Cập nhật thông tin chi tiết về Thế Nào Là Một ” Bài Báo Khoa Học” ? mới nhất trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
THẾ NÀO LÀ MỘT “BÀI BÁO KHOA HỌC”?
Bài báo khoa học (tiếng Anh: scientific paper hay có kho viết tắt là paper) là một bài báo có nội dung khoa học được công bố trên một tập san khoa học (scientific journal) đã qua hệ thống bình duyệt (peer-review) của tập san. Ở đây có 2 vấn đề được bàn đến: NỘI DUNG BÀI BÁO, TẬP SAN KHOA HỌC VÀ HỆ SỐ ẢNH HƯỞNG.
1. NỘI DUNG KHOA HỌC CỦA MỘT BÀI BÁO.
– Thứ nhất, bài báo mang tính cống hiến nguyên gốc (original contributions). Hai chữ “nguyên gốc” ở đây có thể hiểu theo hai nghĩa: dữ liệu mới và ý tưởng hoặc phương pháp mới. Một bài báo nguyên gốc là bài báo có dữ liệu chưa từng công bố trước đây. Cách hiểu này để phân biệt với những bài báo tổng quan.
Một công trình nghiên cứu nếu được thiết kế tốt sẽ có hàng loạt bài báo gốc chứ không phải chỉ một bài duy nhất.
Ý nghĩa thứ hai của bài bá “nguyên gốc” là những bài báo có ý tưởng hoặc phương phá mới. Đó là những công trình nghiên cứu đề ra một cách tiếp cận mới, một ý tưởng mới hay một cách diễn giải mới. Có khi một công trình nhiên cứu có thể có nhiều phát hiện mới và cần phải có nhiều bài báo nguyên gốc để truyền đạt những phát hiện này. Cống hiến mới cho khoa học không chỉ phát hiện mới, mà có thể bao hàm phương pháp mới để tiếp cận vấn đề cũ, hay một cách diễn dịch mới cho phát hiện xa xưa. Do đó, các bài báo khoa học ở dạng này cũng có thể xem là những cống hiến nguyên gốc.
Tất cả các bài báo thể hiện những cống hiến nguyên gốc, trên nguyên tắc, đều phải thông qua hệ thống bình duyệt trước khi được công bố. Một bài báo chưa qua hệ thống bình duyệt chưa thể xem là một “bài báo khoa học”.
– Thứ hai, những bài báo nghiên cứu ngắn (short communications, hay research letters hay short paper…v.v…). Đây là những bài báo rất ngắn (chỉ khoảng từ 600-1000 chữ, tùy theo quy định của tập san) mà nội dung chủ yếu tập trung giải quyết một vấn đề rất hẹp hay báo cáo một phát hiện nhỏ nhưng quan trọng. Những bài báo này vẫn phải qua hệ thống bình duyệt nghiêm chỉnh nhưng mức độ rà soát không cao như các bài báo cống hiến nguyên gốc. Cần phải nói thêm ở đây phần lớn các bài báo công bố trên tập san Nature (một tập san uy tín vào hàng số 1 trong kha học) là Letter, nhưng thực chất là bài báo nguyên gốc có giá trị khoa học rất cao, chứ không phải những lá thư thông thường.
– Thứa ba là những báo cáo trường hợp (case reports).
Những báo cáo trường hợp cũng qua bình duyệt, nhưng nói chung không khó khăn như những bài báo nguyên gốc.
– Thứ tư là những bài tổng quan (reviews)
– Thứ năm là những bài xã luận (editorials).
Xã luận cũng không phải là một cống hiến nguyên thủy, do đó giá trị của nó không thể tương đương những bài báo nguyên thủy. Thông thường các bài xã luận không qua hệ thống bình duyệt mà chỉ được ban biên tập đọc qua và góp vài ý nhỏ trước khi công bố.
– Thứ sáu là nhưng thư cho tòa soạn (letters to the editor).
Nhiều tập san dành hẳn một mục cho bạn đọc phản hồi những bài báo đã đăng trên tập san. Đây là những bài viết rất ngắn (chỉ từ 300-500 chữ, hay một trang, tùy theo quy định của tập san) của bạn đọc về một điểm nhỏ nào đó của bài báo đăng. Những thư này thường phê bình hay chỉ ra một sai lầm nào đó trong bài báo khoa học đã đăng. Những thư bạn đọc không phải qua hệ thống bình duyệt nhưng thường gửi cho tác giả bài báo nguyên thủy để họ đáp lời hay bàn thêm. Tuy nói là thư bạn đọc, nhưng không phải thư nào cũng được đăng nếu không nêu được vấn đề một cách súc tích và có ý nghĩa.
– Sau cùng là những bài báo trong kỷ yếu hội nghị. Có 2 loại bài báo trong nhóm này: nhóm 1 gồm những bài báo ngắn (proceeding paper) và nhóm 2 gồm những bìa báo tóm lược (abstracts)
2. TẬP SAN KHOA HỌC VÀ HỆ SỐ ẢNH HƯỞNG.
Tập san khoa học là những tờ báo xuất bản định kỳ, có thể mỗi tuần, mỗi tháng hay mỗi ba tháng, thậm chí 6 tháng 1 lần. Mục tiêu chính của các tập san khoa học là chuyên chở thông tin đến giới nghiên cứu khoa học nhằm từng bước phát triển khoa học. các tập san khoa học còn là những diễn đàn khoa học để giới khoa học có cùng cuyên môn trao đổi học hỏi lẫn nhau.
Uy tín của một tập san thường được đánh giá qua hệ số ảnh hưởng (Impact Factor hay IF). IF được tính toán dựa vào số lượng bài báo công bố và tổng số lần những bài báo đó được tham khảo hay trích dẫn (citations). Do đó tập san nào có hệ số IF cao cũng được hiểu ngầm là có uy tín và ảnh hưởng cao.
3. Ý NGHĨA XÃ HỘI CỦA BÀI BÁO KHOA HỌC.
Một bài báo chỉ khi nào được xem là “bài báo khoa học” nếu nó qua cơ chế bình duyệt và được công bố trên một tập san chuyên môn. Những bài báo xuất hiện dưới dạng bản tóm tắt hay thậm chí bài báo ngắn không thể xem là những bài báo khoa học bởi vì nó không đáp ứng được hai yêu cầu trên.
