Xem Nhiều 6/2023 #️ Tiến Bộ Và Công Bằng Xã Hội # Top 8 Trend | Tvzoneplus.com

Xem Nhiều 6/2023 # Tiến Bộ Và Công Bằng Xã Hội # Top 8 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Tiến Bộ Và Công Bằng Xã Hội mới nhất trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

TIẾN BỘ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI

Tiến bộ và công bằng xã hội là những khái niệm phản ánh trình độ phát triển của xã hội, phù hợp với quy luật vận động khách quan của lịch sử và nguyện vọng chính đáng của con người . Tiến bộ xã hội là khái niệm phản ánh sự phát triển của xã hội từ trình độ thấp lên trình độ cao hơn, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện. Tiến bộ xã hội được biểu hiện cụ thể trong từng lĩnh vực của đời sống xã hội mà biểu hiện tập trung nhất là sự xuất hiện phương thức sản xuất mới, kiểu chế độ xã hội mới. Theo quan niệm mácxít, lịch sử loài người nói chung luôn vận động theo hướng  đi lên mà mỗi hình thái kinh tế – xã hội là một nấc thang của sự phát triển xã hội. Tiến bộ xã hội là sự vận động của xã hội loài người từ hình thái kinh tế – xã hội này lên hình thái kinh tế – xã hội khác cao hơn, hoàn thiện hơn, cả về cơ sở  hạ tầng kinh tế và thượng tầng kiến trúc về chính trị, pháp lý cùng các hình thái ý thức xã hội. Theo quy luật vận động khách quan, cuối cùng loài người sẽ tiến tới một xã hội hoàn hảo, tốt đẹp nhất – xã hội cộng sản chủ nghĩa. Tiến bộ xã hội có nội hàm rất rộng phản ánh sự phát triển toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tư tưởng , giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ…, bao quát các phương diện vật chất, tinh thần. Tiến bộ xã hội được xem xét, đánh giá trong phạm vi từng quốc gia, dân tộc, và mở rộng trong phạm vi khu vực, quốc tế phù hợp với từng thời kỳ, giai đoạn lịch sử cụ thể. Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của tiến bộ xã hội. Tiến bộ xã hội là kết quả hoạt động sáng tạo của con người, thể hiện quá trình tác động tích cực của con người đối với tự nhiên, quá trình giải phóng, nâng cao quyền con người trong xã hội. Đó cũng là quá trình con người tự hoàn thiện chính mình. Sự phát triển toàn diện của con người và sự phát triển các quan hệ xã hội công bằng, dân chủ là thước đo trình độ, mức độ tiến bộ xã hội. Công bằng xã hội là một giá trị cơ bản định hướng cho việc giải quyết hài hòa quan hệ giữa người và người trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội theo nguyên tắc: cống hiến về vật chất và tinh thần ngang nhau cho sự phát triển xã hội thì được hưởng thụ ngang nhau về những giá trị vật chất, tinh thần do xã hội tạo ra, phù hợp với điều kiện và khả năng cung ứng của mỗi quốc gia ở một thời kỳ, giai đoạn phát triển cụ thể. Theo cách tiếp cận khác, công bằng xã hội là trạng thái mà mọi quyền lợi, nghĩa vụ của các thành viên xã hội có và được thực hiện phù hợp với các giá trị xã hội nhằm khuyến khích tối đa khả năng đóng góp và hạn chế ở mức tối thiểu khả năng gây hại của mỗi cá nhân cho xã hội; là những điều kiện thuận lợi – cốt lõi là sự tôn trọng con người, sự bình đẳng và liên kết cộng đồng – giúp cho cá nhân và cộng đồng đạt được những gì họ có quyền đạt tới. Công bằng xã hội đòi hỏi nhận thức và giải quyết đúng hai mối quan hệ cơ bản: cống hiến – hưởng thụ, nghĩa vụ – quyền lợi. Công bằng xã hội không đồng nghĩa với cào bằng, không thực hiện chủ nghĩa bình quân, chia đều cho mọi người các nguồn lực và của cải do xã hội tạo ra mà không tính