhóm tác giả công trình KX.04.01 đưa ra quan điểm “Nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước. Đó là một nhà nước tồn tại, phát triển và vận hành trong môi trường pháp luật, coi pháp luật là tối thượng” [24, tr.89]. GS.TSKH. Đào Trí Úc viết trong cuốn Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Nhà nước pháp quyền là một khái niệm có thể được hiểu ở hai mức độ, với tính cách là học thuyết, là tư tưởng và với tính cách là thực tiễn tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, thực thi dân chủ…. Chủ điểm của các tư tưởng, quan niệm, quan điểm về nhà nước pháp quyền đều là vấn đề giá trị của pháp luật được thừa nhận đến đâu trong xã hội” [31, tr.33-34]. Ở đây, tác giả đã nêu ra việc phân định hai cấp độ lý luận và thực tiễn trong quan niệm về nhà nước pháp quyền, trong đó nhấn mạnh khía cạnh giá trị xã hội của pháp luật, tức bản chất của nhà nước pháp quyền được quy định bởi nội dung của hệ thống pháp luật mà trên đó nó được xây dựng.

21. 16 Trên cơ sở kế thừa tư tưởng các học giả trong và ngoài nước nhóm tác giả Nguyễn Đăng Dung, Nguyễn Sĩ Dũng, Bùi Ngọc Sơn trong cuốn Quốc hội Việt Nam trong nhà nước pháp quyền đã đưa ra nhận định: “Nhà nước pháp quyền chỉ là một xã hội được tổ chức và vận hành trên cơ sở các quyền tự nhiên, mọi chủ thể trong đó có cả nhà nước phải đặt mình dưới pháp luật… Nhà nước pháp quyền là một hình thức nhà nước được phân tích trong mối tương quan giữa nhà nước và pháp luật” [3, tr.26, 28]. Những nhận định trên tuy có những điểm khác biệt, song đều thống nhất ở điểm cho rằng, nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước (với ý nghĩa như cách phân loại của lý luận xã hội chủ nghĩa về 4 kiểu nhà nước trong lịch sử) mà nhà nước pháp quyền là một hình thức nhà nước, một phương thức tổ chức quyền lực nhà nước tiến bộ mà bất kì nhà nước nào, thể chế chính trị nào muốn đạt đến trình độ văn minh đều phải hướng tới. Giá trị lịch sử của nhà nước pháp quyền là ở tính nhân văn, tôn trọng tự do và những quyền cơ bản của con người. Bản chất của nhà nước pháp quyền được quy định bởi hệ thống pháp luật và Hiến pháp. Từ những quan điểm trên có thể hiểu Nhà nước pháp quyền Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân được tổ chức theo nguyên tắc quyền lực là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước về mặt lập pháp, hành pháp, tư pháp; nhà nước đề cao vai trò của Hiến pháp và pháp luật; tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. 1.2.2. Những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền Việt Nam Nhà nước pháp quyền với tính cách là học thuyết về tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước, là một giá trị, là tinh hoa của nhân loại có nguồn gốc xa xưa, từ thời cổ đại có thể được áp dụng ở các nước trên cơ sở những nét đặc trưng về văn hóa, chính trị, tư tưởng – pháp lý, truyền thống dân tộc. Chính vì vậy việc áp dụng học thuyết nhà nước pháp quyền vào nước ta hiện

22. 17 nay với những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội là điều hoàn toàn có thể được. Điều quan trọng là chúng ta phải tìm ra được những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền Việt Nam với bản sắc dân tộc, truyền thống, văn hóa và những điều kiện riêng của Việt Nam. Từ thực tiễn xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân ngày càng được định hình, có thể nêu lên một số đặc trưng cơ bản sau đây: 1.2.2.1. Nhà nước pháp quyền Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân Hơn nửa thế kỷ nay, Nhà nước Việt Nam đã ban hành năm bản Hiến pháp: Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10, ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khoá X), Hiến pháp năm 2013. Cả năm bản Hiến pháp trên đều khẳng định quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể quyền lực nhà nước, mọi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước đều hướng tới mục đích phục vụ nhân dân. Tuy nhiên, vấn đề nhà nước của dân, do dân, vì dân, như đã nói từ trước đến nay vẫn còn nhiều điều đáng bàn. Vì trong thực tế, có một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức nhà nước đã lợi dụng chức vụ quyền hạn để xâm phạm quyền công dân, tham ô, lãng phí. Vì nhiều lý do khác nhau, nhân dân vẫn chưa được hưởng nhiều quyền lợi một cách trọn vẹn, chính sách xã hội mà cụ thể là vấn đề bình đẳng, công bằng xã hội còn bất cập, gây bất bình trong dư luận xã hội. Mặc dầu ở các nước phương Tây, phản biện xã hội đã trở thành hiện thực, người dân có quyền biểu tình phản đối các chính sách của nhà nước nếu các chính sách đó không phù hợp với nguyện vọng của họ. Những cuộc biểu tình phản đối nhà nước như vậy được coi là hợp Hiến, được tổ chức chặt chẽ

