Cập nhật thông tin chi tiết về Quy Định Về Gói Dịch Vụ Y Tế Cơ Bản Tại Tuyến Y Tế Cơ Sở mới nhất trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe cho người dân luôn nhận được đông đảo sự quan tâm. Nhà nước đang hướng đến hiện thực hóa chính sách bảo hiểm y tế toàn dân. Do đó, quyền lợi của người tham gia bảo hiểm y tế ngày càng được nâng cao.
Ngày 18/10/2017, Bộ trưởng Bộ y tế đã ban hành thông tư 39/2017/TT-BYT quy định gói dịch vụ y tế cơ bản cho tuyến y tế cơ sở (tuyến huyện, tuyến xã).
Theo Thông tư, gói dịch vụ y tế cơ bản bao gồm 2 gói dịch vụ: “Gói dịch vụ y tế cơ bản do quỹ bảo hiểm y tế chi trả” và “Gói dịch vụ y tế cơ bản phục vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu, dự phòng và nâng cao sức khỏe”.
Đối với gói dịch vụ y tế cơ bản do quỹ bảo hiểm y tế chi trả sẽ do quỹ bảo hiểm y tế chi trả khi người dân lựa chọn sử dụng. Gói dịch vụ này gồm 76 dịch vụ kỹ thuật khám bệnh, chữa bệnh và 241 loại thuốc áp dụng tại cơ sở y tế tuyến xã. Gói dịch vụ y tế cơ bản bao trùm hầu hết các dịch vụ chăm sóc sức khỏe thiết yếu cho người dân như: khám chữa bệnh, sơ cứu, cấp cứu, kế hoạch hóa gia định, khám sàng lọc,… Ngoài ra, Thông tư cũng quy định về việc thanh toán khi người tham gia bảo hiểm sử dụng kỹ thuật, thuốc, vật tư y tế không thuộc gói dịch vụ.
Đối với gói dịch vụ y tế cơ bản phục vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu, dự phòng và nâng cao sức khỏe không do bảo hiểm y tế chi trả mà được lấy từ nhiều nguồn khác nhau như: kinh phí của Chương trình mục tiêu y tế – dân số, ngân sách địa phương bảo đảm từ nguồn chi sự nghiệp y tế và nguồn ngân sách được thực hiện theo quy định của Bộ Tài chính. Riêng các dịch vụ khác ngoài các dịch vụ được đảm bảo từ các nguồn ngân sách trên, cơ sở y tế được phép thu của người sử dụng dịch vụ theo quy định của pháp luật hiện hành, từ nguồn kinh phí xã hội hóa và nguồn kinh phí hợp pháp khác.
Việc ban hành thông tư có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo sự tiếp cận của người dân đối với cơ sở khám chữa bệnh, giảm tải số lượng bệnh nhân ở tuyến trung ương. Quy định mới này thể hiện sư ưu tiên cho khám chữa bệnh ban đầu, đảm bảo sức khỏe cho người dân với chi phí thấp nhất. Thông tư bắt đầu có hiệu lực thi hành từ ngày 01/12/2017.
Phát Triển Y Học Gia Đình Từ Y Tế Cơ Sở
Y học gia đình phát triển theo sự phát triển của kinh tế xã hội và nguồn lực đầu tư cho y tế. Phát triển y học gia đình gắn với đổi mới, nâng cao chất lượng y tế cơ sở là một trong những giải pháp mà ngành y tế đang triển khai thực hiện nhằm giúp người dân được tiếp cận với các dịch vụ y tế có chất lượng ngay từ tuyến cơ sở.
Trên thế giới, ở nhiều quốc gia, mô hình trạm y tế theo nguyên lý y học gia đình được chú trọng phát triển và được người dân tin tưởng lựa chọn. Nguyên lý y học gia đình là chăm sóc sức khỏe toàn diện, liên tục, định hướng dự phòng cho cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng. Y tế cơ sở được coi là nền tảng, xương sống của hệ thống y tế; là “người gác cổng” của hệ thống y tế chăm sóc sức khỏe ban đầu, trực tiếp gần dân nhất. Y tế cơ sở là nơi dễ tiếp cận với chi phí thấp, công bằng xã hội, giảm quá tải bệnh viện tuyến trên. Chính vì thế, việc triển khai trạm y tế xã, phường hoạt động theo nguyên lý y học gia đình với 6 nguyên tắc: liên tục – toàn diện – lồng ghép – phối hợp – dự phòng – gia đình – cộng đồng sẽ giúp nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh cho người dân một cách hiệu quả.