đến chất lượng, hiệu quả lao động và sự đóng góp của mỗi cá nhân cho sự phát triển của cộng đồng. Công bằng xã hội cũng không đồng nhất với bình đẳng xã hội – được hiểu là sự ngang bằng nhau giữa người và người về một phương diện nào đấy, hoặc trên tất cả các phương diện của đời sống xã hội. Công bằng xã hội chỉ là một dạng xác định của bình đẳng xã hội phản ánh quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi, cống hiến và hưởng  thụ theo nguyên tắc nghĩa vụ, cống hiến ngang nhau thì quyền lợi, hưởng  thụ ngang nhau. Công bằng xã hội được thực hiện chủ yếu thông qua phân phối nguồn lực, của cải xã hội; công bằng trong giáo dục, trong y tế theo nguyên tắc: mọi người đều có quyền được học tập, học tập suốt đời; được chăm sóc, bảo vệ sức khỏe. Tuy nhiên, do hoàn cảnh, điều kiện, khả năng cụ thể của các cá nhân, cộng đồng trong xã hội rất khác nhau, nhất là những cá nhân, cộng đồng có nhiều khó khăn, yếu thế, dễ bị tổn thương, nên việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội tiếp cận công bằng các cơ hội phát triển, các nguồn lực phát triển, các dịch vụ cơ bản về việc làm, điện, nước sạch, nhà ở, giáo dục, y tế, thông tin,… mang tính an sinh xã hội có vai trò rất quan trọng trong thực hiện công bằng xã hội. Tiến bộ xã hội và công bằng xã hội có quan hệ mật thiết, tác động qua lại với nhau. Công bằng xã hội là một tiêu chí cơ bản, bảo đảm và phản ánh tiến bộ xã hội; đồng thồi, tiến bộ xã hội là điều kiện có ý nghĩa nền tảng bảo đảm công bằng xã hội. Đảng ta luôn nhất quán quan điểm đặt con người vào trung tâm của chiến lược phát triển; con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Văn kiện Đại hội XII của Đảng nêu rõ: Một trong những mối quan hệ lớn cần tiếp tục quán triệt và xử lý tốt là quan hệ “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội” (1). Xác định một mục tiêu quan trọng đến năm 2020 phấn đấu cơ bản hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “bảo đảm sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển xã hội bền vững” (2). Cụ thể hóa và phát triển quan điểm, chủ trương của Đảng về tiến bộ, công bằng xã hội phù hợp với điều kiện, yêu cầu phát triển đất nước trong những năm sắp tới, Đại hội XII của Đảng xác định những nhiệm vụ, giải pháp lớn: Thứ nhất, gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống của Nhân dân, bảo đảm để Nhân dân  được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công cuộc đổi mới. Mọi người  dân đều có cơ hội và điều kiện phát triển toàn diện. Thứ hai, trong xây dựng và thực hiện các chính sách phát triển kinh tế – xã hội, quan tâm thích đáng đến các tầng lớp, bộ phận yếu thế trong xã hội, đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khắc phục xu hướng gia tăng phân hóa giàu – nghèo, bảo đảm sự ổn định và phát triển xã hội bền vững. Thứ ba, xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách về tiền lương, tiền công, khắc phục cơ bản những bất hợp lý, bảo đảm tiền lương, thu nhập công bằng, đủ điều kiện sống và tái sản xuất sức lao động. Thứ tư, mở rộng đối tượng và nâng cao hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội đến mọi người dân. Thực hiện tốt chính sách chăm sóc người có công; trợ giúp có hiệu quả tầng lớp yếu thế, dễ tổn thương hoặc những người gặp rủi ro trong cuộc sống. Thứ năm, bảo đảm công bằng, giảm chênh lệch trong tiếp cận chính sách chăm sóc sức khỏe Nhân dân, bảo đảm cơ hội tiếp cận bình đẳng về chăm sóc sức khỏe cho người dân (3).