24. 19 pháp. Sự hiện diện của Hiến pháp là điều kiện quan trọng nhất đảm bảo sự ổn định của xã hội và sự an toàn của người dân. Nhà nước pháp quyền trước hết phải là một nhà nước được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, các đạo luật có vai trò tối thượng trong việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Mọi cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, người có chức vụ và công dân đều có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật, bình đẳng trước pháp luật. Không một ai đứng trên hoặc đứng ngoài pháp luật, đi ngược lại ý chí và lợi ích của nhân dân. Khác với nhà nước cực quyền hay nhà nước pháp trị, việc quản lý xã hội bằng pháp luật của nhà nước pháp quyền dựa trên cơ sở một hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, có giá trị pháp lý cao, phản ánh nguyện vọng và ý chí của nhân dân, là chuẩn mực của dân chủ, tự do, công bằng và nhân đạo. Ở Việt Nam, xây dựng và hoàn thiện Hiến pháp luôn luôn là phương hướng quan trọng để thực hiện dân chủ, giữ vững quyền lực chính trị của nhân dân, tạo điều kiện để thúc đẩy mọi mặt đời sống kinh tế – xã hội. 1.2.2.3. Tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền công dân, quyền con người, tất cả vì hạnh phúc của con người Quyền con người là tiêu chí đánh giá tính pháp quyền của chế độ nhà nước. Mọi hoạt động của nhà nước đều phải xuất phát từ sự tôn trọng và bảo đảm quyền con người, tạo mọi điều kiện cho công dân thực hiện quyền của mình theo đúng các qui định của luật pháp. Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, do vậy, tư tưởng “trọng dân” phải được quán triệt trong toàn bộ tổ chức và hoạt động của Nhà nước. Tư tưởng “trọng dân” hoàn toàn không mâu thuẫn với đặc trưng “trọng pháp”, “thượng tôn pháp luật” của nhà nước pháp quyền, trái lại đây chính là nguyên lý dân chủ – pháp quyền tiến bộ đã được các nhà tư tưởng pháp quyền như Rút xô, Môngtekiơ…xác định.

25. 20 Có thể nói, quyền công dân là sự thể hiện cụ thể quyền con người. “Quyền công dân là quyền con người trong một xã hội cụ thể, trong một chế độ xã hội – chính trị nhất định với một nền pháp luật cụ thể do nhà nước đó thừa nhận, qui định” [14, tr.27]. Lịch sử đấu tranh cho quyền con người bắt đầu từ lịch sử hình thành giai cấp, nhà nước và pháp luật. Chính vì vậy, cùng với sự phát triển của xã hội, việc bảo đảm quyền con người, cụ thể hơn nữa là quyền công dân ngày càng được coi trọng. Nó trở thành một đặc trưng của một xã hội hoàn thiện, nơi quyền con người, quyền công dân được bảo đảm đầy đủ. Xuất phát từ mục tiêu trên, nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân đã được đề cập ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta. Đây không chỉ là một nguyên tắc cơ bản được ghi nhận trong các bản Hiến pháp nước ta từ Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và Hiến pháp năm 2013 mà còn được thể hiện cụ thể trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta từ trung ương tới địa phương. Mối quan hệ giữa cá nhân và nhà nước được xác định chặt chẽ về phương diện luật pháp và mang tính bình đẳng. Mô hình quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân được xác định theo nguyên tắc: Đối với cơ quan nhà nước chỉ được làm những gì luật cho phép; đối với công dân được làm tất cả trừ những điều luật cấm. 1.2.2.4. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước Ở Việt Nam, với một nền chính trị nhất nguyên, kể từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng Sản Việt Nam luôn giữ vai trò lãnh đạo đất nước trong công cuộc đấu tranh giành chính quyền, trong sự nghiệp đổi mới cũng như trong việc xây dựng Nhà nước phâp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay. Vai trò lãnh đạo đất nước của Đảng Cộng Sản Việt Nam được khẳng định trong Điều 4 Hiến pháp năm 2013: “Đảng Cộng Sản Việt Nam… là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

