Cập nhật thông tin chi tiết về Quê Hương Chiến Binh Báo Đen Được Định Nghĩa Trong Từ Điển mới nhất trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Wakanda, quê hương siêu anh hùng Black Panther trong bộ phim cùng tên, được chúng tôi chính thức công nhận là mục từ trên từ điển trực tuyến.
Screen Rant đưa tin Wakanda, quê hương của Black Panther trong truyện tranh và trên màn ảnh, chính thức trở thành một mục từ được trang chúng tôi định nghĩa. Đây là trang từ điển trực tuyến cung cấp định nghĩa tiếng Anh và hoạt động từ năm 1995.
Ở truyện tranh Marvel, Wakanda là vương quốc giả tưởng ở vùng Đông Phi. Vương quốc nổi tiếng nhờ sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật và trữ lượng vibranium lớn nhất thế giới.
Vibranium được coi là thứ kim loại kỳ diệu với tiềm năng vô hạn. Wakanda đã có lịch sử lâu dài nghiên cứu và ứng dụng vibranium vào nhiều lĩnh vực. Quốc gia Đông Phi cũng là nơi có nền quân sự phát triển mạnh nhất thế giới Marvel với đội quân Dora Milaje thiện chiến.
Dictionary.com cũng nhắc tới Chadwick Boseman, tôn vinh vai diễn Báo Đen của anh trong bộ phim chuyển thể, nhấn mạnh tầm ảnh hưởng của tài tử và động tác chào “Wakanda Forever” như “biểu tượng sức mạnh của người da đen”.
Giải nghĩa của chúng tôi đề cập tới bối cảnh lịch sử mà cái tên Wakanda ra đời, cung cấp cho độc giả những ví dụ đặt câu sử dụng danh từ và tầm quan trọng của Wakanda đối với vũ trụ Marvel.
Đây là một nước đi sáng suốt của chúng tôi bởi Wakanda là một thuật ngữ và khái niệm vượt ra khỏi giới hạn một mục từ đơn thuần. Nó đã phát triển thành một điều đối với rất nhiều khán giả.
Black Panther (2018) gây tiếng vang vì đã mang đến cho khán giả toàn thế giới cái nhìn về đất nước Wakanda với thiên nhiên hùng vĩ sánh bên thành phố nguy nga, hiện đại. Wakanda là hình ảnh độc nhất và không gì sánh được trong Vũ trụ Điện ảnh Marvel. Vì thế, quốc gia này hoàn toàn xứng đáng trở thành một mục trong từ điển.
Nguồn Gốc Hai Từ Quê Hương (暌 鄉)
Tết đến rồi ai cũng mang mang một nỗi nhớ quê hương, người ở quê lên thành thị thì mong sớm về quê vui tết với gia đình, người ngoài nước thì mong nhớ về quê hương đất nước để bơi lội trong văn hóa tết dân tộc. Quê hương một từ thân thương vô bờ bến của người dân Việt. Xin đưa lên đây một ý nghĩ về hai tiếng quê hương để tặng cho những ai đang xa nhà hay xa xứ.
Quê hương, hai tiếng vô cùng thân thương đối với người Việt, ai đi đâu cũng nhớ quê hương. Thông thường ta hiểu Quê hương là nơi mình ra đời hay như ta thường nói là nơi “chôn nhau cắt rốn”, hai tiếng quê hương trở thành một từ quá quen thuộc nên người ta chẳng băn khoăn tự hỏi rằng hai từ này từ đâu mà có, nó là từ Hán Việt hay thuần Việt. Tôi cũng như nhiều người khác, đem cái thắc mắc này hỏi sách vỡ nhưng đến nay chưa tìm thấy sách nào giải thích về điều này, thôi thì đành tự tìm hiểu vậy.
Quê hương, ai cũng biết Hương 鄉 là chữ Nho, ngày nay gọi là từ Hán Việt, vậy lẽ nào chữ Quê lại là chữ thuần Việt, nhất định nó là chữ Nho rồi, cho dù nó biến âm theo thời gian chăng nữa thì âm gốc của nó nhất định vẫn còn đâu đó. Mặc dầu thế, có một điều khó khăn là tuy có nguồn gốc là chữ Nho, nhưng Trung Hoa không hề có từ ghép nào khả dĩ làm cơ sở để từ đó ta tìm ra nguồn gốc của từ ghép này, thôi đành tìm trong vốn liếng ngôn ngữ của dân tộc vậy. Ta hãy tìm hiểu xem nó là chữ gì, nghĩa nó ra sao, mà khi ghép lại thành cái tên gọi sao mà thân thương đến vậy.
Theo tôi, hai từ Quê Hương vốn là thuần Việt, có nghĩa là cái chữ Hán ấy vốn là chữ của người Việt, tất nhiên âm cũng Việt, theo thời gian, dưới áp lực của các triều đại phương bắc cấm dân tộc ta không được dạy về nguồn gốc chữ Khoa đẩu và Dịch học; đồng thời chính họ cũng không sử dụng hai từ đó đi liền với nhau nữa, có thể nhằm tránh người Việt tìm ra nguồn gốc của con chữ và dịch học, dần hồi ta quên mất chữ củ của nó đi, từ đó ta không biết Quê là gì. Chữ Hương 鄉 thì ai cũng biết rồi, nhưng chỉ biết với nghĩa đơn giản mà các từ điển Hán Việt cho mà thôi, còn chữ Quê thì dường như chẳng biết nó xuất phát từ đâu, giờ đây ta chỉ tìm thấy nghĩa của hai từ này được giải thích trong tự điển theo cảm tính mà thôi. Theo tôi, hai từ Quê Hương trong chữ Việt cổ là 暌 鄉, âm hiện nay là Khuê Hương.