6 nguyên lý của y học gia đình.
Trên cả nước hiện có hơn 11.100 trạm y tế xã, phường, thị trấn, thôn, bản… Đây là mạng lưới y tế cơ sở trực tiếp gần người dân nhất và có thể kịp thời phát hiện các dịch bệnh; triển khai các dịch vụ khám, chữa bệnh cơ bản; quản lý sức khỏe cho mỗi người dân… Y tế cơ sở Việt Nam được tổ chức quốc tế đánh giá là điểm sáng trên thế giới vì chúng ta có mạng lưới y tế cơ sở rộng khắp đến tận xã/phường, thậm chí tới cả y tế thôn bản.
Các chương trình đào tạo chăm sóc sức khỏe ban đầu (CSSKBĐ) theo nguyên lý y học gia đình cho các đối tượng khác công tác tại trạm y tế xã bao gồm y sĩ, điều dưỡng, hộ sinh và cán bộ dược đã được Hội đồng thẩm định trong tháng 8/2018 và được Bộ Y tế phê duyệt theo QĐ số 114/QĐ-K2ĐT ngày 31/8/2017. Các chương trình đào tạo này có thời lượng từ 3-6 tuần (y sĩ: 6 tuần, điều dưỡng, hộ sinh: 4 tuần, cán bộ dược: 3 tuần) và tập trung vào việc bổ sung, cập nhật kiến thức, kỹ năng thực hành CSSKBĐ theo nguyên lý học gia đình để đảm bảo chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển và nhân rộng mô hình trạm y tế xã hoạt động theo nguyên lý y học gia đình.
Y tế cơ sở là “người gác cổng” của hệ thống y tế chăm sóc sức khỏe ban đầu, trực tiếp gần dân nhất.
Đã có nhiều chính sách để tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng và phát triển hệ thống y tế cơ sở như: Nghị quyết số 20/NQ-TW ngày 25/10/2017 về tăng cường công tác chăm sóc bảo vệ sức khỏe nhân dân trong tình hình mới nêu rõ quan điểm coi y tế cơ sở nền tảng, thực hiện bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân; Quyết định số 2348/QĐ-TTg ngày 5/12/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án xây dựng và phát triển mạng lưới y tế cơ sở trong tình hình mới đã được ban hành (Đề án 2348), chương trình hành động triển khai Quyết định 2348 và xây dựng hướng dẫn mô hình điểm cho trạm y tế của 26 xã, phường và Quyết định số 2559/QĐ-BYT ngày 20/4/2018 của Bộ Y tế về tăng cường quản lý và điều trị tăng huyết áp, đái tháo đường theo nguyên lý y học gia đình tại trạm y tế xã giai đoạn 2018 – 2020.
Như vậy ngày càng khẳng định tính ưu việt của y học gia đình trong chăm sóc sức khỏe ban đầu tại tuyến y tế cơ sở, gần với dân để người dân dễ dàng tiếp cận dịch vụ y tế và vì vậy người dân sẽ được tư vấn nhiều hơn, cụ thể và hiệu quả.
Hệ Thống Y Tế Cơ Sở: Chưa Hiệu Quả
Theo định nghĩa của Bộ Y tế, y tế cơ sở là mạng lưới y tế từ tuyến huyện đến tuyến xã, là tuyến y tế gần dân nhất, có vai trò chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người dân với chi phí thấp.
Theo Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến đánh giá tại hội nghị tham vấn đề án tăng cường y tế cơ sở giai đoạn 2016-2025 : “Y tế cơ sở đã góp phần thiết thực làm giảm tỉ lệ mắc và tỉ lệ chết của nhiều bệnh dịch nguy hiểm. Nhiều nội dung chăm sóc sức khoẻ ban đầu và nâng cao sức khoẻ đã được triển khai rộng khắp và đạt hiệu quả thiết thực như tiêm chủng mở rộng, phòng chống suy dinh dưỡng, chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em, giám sát dịch bệnh… Nhờ đó, các chỉ số sức khoẻ của người dân đã được cải thiện rõ rệt, phần lớn các chỉ tiêu tổng quát về sức khoẻ của nước ta đều vượt các nước có cùng mức thu nhập bình quân đầu người”.