26. 21 nghĩa Việt Nam hiện nay, hơn bao giờ hết, Đảng Cộng Sản Việt Nam phải phát huy vai trò và trách nhiệm lớn lao của mình. Tuy nhiên, để không chồng chéo trách nhiệm giữa Đảng và nhà nước thì vấn đề phân định sự lãnh đạo của Đảng cầm quyền và sự quản lý, điều hành của nhà nước là hết sức cần thiết. Để có sự phân định quyền hạn và trách nhiệm giữa Đảng và nhà nước theo phương châm: Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ thì cần phải đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước nhằm giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng và tính dân chủ nhân dân của nhà nước, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Để hoàn thiện việc xây dựng nhà nước pháp quyền cần đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước, giữ vững, tăng cường vai trò của Đảng, đồng thời, phát huy được tính chủ động, sáng tạo của Nhà nước và các đoàn thể chính trị – xã hội, nêu cao quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình tổ chức thực hiện đường lối phát triển do Đảng đưa ra. Bên cạnh đó, việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải được tiến hành đồng bộ với đổi mới toàn bộ hệ thống chính trị, với việc đổi mới, sắp xếp lại và nâng cao phẩm chất, năng lực đội ngũ cán bộ, đảng viên, nâng cao chất lượng của các tổ chức đảng. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải tiến hành một cách dân chủ, bằng những phương pháp dân chủ, phải thấm nhuần sâu sắc tư duy biện chứng về mối quan hệ giữa mục tiêu với phương thức, phải được tiến hành khẩn trương, kiên quyết nhưng vững chắc. 1.2.2.5. Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp và kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước về mặt lập pháp, hành pháp, tư pháp Quan điểm về sự thống nhất quyền lực nhà nước có sự phân công, phối hợp và kiểm soát chặt chẽ giữa ba quyền là một quan điểm có tính nguyên tắc đóng vai trò phương pháp luận chỉ đạo đối với việc thiết kế mô hình tổ chức Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo quan điểm của Đảng

29. 24 1.2.2.7. Nhà nước pháp quyền Việt Nam bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh và có thiện chí các cam kết quốc tế Trong những năm qua, Nhà nước ta đã ký kết, gia nhập nhiều điều ước quốc tế phục vụ cho chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế. Vị trí, vai trò của điều ước quốc tế trong điều chỉnh các quan hệ xã hội được nâng cao rõ rệt. Nhà nước ta đã ban hành Pháp lệnh về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế năm 1998, đánh dấu bước phát triển quan trọng đưa việc ký kết và thực hiện điều ước quốc tế vào nề nếp. Điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia đã và đang dần trở thành một bộ phận không thể tách rời của hệ thống pháp luật quốc gia của Việt Nam. Trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác với các luật chuyên ngành của Việt Nam thì ưu tiên áp dụng điều ước quốc tế. Trách nhiệm của Nhà nước Việt Nam là thực hiện đầy đủ, có thiện chí và tận tâm các cam kết quốc tế của mình. Việt Nam thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế với tinh thần “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực” [10, tr.38]. Với những đặc trưng nêu trên, nhà nước pháp quyền của chế độ ta thể hiện những tư tưởng quan điểm tích cực, tiến bộ, phản ánh ước mơ và khát vọng của nhân dân đối với công lý, tự do, bình đẳng trong một xã hội còn giai cấp. Trong điều kiện đổi mới hiện nay, chúng ta đặt vấn đề đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của nhà nước theo định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, thực chất là tiếp thu những quan điểm tích cực, tiến bộ và khoa học về nhà nước pháp quyền nhằm xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thực sự là nhà nước của dân, do dân và vì dân, dựa trên khối đoàn kết dân tộc mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân – nông dân – trí thức do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