1.1. Ngữ âm Quê.
Chữ Quý 癸 ngoài cái âm “quê” đã bàn trên, nó còn chứa trong nó cái ý nghĩa mà từ đó hình thành nên nét nghĩa thân thương trong hai tiếng Quê Hương.
Tự điển Thiều Chữu: 癸.
Can “Quý”, can sau chót trong “thiên can” 天干 mười can.
Kinh nguyệt đàn bà gọi là “thiên quý” 天癸 hay “quý thuỷ” 癸水.
Kinh nguyệt của đàn bà ngày xưa người Việt gọi là “máu què”, cũng từ đây mà quần của đàn bà gọi là quần “đáy què”, người ta còn gọi sinh thực nữ là “cái què”. Như vậy “què” ở đây chính là đọc trại từ “Quê” mà ra.
Ở trên là phân tích về ngữ âm “quý – quê”, ngoài ra chữ quý癸 được tổ tiên ta sáng tác ra căn cứ vào sơ đồ Lạc thư – Hậu thiên bát quái, vì họ chính là chủ nhân của cái sơ đồ này nói riêng, dịch học nói chung, vì vậy ta hãy tìm hiểu tiếp.
Thuyết văn giải tự giải thích.
癸.冬時,水土平,可揆度也。象水從四方流入地中之形。癸承壬,象人足。癸,籒文从癶从矢。居誄切.
Quý. Đông thời, thủy thổ bình, khả quỷ độ dã. Tượng thủy tùng tứ phương lưu nhập địa trung chi hình. Quý thừa Nhâm, tượng nhân túc. Quý, trứu văn tùng Bát tùng thỉ. Cư lụy thiết.
Quý. Thời tiết mùa đông. Nước đất ngang nhau. Có thể đo lường được. Hình ảnh nước bốn phía chảy vào đất. Quý tiếp Nhâm, Tượng chân người. Quý. Trứu văn bộ Bát bộ Thỉ. Cư lụy thiết = Quỵ = quý.
Nội dung giải thích này đã giải thích trên.
Khang Hy tự điển giải thích:
又天癸,天乙所生之癸水。《黃帝素問》女子二七,而天癸至。《方書》男之精,女之血,先天得之以成形,後天得之以有生,故曰天癸.
Hựu thiên quý, thiên ất sở sanh chi quý thủy. (Hoàng Đế tố vấn) nữ tử nhị thất, nhi thiên quý chí. (Phương thư) Nam chi tinh, nữ nhi huyết, tiên thiên đắc chi dĩ thành hình, hậu thiên đắc chi dĩ hữu sanh, cố viết thiên quý.
Lại gọi là thiên quý (kinh nguyệt) thiên ất (Hoàng Đế tố vấn) con gái 14 tuổi thì có kinh nguyệt. (Phương thư) Nam thì có tinh, nữ thì có huyết, gọi là thiên quý vì nó do khí tiên thiên (dương) mà thành hình và khí hậu thiên (âm) mà sanh ra.
Giải thích này căn cứ vào dịch học, cụ thể là sơ đồ Lạc thư – Hậu thiên bát quái, điều này cho thấy hai chữ “quê hương” được sáng tác ra từ sơ đồ này. Trong giải thích này, chi tiết người đọc cần quan tâm là “thiên ất 天乙 – Dương và “quý thủy – 癸水 – Âm”, bởi vì chữ Ất 乙là một chữ chỉ định nghĩa của chữ Hương鄉mà tôi sẽ bàn sau. Chính vì vậy mà người ta mới giải thích tiếp nó được hình thành từ tiên thiên (Hà đồ, thuộc âm) và Hậu thiên (Lạc thư, thuộc dương).
1.2. Nghĩa biểu ý của chữ Quý 癸- Quê.
1.3. Khuê 暌 – Quê.
Như đã đề nghị trước, theo tôi chữ Quê xưa kia được viết là暌, âm đọc hiện nay là Khuê.
Về mặt ngữ âm ta thấy âm Khuê gồm: Âm đầu [kh], vần [uê], theo các nhà ngôn ngữ hiện nay, ngôn ngữ tiền Việt Chức không có âm [kh] với quan điểm như vậy ta có Kh – uê hay K-uê thành Kuê hay Quê. Tự điển Tường tế giải thích:
形声。从日,癸声。本义:日落.
Hình thanh. Tùng nhật, Quý. Bổn nghĩa: Nhật lạc.
Chữ hình thanh. Bộ Nhật, âm Quý. Vốn nghĩa là mặt trời lặn.
Như đã chứng minh trên, chữ Quý 癸 vốn đọc là Quê, trong giải thích này nói thuộc bộ Nhật日, âm Quý癸tức là Quê. Như vậy chữ暌 là chữ Quê, một chữ và âm thuần Việt.
Về kết cấu khoa đẩu của chữ Quê暌 ta có:
Trái Nhật日, mặt trời – Dương, chỉ phía tả của sơ đồ Lạc thư, phải Quý癸, thuộc Thủy – Âm. Dương Âm tức Càn Khôn – Hà đồ hay bản thể, thuộc Âm.
Chữ 暌 là một chữ hội ý khoa đẩu, hình thanh. Hội ý khoa đẩu là vì Quý 癸 chỉ phần âm của vũ trụ (Hà đồ), còn chữ Nhật 日là tượng trưng cho phần dương của vũ trụ (Lạc thư), bắt đầu từ can Ất乙và kết thức là can Quý 癸, can cuối cùng của 10 Thiên can, tính từ Ất 乙 tới Quý 癸là một vòng của bản thể làm sao không xa cho được. Như tự điển Tường Tế đã giải thích, Khuê có nghĩa là nhật lạc日落, từ nhật lạc có thể hiểu là hoàng hôn, tuy nhiên trong trường hợp này phải hiểu là mặt trời lặn mất, vì Quý là can cuối cùng, nằm tại cung Hợi 10 giờ đêm, tức là lão âm theo Lạc thư.