Y tế cơ sở là “xương sống” của hệ thống y tế Việt Nam
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, y tế cơ sở còn rất nhiều bất cập, khó khăn mà ngay cả Bộ trưởng Bộ Y tế cũng phải thừa nhận, đặc biệt là về chất lượng khám, chữa bệnh. Theo thống kê, tính đến nay, mặc dù 100% trạm y tế xã, phường, thị trấn trên cả nước đã có cán bộ y tế nhưng chỉ 60% đạt tiêu chí quốc gia về y tế xã, còn tới 40% xã chưa đạt do hạn chế về cơ sở hạ tầng, trang thiết bị, nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu. 90% thôn, bản có cán bộ y tế nhưng tỷ lệ được đào tạo theo quy định mới chỉ đạt ở khoảng 69%.
Tổ chức JICA của Nhật Bản đã dẫn chứng có những bệnh rất thông thường như viêm họng, nhưng cơ sở y tế tuyến huyện cũng phải chuyển bệnh nhân lên tuyến trên do không điều trị được vì thiếu cán bộ có trình độ chuyên môn. Hay ở xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, nằm ngay trên địa bàn thủ đô, trung tâm y tế xã hầu như… đóng cửa vì chẳng có bệnh nhân nào đến khám, chữa bệnh. Tại các quận nội thành, phòng y tế cũng không khả quan hơn khi bệnh nhân vắng đến mức trầm trọng, đến nỗi nếu không có những đợt dịch bệnh xảy ra, nếu nhân viên y tế không phải đi khảo sát, tìm hiểu, vận động người dân đi tiêm phòng… thì không ai biết đến phòng y tế tại các quận, huyện. Nhiều nhân viên y tế tuyến cơ sở công việc chính nhiều ngày là “ngồi chơi xơi nước”. Khác hẳn với sự tấp nập, bận rộn không kịp thở của các bác sĩ, thầy thuốc ở các bệnh viện tuyến trên.
Bộ Y tế cũng đã thống kê chất lượng điều trị các cơ sở y tế thuộc tuyến huyện, xã… không đủ thuyết phục và tạo niềm tin cho người đến khám, chữa bệnh. Có tới 70% bệnh nhân vượt tuyến ở trung ương trong khi bệnh có thể điều trị ở tuyến dưới; 81,8% bệnh nhân vượt tuyến ở tỉnh có thể điều trị ở huyện, xã và 67,9% bệnh nhân vượt tuyến ở huyện có thể điều trị ở ngay tuyến xã.
Có không ít phòng khám tuyến cơ sở, thiết bị y tế giá trị nhất chỉ là chiếc máy siêu âm nhưng cũng chỉ thuộc “đời cũ”. Còn lại không có thiết bị gì hiện đại ngoài tai nghe tim, phổi, kim tiêm, xi lanh, máy đo huyết áp. Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến thừa nhận: “Hệ thống y tế cơ sở nước ta hiện nay bộc lộ nhiều bất cập, khó khăn. Cụ thể như mạng lưới y tế cơ sở còn cồng kềnh, chưa thống nhất, thiếu thốn về cơ sở, vật chất, cán bộ chuyên môn, quản lý chồng chéo… Trong khi đó đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ y tế tuyến xã, tuyến huyện vẫn còn chưa được chú trọng nên còn hạn chế về chất lượng chuyên môn, chưa tạo được niềm tin cho người dân”.
Giải pháp “2 trong 1”
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam yêu cầu Bộ Y tế tiếp tục xây dựng đề án quy hoạch mạng lưới y tế cơ sở Việt Nam, tập trung vào những nhiệm vụ trọng tâm: Xác định rõ vai trò, phạm vi của mạng lưới y tế cơ sở và mối quan hệ giữa y tế cơ sở và hệ thống bác sĩ gia đình. Xác định những dịch vụ kỹ thuật được cung cấp tại tuyến y tế cơ sở, đồng thời chuẩn hóa và có hệ thống đánh giá nghiêm ngặt các dịch vụ kỹ thuật này. Đào tạo, chú trọng nâng cao năng lực cho cán bộ y tế cơ sở làm việc tại cộng đồng, nghiên cứu, đề xuất chế độ, chính sách đãi ngộ phù hợp cho cán bộ y tế cơ sở trên toàn quốc. Đồng thời, phải đẩy mạnh công tác truyền thông, chăm sóc sức khỏe ban đầu, an toàn, vệ sinh thực phẩm và môi trường.