30. 25 Đó là, Nhà nước đảm bảo tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, nhà nước là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền lực nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đó là, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế, xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi vi phạm pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ được các quyền tự do dân chủ và lợi ích hợp pháp của nhân dân, ngăn ngừa sự tuỳ tiện từ phía cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước, ngăn ngừa hiện tượng dân chủ cực đoan, vô kỷ luật, kỷ cương, bảo đảm hiệu lực và hiệu quả hoạt động của nhà nước. Đó là, Nhà nước mà mọi cơ quan nhà nước, các tổ chức, kể cả tổ chức Đảng, cán bộ, công chức đều phải hoạt động theo pháp luật, tuân thủ pháp luật, chịu trách nhiệm trước nhân dân về các hoạt động của mình. Mọi công dân đều có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật. 1.2.3. Nội dung xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam có nhiều nội dung khác nhau nhưng trong phạm vi luận văn chỉ nghiên cứu một số nội dung sau: Một là, xây dựng và phát huy được các giá trị của nền dân chủ XHCN và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Chủ quyền nhân dân là tư tưởng xuyên suốt tất cả các bản Hiến pháp của Việt Nam, điều này thể hiện một cách cô đọng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết toàn dân, dân là gốc, dân là chủ, dân là lực lượng vĩ đại và nhân dân là nền tảng của Nhà nước. Cũng từ đây mà Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân vừa là bản chất, vừa là nguyên tắc, đồng thời là nội dung quan trọng cần hướng tới trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là một nhà nước đại diện cho quyền lực chân chính của nhân dân; một tổ chức nhà nước dựa trên nền dân chủ, vì dân chủ và do đó bằng pháp luật và vì công lý. Hai là, xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước. Việc xây dựng cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành của bộ máy nhà nước là nội dung rất quan

31. 26 trọng. Theo đó, bản Hiến pháp mới đã quy định rõ vai trò chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân và chính quyền địa phương. Đồng thời, Hiến pháp cũng quy định cơ chế vận hành: Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Xây dựng, hoàn thiện bộ máy Nhà nước gắn liền với xây dựng đội ngũ công chức có trình độ, năng lực đạo đức, trách nhiệm và thượng tôn pháp luật. Hiến pháp là cơ sở để đổi mới hoạt động của Quốc hội, đẩy mạnh cải cách hành chính và cải cách tư pháp, bảo đảm cho quản lý của Nhà nước có hiệu quả và hiệu lực. Ba là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bắt đầu từ Hiến pháp và khẳng định tính tối thượng của pháp luật. Pháp luật là công cụ quản lý chủ yếu của nhà nước. Hiến pháp vừa được thông qua là căn cứ để xây dựng hệ thống pháp luật, ban hành luật mới và sửa đổi các luật đã có cho phù hợp với Hiến pháp, bảo đảm cho pháp luật được thực hiện thông suốt và nghiêm minh. Hoàn thiện hệ thống pháp luật phải gắn liền với tăng cường giáo dục pháp luật và chú trọng văn hóa pháp luật. Bốn là, xây dựng và hoàn thiện mối quan hệ giữa nhà nước và công dân. Nhà nước coi quyền của công dân là nghĩa vụ của mình và công dân cũng xem quyền của nhà nước là nghĩa vụ của mình. Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân đều phải tuân thủ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật, nếu vi phạm pháp luật đều bị xử lý theo pháp luật. 1.3. Mô hình nhà nƣớc pháp quyền của một số nƣớc trên thế giới và giá trị tham khảo cho Việt Nam 1.3.1. Mô hình nhà nước pháp quyền của một số nước trên thế giới Từ những tư tưởng, quan điểm về Nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng nhân loại, tùy thuộc vào bản chất giai cấp của nhà nước và đặc điểm, truyền thống về lịch sử, văn hóa của mỗi nước mà sự vận dụng có khác nhau.