Theo GS. Nguyễn Văn Tuấn
Thế Nào Là Một “Bài Báo Khoa Học” ?
Báo điện tử VietnamNet số ra ngày 11/3/2004 trong bài phỏng vấn giáo sư Đỗ Trần Cát về tiêu chuẩn mới trong việc phong chức danh giáo sư có một trao đổi đáng chú ý như sau:
“Phóng viên: “Thực ra, đến nay vẫn chưa có định nghĩa nào về ‘bài báo khoa học’. Vậy năm nay, với những sửa đổi như ông nói thì quy định về “bài báo khoa học” có gì khác?
Trả lời: Bài báo khoa học phải là công trình khoa học chứa đựng kết quả nghiên cứu mới, phù hợp với chuyên ngành đăng ký chức danh. Bài báo đó phải được công bố trên một trong những tạp chí khoa học chuyên ngành quy định. Cụ thể là: Các tạp chí uy tín do các Hội đồng chức danh giáo sư ngành, liên ngành lựa chọn, đề nghị thường trực Hội đồng nhà nước về chức danh giáo sư quyết định.”(http://vietnamnet.vn/giaoduc/vande/2004/03/54931/, truy nhập ngày 22/11/2005)
Ở đây, trong khuôn khổ bài viết này, tôi sẽ nới rộng định nghĩa trên và cụ thể hóa thế nào là một bài báo khoa học. Tôi sẽ xoay quanh ba khía cạnh chính: phân loại bài báo khoa học, tập san khoa học và cơ chế bình duyệt bài báo khoa học.
Trong hoạt động nghiên cứu khoa học, bài báo khoa học đóng một vai trò hết sức quan trọng. Nó không chỉ là sản phẩm tri thức, mà còn là một loại tiền tệ của giới làm khoa học, bởi vì qua đó mà người ta có thể đánh giá khả năng chuyên môn và năng suất khoa học của nhà nghiên cứu. Giới làm nghiên cứu khoa học nói chung nhất trí rằng cái chỉ tiêu số 1 để đề bạt một nhà khoa học là dựa vào số lượng và chất bài báo khoa học đã công bố trên các tập san chuyên ngành [1]. Trên bình diện quốc gia, số lượng bài báo khoa học là một thước đo về trình độ khoa học kĩ thuật và hiệu suất khoa học của một nước. Chính vì thế mà tại các nước Tây phương, chính phủ có hẳn một cơ quan gồm những chuyên gia chuyên đo đếm và đánh giá những bài báo khoa học mà các nhà khoa học của họ đã công bố trong năm.
Nhưng cũng giống như sản phẩm công nghệ có nhiều hình thức và giá trị khác nhau, các bài báo khoa học cũng xuất hiện dưới nhiều dạng khác nhau và giá trị cũng không đồng nhất. Đối với người ngoài khoa học và công chúng nói chung, phân biệt được những bài báo này không phải là một chuyện dễ dàng chút nào. Thật ra theo kinh nghiệm của người viết bài này, ngay cả trong giới khoa bảng và giáo sư đại học, có khá nhiều người vẫn chưa biết thế nào là một bài báo khoa học nghiêm chỉnh và có lẽ vì hiểu sai cho nên một số giáo sư đã trình bày trong lí lịch khoa học của mình một cách thiếu chính xác, có khi khá khôi hài. Bài viết ngắn này sẽ bàn qua về tiêu chuẩn của một bài báo khoa học. Phần lớn những phát biểu trong bài viết này được rút ra từ kinh nghiệm thực tế trong lĩnh vực y sinh học, và có thể không hoàn toàn đúng cho các lĩnh vực nghiên cứu khác mà bạn đọc có thể bổ sung thêm.
Bài báo khoa học
Nói một cách ngắn gọn, bài báo khoa học (tiếng Anh: “scientific paper” hay có khi viết ngắn là paper) là một bài báo có nội dung khoa học được công bố trên một tập san khoa học (scientific journal) đã qua hệ thống bình duyệt (peer-review) của tập san. Ở đây có ba vế của định nghĩa mà bài này sẽ lần lược bàn đến: nội dung bài báo, tập san, và cơ chế bình duyệt. Trước hết xin bàn về nội dung khoa học của một bài báo.
Thứ nhất là những bài báo mang tính cống hiến nguyên thủy (original contributions). Đây là những bài báo khoa học nhằm báo cáo kết quả một công trình nghiên cứu, hay đề ra một phương pháp mới, một ý tưởng mới, hay một cách diễn dịch mới. Có khi một công trình nghiên cứu có thể có nhiều phát hiện mới, và cần phải có nhiều bài báo nguyên thủy để truyền đạt những phát hiện này. Một công trình nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (randomized clinical trials) hay một công trình dịch tễ học lớn có thể có đến hàng trăm bài báo nguyên thủy.
Cống hiến mới cho khoa học không chỉ giới hạn trong phát hiện mới, mà có thể bao gồm cả những phương pháp mới để tiếp cận một vấn đề cũ, hay một cách diễn dịch mới cho một phát hiện xa xưa. Do đó các bài báo khoa học ở dạng này cũng có thể xem là những cống hiến nguyên thủy. Tất cả những bài báo này đều phải qua hệ thống bình duyệt một cách nghiêm chỉnh.
Tất cả các bài báo thể hiện những cống hiến nguyên thủy, trên nguyên tắc, đều phải thông qua hệ thống bình duyệt trước khi được công bố. Một bài báo không hay chưa qua hệ thống bình duyệt chưa thể xem là một “bài báo khoa học”.
Thứ hai là những bài báo nghiên cứu ngắn, mà tiếng Anh thường gọi là “short communications”, hay “research letters”, hay “short papers”, v.v… Đây là những bài báo rất ngắn (chỉ khoảng 600 đến 1000 chữ, tùy theo qui định của tập san) mà nội dung chủ yếu tập trung giải quyết một vấn đề rất hẹp hay báo cáo một phát hiện nhỏ nhưng quan trọng. Những bài báo này vẫn phải qua hệ thống bình duyệt nghiêm chỉnh, nhưng mức độ rà soát không cao như các bài báo cống hiến nguyên thủy. Cần phải nói thêm ở đây là phần lớn những bài báo công bố trên tập san Nature (một tập san uy tín vào hàng số 1 trong khoa học) là “Letters”, nhưng thực chất đó là những bài báo nguyên thủy có giá trị khoa học rất cao, chứ không phải những lá thư thông thường.