Để giải quyết vấn đề trên, Bộ Y tế xác định, các phòng khám, trung tâm y tế tại xã, huyện… sẽ thay đổi cơ chế hoạt động không chỉ khám, chữa bệnh đơn thuần mà gồm cả dự phòng để nâng cao năng lực, vai trò của hệ thống. Cụ thể là thí điểm, mở rộng mô hình theo dõi, quản lý, chăm sóc sức khỏe cho cá nhân và hộ gia đình; lồng ghép, bổ sung nhiệm vụ của phòng khám bác sĩ gia đình vào trạm y tế tuyến xã để bảo đảm việc chăm sóc sức khỏe liên tục, gắn kết giữa chăm sóc sức khỏe tại nhà, tại cộng đồng với trạm y tế và bệnh viện, đặc biệt là với các bệnh không lây nhiễm, bệnh mạn tính.
Tuy nhiên với mô hình “2 trong 1” này, vấn đề đặt ra là nguồn nhân lực. Nếu hệ thống y tế cơ sở hoạt động với mô hình “2 trong 1” thì chắc chắn cần phải có đội ngũ nhân viên y tế không những đủ về số lượng mà còn phải giỏi chuyên môn. Vậy, nguồn nhân lực này sẽ tìm ở đâu? Trong khi trình độ của nhân viên y tế ở hệ thống y tế cơ sở vẫn được đánh giá còn yếu. Người giỏi thì không về công tác tại tuyến y tế cơ sở do mức lương thấp, chỉ 5-6 triệu đồng/tháng, trong khi nếu làm việc cho các bệnh viện tư ở những thành phố lớn, mức lương có thể gấp 4 lần. Như vậy, nhân lực vẫn là câu hỏi khó cho ngành y. Mà câu hỏi này nếu chưa trả lời được thì nâng cao chất của hệ thống y tế cơ sở vẫn nằm… ngoài tầm với của các nhà quản lý.
Trước câu hỏi trên, Bộ Y tế khẳng định phải bảo đảm chế độ đãi ngộ đối với các bác sĩ có chuyên môn tốt công tác ở tuyến y tế cơ sở. Đồng thời, trong giai đoạn 2016-2020, phấn đấu mỗi cán bộ y tế cơ sở được dự ít nhất 1-2 lớp tập huấn; luân chuyển, điều động bác sĩ y tế xã với bệnh viện và ngược lại để phát huy hiệu quả nguồn nhân lực. Ngoài ra, tăng cường đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất và trang thiết bị cho các bệnh viện, trung tâm y tế ở các huyện, trạm y tế xã với tổng kinh phí ước tính hơn 28 nghìn tỷ đồng. Tất cả các giải pháp này phải thực hiện một cách đồng bộ và quyết liệt để đạt hiệu quả.
Xuân Tùng
Nguồn :
Các Cơ Sở Y Tế: Nhiễm Khuẩn Và Kiểm Soát Nhiễm Khuẩn
Theo Bộ Y tế (MoH), nhiễm khuẩn (Infection) là một trong những thách thức của ngành y tế và kiểm soát nhiễm khuẩn (Infection control) tại các cơ sở y tế là mối quan tâm hàng đầu tại Việt Nam cũng như trên toàn thế giới. Nhiễm khuẩn y tế có thể được xem như là bệnh gây ra tại các cơ sở y tế do đây là những nhiễm khuẩn mắc phải chỉ trong thời gian bệnh nhân nằm điều trị.