32. 27 Trong lịch sử nhà nước hiện đại đến nay có bốn mô hình khác nhau về tổ chức quyền lực nhà nước như sau: 1.3.1.1. Mô hình chính thể Cộng hòa Tổng thống Điển hình của mô hình Cộng hòa Tổng thống là Hoa kỳ. Mô hình cộng hòa Tổng thống có những đặc điểm sau đây: – Áp dụng triệt để quan điểm về phân chia quyền lực nhà nước trong học thuyết tam quyền phân lập của S.L.Montesquieu. Các cơ quan thực thi quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp được phân định rạch ròi đồng thời có cơ chế kiềm chế, đối trọng lẫn nhau. – Tổng thống do nhân dân bầu ra vừa là người đứng đầu nhà nước vừa là người đứng đầu Chính phủ, có quyền thành lập Chính phủ, có quyền bổ nhiệm các thành viên chính phủ, các thẩm phán tòa án Liên bang. – Quốc hội gồm Thượng nghị viện và Hạ nghị viện đều do nhân dân bầu ra thực hiện quyền lập pháp. – Pháp viên tối cao và Tòa án các cấp thực hiện quyền tư pháp, hoàn toàn độc lập trong các phán quyết của mình. Để bảo đảm tính độc lập của Tòa án, các thẩm phán được bổ nhiệm suốt đời và không bị cách chức nếu không tham nhũng và vi phạm pháp luật; tiền lương của thẩm phán được bảo đảm bằng ngân khố quốc gia và không bị giảm trong quá trình tại chức. – Có các thiết chế kìm chế và đối trọng lẫn nhau giữa lập pháp, tư pháp như: Tổng thống có quyền phủ quyết các dự luật do hai viện của Quốc hội đã thông qua; Hạ nghị viện có quyền buộc tội, Thượng nghị viện có quyền xét xử Tổng thống theo thủ tục đàn hạch nếu lạm dụng quyền lực và vi phạm pháp luật, đạo đức; Quốc hội có quyền không phê chuẩn ngân sách cho chính sách mà Tổng thống đệ trình; Tổng thống có quyền bổ nhiệm các quan chức cao cấp trong Chính phủ, Thẩm phán Tòa án liên bang nhưng phải được sự đồng thuận của Thượng nghị viện.

35. 30 tính nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền mang tính tham khảo cho Việt Nam như sau: – Xây dựng Hiến pháp thể hiện chủ quyền của nhân dân, là nền tảng pháp lý cho tổ chức, hoạt động của nhà nước pháp quyền – Nguyên tắc đảm bảo tính tối cao của Hiến pháp, có cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp và tranh chấp thẩm quyền trong hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp (mô hình Tòa án Hiến pháp, Hội đồng Hiến pháp, Ủy ban Hiến pháp) – Nguyên tắc cam kết tuân thủ Hiến pháp và pháp luật trong tổ chức, hoạt động của Nhà nước bảo đảm sự ngự trị của pháp luật trong đời sống xã hội. – Nguyên tắc phân chia quyền lực nhà nước, kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước trong quá trình thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp để hạn chế việc lạm dụng quyền lực nhà nước. – Nguyên tắc tôn trọng, thực hiện và bảo đảm thực hiện quyền con người, bảo vệ lợi ích hợp pháp của công dân. – Nguyên tắc quyền tư pháp độc lập với quyền lập pháp và hành pháp. Khi xét xử Tòa án độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. – Nguyên tắc nhà nước chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình. (Tổng thống có thể bị đàn hạch khi xét xử; Nghị viện có thể bị giải tán; Chính phủ, Thủ tướng, các quan chức cao cấp có thể bị bỏ phiếu bất tín nhiệm và bị bãi miễn, bắt buộc từ chức nếu tham nhũng, vi phạm pháp luật, đạo đức, hoặc không hoàn thành chức năng, nhiệm vụ được giao. – Nguyên tắc công khai, minh bạch trong hoạt động của Nhà nước.