Thứ ba là những báo cáo trường hợp (case reports). Trong y học có một loại bài báo khoa học xuất hiện dưới dạng báo cáo trường hợp, mà trong đó nội dung xoay quanh chỉ một (hay một số rất ít) bệnh nhân đặc biệt. Đây là những bệnh nhân có những bệnh rất hiếm (có thể 1 trên hàng triệu người) và những thông tin như thế cũng thể hiện một sự cống hiến tri thức cho y học. Những báo cáo trường hợp này cũng qua bình duyệt, nhưng nói chung không khó khăn như những bài báo nguyên thủy.
Thứ sáu là những thư cho tòa soạn (letters to the editor). Nhiều tập san khoa học dành hẳn một mục cho bạn đọc phản hồi những bài báo đã đăng trên tập san. Đây là những bài viết rất ngắn (chỉ 300 đến 500 chữ, hay một trang — tùy theo qui định của tập san) của bạn đọc về một điểm nhỏ nào đó của bài báo đã đăng. Những thư này thường phê bình hay chỉ ra một sai lầm nào đó trong bài báo khoa học đã đăng. Những thư bạn đọc không phải qua hệ thống bình duyệt, nhưng thường được gửi cho tác giả bài báo nguyên thủy để họ đáp lời hay bàn thêm. Tuy nói là thư bạn đọc, nhưng không phải thư nào cũng được đăng, nếu không nêu được vấn để một cách súc tích và có ý nghĩa.
Và sau cùng là những bài báo trong các kỉ yếu hội nghị. Trong các hội nghị chuyên ngành, các nhà nghiên cứu tham dự hội nghị và muốn trình bày kết quả nghiên cứu của mình thường gửi bài báo để đăng vào kỉ yếu của hội nghị. Có hai loại bài báo trong nhóm này: nhóm 1 gồm những bài báo ngắn (proceedings papers), và nhóm 2 gồm những bản tóm lược (abstracts).
Những bài báo xuất hiện dưới dạng “proceeding papers” thường ngắn (khoảng 5 đến 10 trang), mà nội dung chủ yếu là báo cáo sơ bộ những phát hiện hay phương pháp nghiên cứu mới. Tùy theo hội nghị, đại đa số những bài báo dạng này không phải qua hệ thống bình duyệt, hay có qua nhưng cũng không nghiêm chỉnh như hệ thống bình duyệt của những bài báo nguyên thủy. Cần nhấn mạnh rằng đây không phải là những bài báo khoa học bởi vì chúng chưa xuất hiện trên các tập san khoa học và qua bình duyệt nghiêm chỉnh.
Các bản tóm lược, như tên gọi, thực chất là những bản tin khoa học ngắn (chỉ dài từ 250 chữ đến 500 chữ) mà nội dung là tóm tắt một công trình nghiên cứu. Những bản tin này cũng không qua hệ thống bình duyệt. (Thực ra, không ai có thể thẩm định một công trình nghiên cứu với 250 hay 500 chữ!) Vả lại, một hội nghị chuyên môn có khi nhận đến 5000 bài tóm lược, cho nên ban tổ chức không thể có đủ người để làm công việc bình duyệt bài vở một cách kĩ lưỡng và có hệ thống. Phần lớn, nếu không muốn nói là 100%, các bài tóm lược đều được chấp nhận cho in trong các kĩ yếu của hội nghị. Một lí do để chấp nhận tất cả các bài tóm lược là ban tổ chức muốn có nhiều người dự hội nghị (nhiều người tham dự cũng có nghĩa là tăng thu nhập cho ban tổ chức) cho nên họ không muốn từ chối một bài báo nào.
Tập san khoa học và hệ số ảnh hưởng
Trong hoạt động khoa bảng, các tập san khoa học là những tờ báo xuất bản định kì, có thể là mỗi tuần một lần, mỗi tháng, hay mỗi 3 tháng, thậm chí hàng 6 tháng một lần. Mục tiêu chính của các tập san khoa học là chuyên chở thông tin đến giới nghiên cứu khoa học nhằm từng bước phát triển khoa học. Các tập san khoa học còn là những diễn đàn khoa học để giới khoa học có cùng chuyên môn trao đổi và học hỏi với nhau. Phần lớn các tập san khoa học rất chuyên sâu về một bộ môn khoa học như American Heart Journal (chuyên về tim), American Journal of Epidemiology (dịch tễ học), Bone (xương), Blood (máu), Neurology (thần kinh học) … nhưng một số tập san như Science, Nature, Proceedings of the National Academy of Science USA … công bố tất cả nghiên cứu từ bất cứ bộ môn khoa học nào.
Trên thế giới ngày nay, có khoảng 3000 tập san y sinh học được công nhận, và con số vẫn tăng mỗi năm. (Được công nhận ở đây có nghĩa là được nằm trong danh sách của tổ chức Index Medicus). Tiêu chuẩn mà các tập san này dựa vào để công bố hay không công bố một bài báo khoa học cũng rất khác nhau. Một số tập san như Science, Nature, Cell, hay Physical Reviews chỉ công bố những bài báo khoa học mà ban biên tập cho rằng thể hiện những cống hiến cơ bản, những phát hiện quan trọng, hay những phương pháp mới có tiềm năng ứng dụng rộng rãi trong cộng đồng khoa học. Do đó, các tập san này từ chối công bố hầu hết các bài báo khoa học gửi đến cho họ. Theo một báo cáo gần đây các tập san này chỉ công bố khoảng 1% những bài báo họ nhận được hàng năm. Nói cách khác, họ từ chối khoảng 99% bài báo. Trong y học, các tập san hàng đầu như New England Journal of Medicine, Lancet, và JAMA từ chối khoảng 95% các bài báo gửi đến, và chỉ công bố những bài báo quan trọng trong y khoa.