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), nhiễm khuẩn do chăm sóc y tế (healthcare-associated infections_HAIs) còn gọi là nhiễm khuẩn bệnh viện (nosocomial infection) do bệnh nhân bị phơi nhiễm các nguy cơ nhiễm khuẩn khi đến khám chữa bệnh ở các cơ sở y tế, đặc biệt khi họ trải qua điều trị và thủ thuật xâm lấn. Nhiễm khuẩn bệnh viện (HAIs) tác động tới bệnh nhân, người nhà bệnh nhân, nhân viên y tế và cơ sở y tế là nguyên nhân quan trọng gây bệnh tật và tử vong và làm tăng chi phí y tế. Một trường hợp nhiễm khuẩn thường được coi là nhiễm khuẩn bệnh viện nếu xảy ra ≥ 48 giờ sau khi nhập viện; phòng chống nhiễm khuẩn (Infection prevention and control_IPC), mặc dù thường bị coi nhẹ và không được hỗ trợ đúng mức là một phần thiết yếu của cơ sở hạ tầng y tế. Thực hành IPC tối thiểu được khuyến cáo trong cơ sở y tế là tất cả nhân viên, bệnh nhân và người nhà bệnh nhân, dù mới bị nghi hay khẳng định đã bị nhiễm khuẩn đều áp dụng biện pháp phòng ngừa chuẩn (standard precautions_SP).
Thành phần khuyến cáo của phòng ngừa chuẩn SP gồm thực hành/sử dụng đúng cách vệ sinh bàn tay, vệ sinh hô hấp và che miệng khi ho, phương tiện phòng hộ cá nhân, làm sạch môi trường, xử lý chất thải, phòng tránh thương tích do vật sắc nhọn, xử lý đồ vải và dụng cụ chăm sóc bệnh nhân, lau chùi, khử khuẩn và tiệt trùng dụng cụ. Không áp dụng các biện pháp kiểm soát nhiễm khuẩn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho mầm bệnh lây lan, khiến cơ sở y tế trở thành nơi lây lan bệnh trong các đợt bùng phát dịch ảnh hưởng tới bệnh viện cũng như sức khỏe cộng đồng. Sự xuất hiện của những bệnh truyền nhiễm đe dọa tính mạng con người như hội chứng viêm đường hô hấp cấp (severe acute respiratory syndrome_SARS), các bệnh sốt xuất huyết do vi rút (Ebola, Marburg) và vi khuẩn đa kháng thuốc (lao đa kháng thuốc, staphylococcus aureus kháng methicillin) đòi hỏi nhu cầu cấp bách thực hành kiểm soát nhiễm khuẩn hiệu quả trong chăm sóc y tế.
Theo WHO và MoH, m ọi vi sinh vật như virut, vi khuẩn, ký sinh trùng, nấm… đều có thể gây HAIs . Tuy nhiên, vi khuẩn là căn nguyên phổ biến nhất và thường đã kháng kháng sinh hoặc ít nhất cũng có mức độ kháng cao hơn ở cộng đồng.
Vi khuẩn
Là tác nhân gây HAIs quan trọng nhất bao gồm một số loại vi khuẩn chủ yếu là:
– Cầu khuẩn gram (+): tụ cầu, liên cầu… hầu hết đã kháng nhiều loại kháng sinh như Penicilline, gần đây phát hiện đã kháng Methiciline.
– Trực khuẩn gram (+): Bacillus, Clostridium perfringens (hoại thư sinh hơi)… gây bệnh ở mắt, mô mềm, phổi, vết thương…
– Vi khuẩn gram (-): Pseudomonas aeruginosa (trực khuẩn mủ xanh), E. coli, Salmonella, Shigella, Klebsiella, Proteus, Enterobacter… thường gây bệnh nặng, khó điều trị do đã kháng các kháng sinh thông dụng.