36. 31 Chƣơng 2 THỰC TRẠNG XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM TỪ KHI ĐỔI MỚI ĐẾN NAY (TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY) 2.1. Thực trạng xây dựng pháp luật 2.1.1. Thành tựu đạt được Từ cuối năm 1986 đến nay, việc không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật là mối quan tâm lớn, thường xuyên và là một trong những chủ trương quan trọng của Đảng và Nhà nước, được ghi nhận trong hầu hết các văn kiện của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (Khoá VII), Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (Khoá VIII), Nghị quyết Đại hội IX và Nghị quyết 08 Bộ Chính trị ngày 2.1.2002. Trải qua hơn 25 năm Đổi mới, Việt Nam đã từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật, góp phần quan trọng vào việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Bước chuyển biến cơ bản nhất, rõ nét nhất của hệ thống pháp luật thể hiện ở chỗ, trước đây, Nhà nước quản lý kinh tế, xã hội chủ yếu bằng chính sách, nghị quyết và mệnh lệnh hành chính, sau hơn 25 năm Đổi mới, pháp luật đã trở thành công cụ quản lý chủ yếu của Nhà nước. Nguyên tắc pháp quyền ngày càng được khẳng định và phát huy hiệu quả trên thực tế. Hoạt động của các cơ quan nhà nước ngày càng trở nên công khai hơn, dân chủ XHCN ngày càng được mở rộng, tạo điều kiện để nhân dân tham gia và thực hiện quyền giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước từ lập pháp, hành pháp đến tư pháp, trong đó có quyền khởi kiện cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước trước Toà án. Phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” do Đại hội VI đề ra, từng bước đã được khẳng định trong thực tế. Kể từ khi tiến hành chính sách Đổi mới, thành tựu nổi bật nhất được thể hiện trong hoạt động lập pháp của Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

37. 32 Nếu so với khoảng thời gian 40 năm trước đó (1945-1985), thì từ khi đổi mới đến cuối năm 2004 số văn bản luật và pháp lệnh được ban hành nhiều gấp hơn 2 lần so với cả 40 năm trước cộng lại (chỉ tính đến tháng 6 năm 2001, đã ban hành 203 văn bản, trong đó có 5 bộ luật, 87 luật và 111 pháp lệnh), về cơ bản đã tạo dựng được khung pháp luật phục vụ cho việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, từng bước thay thế cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, mệnh lệnh hành chính bao cấp, hiện vật trước đây, đồng thời tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới toàn diện đất nước. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật được ban hành đã tạo cơ sở pháp lý để đưa công tác soạn thảo, thẩm định và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật dần dần đi vào nề nếp, theo một quy trình thống nhất, chặt chẽ. Bảo đảm tính công bằng, minh bạch, tính khả thi của các quy định, tính đồng bộ và thống nhất của các văn bản. Thời gian qua, chất lượng về nội dung của các văn bản quy phạm pháp luật có những tiến bộ đáng kể. Có thể nói, các văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta đang dần dần tiếp cận gần hơn với những tiêu chí của một văn bản quy phạm pháp luật tốt, văn bản “chứa đựng đúng đắn, khách quan các giá trị chính trị – kinh tế – xã hội ở trong nước, đồng thời chứa đựng các giá trị nhân loại được thừa nhận chung” [13, tr.5]. Việc Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW đã tạo ra những chuyển biến tích cực trong nhận thức của toàn xã hội về vị trí, vai trò của pháp luật và việc thi hành pháp luật trong đời sống xã hội. Nhìn lại gần 10 năm thực hiện Nghị quyết, có thể nhận thấy công tác xây dựng và thực thi pháp luật ở nước ta đã thực sự có những chuyển biến tích cực. Nghị quyết không chỉ tác động tích cực đến những cơ quan, cán bộ trực tiếp tham gia vào công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật mà còn tác động đến văn hóa pháp luật, ý thức pháp luật của người dân, doanh nghiệp thông qua việc tạo cho họ nhiều cơ hội hơn trong việc tham gia góp ý, phản biện chính sách, các