Về mặt dịch học thì chữ Quê 暌 tượng trưng cho Vô cực, cụ thể là: Nhật 日 mặt trời = Dương, Quý 癸 = Âm. Dương Âm tức càn Khôn hay Vô cực.
Ta hãy tìm hiểu chữ Hương 鄉.
2.1. Nghĩa chữ Hương鄉.
Tự điển Thiều Chữu.
鄉. 1. làng 2. thôn quê, nông thôn 3. quê hương.
Thuyết văn giải tự:
(向) 北出牖也。豳風。塞向墐戶。毛曰。向、北出牖也。按士虞 禮。祝啓牖鄉。注云。鄉、牖一名。明堂位達鄉注云。鄉、牖屬。是渾言不別。毛公以在冬日可塞。故定爲北出者。經傳皆假鄉爲之。从宀。从口。口舊作口。按下曰。从口。中有戶牖。是皆从囗象形也。今正。許諒切。十部。詩曰。塞向墐戶。
Hướng. Bắc xuất dữu dã. Bân phong. Tắc hướng cận hộ. Mao viết. Hướng, Bắc xuất dữu dã. Án Sĩ Ngu lễ. Chúc khởi dữu hương. Chú vân. Hương, Dữu nhất danh. Minh đường vị đạt hương chú vân. Hương, dữu thuộc. Thị hồn ngôn bất biệt. Mao Công dĩ tại đông nhật khả tái. Cố định vi bắc xuất giả. Kinh truyện giả hương vi chi. Tùng miên. Tùng khẩu. Khẩu cựu tác vi. Án Hạ viết. Tùng vi. Trung hữu hộ dữu. Thị giai tùng vi tượng hình dã. Kim chánh. Hứa lương thiết. Thập bộ. Thi viết. Tái hướng cận hộ.
Hướng. Cửa hướng về phía Bắc vậy. Bân phong. Trét đất cửa Bắc. Mao nói: Phía Bắc mở ra ô cửa vậy. Xét Sĩ Ngu lễ. Mừng mở cửa hương. Giải thích rằng: Hương, một tên của Dữu. Minh đường vị đạt hương giải thích: Hương, thuộc Dữu(cửa hướng ra phía Bắc) là không khác với lời nói thông thường. Mao Công cho rằng ngày đông có thể che chắn. Cố định về hướng bắc. Kinh truyện dùng Hương thay vậy. Bộ miên, Bộ khẩu Khẩu cữu viết Vi. Xét ra rằng: Bộ Vi, trong có ô cửa.
Với giải thích trên, ta chỉ có hai điều đáng quan tâm, đó là:
– Hương là chữ Hướng.
– Ô cửa hướng ra phía bắc cần trét đất lại để ngăn cái lạnh mùa đông.
Chữ Hương với những nghĩa mà tự điển đã cho trên, tuy nhiên những nghĩa ấy vẫn chưa thỏa mãn được khi đi với chữ Quê 暌. Ta hãy tìm hiểu xem người xưa đã hội ý khoa đẩu như thế nào trong chữ Hương 鄉.
Chữ Hương 鄉 gồm:
Chữ Hương 乡 cũng là bộ Ất 乙,
Lang 郎. (chữ Lang gồm良 (thuộc bộ Cấn艮)Lương , Ấp邑).
Xin bàn về biểu ý của con chữ khi người xưa đưa Ất乡, chữ Cấn艮và bộ Ấp 邑vào chữ Hương 鄉.
3.1. Chữ Lang 郎 chàng trai – Dương, gồm hai chữ: Chữ Lương良 và Ấp 邑.
3.2. Chữ Lương良 thuộc bộ Cấn 艮 Cấn, theo Hậu thiên Bát quái, 艮nằm ở hướng Đông bắc, tượng là Sơn – Núi. Như đã minh định nhiều lần trong sách này, chữ Sơn được sáng tác ra căn cứ hình ảnh sinh thực nam (chữ của người Việt) nên cha ông ta đã nói “Đem gan Cóc tía đối sơn hà” Cóc ở đây là con Cạc, vì vậy mới nói “cóc tía” chứ trong thiên nhiên ở nước ta làm gì có con cóc màu này.
3.3. Chữ Ấp 邑: Nước hay quốc gia (ngày xưa) thuộc âm (thực chất là con nhái), đối lại với chữ Nhật 日thuộc dương trong chữ Khuê – Quê .
Như vậy chữ Hương 鄉, được sáng tác theo kết cấu tả hữu, đọc theo Khoa đẩu thì Ất乡- Âm[1], Lang – Dương. Âm Dương tức Thái cực, thuộc Dương.
Hai chữ Quê Hương暌鄉được người Lạc Việt cổ sáng tạo ra căn cứ vào Dịch học, cụ thể ở đây là 10 can và lý số của Lạc thư – Hậu thiên bát quái, nó được kết cấu theo phương thức tả hữu, cụ thể là:
Chữ Quê 暌: Trái Nhật日 -Dương, phải Quý癸-Âm, nằm tại can thứ 10 – Quý 癸, quái Càn乾, độ số 6. 日 Dương, Quý癸-Âm, Dương Âm hay Càn Khôn hay Vô cực thuộc Âm. Như vậy chữ Quê暌 thuộc âm.
Chữ Hương鄉: Trái Ất乡 thuộc Âm, phải Lang 郎-Dương, nằm tại vị trí quái Cấn艮, độ số 8. Âm Dương tức Thái cực, thuộc Dương.
Cả hai, Quê 暌 -Vô cực – Âm, Hương 鄉-Thái cực – Dương. Âm Dương tức Thái cực, thuộc Dương hay phía nam tức người Lạc Việt.
Như đã giải thích trên, 癸 là kinh nguyệt của đàn bà, như vậy Quê 暌đích thị tượng trưng cho MẸ.