Giá trị khoa học của một bài báo do đó không chỉ tùy thuộc vào nội dung, mà tập san công bố cũng đóng một vai trò quan trọng. Chẳng hạn như trong y học một bài báo trên các tập san lớn như New England Journal of Medicine (NEJM) hay Lancet có giá trị hơn hẳn một bài báo trên các tập san y học của Pháp hay Singapore Medical Journal. Điều này đúng bởi vì những công trình nghiên cứu quan trọng thường được công bố trên các tập san lớn và có nhiều người đọc, nhưng quan trọng hơn hết là những tập san này có một hệ thống bình duyệt nghiêm túc.
Uy tín và giá trị của một tập san thường được đánh giá qua hệ số ảnh hưởng (Impact Factor hay IF). IF được tính toán dựa vào số lượng bài báo công bố và tổng số lần những bài báo đó được tham khảo hay trích dẫn (citations). Theo định nghĩa hiện hành, IF của một tập san trong năm là số lần tham khảo trung bình các bài báo được công bố trên tập san trong vòng 2 năm trước [2]. Chẳng hạn như trong 2 năm 1981 và 1982, Tập san Lancet công bố 470 bài báo khoa học nguyên thủy; trong năm 1983 có 10.011 bài báo khác trên các tất cả các tập san (kể cả Lancet) có tham khảo hay trích dẫn đến 470 bài báo đó; và hệ số IF là 10.011 / 470 = 21,3. Nói cách khác, tính trung bình mỗi bài báo nguyên thủy trên tờ Lancet có khoảng 21 lần được tham khảo đến hay trích dẫn.
Vì yếu tố thời gian của việc tính toán, cho nên hệ số IF cũng thay đổi theo thời gian và cách xếp hạng tập san cũng thay đổi theo. Chẳng hạn như vào thập niên 1990s British Medical Journal từng nằm trong nhóm các tập san hàng đầu trong y học, nhưng đến đầu thế kỉ 21 tập san này bị xuống cấp nghiêm trọng. Trong y sinh học, có một số tập san y học thuộc vào hàng “top 10” như sau (theo số liệu năm 2003): Annual review of immunology. (52,28), Annual review of biochemistry (37,65), Physiological reviews (36,83), Nature reviews Molecular cell biology (35,04), New England Journal of Medicine (34,83), Nature reviews Cancer (33,95), Nature (30,98), Nature medicine (30,55), Annual review of neuroscience (30,17), Science (29,16), Cell (26,63), Nature genetics (26,49), Lancet (18,32), Journal of clinical investigation (14,30), v.v… (Chi tiết có thể tham khảo trong bản thống kê phía dưới bài viết).
Do đó, tập san nào có hệ số IF cao cũng được hiểu ngầm là có uy tín cao và ảnh hưởng cao. Công bố một bài báo trên tập san có hệ số IF cao có thể đồng nghĩa với mức độ quan trọng và tầm ảnh hưởng của bài báo cũng cao. Xin nhấn mạnh là “có thể” mà thôi, bởi vì qua cách tính vừa trình bày trên, IF là chỉ số phản ánh ảnh hưởng của một tập san, chứ không đo lường hệ số ảnh hưởng phải một bài báo cụ thể nào. Một bài báo trên một tập san có hệ số IF thấp nhưng có thể được trích dẫn nhiều lần. Chẳng hạn như một bài báo viết về một phương pháp phân tích thống kế trong di truyền học công bố trên tập san Behavior Genetics (với IF thấp hơn 2), nhưng được trích dẫn và tham khảo hơn 10.000 lần trong 20 năm sau đó!
Dù bíết rằng hệ số IF có nhiều khiếm khuyết như thế, nhưng hiện nay chúng ta chưa có một hệ thống nào công bằng và tốt hơn để thẩm định chất lượng một tập san. Cho nên, hệ số IF vẫn được sử dụng như là một thước đo chất lượng, với một sự dè dặt và cẩn thận cần thiết.
Cơ chế bình duyệt
Để hiểu cơ chế bình duyệt, tôi xin nói sơ qua về qui trình công bố một bài báo khoa học như sau. Sau khi tác giả gửi bản thảo của bài báo đến một tập san chuyên môn, tổng biên tập (Editor-in-Chief) hay phó tổng biên tập (Associate Editors) của tập san sẽ xem lướt qua bài báo và quyết định bài báo có xứng đáng được gửi ra ngoài để bình duyệt hay không. Nếu không xứng đáng, tổng biên tập sẽ báo ngay (trong vòng 1 tháng) cho tác giả biết là bài báo không được bình duyệt. Nếu thấy bài báo có giá trị và cần được bình duyệt, tổng biên tập sẽ gửi bản thảo cho 3 (hoặc có khi 4) người bình duyệt.
Sau khi đã nhận được báo cáo của người bình duyệt, tổng biên tập sẽ chuyển ngay cho tác giả. Tùy theo đề nghị của những người bình duyệt, tổng biên tập có thể cho tác giả một cơ hội để phản hồi những phê bình của người bình duyệt, hay từ chối đăng bài. Nếu có cơ hội phản hồi, tác giả phải trả lời từng phê bình một của từng người bình duyệt. Bài phản hồi phải được viết như một báo cáo, và tất cả những thay đổi trong bài báo tác giả phải báo cho tập san biết. Giai đoạn này tốn từ 1 đến 3 tháng.
Sau khi nhận được phản hồi của tác giả, tổng biên tập và ban biên tập có thể quyết định chấp nhận hay từ chối bài báo. Nếu bài phản hồi không trả lời tất cả phê bình, hay trả lời không thỏa đáng, tổng biên tập có thể từ chối đăng bài ngay mà không cần gửi cho người bình duyệt xem lại. Nếu bài phản hồi cần xem xét lại tổng biên tập sẽ gửi cho những người bình duyệt xem lại một lần nữa và tác giả có khi phải phản hồi một lần sau cùng. Giai đoạn này cũng tốn từ 1 đến 3 tháng.
Nói chung một bài báo từ lúc nộp bài cho đến lúc xuất hiện trên mặt giấy – nếu mọi bình duyệt và phản hồi đều trôi chảy – tốn khoảng 9 tháng đến 12 tháng. Bởi vì thời gian quá lâu như thế, cho nên một số tác giả có khi quyết định tự công bố trước dưới dạng sơ bộ (còn gọi là “pre-print”) để chia sẻ với đồng nghiệp. Ngày nay, với sự tiến bộ phi thường của công nghệ thông tin và internet, nhiều tập san đã có thể công bố ngay bài báo trên hệ thống internet (trước khi in) nếu bài báo đã qua bình duyệt và được chấp nhận cho công bố. Một số tập san còn hoạt động hoàn toàn trên hệ thống internet mà không phải qua hình thức in ấn gì cả.