38. 33 dự án pháp luật; tiếp cận hệ thống pháp luật thông qua nhiều kênh thông tin khác nhau; cơ hội được lựa chọn các dịch vụ pháp lý tốt hơn so với trước. Nghị quyết với những định hướng đúng đắn và các giải pháp đồng bộ khi đi vào cuộc sống đã bước đầu tạo nên những chuyển biến khá cơ bản, tích cực cả về nội dung, hình thức của hệ thống các văn bản pháp luật và kỹ thuật lập pháp, làm cho hệ thống pháp luật ngày một hoàn thiện, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội bền vững, hội nhập quốc tế. Việc đổi mới cách xây dựng chương trình và quy trình xây dựng pháp luật đã mang lại những kết quả đáng trân trọng. Trong 5 năm (5/2005- 6/2010) chúng ta đã ban hành 124 luật, pháp lệnh, hoàn thành 73% kế hoạch ban hành luật, pháp lệnh hàng năm. Năm 2005, Quốc hội và UBTVQH đã thông qua 33 dự án luật, pháp lệnh trên tổng số 42 dự án luật, pháp lệnh theo Chương trình chính thức (đạt 78,5%); năm 2006: thông qua 23 luật, pháp lệnh/37 (đạt 67,5%); năm 2007: thông qua 17 luật, pháp lệnh/24 (đạt 70,8%); năm 2008: thông qua 26 luật, pháp lệnh/32 (đạt 81,2%); năm 2009: thông qua 20 luật, pháp lệnh/30 (đạt 66,6%). Nếu so với tổng số 7 bộ luật, 133 luật, 151 pháp lệnh được ban hành trong 20 năm đổi mới trước đó (1986-2005) thì đây là một con số rất ấn tượng về số lượng và tốc độ làm luật. Về mặt nội dung, các văn bản quy phạm pháp luật đã đáp ứng được phần nào các tiêu chí, tố chất của một văn bản pháp luật trong nhà nước pháp quyền như: thể hiện đúng đắn ý chí và nguyện vọng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động (số đông người trong xã hội); phù hợp với các điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội tồn tại một cách khách quan trong thời kỳ đó; phù hợp với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; có nội dung hợp hiến, hợp pháp; có nội dung điều chỉnh rõ ràng, minh bạch. Điều đó thể hiện tư duy lập pháp mới, đảm bảo được sự phát triển cân đối, đồng bộ giữa thể chế về kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường, bảo vệ quyền con người, phù hợp hơn với yêu cầu phát triển bền vững của đất nước.

39. 34 Đường lối, chính sách đổi mới của Đảng được thể chế hóa trong các văn bản pháp luật. Trong thời gian qua, nội dung các dự án luật, pháp lệnh đã bám sát nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kỳ, thể chế hóa được đường lối, chính sách đổi mới của Đảng trên nhiều lĩnh vực. Do vậy, nội dung của luật, pháp lệnh chứa đựng những tư duy pháp lý mới, làm cho luật, pháp lệnh trở thành phương tiện đầy hiệu lực để đưa đường lối, chính sách của Đảng vào cuộc sống và làm cho đường lối, chính sách của Đảng trở thành hiện thực. Đặc biệt, trong lĩnh vực kinh tế, những chủ trương lớn của Đảng về “phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, về “tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng, cải thiện đời sống nhân dân”…được cụ thể hóa trong các quy định của luật, pháp lệnh. Có thể kể đến một số luật, pháp lệnh tiêu biểu sau: Luật đất đai, luật đầu tư, Luật doanh nghiệp…Việc thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng trong nội dung các dự án luật nói trên đã góp phần quan trọng tạo nên thành tựu to lớn về kinh tế – xã hội của đất nước trong những năm qua. Các đạo luật, pháp lệnh ngày càng thể hiện sâu sắc ý chí, nguyện vọng của nhân dân lao động. Để thể hiện ý chí của nhân dân lao động vào nội dung dự án luật, pháp lệnh, cơ chế dân chủ trong xây dựng pháp luật như: lấy ý kiến của nhân dân, lấy ý kiến của các ngành, các cấp, của đối tượng chịu sự điều chỉnh trực tiếp của văn bản, việc tiếp thu và chỉnh sửa dự án luật, pháp lệnh theo ý kiến của nhân dân và đại biểu Quốc hội đặc biệt là việc trưng cầu ý dân để xây dựng Hiến pháp 2013 vừa qua đã phản ánh ngày càng đầy đủ những mong muốn, yêu cầu của người dân, điều chỉnh các vấn đề dựa trên lợi ích của đông đảo nhân dân lao động. Về hình thức văn bản, chủ trương đơn giản hoá các hình thức văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành luật trong Nghị quyết số 48-NQ/TW