(1), (2), (3): Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 80, 104, 135-139

Vì Sự Tiến Bộ, Công Bằng Xã Hội Trong Phát Triển Kinh Tế

Kinh tế

Vì sự tiến bộ, công bằng xã hội trong phát triển kinh tế

Chia sẻ: 

02/07/2019 – 10:37:00

Tiến bộ và công bằng xã hội có mối liên hệ và tương quan chặt chẽ với nhau, trở thành một trong những nội dung quan trọng trong chiến lược phát triển của đất nước. Bài viết phân tích và đề xuất những giải pháp để có được tiến bộ và công bằng xã hội, nhằm tạo động lực cho sự phát triển, thực hiện mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Tiến bộ, công bằng xã hội là động lực của sự phát triển

Tiến bộ và công bằng xã hội có mối liên hệ và tương quan chặt chẽ với nhau, từ đó, đã trở thành một trong những nội dung đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển của nhiều quốc gia, dân tộc và là khát vọng sống của loài người. Mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” mà Đảng và nhân dân ta đang phấn đấu thực hiện đã thể hiện tinh thần đó. Đảm bảo thực chất của tiến bộ và công bằng xã hội là giải quyết hài hòa giữa sự phát triển kinh tế đất nước với thực hiện các chính sách xã hội, đem lại cuộc sống hòa bình, độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Trong quá trình thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quan điểm này lại càng có ý nghĩa quan trọng. Khắc phục được những hạn chế cố hữu của nền kinh tế thị trường, mang đậm tính nhân văn của chế độ xã hội chủ nghĩa, nên cần phải được quán triệt sâu sắc, triển khai có hiệu quả trong thực tiễn xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

Tăng trưởng kinh tế là một khái niệm kinh tế học, được dùng để chỉ sự gia tăng về quy mô, sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định và thường được đo bằng một số đại lượng. Tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên về lượng (quy mô sản lượng) của một nền kinh tế nào đó, tính trong thời gian nhất định. Có thể nói rằng, tăng trưởng kinh tế, mặc dù là một tiêu chí quan trọng của tiến bộ xã hội, nhưng bản thân nó là sự thể hiện không đầy đủ của tiến bộ xã hội, bởi theo quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học, tiến bộ xã hội là quá trình phát triển của xã hội loài người từ thấp lên cao, từ một hình thái kinh tế – xã hội này đến một hình thái kinh tế – xã hội khác cao hơn. Vì vậy, tiến bộ xã hội không chỉ thể hiện trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, mà cả trong sự phát triển của quan hệ sản xuất; trong sự phát triển của cơ sở hạ tầng, trong sự phát triển của kiến trúc thượng tầng; trong sự phát triển của tồn tại xã hội, trong sự phát triển của ý thức xã hội; không chỉ trong việc nâng cao mức sống của con người, làm cho con người thoát khỏi mọi áp bức bóc lột, bất công, mà còn được phát triển toàn diện và tự mình làm chủ cuộc sống bản thân. Trên cơ sở giải quyết được vấn đề tăng trưởng kinh tế, nghĩa là tạo ra được nhiều của cải vật chất, người ta mới có thể giải quyết hàng loạt vấn đề khác, đặc biệt là các vấn đề xã hội, như nâng cao mức sống của người dân, tăng cường phúc lợi xã hội, giảm bớt tình trạng thất nghiệp, đảm bảo cho mọi người có công ăn việc làm ổn định…

Tuy nhiên, đứng từ góc độ tiến bộ xã hội mà xét thì không phải lúc nào tăng trưởng kinh tế cũng đồng hành hay là dẫn đến tiến bộ xã hội. Một khi trong xã hội mà người ta chỉ duy nhất quan tâm đến tăng trưởng kinh tế và bằng mọi giá để thúc đẩy sự tăng trưởng ấy thì điều đó có thể sẽ chứa đựng một nguy cơ khó lường. Do vậy, chúng ta phải luôn kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội. Để tìm hiểu rõ vấn đề này, không được đồng nhất công bằng xã hội với bình đẳng xã hội. Nói tới bình đẳng xã hội là nói tới sự ngang bằng nhau giữa người với người về một (hoặc một vài) phương diện xã hội nào đó, chẳng hạn về kinh tế, chính trị, văn hoá…

Còn công bằng xã hội là khái niệm mang tính lịch sử tất yếu, bị quy định bởi hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Có thể nói, mỗi xã hội đều có chuẩn mực riêng về công bằng xã hội, chuẩn mực đó do hoàn cảnh lịch sử cụ thể của xã hội đó quy định. C.Mác chỉ ra rằng, trong xã hội xã hội chủ nghĩa, sau khi đã khấu trừ những khoản cần thiết để duy trì sản xuất, tái sản xuất cũng như để duy trì đời sống của cộng đồng, toàn bộ số sản phẩm của xã hội còn lại sẽ được phân phối theo nguyên tắc: mỗi người sản xuất sẽ được nhận trở lại từ xã hội một số lượng sản phẩm tiêu dùng trị giá ngang với số lượng lao động đã cung cấp cho xã hội.

Cương lĩnh (bổ sung và phát triển năm 2011) đã khẳng định ”Chính sách xã hội đúng đắn, công bằng là động lực mạnh mẽ, phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”1.