Chữ Hương鄉, thuộc bộ Ất乙, quái Cấn 艮tượng là núi, núi là biểu tượng của sinh thực nam, có nghĩa là Cấn tượng trưng cho sinh nam, vì vậy các bà có bầu còn gọi là cấn bầu. Như vậy chữ Hương tượng trưng cho CHA.
Như vậy hai chữ Quê Hương không phải là vùng đất mà mình sinh ra, mà là nơi đầu tiên mà có mặt, đó là cha mẹ và xa hơn nữa chính là tổ tiên, chính vì vậy, tuy ngày nay người Việt không hiểu một cách cụ thể về nguồn gốc của con chữ này, nhưng đối với họ hai từ Quê Hương là vô cùng thân thiết, thân thiết đến nỗi ai không biết quê hương mình ở đâu xem như lạc lỏng trong cuộc đời này. Vì thế mới nói quê hương là nơi chôn Nhau cắt Rốn, Nhau là ở trong bụng mẹ, Rốn là nguồn sống mẹ nuôi con thuở mang bầu, cắt ra thành một cá thể riêng nhưng mình từ đâu mà có!
Hai từ Quê Hương, ta thường nói là từ Hán Việt, vậy mà phương Bắc có từ này không? Có biết điều này không? Có biết nó được hình thành, ngoài yếu tố con người, nó còn thể hiện dịch học không? Không, họ không biết gì cả. Vậy mà họ vẫn còn giải thích, tuy không đầy đủ nhưng cũng chứng minh cho thấy manh mối của chữ Hương với chữ Quê. Như vậy sách vở ấy của ai, chữ ấy của ai, dịch học ấy của ai? Tất nhiên là của người Lạc Việt rồi chứ còn bàn cải gì nữa. Lưu ý rằng chữ khuê đã bị xóa khỏi Thuyết văn giải tự của Hứa Thận, có lẽ do Đoàn Ngọc Tài, đời Thanh. Tại sao vậy?
Với các phân tích trên ta biết 6 thuộc âm, 8 thuộc dương.
Như đã phân tích trên, chữ Quê hay Quý có nghĩa là kinh nguyệt, chỉ có đàn bà mới có kinh nguyệt, như vậy chữ Quê tượng trưng cho mẹ. Chữ Hương có chữ Cấn, ở đây là quái Cấn tượng trưng cho núi hay sinh thực nam, như vậy chữ Hương tượng trưng cho cha. Chữ Hương nằm ở can Ất, thuộc dương mộc, ngày xưa người ta gọi sinh thực nam là khổ mộc.
Ta thấy trong hình ảnh trên các thành phần kết cấu nên chữ quê và hương tương thích với phương vị của Lạc thư – Hậu thiên bát quái. Cụ thể như sau:
Chữ Quê 暌 nằm tại can Quý 癸 thuộc Thủy – Âm.
Chữ Bát癶 nghỉa là đạp ra, ý nói chổ sinh con của đàn bà. – Âm
Chữ Thiên 天nằm tại quái Càn – Dương.
Chữ Nhật日 – Dương , Âm luôn hướng về Dương.
Chữ Ất乡nằm tại can Ất乙- Dương.
Chữ Cấn艮nằm tại quái Cấn艮- Dương.
Chữ Ấp阝thuộc âm. Vì Dương luôn hướng về Âm, như trong giải thích của chữ Hương, còn đọc là Hướng, là cửa sổ hướng về phương bắc – Âm.
Hính ảnh ở giữa chính là chữ Hương kim văn.
Tất nhiên, nói đến quê hương là nói đến con người, tức là Nhân 人, trong hướng sáng tác con chữ Khoa đẩu, chữ Nhân cũng thể hiện điều này. Nhìn vào sơ đồ Lạc thư – Hậu thiên bát quái, ta thấy chữ Nhân人có hai chân đạp vào hai quái Càn – độ số 6 – Quê và Cấn độ số 8 – Hương. Như đã nói trên Quê Hương tượng trưng cho mẹ cha, con thì do cha mẹ sinh ra, do đó ta thấy chữ Nhân人 được bắt đầu từ hai quái Càn Cấn hay nói khác hơn bắt đầu từ mẹ cha hay quê hương.
Chữ人 Nhân là một chữ được sáng tác ra từ sơ đồ dịch học, ta biết điều này khi tìm hiểu chữ Đại 大. Thuyết văn giải tự giải thích như sau:
天大,地大,人亦大。故大象人形。 徒蓋切.
Thiên đại, địa đại, nhân đại, cố đại tượng nhân hình. Đồ cái thiết.
Trời lớn, đất lớn, người lớn. Cho nên chữ đại tượng hình người. đọc là đại
Giữa chữ Quê và Hương là chữ Tử子- Con. Cha mẹ sinh người con.
Đây là bức tranh dân gian vẽ Phục hy và Nữ Oa của Trung Quốc, hình ảnh này là cách thể hiện chữ Hương 鄉 kim văn.
Bên trái là Phục Hy, đầu đội mũ hình tia sáng mặt trời, bên phải là Nữ Oa, tay cầm cái Củ, đầu đội khăn Oa. Giữa là đứa con, Tử子 con, còn có nghĩa là mọi việc bắt đầu từ cung Tý tương hợp với hai chữ quê hương mà tôi đã phân tích trên. Hai người kết nối với nhau bằng hình ảnh đuôi con rắn quấn vào nhau. Điều này được thể hiện trong sao của phương nam: Tỉnh, quỷ, liễu, tinh, trương, dực, chẩn. Dực là con rắn lữa hay rắn phương nam.
Hai chữ Quê Hương暌鄉 được sáng tác ra từ sơ đồ Lạc thư – Hậu thiên bát quái, cụ thể là 6, 8 như đã trình bày trên.