41. 36 cơ bản và thực hiện các quyền, trong đó có các quyền dân chủ của công dân được coi trọng. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật là nhiệm vụ vừa cơ bản, vừa lâu dài và đã trở thành quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội. 2.1.2. Một số hạn chế Mặc dù đã có những cố gắng và đạt được những kết quả quan trọng trong xây dựng và thi hành pháp luật nhưng nhìn chung hệ thống pháp luật vẫn còn một số yếu kém và bất cập. Hệ thống pháp luật còn chưa theo kịp và chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; hệ thống các cơ quan thi hành và bảo vệ pháp luật đặc biệt là các cơ quan tư pháp chưa có những bước đột phá mạnh mẽ. Đội ngũ cán bộ, công chức còn nhiều yếu kém và hạn chế về trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ, tinh thần và trách nhiệm; ý thức sống và làm việc theo pháp luật của cán bộ và nhân dân vẫn còn nhiều hạn chế. Hệ thống pháp luật còn có nhiều bất cập cần phải được khắc phục và hoàn thiện. Thứ nhất, chất lượng của hệ thống pháp luật còn hạn chế, thể hiện trên các tiêu chí đánh giá sau: + Về tính toàn diện của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật Hệ thống pháp luật nước ta rất đa dạng về thể loại văn bản và khổng lồ về số lượng văn bản quy phạm pháp luật (có 26 loại văn bản được xác định là văn bản quy phạm pháp luật). Theo số liệu của Cơ sở dữ liệu pháp luật Bộ Tư pháp, tính từ ngày 1 tháng 1 năm 1987 đến 30 tháng 11 năm 2008, chỉ tính riêng văn bản pháp luật do các cơ quan trung ương ban hành thì hệ thống pháp luật nước ta đã có tới 19126 văn bản, trong đó có 208 luật, bộ luật, 192 pháp lệnh, 2097 nghị định, 267 nghị quyết và 36 thông tư, 1213 thông tư liên tịch. Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 đã cần đến trên 40 văn bản pháp luật khác nhau để hướng dẫn thi hành. Luật đất đai năm 2003 muốn được thực

43. 38 pháp luật, văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành gồm có Hiến pháp, Luật, Nghị quyết; do Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành có Pháp lệnh, Nghị quyết. Hình thức nghị quyết của Quốc hội và nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội có thể là văn bản quy phạm pháp luật, song cũng có thể là các văn bản áp dụng pháp luật, không chứa quy phạm. Tuy nhiên, quy định nêu trên đã dẫn đến nhiều khó khăn trong quá trình áp dụng, không bảo đảm nguyên tắc về thứ bậc pháp lý của hệ thống văn bản. Cụ thể như Hiến pháp luôn được coi là đạo luật gốc, có giá trị pháp lý cao nhất trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, song lại có thể bị sửa đổi, bổ sung một số điều bằng hình thức nghị quyết (là hình thức phổ biến được dùng để ra các văn bản áp dụng pháp luật). Do luật không phân biệt rõ trường hợp nào thì sử dụng loại văn bản nào nên trên thực tế có lúc việc quyết định sử dụng hình thức văn bản pháp luật, pháp lệnh hay nghị quyết mới dựa trên suy luận cảm tính về mức độ phức tạp của văn bản hoặc của vấn đề cần điều chỉnh, gây ra sự thiếu thống nhất trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Những mâu thuẫn giữa Luật nhà ở, Luật đất đai, Bộ Luật dân sự về một số vấn đề như: hiệu lực các giao dịch, về căn cứ xác định sở hữu, đăng ký quyền sở hữu là ví dụ cho tính thống nhất thấp của pháp luật hiện hành ở nước ta. Theo thống kê của Bộ Tư pháp, “qua kiểm tra 1.506 văn bản pháp luật đã ban hành của cấp bộ và địa phương trong năm 2009, phát hiện 320 văn bản có dấu hiệu trái pháp luật. Năm 2011, kiểm tra 1.968 văn bản thì phát hiện 490 văn bản có dấu hiệu trái pháp luật (trong đó có 93 văn bản cấp bộ và 397 văn bản của địa phương). Như vậy, khoảng từ 20 – 25% số văn bản được kiểm tra có dấu hiệu vi phạm”. + Tính đồng bộ, cân đối của hệ thống pháp luật tuy có cải thiện nhưng vẫn còn sự chênh lệch lớn trong các lĩnh vực khác nhau. Mặc dù việc soạn thảo và thông qua các văn bản QPPL, nhất là các luật, pháp lệnh, theo 6 định hướng của Nghị quyết số 48-NQ/TW đã làm cho hệ thống pháp luật trong những năm qua trở nên cân đối, đồng bộ hơn, nhất là

Bạn đang xem bài viết Quan Điểm Lý Luận Của Đảng Cộng Sản Việt Nam Về Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Xã Hội Chủ Nghĩa Qua 30 Năm Đổi Mới trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!