Virut
– Virut lây truyền qua đường tiêu hóa: Polyovirus, Hepatitis A và E, Echovirus, Coxsackie A và B, Adenovirus, Rotavirus, Coronavirus …
– Virut lây truyền qua đường hô hấp: sởi, quai bị, cúm, á cúm, Adenovirus, Coronavirus …
– Virut lây truyền qua đường máu chủ yếu là HIV, viêm gan B, C…
Tác nhân khác
Ngoài ra, HAIs còn do một số tác nhân khác ít gặp hơn như nấm, ký sinh trùng, đơn bào như là nấm Candida spp, Aspergillus (thường gặp ở khoa hồi sức cấp cứu), hoặc một số ký sinh trùng như Pneumocystic carinii, Toxoplasma gondii, Cryptosporidium…
Tình hình nhiễm khuẩn tại các cơ sở y tế
Theo WHO, nhiễm khuẩn y tế (HAIs) xảy ra ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là hệ thống y tế của tất cả các nước phát triển và nước nghèo đều chịu tác động nghiêm trọng của HAIs. Nghiên cứu điều tra cắt ngang HAIs tại 55 cơ sở y tế của 14 nước trên thế giới đại diện cho các khu vực công bố tỉ lệ HAIs là 8,7% và ước tính ở bất cứ thời điểm nào cũng có hơn 1, 4 triệu người bệnh trên thế giới mắc HAIs. Nghiên cứu đưa ra 5 hậu quả của HAIs đối với bệnh nhân như làm tăng tỷ lệ tử vong, kéo dài thời gian nằm viện, tăng việc sử dụng kháng sinh, tăng đề kháng kháng sinh và chi phí điều trị. Cùng với sự xuất hiện một số bệnh gây ra bởi những vi sinh vật kháng thuốc hoặc do những tác nhân gây bệnh mới, HAIs vẫn còn là vấn đề nan giải ngay cả ở các nước đã phát triển. Thống kê cho thấy tỉ lệ NKBV vào khoảng 5-10% ở các nước đã phát triển và lên đến 15-20% ở các nước đang phát triển.Căn nguyên gây HAIs có mức độ đa kháng kháng sinh cao hơn căn nguyên gây nhiễm khuẩn trong cộng đồng, HAIs kéo dài thời gian nằm viện trung bình từ 7-15 ngày làm gia tăng sử dụng kháng sinh và kháng kháng sinh do đó, chi phí của một HAIs thường gấp từ 2-4 lần so với những trường hợp không mắc HAIs. Theo một số nghiên cứu, chi phí phát sinh do nhiễm khuẩn huyết bệnh viện là 34.508 đến 56.000 USD và do viêm phổi bệnh viện là 5.800 đến 40.000 USD. Hằng năm thế giới có khoảng 2 triệu bệnh nhân mắc HAIs làm 90.000 người tử vong và tốn thêm 4,5 tỉ USD viện phí. Trong đó, tại Hoa Kỳ (USA) cứ 20 bệnh nhân nhập viện thì có 1 bệnh nhân nhiễm HAIs; tại Vương quốc Anh (UK), mỗi năm có khảng 100.000 người mắc HAIs với trên 5000 ca tử vong, chi phí tăng thêm 1 tỉ bảng Anh. Ở các nước đang phát triển, tình hình HAIs còn nặng nề hơn do không đủ nguồn lực cho công tác kiểm soát nhiễm khuẩn, theo thống kê năm 2001 tỷ lệ HAIs tại Malaysia là 13,9% và là nguyên nhân tử vong hàng đầu ở trẻ sơ sinh; ở Brazil và Indonesia tỷ lệ HAIs trên 50% bệnh nhi và tử vong từ 12-52%. HAIs không chỉ gây bệnh cho bệnh nhân mà còn cho cả nhân viên y tế, điển hình là đại dịch SARS năm 2003 đã làm cho nhân viên y tế nhiễm bệnh 20-60% so với tổng số ca mắc trên toàn thế giới.