10.2. Khái niệm 6, 8 trong văn học.
Ngày xưa ban đầu người ta đẽo gỗ ra 6 hay 8 mặt để viết chữ, trong Thuyết văn giải tự, phần chữ Phan 幡viết như sau:
顔師古曰。觚者學書之牘。或以記事。削木爲之。其形或六面。或八面。皆可書。觚者,棱也。以有棱角。故謂之觚。
Nhan Sư Cổ viết. Cô giả học thư chi độc. Hoặc dĩ kí sự. Sao mộc vi chi. Kỳ hình hoặc lục diện. Hoặc bát diện. Cô giả, lăng giả. Dĩ hữu lăng giác. Cố vị chi cô.
Nhan Sư Cổ nói: “Cô” ấy là thẻ tre làm sách học hoặc ghi chép sự việc. Gọt thanh gỗ thành hình 6 mặt hoặc 8 mặt. Đều để viết. “cô” ấy là cạnh vậy. Phàm có góc cạnh đều gọi là “cô”.
Tôi tin rằng thơ lục bát là một hình thức thể hiện dịch học trong văn chương, cụ thể là 6 – 8 là tổng các phạm trù dịch lý đã nêu trên, tất nhiên là do người Lạc Việt làm nên, người Lạc Việt là người Nam, thuộc Dương, trong dịch học là Thái cực, quẻ thể hiện là Âm Dương (Khôn Càn), thể hiện bằng số là 6-8. Thơ lục bát là thể thơ câu đầu 6 chữ – Âm, câu tiếp là 8 chữ – Dương.
Cùng là nước đồng văn, cùng ngôn ngữ đơn âm, đều thừa hưởng văn hóa Dịch, vậy sao Trung quốc, Hàn quốc không có thể thơ Lục bát. Toàn bộ ca dao Việt Nam đều theo thể lục bát, tác phẩm văn học nỗi tiếng nhất của nước Việt, tham gia vào nền văn học thế giới cũng được viết bằng thể thơ này, truyện Kiều. Có thể nói thơ lục bát như tiếng thở dài của người Việt, nó cũng dịu dàng, nhẹ nhàng như tiếng mẹ ru con, nó như chất liệu xoa dịu bao nỗi đau thương mà thăng trầm của lịch sử mang lại, nhất là thể thơ này chỉ riêng có của nước Việt cho nên nhất định nó được tổ tiên ta sáng tác ra với mục đích như là một mật mã. Mật mã ấy là gì? Xin thưa rằng đó là: Người Việt là chủ nhân của Dịch học và chữ Vuông.
10.3. Khái niệm 6, 8, 14 trong truyền thuyết.
10.4. Khái niệm 6, 8 trong kiến trúc.
Tại chùa Nhất trụ, Ninh Bình có cột kinh gồm: Cột có 8 cạnh, gồm 6 bộ phận ghép lại với nhau. 8 cạnh tượng trưng cho cha (Hương), 6 bộ phận tượng trưng cho mẹ (Quê). Toàn bộ cột kinh nằm trên nền vuông, mỗi cạnh 1,4m = 14, chung quanh có 14 cánh hoa sen. Điều này thể hiện tổng các khái niệm dịch lý.
10.5. Khái niệm 6, 8 trong y học.
Trong đông y, ta biết có hoàn lục vị, tức thuốc bổ thận dành cho phụ nữ – Âm, hoàn bát vị, tức thuốc bổ thận dành cho đàn ông – Dương. Như vậy rõ ràng 6 vị và 8 vị ở đây chính là con số đến từ dịch học.
Căn cứ vào thực tế ta biết lý số 14 thuộc âm, như vì 7.7 = 49. 49 là lý số của hướng tây theo Hà đồ. Trên mặt trống đồng Ngọc Lũ có mặt trời 14 tia, mặt trời thuộc dương, nhưng tia sáng thuộc âm, vì không thấy. Thơ song thất – Âm, lục bát- Dương. Người chết cúng thất tuần – 49 ngày, vì người Việt tin rằng khi một người mất đi có nghĩa là họ trở về Tây – Âm, do đó khi một người chết người ta để một cây dao – Hành kim (hành của hướng tây), để khăn trắng (màu của hướng tây) con trai đội nón rơm (vì đây là sự nghiệp và văn hóa lúa nước của người Lạc Việt. Cây lúa trồng tháng 2, chết tháng 8 âm lịch), có nghĩa là bảo vệ sự nghiệp cũng như văn hóa của tổ tiên. Ngày thất tịch 7 tháng 7 là ngày Ngưu Lang – Chức Nữ gặp nhau vì do lâu ngày âm dương cách biệt. 7/7 là chuẩn bị tới tháng 8, hướng chánh tây. Vào trong chùa ta thấy chổ thờ tự – Âm, có hai dãi tràng phan, mỗi bên 7 cái. Bia Vũ Vương có 77 chữ, bia thì của người chết – Âm.