Ý nghĩa xã hội của bài báo khoa học
Đọc đến đây, tôi hi vọng bạn đọc đã hiểu được thế nào là một bài báo khoa học. Xin nhắc lại để nhấn mạnh: một bài báo chỉ khi nào được xem là “bài báo khoa học” nếu nó đã qua cơ chế bình duyệt và được công bố trên một tập san chuyên môn. Những bài báo xuất hiện dưới dạng “abstracts” hay thậm chí “proceedings” không thể xem là những bài báo khoa học bởi vì nó không đáp ứng được hai yêu cầu trên. Thế nhưng trong thực tế đã có rất nhiều nhà khoa học, kể cả ở trong nước, có lẽ do hiểu lầm đã liệt kê những “abstracts” và “proceedings” như là những bài báo khoa học trong lí lịch khoa học của họ! Đối với nhiều người không am hiểu hoạt động khoa học thì những ngộ nhận này chẳng ảnh hưởng gì to lớn, nhưng đối với giới làm nghiên cứu khoa học nghiêm chỉnh, một lí lịch khoa học với toàn những “bài báo khoa học” như thế cho biết nhiều về tác giả hơn là khả năng nghiên cứu khoa học của tác giả.
Trên bình diện quốc gia, công bố báo cáo khoa học trên các diễn đàn khoa học quốc tế là một cách không chỉ nâng cao sự hiện diện, mà còn nâng cao năng suất khoa học, của nước nhà. Ở phương Tây người ta thường đếm số lượng bài báo khoa học mà các nhà khoa học công bố trên các tập chí khoa học để đo lường và so sánh hiệu suất khoa học giữa các quốc gia. Hiện nay, trong bất cứ lĩnh vực nào, phải nhìn nhận một thực tế là hiệu suất khoa của nước ta chưa cao. Phần lớn các công trình nghiên cứu tại nước ta chỉ được kết thúc bằng những buổi nghiệm thu hay luận án. Đối với hoạt động khoa học, cho dù công trình đã được nghiệm thu hay đưa vào luận án tiến sĩ hay thạc sĩ , nếu chưa được công bố trên các diễn đàn khoa học quốc tế thì công trình đó coi như chưa hoàn tất, bởi vì nó chưa qua “thử lửa” với môi trường rộng lớn hơn.
Theo tác giả Phạm Duy Hiển (Tạp chí Tia Sáng số Tháng 6 năm 2005) trong năm 2003, các nhà khoa học Việt Nam đã công bố trên 7000 bài báo trên các tạp chí hay tập san khoa học trong nước. Con số này rất ư là ấn tượng, song đó chỉ là những bài báo “ta viết cho ta đọc” chứ trên trường quốc tế thì sự hiện diện của các nhà khoa học Việt Nam còn rất khiêm tốn. Vẫn theo tác giả Phạm Duy Hiển, trong năm 2001 các nhà khoa học Việt Nam chỉ công bố được 354 bài báo khoa học trên các tập san quốc tế, mà 71% con số này là do cộng tác với các nhà khoa học ngoài Việt Nam. Trong ngành y khoa, trong suốt 40 năm qua (tính từ 1965) các nhà khoa học tại Việt Nam chỉ có khoảng 300 bài báo trên các tập san y sinh học quốc tế. Đó là những con số cực kì khiêm tốn, khi so sánh với Thái Lan (5000 bài) hay Singapore (20.000 bài).
Trong quá trình hội nhập thế giới, xã hội có quyền đòi hỏi nhà khoa học nước ta phải có tầm vóc và đứng vững trên trường khoa học quốc tế. Đã đến lúc chúng ta phải đặt ra những tiêu chuẩn nghiêm túc mà quốc tế đã và đang sử dụng để thẩm định thành tích nghiên cứu khoa học của các giáo sư và nhà nghiên cứu ở nước ta.
GS. Trần Văn Tuấn
Nguồn: Trang Thông tin điện tử Đại học Văn hóa
[2] Garfield E. The impact factor [internet] Current Contents 1994 20;3-7 (cited 16 August 2002): http://sunweb.isinet.com/isi/hot/essays/journalcitationreports/7.html.
[3] Seglen PO. Why the impact factor of journals should not be used for evaluating research. BMJ 1997; 314:497-9.
[4] Phelan TJ. A compendium of issues for citation analysis. Scientometrics 1999; 45:117-36.
[3] Garfield E. Random thoughts on citationology: its theory and practice. Scientometrics 1998; 43:69-76.
[4] Campanario J. Peer review for journals as it stands today, Part 2. Science Communication 1998; 19:277-306
[5] Cole S, et al. Chance and consensus in peer review. Science 214:881-6, 1981
Cách Viết Một Bài Báo Khoa Học
Tiêu đề chưa tốt: Nghiên cứu hút thuốc lá trong sinh viên Đại học 2014. Tiêu đề tốt hơn: Thực trạng sử dụng thuốc lá trong sinh viên Đại học và một số yếu tố ảnh hưởng-Năm 2014
* có thể sử dụng 1 trong 2 loại tóm tắt:
Tóm tắt không cấu trúc hoặc tóm tắt không tiêu đề là một đoạn văn duy nhất tóm tắt công trình nghiên cứu.
Tóm tắt có cấu trúc hoặc tóm tắt có tiêu đề là có nhiều đoạn văn theo các tiêu đề sau đây: hoàn cảnh và mục tiêu (Background &Aims), phương pháp thực hiện (Methods), kết quả nghiên cứu (Results), và kết luận (Conclusions). Số lượng từ tóm tắt khoảng 200-300 từ, chi tiết như sau:
– Hoàn cảnh và mục đích nghiên cứu:
Câu 1: mô tả vấn đề tác giả quan tâm là gì, tình trạng tri thức hiện tại ra sao.
Câu 2: mô tả mục đích nghiên cứu một cách ngắn gọn nhưng phải rõ ràng.
– Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu thiết kế theo mô hình gì, đối tượng tham gia nghiên cứu đến từ đâu và đặc điểm của đối tượng, phương pháp đo lường, yếu tố nguy cơ thường là 4-5 câu văn.