Tình hình mắcHAIs tại Việt nam chưa có con số thống kê đầy đủ và ít tài liệu nghiên cứu cũng như giám sát được công bố ,n hững chi phí tốn kém do HAIs trong toàn quốc cũng chưa được xác định. Tuy nhiên, quy chế chống HAIs lần đầu tiên được Bộ Y tế ban hành vào năm 1997, sau đó có ba điều tra cắt ngang (point prevalence) quốc gia đã được thực hiện. Kết quả điều tra năm 1998 trên 901 bệnh nhân trong 12 bệnh viện toàn quốc cho thấy tỷ lệ HAIs là 11.5%, nhiễm khuẩn vết mổ chiếm 51% trong tổng số các HAIs; năm 2001 điều tra trên 5.396 bệnh nhân ở 11 bệnh viện toàn quốc (6 BV trung ương, 5 BV tỉnh), phát hiện 369 bệnh nhân với tỷ lệ HAIs là 6.8%, trong đó nguyên nhân do viêm phổi chiếm 41.8%; năm 2005 tỷ lệ HAIs trong 19 bệnh viện toàn quốc cho thấy là 5.7% và nguyên nhân do viêm phổi chiếm 55.4%. Các nguyên nhân gây HAIs thường gặp là: hô hấp (41,9%), vết mổ (27,5%), tiết niệu (13,1%), tiêu hóa (10,3%), da và mô mềm (4,1%), nhiễm trùng huyết (1,0%), nhiễm khuẩn khác (2,0%). Tác nhân gây mắc HAIs chủ yếu là vi khuẩn gram âm (78%), gram dương (19%) và Candida sp (3%). Chưa có những nghiên cứu quốc gia đánh giá chi phí của HAIs, theo một nghiên cứu của Bệnh viện Chợ Rẫy HAIs làm kéo dài thời gian nằm viện 15 ngày với viện phí trung bình mỗi ngày là 192.000đ và tổng chi phí phát sinh do mắc HAIs khoảng 3.000.000đ. Tại Bệnh viện Bạch Mai, số ngày nằm viện gia tăng do nhiễm khuẩn vết mổ (11, 4 ngày), nhiễm khuẩn huyết (24, 3 ngày) và nhiễm khuẩn hô hấp (7, 8 ngày) với tổng chi phí phát sinh trung bình tăng thêm lần lượt là 1, 9 triệu đồng, 32, 3 triệu đồng và 23, 6 triệu đồng. Kết quả điều tra tại một số bệnh viện phía Bắc (Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện Việt Đức, Bệnh viện Thanh Nhàn, Bệnh viện Lao & bệnh phổi Trung ương), tỷ lệ HAIs hằng năm từ 3-7% chủ yếu là nhiễm trùng hô hấp, vết mổ và tiết niệu. Năm 2003, dịch SARS tại Việt Nam làm 37 nhân viên y tế nhiễm bệnh và dịch cúm A (H1N1) làm hàng chục nhân viên y tế nhiễm bệnh tại các cơ sở y tế.
Mặc dù kiểm soát nhiễm khuẩn ở các cơ sở y tế còn nhiều khó khăn nhưng WHO cho rằng chương trình kiểm soát HAIs hoàn toàn có thể ngăn ngừa thông qua những chuẩn mực về chất lượng chăm sóc và thực hành lâm sàng. Nghiên cứu về hiệu quả của chương trình kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện SENIC (Study on the Efficacy of Nosocomial Infection Control) năm 1970 -1976 đã chứng minh rằng một chương trình kiểm sóat HAIs bao gồm giám sát và áp dụng kỹ thuật có thể làm giảm 33% HAIs có ý nghĩa thiết thực nâng cao chất lượng điều trị và hiệu quả kinh tế. Việc kiểm soát và dự phòng HAIs hiệu quả được xem như là một tiêu chuẩn quan trọng nhằm nâng cao chất lượng khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế trên thế giới cũng như Việt Nam.
Thống nhất với Điều lệ y tế quốc tế (International Health Regulations_IHR 2005) và Chiến lược Kiểm soát các bệnh mới nổi ở khu vực châu Á Thái Bình Dương (Asia Pacific Strategy for Emerging Diseases_APSED 2010), Văn phòng WHO tại Việt Nam đang cung cấp hỗ trợ kỹ thuật với những hoạt động như hỗ trợ mua sắm và phân bổ trang thiết bị kiểm soát nhiễm khuẩn (supporting the acquisition and distribution of IPC equipment); hỗ trợ xây dựng các hiệp hội kiểm soát nhiễm khuẩn bao gồm việc xây dựng các trang web để chia sẻ thông tin (supporting the development of IPC associations, including the development of websites for information sharing); xây dựng năng lực ở cấp khu vực, cấp tỉnh và huyện thông qua đào tạo về dịch tễ học trong y tế và kỹ thuật giám sát bệnh (building capacity at regional, provincial and district level through training in healthcare epidemiology and disease surveillance techniques); xây dựng và triển khai thực hiện chính sách và hướng dẫn kỹ thuật dựa vào bằng chứng; thiết lập cơ chế hỗ trợ tuân thủ thực hành kiểm soát nhiễm khuẩn (Establishing mechanisms to support compliance with IPC practices).