Với những gì trình bày trên, ta có thể khẳng định rằng hai từ Quê Hương là một từ thuần Việt, nó được sáng tác ra từ các khái niệm dịch lý, cụ thể là sơ đồ Lạc thư – Hậu thiên Bát quái, đặc biệt hai từ quê hương tượng trưng cho cha mẹ, điều này phù hợp với tinh thần bài ca dao chữ hiếu của dân tộc ta. Cha mẹ hay tổ tiên sinh ra dân tộc, có dân tộc mới có văn hóa chính vì vậy hai từ Quê Hương còn chỉ cho biết khái niệm 6, 8, khái niệm này được áp dụng trên nhiều mặt của đời sống, tất cả nói cho ta biết rằng Dịch học và chữ Vuông là sản phẩm của dân tộc Lạc Việt, nếu cho rằng của Trung Hoa, vậy sao không có sách vở nào của họ nói đến hai từ quê hương, hay giải thích vì sao chữ Quê 暌-Khuê thuộc bộ Nhật日, chữ Hương鄉 thuộc bộ Ất乙, hay tại sao bổ thận âm phải là 6, dương là 8. Nếu người Việt được phương bắc dạy cho thì làm sao mà người Việt biết và làm được những gì mà phương bắc không hề hay biết, trong khi đó, hàng ngàn năm qua họ cho rằng chữ Nho và Dịch học là của dân tộc họ. Không phải chỉ hai từ quê hương với ý nghĩa là mẹ cha, mà người Việt còn áp dụng tinh thần này trên nhiều lãnh vực khác, tất cả nói lên rằng chỉ có người làm ra những sản phẩm đó mới nhận thức một cách sâu xa cái thông điệp từ những thành quả văn hóa mang lại. Với hai từ quê hương thôi mà ta đã thấy những người làm ra nó có trí tuệ tuyệt với như thế nào, nhất định ngày ấy tổ tiên nước Việt để bao tâm huyết mới sáng tạo ra hai con chữ với những ý nghĩa có tính hệ thống tinh tế đến như vậy. Phân tích hai từ quê hương ta thấy nó là một thành tố trong một hệ thống triết học thống nhất, không phải bổng dưng mà Quê ở độ số 6 và Hương ở độ số 8 của Lạc thư – Hậu thiên Bát quái, tất cả là một hệ thống có tính toán, nó không phải là sự tình cờ. Như vậy ai là chủ nhân cái nền văn hóa ấy nếu không là dân tộc sáng tác ra hai chữ Quê Hương.
[1] Giáp甲Ất 乙 thuộc Mộc木. Mộc thuộc Dương nhưng Dương âm, Bính Đinh thuộc Hỏa, Hỏa thuộc Dương, nhưng Dương dương.
Quê Hương Mỗi Người Chỉ Một
Nhưng có bao giờ chúng ta tự hỏi, quê hương là gì, và tại sao quê hương lại có ý nghĩa như thế với chúng ta? Vì sao mỗi lần năm hết Tết đến, hàng trăm triệu người không quản đường xa mệt nhọc tốn kém để về quê?
Mà đâu phải chỉ người Việt, người Trung Quốc hay dân châu Á? Các nước khác cũng vậy thôi, ngày lễ Tạ ơn, lễ Giáng sinh hay năm mới, mọi sân bay, bến tàu đều tràn ngập những người là người.
Người ta vượt nhiều nghìn dặm về thăm gia đình, cha mẹ, ông bà, quê hương, để sum họp với gia đình lớn, gặp lại anh chị em, thăm lại nơi mình trải qua thời thơ ấu.
Tại sao chúng ta làm thế? Không chỉ là thói quen, thấy người ta làm thì mình cũng làm. Nếu chỉ là thói quen hay bắt chước, thật không đáng để mất chừng ấy tiền bạc, công sức, thời gian. Hẳn là nó bắt nguồn từ một nhu cầu sâu thẳm và mạnh mẽ hơn nhiều.
Những đứa trẻ là con nuôi, nhất là con nuôi xuyên quốc gia, khi trưởng thành hầu như luôn có nhu cầu tìm về nguồn cội. Cho dù cha mẹ nuôi có tốt đến đâu đi nữa, mối quan hệ giữa đứa trẻ và cha mẹ nuôi có gắn bó đến mức nào, cũng sẽ có một lúc đứa trẻ nung nấu ý định tìm hiểu xem cha mẹ đẻ là ai, cuộc sống của họ ra sao, quê hương, bản quán, ông bà mình như thế nào.
Những thanh thiếu niên người Việt thế hệ thứ hai sống ở nước ngoài cũng vậy. Họ sinh ra ở nước ngoài, hoặc rời quê hương khi còn thơ ấu, giờ đây nói tiếng Việt không rành, nhưng vẫn cảm thấy một nhu cầu mạnh mẽ tìm hiểu về đất nước mà mình hay cha mẹ mình đã sinh ra và khôn lớn. Vì sao vậy?
“Ta là ai, ta đến từ đâu và sẽ đi về đâu?”
Trong bài diễn văn nhậm chức, bà Drew Faust, hiệu trưởng Trường ĐH Harvard, đã nói rằng bốn năm học đại học là thời gian để chúng ta trả lời câu hỏi “Ta là ai, ta từ đâu đến và sẽ đi về đâu?”. Nói một cách văn hoa, bản chất con người là tìm kiếm ý nghĩa của sự sinh tồn, và câu hỏi quan trọng nhất là câu hỏi về căn cước cá nhân, căn cước dân tộc của mình.
Cái gì đã khiến chúng ta trở thành một cá nhân độc đáo, một thực thể không lặp lại, không thể nhân bản hay thay thế? Cái gì đã gắn chúng ta với dân tộc, đất nước, quê hương, tổ quốc? Và là một người Việt Nam thì có ý nghĩa như thế nào?
Bạn sẽ cảm nhận được những câu hỏi này rõ rệt như cứa vào da thịt bạn khi bạn sống ở nước ngoài, khi bạn nghe một người nói tiếng mẹ đẻ của bạn giữa một xứ sở xa lạ.
Cách đây vài chục năm, đi nước ngoài là cả một vấn đề. Khi có người từ nước ngoài trở về, cả làng xúm đến nghe anh ta kể chuyện về những xứ sở xa xôi, về những người da trắng, da đỏ, da đen mọi người chỉ thấy trong phim ảnh.
Lúc đó lằn ranh phân biệt “nước ta” và “nước họ”, giữa “quê hương mình” và “xứ sở người ta” có vẻ rất rõ ràng, dễ hiểu. “Ta” là khăn đen mỏ quạ, là đống rơm, đàn bò, ngọn lúa, là cá kho canh chua bông điên điển. “Họ” là áo vét, cà vạt, là nhà chọc trời, là bơ là sữa.
Nhưng giờ đây, thế giới đã như một ngôi làng toàn cầu. Không chỉ người giàu mới đi Đông đi Tây, giờ đây người nghèo cũng đi, dù là đi bán sức lao động ở xứ người, thì cũng là tới một xứ sở khác xa lạ về văn hóa.