– Kết quả: những kết quả chính của nghiên cứu, kể cả những số lượng điểm yếu. Trình bày sao cho trả lời câu hỏi nghiên cứu đặt ra từ câu văn đầu tiên, khoảng 4-8 câu.
– Kết luận: 1 hoặc 2 câu văn kết luận và ý nghĩa của kết quả nghiên cứu. Phần lớn độc giả chú tâm vào câu văn này trước khi đọc các phần khác, cần chọn câu chữ sao cho “thuyết phục” và thu hút.
* cần trả lời câu hỏi “Tại sao làm nghiên cứu này?”, gồm các ý: nêu bối cảnh, thực trạng vấn đề nghiên cứu, định nghĩa vấn đề hoặc thuật ngữ chuyên môn; tình trạng hiện tại của nền tảng kiến thức (tóm tắt những kết quả nghiên cứu trước đã công bố); nêu các thông tin còn thiếu, mô tả các thiếu hụt hiện có về kiến thức; trình bày mục tiêu của nghiên cứu này là gì và sơ lược cách chuẩn bị nghiên cứu để trả lời mục tiêu nghiên cứu.
* đây là phần quan trọng nhất vì thể hiện tính khoa học, 70% các bài báo bị từ chối là do khiếm khuyết phương pháp. Đây là phần mà các nhà khoa học thường quan tâm đọc trước khi đọc toàn bộ bài báo. Độ dài gấp 2-3 lần đặt vấn đề, khoảng 7 đoạn. Nội dung thể hiện là mô tả nghiên cứu một cách đầy đủ, khi đọc các nhà nghiên cứu khác có thể học và áp dụng được, bao gồm các thành phần như đã làm gì? Làm như thế nào? và phân tích số liệu như thế nào? Chi tiết cụ thể như sau:
– Thiết kế nghiên cứu: mô tả ngắn gọn về mô hình nghiên cứu. Đây là câu văn đơn giản, nhưng nói lên giá trị khoa học của công trình.
– Đối tượng nghiên cứu: thông tin về đặc điểm đối tượng nghiên cứu đóng vai trò quan trọng để người đọc đánh giá khái niệm, khái quát hóa công trình nghiên cứu. Gồm đặc điểm đối tượng nghiên cứu: tuổi, giới, dân tộc, trình độ học vấn, hôn nhân… tiêu chuẩn tuyển chọn và tiêu chuẩn loại trừ: nêu các biến số.
– Địa điểm và thời gian nghiên cứu: địa điểm có thể ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu. Nêu địa điểm và thời gian thực hiện.
– Cỡ mẫu và chọn mẫu: rất quan trọng trong nghiên cứu, thường có 1 câu văn mô tả cách xác định cỡ mẫu. Không nhất thiết phải là công thức tính, mà là những giả định đằng sau cách tính. Mẫu được chọn theo cách nào: ngẫu nhiên, thuận tiện, hay toàn bộ….)
– Công cụ nghiên cứu và kỹ thuật thu thập thông tin: nêu bộ công cụ, các biến số, việc thử nghiệm. Quy trình nghiên cứu và thu thập số liệu gồm các bước nghiên cứu, thu thập số liệu, can thiệp, thử nghiệm can thiệp…
– Phân tích dữ liệu: chú ý 50% số bài báo trong tạp chí quốc tế (như JAMA) bị tối chối vì sử dụng thống kê không đúng. Cụ thể lưu ý các biến số (độc lập, phụ thuộc), test thống kê, phần mềm sử dụng.
– Đạo đức nghiên cứu: nếu đã được Tổ chức duyệt (số chứng nhận), thực tế triển khai (đồng thuận, tự nguyện, có gây hại không, bảo mật).
* nguyên tắc là trình bày những điều phát hiện qua nghiên cứu, trả lời được các câu hỏi “đã phát hiện những gì?” hoặc trả lời các mục tiêu nghiên cứu. Cần phải phân biệt đâu là kết quả chính và kết quả phụ, chỉ nên trình bày kết quả quan trọng. Trình bày hợp lý theo qui định, bảng/biểu có tiêu đề phù hợp, đối với bảng/biểu có trên 5-10 dòng, nhóm số liệu theo mục tiêu/đặc điểm, dòng/cột không hiển thị. Đối với biểu/hình: tiêu đề ở dưới, hạn chế màu, chú thích rõ ràng, dễ hiểu.
Văn phong dùng thì quá khứ, dạng chủ động, đối với các thống kê (như tên của test, trị sốP) nên viết trong ngoặc cùng với kết quả chính.
* đây là phần khó viết nhất, bởi lẽ không biết bắt đầu như thế nào? Không biết nhấn mạnh vào khía cạnh nào? Viết như thế nào cho thuyết phục? Viết theo cấu trúc nào? Nên nhớ là không có một cấu trúc cụ thể. Tuy nhiên, những báo cáo hay thường cấu trúc 6 điểm tương đương 6 đoạn chính sau:
– Tóm lược bối cảnh, giả thuyết, mục tiêu, và phát hiện chính trong đoạn văn đầu tiên;
– So sánh những kết quả này với các nghiên cứu trước;
– Giải thích kết quả bằng cách đề ra mô hình mới hay giả thuyết mới; giả định và dự đoán;
– Khái quát hóa (generalizeability) và ý nghĩa (implications) của kết quả;
– Bàn qua những ưu-nhược điểm của nghiên cứu (có ảnh hưởng đến kết quả không?)
– Một kết luận tổng hợp rút ra từ kết quả và bàn luận.
Một kết luận tổng hợp rút ra từ kết quả và bản luận. Ý nghĩa quan trọng nhất của nghiên cứu tác giả là gì? Cần có khuyến nghị gì?
Các lý do của bài báo bị từ chối đăng và cách khắc phục
– Không thuộc lĩnh vực quan tâm. Cần chọn tạp chí phù hợp chuyên ngành.
– Phạm vi hẹp, cỡ mẫu nhỏ, phương pháp kết quả không mới. Chọn tạp chí phù hợp.
– Kết quả và bàn luận không thuyết phục, do kết quả phân tích số liệu mặc dù thiết kế tốt. Cần phân tích thống kê, trình bày kết quả phù hợp, tổng quan tài liệu.