Vô khuẩn
Kỹ thuật vô khuẩn với các dụng cụ phẫu thuật, nội soi… cần được tuân thủ nghiêm ngặt khi thực hiện các thủ thuật xâm nhập, phẫu thuật, chăm sóc vết thương như tại vùng da bệnh nhân dự kiến phẫu thuật: sát khuẩn bằng hóa chất; dùng kéo cắt bỏ lông, tóc (nếu có), không nên dùng dao cạo vì gây tổn thương vi thể có thể dẫn tới HAIs. Các dụng cụ, đồ dùng trong BV (quần áo, giường tủ…) và chất thải của BN cần được vệ sinh, khử khuẩn bằng các biện pháp thích hợp, đối với các dụng cụ y tế dùng lại phải bảo đảm xử lý vệ sinh theo đúng các quy định của Bộ Y tế.
Cách ly bệnh nhân
Tổ chức thực hiện các biện pháp cách ly phòng ngừa như: phòng ngừa chuẩn, phòng ngừa bổ sung (dựa theo đường lây truyền bệnh); tổ chức thực hiện các hướng dẫn và kiểm tra các biện pháp thực hành kiểm soát nhiễm khuẩn theo tác nhân, cơ quan và bộ phận bị HAIs. Một số trường hợp cần thiết có thể tiến hành cách ly nhằm ngăn ngừa sự lây lan từ bệnh nhân sang bệnh nhân, nhân viên y tế, người nhà, khách thăm… Tuy nhiên, việc tổ chức cách ly phải linh hoạt và tùy thuộc từng bệnh cụ thể và hoàn cảnh của BV. Bệnh lây qua đường tiêu hóa như tả, viêm gan A, viêm dạ dày – ruột…: mang găng và vệ sinh bàn tay tốt, bệnh nhân nên dùng riêng dụng cụ ăn uống… Bệnh lây qua đường hô hấp như lao, cúm, quai bị…: luôn mang khẩu trang, rửa tay, thông thoáng không khí, hạn chế khách thăm… Một số bệnh nguy hiểm như SARS cần cách ly nghiêm ngặt (phòng điều trị riêng, máy điều hòa, lọc khí riêng, cấm khách thăm, mang khẩu trang hoặc mặt nạ hô hấp, vô khuẩn tốt dụng cụ, đồ dùng của BN…). Bệnh lây qua đường máu, da và niêm mạc như HIV, viêm gan B, C…: mang găng, vô khuẩn dụng cụ tốt, xử lý tốt chất thải là máu, dịch cơ thể.
Chính sách
Xây dựng chính sách quốc gia về tăng cường công tác kiểm soát nhiễm khuẩn; ban hành các quy định, hướng dẫn thực hành kiểm soát nhiễm khuẩn trong các cơ sở khám, chữa bệnh và xây dựng các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng thực hành kiểm soát nhiễm khuẩn để đưa vào nội dung kiểm tra BV hằng năm và đánh giá chất lượng BV.
Đào tạo phổ cập về kiểm soát nhiễm khuẩn cho các thầy thuốc, nhân viên của cơ sở khám chữa bệnh bao gồm các thực hành về phòng ngừa chuẩn và phòng ngừa dựa vào đường lây, các hướng dẫn thực hành phòng ngừa HAIs theo cơ quan, vị trí; đưa chương trình đào tạo kiểm soát nhiễm khuẩn thành chương trình chính quy trong các trường y tế và triển khai chương trình đào tạo vệ sinh bệnh viện cho hộ lý và nhân viên vệ sinh các cơ sở y tế.
Giám sát
Thực hành giám sát để có cơ sở dữ liệu về HAIs, tác nhân gây bệnh, vi khuẩn kháng thuốc… Giám sát HAIs là một trong những yếu tố quan trọng để cải thiện tình hình HAIs. Nhân viên kiểm soát HAIs thường phải dành nhiều thời gian để tiến hành giám sát và nhận biết những người bệnh HAIs, xác định vị trí và những yếu tố góp phần nhiễm khuẩn giúp các cơ sở y tế có kế hoạch đánh giá hiệu quả của những can thiệp này, đồng thời tạo tiền đề thực hiện các nghiên cứu về kiểm soát nhiễm khuẩn, kiểm soát kháng sinh, đưa ra những quy định chính sách sử dụng kháng sinh và hạn chế những hoạt động tiếp thị của các hãng thuốc trong cơ sở y tế.
Administrator
Bạn đang xem bài viết Quy Định Về Gói Dịch Vụ Y Tế Cơ Bản Tại Tuyến Y Tế Cơ Sở trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!