Đi học, đi làm, đi du lịch nước ngoài hôn nhân đa quốc gia, làm ăn xuyên biên giới ngày càng phổ biến. Ngày càng nhiều người biết ngoại ngữ, am tường âm nhạc, nghệ thuật của nước ngoài, làm việc với đồng nghiệp đủ mọi quốc tịch, thưởng thức đủ loại ẩm thực Tây Tàu.
Bằng kinh nghiệm cá nhân, người ta khám phá ra rằng, hóa ra dù da đen, da trắng, hay da vàng, ăn bơ sữa hay ăn nước mắm, con người ta đều chia sẻ những đau khổ, vui sướng, sợ hãi, hi vọng, dằn vặt chẳng khác gì nhau.
Dù là một nước giàu như Mỹ, hay còn nghèo như Việt Nam, hóa ra chúng ta đều không hài lòng về giáo dục, đều đang đương đầu với nhiều thách thức rất giống nhau.
Dù làm việc với đồng nghiệp Tây hay đồng nghiệp Việt, chúng ta đều có thể phải đối diện với sự cạnh tranh, kèn cựa, hoặc có thể tìm kiếm sự hợp tác, hỗ trợ bằng những cách rất như nhau. Vậy thì cái gì là căn cước của chúng ta như một cá nhân, và như một dân tộc? Và tại sao chúng ta phải tìm kiếm nó?
Mỗi người có một câu trả lời
Đây là câu hỏi không thể có câu trả lời chung. Không ai có thể trả lời thay cho ai. Cũng không phải chỉ trả lời một lần là hết. Vì bản thân chúng ta, cả với tư cách một sinh vật lẫn một con người xã hội, đều không ngừng diễn tiến, không ngừng thay đổi. Dân tộc, như một tập hợp những người cùng tiếng nói, màu da, lịch sử, cũng là một khuôn mặt không ngừng thay đổi.
Nhưng có lẽ có một điểm chung: chúng ta đi tìm căn cước của mình, bởi đó là nhu cầu tự nhiên của con người. Nó nằm ở ba bậc cao nhất trên đỉnh tháp nhu cầu Maslow: được yêu mến, được gắn bó và thuộc về một cộng đồng; được người khác tôn trọng; và đạt đến tất cả tiềm năng của cá nhân.
Chúng ta đi tìm căn cước của dân tộc mình, cũng chính là để hiểu rõ về bản thân mình, để tìm kiếm cảm giác được kết nối, được thuộc về, cảm giác an toàn, vì con người vốn là một sinh vật bầy đàn. Có thể nhìn thấy điều này rất rõ khi chúng ta chứng kiến những hành động điên rồ trong các cuộc “đi bão” mừng chiến thắng bóng đá của đội nhà.
Dường như niềm tự hào về những thành tích của Việt Nam có thể giúp khỏa lấp cảm giác thiếu tự tin về bản thân mình và cộng đồng mà mình thuộc về trong mỗi chúng ta.
Với nhiều người khác, sự gắn kết với dân tộc, tổ quốc, quê hương chính là những niềm vui và nỗi đau mà họ cảm thấy cùng những niềm vui và nỗi đau của dân mình, nước mình, của những con người, số phận cụ thể mà họ thấy mỗi ngày.
Lê Duy Loan, một kỹ sư người Mỹ gốc Việt, là người châu Á đầu tiên và người phụ nữ duy nhất được chọn vào ban lãnh đạo kỹ thuật cho hãng công nghệ toàn cầu Texas Instruments trong lịch sử 83 năm của hãng này, đã nói với gương mặt rơm rớm nước mắt: “Tôi yêu quê hương từ khi mới thành người”.
Quê hương với cô là cha mẹ, ông bà, những người đã truyền cho cô niềm tin vào giá trị cốt lõi của học vấn và sự sẻ chia, là những đứa trẻ lớn lên bên bờ tre ruộng lúa đang khao khát được học hành và thay đổi số phận, là nỗi đau mà cô cảm thấy khi chứng kiến một người cùng dòng máu, màu da, tiếng nói với mình bị những người xứ khác coi thường.
Có lẽ, với người ở trong nước, quê hương là nơi ta sẻ chia chung một số phận; với người sống ở nước ngoài, quê hương là nơi ta sẻ chia cùng nguồn cội và lịch sử, cùng thừa kế chung một di sản văn hóa tinh thần.
Cái gì đã định nghĩa, đã tạo thành bản sắc cá nhân hay dân tộc của chúng ta? Ngoài một thứ bất biến là di truyền, một thứ ta rất ít khả năng can thiệp là hoàn cảnh sống thời thơ ấu, phần chủ yếu chính là những trải nghiệm sống của một người.
Những trải nghiệm này làm thay đổi nhận thức của chúng ta về tất cả mọi thứ, kể cả về bản thân mình. Vì thế mà người ta không ngừng tìm kiếm những trải nghiệm mới, và định nghĩa mình qua những thứ mình có hay từng trải nghiệm.
Nhưng tình yêu thì là một trải nghiệm không cần lý giải. Nhà thơ Đỗ Trung Quân rất có lý khi so sánh quê hương và mẹ. Con người ta có thể đi năm châu bốn bể, hưởng đủ mọi món ngon vật lạ trên đời, vẫn cảm thấy không gì ngon bằng những món mẹ cho ăn lúc còn thơ ấu.
Chúng ta yêu mẹ, dù mẹ ta tóc bạc, da mồi, chân tay run rẩy, thậm chí khi mẹ thương yêu ta theo cách mà ta không muốn.
Cũng như vậy, chúng ta yêu quê hương cho dù còn bao nhiêu xấu xí. Chúng ta thương đồng hương, đồng bào cả khi họ làm chúng ta tự hào và khi họ làm chúng ta xấu hổ, nhất là khi chúng ta thấy họ đau khổ bởi những gì không phải là lỗi của họ.