– Hình thức và cấu trúc không đúng qui định. Cần nghiên cứu kỹ và tuân thủ hướng dẫn
– Không đạt tiêu chuẩn ngôn ngữ (tiếng Anh). Viết cẩn thận từ đầu, nhờ chuyên gia ngôn ngữ hiệu đính.
– Không đạt tiêu chuẩn đạo đức. Tuân thủ nguyên tắc đạo đức, thông qua hội đồng đạo đức.
– Các lý do khác (đạo văn, tài liệu tham khảo…). Đảm bảo trung thực, sử dụng phần mềm kiểm tra. Sử dụng phần mềm Endnote để trích dẫn tài liệu tham khảo.
Một số kinh nghiệm:
Viết đi viết lại, suy ngẫm, viết câu ngắn. Nên tạo các đề mục theo trình tự logic như quy định của tạp chí. Lưu ý sử dụng thì của động từ trong các phần như phần đặt vấn đề và bàn luận thường sử dụng thì hiện tại và quá khứ; phần phương pháp, kết quả và kết luận hoàn toàn thì quá khứ; phần khuyến nghị dùng thì tương lai, hình và biểu đồ đơn giản, tránh sử dụng hình 3D, không màu và không trùng lặp với bảng.
Đối với sửa bài báo sau phản biện, cần đọc kỹ các góp ý sửa bài báo và trả lời từng góp ý. Nguyên tắc là luôn làm hài lòng người bình duyệt, cụ thể:
– Đồng ý và sửa được: nêu rõ đã sửa như thế nào, bổ sung kết quả sửa
– Đồng ý và không sửa được: nêu rõ là không sửa được vì thiếu số liệu hoặc/và thừa nhận hạn chế của nghiên cứu.
– Không đồng ý: nêu rõ là sau khi cân nhắc thì nhóm nghiên cứu muốn được giữ nguyên ý kiến và nêu ra các bằng chứng hỗ trợ.
(Nguồn: https://hucotu.com/cach-viet-va-cau-truc-chi-tiet-mot-bai-bao-khoa-hoc/)
Các Viết Báo Cáo Một Báo Cáo Khoa Học
Published on
1. CÁCH VIẾT BÁO CÁO MỘT BÁO CÁO KHOA HỌC Ths Nguyễn Thị Minh Lý Bộ môn Tim mạch -Trường Đại học Y Hà Nội
2. THẾ NÀO LÀ: MỘT BÁO CÁO KHOA HỌC? * Trình bày sự hiểu biết của bạn về một lĩnh vực học thuật nhất định * Là một công trình ghi lại công việc nghiên cứu bạn đã tiến hành * Là sự đóng góp vào kho cơ sở dữ liệu * Cần được đánh giá một cách hệ thống
3. XÂY DỰNG MỘT CHỦ ĐỀ NGHIÊN CỨU
4. VIẾT BÁO CÁO KHOA HỌC: Bức tranh chung * Bạn định nghiên cứu gì (câu hỏi nghiên cứu) * Bạn dự định thực hiện nghiên cứu của mình bằng phương pháp gì? * Tại sao cần phải nghiên cứu vấn đề này? * Khi nào cần phải hoàn thành nghiên cứu * Bạn sẽ tiến hành nghiên cứu này ở đâu
6. VIẾT BÁO CÁO KHOA HỌC Mục tiêu * Lập kế hoạch cho công trình nghiên cứu của bạn. * Chỉ ra công trình của bạn có đóng góp gì cho nghiên cứu hiện tại. * Chứng tỏ bạn hiểu cách thực hiện một công trình nghiên cứu trong một khoảng thời gian cho phép. Khán giả: * Người phê bình, đồng nghiệp và những người quan tâm đến lĩnh vực bạn nghiên cứu
7. VIẾT BÁO CÁO KHOA HỌC * Bắt đầu càng sớm càng tốt * Đừng đợi tới khi bạn đã đọc “tất cả mọi thứ”. * Công việc viết sẽ mất nhiều thời gian hơn bạn nghĩ. * Báo cáo nghiên cứu ≠ Luận văn: * Cần phải nêu tất cả các kết quả thu được, kể cả kết quả không như mong muốn, hạn chế * Không phải tất cả các vấn đề đúng đều phù hợp (người đọc sẽ đặt câu hỏi: liệu vấn đề sẽ đi đến đâu?) * Lựa chọn thông tin để trình bày chứng tỏ bạn đã rất am hiểu vấn đề nghiên cứu
8. VIẾT BÁO CÁO KHOA HỌC * Sử dụng từ ngữ của riêng bạn: * Không trích dẫn quá nhiều * Khi trích dẫn, cần chỉ ra nguồn trích dẫn, phần trích dẫn cần để trong dấu ” ” * Cấu trúc rõ ràng * Không phân đề mục quá nhỏ (1.6.3.7.a) * Sự cân đối về độ dài của các phần trong báo cáo
9. VIẾT BÁO CÁO KHOA HỌC * Định dạng * Thống nhất * Cần viết lại nhiều lần: * Bổ sung các kết quả nghiên cứu mới thu được. * Chỉnh sửa các phần chưa hợp lí.
10. Lời khuyên chung * Nhắm vào một vấn đề hẹp * Đặt vào bối cảnh lớn hơn để thấy thành quả đó ra sao, phải làm gì tiếp trong tương lai * Nhất quán về dữ liệu, chú thích * Ngôn ngữ dễ hiểu, không tối nghĩa * Không hấp tấp khi viết
11. CẤU TRÚC MỘT BÁO CÁO KHOA HỌC * Tên Báo cáo khoa học * Tóm tắt * Dẫn nhập * Phương pháp * Kết quả * Bàn luận * Tài liệu tham khảo
14. VIẾT PHẦN TÓM TẮT * Nêu lên bức tranh chung về vấn đề nghiên cứu trong thực tế và trong nghiên cứu. * Câu hỏi nghiên cứu: mô tả những nền tảng của nghiên cứu, mô tả mục đích nghiên cứu một cách ngắn gọn, cho người đọc một cơ sở khoa học đầy đủ. * Mô tả phương pháp nghiên cứu * Kết quả chính của nghiên cứu, kể cả số liệu, trả lời câu hỏi nghiên cứu ban đầu. * Kết luận nói về ý nghĩa của kết quả nghiên cứu. Người đọc chú tâm phần này trước nên cần viết sao cho thuyết phục.