Để giải phóng con người theo nghĩa đầy đủ, chẳng những cần tăng trưởng kinh tế, mà phải thực hiện sự tiến bộ và công bằng xã hội. Đối với nước ta trong hơn 30 năm đổi mới, xác định mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội như thế nào cho đúng đắn, vẫn là vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu đầy đủ để có được những giải pháp phù hợp với thực tế đất nước. Cần tiếp tục tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận để xây dựng một mô hình lý thuyết về phát triển xã hội, về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện cụ thể. Những đặc điểm lịch sử cụ thể không giống nhiều nước đòi hỏi một khung lý thuyết về tiến bộ và công bằng xã hội ở Việt Nam không thể dập khuôn mô hình của bất cứ nước nào. Đó là cả một quá trình công phu tìm tòi từ nhiều góc độ khác nhau trong lịch sử và hiện tại, từ góc độ kinh tế đến chính trị, văn hoá, tập quán và tâm lý…

Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giải phóng và phát triển là làm cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Sau này Người còn nói rõ hơn: Nhà nào nghèo thì đủ ăn, đã đủ ăn thì khá lên, nhà nào khá thì làm cho giàu lên, nhà giàu thì giàu lên nữa, phải làm cho đất nước trở nên giàu mạnh, rồi đến khi thắng lợi, sẽ xây dựng đất nước ta đàng hoàng, to đẹp hơn gấp mười ngày nay… Đó là những điểm cốt lõi trong quan điểm giải phóng và phát triển của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó cũng là cơ sở tư tưởng để hình thành các chính sách xã hội, để khảo cứu mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ công bằng xã hội. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giải phóng và phát triển đã trở thành động lực to lớn và mạnh mẽ, động viên toàn Đảng, toàn dân ta trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước ở những thập kỷ trước đây.

Trong một thời gian dài, chúng ta chưa nhận thức được đầy đủ tầm quan trọng của chính sách xã hội và sự kết hợp hữu cơ giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội, chưa nhận thức được rằng, việc tiếp cận các vấn đề xã hội và đề ra những chính sách xã hội, đối với các cách đề cập khác nhau đối với việc giải quyết một quá trình thống nhất, có quan hệ hữu cơ và thâm nhập lẫn nhau, không thể chia cắt trong khoa học về con người. Vì vậy, trong nhiều kế hoạch của Nhà nước, thường chú trọng nhiều đến các chính sách kinh tế, mà chưa chú trọng đầy đủ đến các chính sách xã hội. Đó là chưa kể trong xã hội còn coi chính sách xã hội như chính sách hỗ trợ cho sự phát triển đất nước.

Trước đây, trong điều kiện chiến tranh, chính sách xã hội theo chủ nghĩa bình quân đã giữ vai trò lịch sử nhất định, trong một thời gian nhất định. Nhưng khi tình hình đã thay đổi, những chính sách xã hội, đặc biệt là chính sách phân phối, chính sách phúc lợi xã hội mang tính bình quân bị kéo dài quá lâu, cho đến nay vẫn chưa thể khắc phục hết, đã cào bằng mọi giá trị lao động, chẳng những không tạo ra được bất cứ sự công bằng xã hội nào, mà trái lại đã làm giảm ý nghĩa thực tế của những ý tưởng tốt đẹp mà ta thường nói về ”con người”, về ”dân làm chủ”, về “công bằng xã hội”… Chủ nghĩa bình quân trong điều kiện lịch sử mới của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế đã có tác động tiêu cực, triệt tiêu động lực của sản xuất, là một trong những nguyên nhân kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế.

Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, đã tạo đà phát triển, làm cho kinh tế không ngừng tăng trưởng. Mối quan hệ giữa kinh tế và xã hội, công bằng xã hội đang đứng trước hàng loạt những vấn đề thực tiễn vô cùng bức xúc. Đất nước ta trải qua thời gian chiến tranh kéo dài với mức độ tàn phá ác liệt, cơ sở kinh tế vốn đã nghèo nàn, lạc lậu, bối cảnh quốc tế diễn biến khá phức tạp, kiến thức và kinh nghiệm lãnh đạo, quản lý đất nước còn hạn chế. Đó là những đặc điểm lịch sử làm cho chúng ta không dễ dàng gì có thể nhanh chóng rút ngắn được khoảng cách giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội.