Toàn cầu hóa trong lúc xóa nhòa lằn ranh ngăn cách các quốc gia, dân tộc, và tạo điều kiện giao lưu văn hóa mạnh mẽ hơn bao giờ hết, cũng đồng thời làm sản sinh nhu cầu bảo vệ những nét riêng có đặc biệt của mỗi nền văn hóa.
Bạn phải có một cái gì của riêng bạn thì bạn mới có cái để đóng góp vào gia sản văn hóa chung của nhân loại, làm cho nó phong phú hơn. Mất đi cái căn cước đó, chúng ta chỉ còn là hạt bụi vô nghĩa giữa cuộc đời.
Emma Phạm Thị Chín lớn lên trong một trại mồ côi ở Tân Mai (Biên Hòa), được đưa sang Úc lúc 4-5 tuổi để chữa khiếm thị (nhưng không thành công) và đã được thu xếp làm con nuôi từ nhà này sang nhà khác, tất cả là 13 gia đình cho đến khi cô 17 tuổi và có thể sống một mình. Trong từng ấy năm cho đến khi 50 tuổi, cô luôn mơ về Việt Nam, dù mất tiếng mẹ đẻ, đêm đêm cô vẫn nghe bài hát Lòng mẹ của Y Vân: “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào…”. Trong mơ cô vẫn hướng về đất mẹ, trò chuyện với người mẹ cô chưa bao giờ gặp… Và rồi có một cái gì thôi thúc mãnh liệt cô phải trở về. Gương mặt cô khi trở về cô nhi viện, gặp gỡ các sơ đã bồng ẵm cô lúc sơ sinh, sáng ngời một tình yêu lớn lao mà một số người trong chúng ta, những người đang sống hằng ngày trên mảnh đất này, có thể đã không cảm thấy. Gương mặt ấy đã gây xúc động mạnh cho cả những người đã còn và không còn cha mẹ, những người đang sống trên quê hương và phải rời bỏ quê hương.
Từ Điển Cũng Định Nghĩa Sai
Trên thị trường sách đang có bán cuốn Từ điển tiếng Việt dành cho học sinh loại bỏ túi của tác giả Vũ Chất, do NXB Trẻ ấn hành. Theo lời NXB, việc xuất bản cuốn từ điển “chỉ mong góp thêm cho bạn đọc một tài liệu tham khảo trong học tập, nghiên cứu và sử dụng tiếng Việt”. Tiếc thay, với những sai sót trong sách, cuốn từ điển không những chưa đáp ứng được mong muốn khiêm nhường đó mà còn gây ra những hiểu lầm tai hại về tiếng Việt cho người sử dụng.
Lỗi nghiêm trọng nhất ở trong cuốn Từ điển tiếng Việt dành cho học sinh là định nghĩa sai khá nhiều từ. Thí dụ như từ “khai quật” được định nghĩa là “đào mồ lên”. Giải thích như thế là sai, là nhầm lẫn với từ “quật mồ”, “quật mả”. “Khai quật” là đào bới để tìm ra, lấy lên cái chôn vùi trong lòng đất, như khai quật di tích thành cổ Thăng Long tìm thấy đầu rồng lớn làm bằng đất nung, khai quật mộ cổ lấy lên xác ướp đã mấy trăm năm…
Từ “bụi đời” được tác giả định nghĩa là người lăn lóc cực khổ nhiều trong xã hội, thế nghĩa là cứ ai chịu nhiều gian truân, vất vả đều thành bụi đời bất kể họ có nghề nghiệp, nhà cửa nghiêm chỉnh, sống đàng hoàng, tử tế. Vậy thì trong xã hội ta có vô khối kẻ bụi đời. Nghĩa chính xác, đầy đủ của từ bụi đời là chỉ những người sống lang thang, không nhà cửa, không nghề nghiệp.
Buồn cười hơn cả là từ “buồn cười” được tác giả giải thích rất ngô nghê là… buồn mà cười. Chưa cần đến các nhà ngôn ngữ học khả kính, chữ nghĩa đầy mình giải thích mà bất cứ một người bình thường nào với đầu óc bình thường cũng có thể giải thích được buồn cười là không nhịn được hoặc khó mà nhịn được cười; làm cho không nhịn được cười…
Từ “đơn giản” thì được đánh đồng với từ “sơ sài”, dù “đơn giản” với “sơ sài” có nghĩa khác hẳn nhau mà chẳng cần phân tích bất kỳ ai cũng hiểu được điều đó.
Không chỉ định nghĩa sai mà cách định nghĩa cũng rất tối nghĩa. Từ “buồm” được định nghĩa như sau: tấm đan bằng lá để gắn lên ghe gió bộc chạy đi. Một vị giáo sư có uy tín của Viện ngôn ngữ học và là một trong những người tham gia biên soạn cuốn Từ điển tiếng Việt loại lớn của Viện Ngôn ngữ học đã phải bó tay sau một hồi ngẫm nghĩ về câu giải nghĩa trên.
Chưa kể những lỗi khác, như nhầm lẫn giữa các từ trong tiếng địa phương với các từ trong tiếng phổ thông, dẫn đến những định nghĩa nhầm lẫn, có nhiều từ in sai cũng không được đính chính, thể hiện cách làm cẩu thả, coi thường độc giả của tác giả và NXB Trẻ.
Điều đáng lo ngại nhất là trên bìa cuốn từ điển này có in dòng chữ dành cho học sinh. Dùng những cuốn từ điển như thế này các em sẽ có những cách hiểu lệch lạc, méo mó về tiếng mẹ đẻ.
Bạn đang xem bài viết Quê Hương Chiến Binh Báo Đen Được Định Nghĩa Trong Từ Điển trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!