15. VIẾT PHẦN DẪN NHẬP * Định nghĩa vấn đề: Nêu lên vấn đề tồn tại, những gì đã được nghiên cứu * Tóm lược những kết quả trước đã được công bố trong y văn * Mục đích nghiên cứu này là gì?
16. NÊU LÊN VẤN ĐỀ TỒN TẠI * Trả lời câu hỏi: “Đâu là chỗ trống cần lấp đầy?” và “Vấn đề cần giải quyết là gì?” * Nêu lên tầm quan trọng của vấn đề một cách rõ ràng, cụ thể. * Giới hạn những biến số mà bạn cần đánh giá khi nêu ra câu hỏi nghiên cứu.
18. MỤC TIÊU/ CÂU HỎI NGHIÊN CỨU * Chỉ ra mục tiêu nghiên cứu. * Chỉ ra đóng góp mà nghiên cứu của bạn sẽ đem lại. * Cần chỉ rõ những phạm vi mà nghiên cứu của bạn không đề cập tới.
20. VIẾT PHẦN PHƯƠNG PHÁP * Giới thiệu về phương pháp tiếp cận chung. * Sự phù hợp của cách tiếp cận này với thiết kế nghiên cứu. * Mô tả phương pháp cụ thể để thu thập số liệu. * Giải thích cách mà bạn sẽ phân tích và phiên giải kết quả. * Với các phương pháp ít quen thuộc, cần giải thích về phương pháp và lí do lựa chọn phương pháp. * Nêu ra những hạn chế có thể của nghiên cứu.
21. VIẾT PHẦN PHƯƠNG PHÁP § Quần thể mẫu nghiên cứu của công trình. Cách chọn mẫu như thế nào? Mô tả chi tiết. * Những điều tác giả dự định đánh giá: Hoạt động của một loại thuốc, kết quả của một thủ thuật, giá trị của một xét nghiệm. * Các tiêu chuẩn đánh giá được sử dụng trong nghiên cứu: Biến chứng, thời gian theo dõi, các chỉ tiêu sinh học Các kết quả được phân tích và chuẩn hoá như thế nào: các thuật toán thống kê sử dụng.
24. LƯU Ý VIẾT PHẦN KẾT QUẢ * Thì động từ * Các kết quả được quan sát trong quá khứ. * Sự chính xác * Tương thích của các số liệu trong bài viết, trong các bảng số liệu và biểu đồ. * Sự sáng sủa * Theo một trật tự hợp lý
25. VIẾT PHẦN BÀN LUẬN MỤC TIÊU 1: Mục đích nghiên cứu có đạt được hay không. * Không nhắc lại tất cả các kết quả trong phần kết quả nghiên cứu * Không đưa thêm một kết quả mới vào chương Bàn luận. * Không thay đổi số liệu đã đưa ở phần kết quả: * Kết quả là 48% không được biến thành “gần 50%” hay “khoảng một nửa”.
26. VIẾT PHẦN BÀN LUẬN MỤC TIÊU: Đánh giá chất lượng và giá trị của kết quả nghiên cứu (2) * Số lượng cá thể nghiên cứu có đủ lớn để rút ra kết luận? * Liệu có sự chệch hướng trong việc chọn đối tượng? * Phương pháp nghiên cứu đã đáp ứng tốt nhất cho vấn đề đặt ra? * Nhận định các kết quả như thế nào căn cứ theo các phương pháp được sử dụng và độ mạnh của các phép suy diễn thống kê được sử dụng.
27. VIẾT PHẦN BÀN LUẬN MỤC TIÊU: So sánh kết quả thu được với kết quả của các tác giả khác. * Tìm cách giải thích sự khác biệt * Thông báo sự đóng góp cá nhân của mình * Tính chất đại diện của mẫu thử tốt hơn, * Phương pháp thống kê phù hợp hơn. * Tránh sự công kích cá nhân.
29. VIẾT PHẦN BÀN LUẬN * Giải thích ý nghĩa những dữ liệu trình bày trong phần Kết quả * Giải thích nhưng không lặp lại số liệu trong phần Kết quả * Cho người đọc thấy công trình nghiên cứu là quan trọng và có tác động hay có đóng góp tới tri thức hiện nay, giải đáp được câu hỏi lớn của nghiên cứu. * Thể hiện một đóng góp cho khoa học.
30. CÁCH VIẾT PHẦN TÀI LIỆU THAM KHẢO * Các quy định về cách viết tài liệu tham khảo * Hệ thống Havard * Hệ thống Vancouver * Nên tuân theo quy định của nơi bạn nộp báo cáo khoa học * Cần có sự thống nhất * Tham khảo các tài liệu trước đây
31. VIẾT BÁO CÁO KHOA HỌC: Lỗi thường gặp * Viết văn nói * Ý kiến cá nhân * Đây là một công trình khoa học!
32. VIẾT BÁO CÁO KHOA HỌC: Lỗi thường gặp * Câu phức với nhiều từ dài * Báo cáo khoa học là một công trình khoa học đơn giản, thuyết phục! * Hài hước * Cần được chú thích
33. VIẾT BÁO CÁO KHOA HỌC: Lỗi thường gặp * Không bao giờ bao quát được mọi khía cạnh * Bạn sẽ không bao giờ kết thúc? * Đôi khi chỉ ra được vấn đề là đủ * Người bình duyệt sẽ rất vui khi bạn chỉ ra được những giới hạn
34. VIẾT BÁO CÁO KHOA HỌC: Vấn đề thường gặp * Ở vài thời điểm, não bạn sẽ trở nên giống chiếc bánh mì nướng * Nghỉ giải lao * Ăn đủ ngủ khỏe, tập thể dục… * Đây chỉ là tình trạng tạm thời
36. NHỮNG ĐIỀU HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TRÔNG ĐỢI * Bàn luận * Những hạn chế của nghiên cứu có được chỉ ra * Có phát hiện ra những điểm mới từ nghiên cứu? * Có tạo được mối liên kết với y văn? * Có những phát triển gì về mặt lý thuyết? * Có những dự đoán mới được thiết lập không?
37. Good Luck & Thank You!
Bạn đang xem bài viết Thế Nào Là Một ” Bài Báo Khoa Học” ? trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!