Với tốc độ tăng trưởng hàng năm tương đối cao của nền kinh tế, cho phép đất nước ta có cơ hội phát triển nhanh hơn, tạo điều kiện giải quyết những hiện tượng bất công trong xã hội. Giữ được sự cân bằng tương đối giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là một yêu cầu hết sức quan trọng. Tuy nhiên, cần phải có một hệ thống chính sách xã hội đúng đắn và có hiệu lực, bên cạnh đó, thực hiện tốt hệ thống chính sách đó, thì mới có thể thực hiện được công bằng xã hội. Đại hội VI của Đảng lần đầu tiên tạo sự chuyển biến trong quan điểm nhận thức về vấn đề chính sách xã hội, chính thức đưa vào báo cáo chính trị. Tiếp theo đó, các hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, Quốc hội, Chính phủ đã từng bước cụ thể hóa thêm. Từ Đại hội VII đến Đại hội XII đã phát triển lên một bước cao hơn trong Cương lĩnh, Chiến lược kinh tế – xã hội của Đảng về chính sách xã hội. Công bằng xã hội là mục tiêu cao đẹp, được cụ thể hóa thành những nội dung phù hợp với từng lĩnh vực, từng đối tượng dân cư, từng vùng miền, từng chính sách, từng việc làm thiết thực.

Muốn cho sự phát triển kinh tế có tác động đến công bằng xã hội, cần phải có hệ thống chính sách xã hội tích cực, đúng đắn, đồng thời động viên được toàn xã hội tham gia thực hiện. Mục tiêu bao trùm của tất cả các chính sách xã hội là phải mang lại cho con người một cuộc sống tốt đẹp, không chỉ dành riêng cho ai, cho một thiểu số hay tập thể nào, mà là dành cho mọi người dân trong xã hội Việt Nam; chính sách đó phát triển xã hội một cách bền vững phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể và truyền thống văn hóa của dân tộc.

Giải pháp đẩy mạnh thực hiện chính sách tiến bộ và công bằng xã hội

Một là, bảo đảm cơ sở và những điều kiện cơ bản cho đời sống vật chất và tinh thần (bao gồm cả văn hoá, khoa học, nghệ thuật…) đạt tới trình độ ngày càng cao cho thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau, đáp ứng yêu cầu của công cuộc phát triển đất nước. Trên cơ sở đó, hình thành một lối sống Việt Nam vừa hiện đại, hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, vừa bảo vệ và phát triển những giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc, tạo nên một xã hội lành mạnh, văn minh, ổn định, làm cho môi trường ưu việt cho sự tăng trưởng kinh tế. Đó chính là động lực phát triển của xã hội Việt Nam.

Ngày nay, khi chúng ta sống trong thời đại văn minh mới, ý chí tự lực tự cường phải được nâng lên tầm cao mới. Từ xa xưa, người Việt Nam sống có tư duy đổi mới, nhạy bén với cái mới, linh hoạt và mềm dẻo, nước gắn liền với nhà để phát triển. Tư tưởng đổi mới trong quá trình tìm tòi con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng xuất hiện rất sớm ở nước ta, ngay từ những tìm tòi ban đầu về khoán hộ trong nông nghiệp những năm cuối thập kỷ 60, chuyển sang hạch toán những năm đầu thập kỷ 80. Bài học những bước tìm tòi đó chính là chính sách xã hội phải hướng vào con người, thực hiện công bằng xã hội trên những yêu cầu thường ngày của người dân là ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh. Trên cơ sở năng suất thấp, thu nhập quá ít ỏi, không có sản phẩm thặng dư thì sự công bằng sẽ trở thành sự cào bằng, sự yên dân trở thành sự yên phận. Như thế thì không thể có động lực và khi đã không có động lực thì sẽ không có sự phát triển.

Hai là, bảo đảm tái sản xuất sức lao động cho xã hội (bằng các chính sách phân phối thu nhập cho mọi đối tượng, đào tạo, giáo dục, bảo vệ sức khỏe, bảo hộ và bảo hiểm lao động…) nâng cao dân trí, đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế hiện nay và chuẩn bị một đội ngũ lao động cho những bước phát triển cho tương lai của đất nước.

Ba là, chính sách về công bằng xã hội ngày nay phải kế thừa truyền thống đùm bọc của dân tộc, thể hiện lòng nhân nghĩa, uống nước nhớ nguồn của người Việt Nam, để không lãng quên quá khứ, chạy theo cơ chế thị trường, thương mại hóa tất cả tình nghĩa, xóa hết mọi bao cấp với mọi đối tượng cần được xã hội bao cấp mà bất cứ chế độ xã hội nào cũng có. Dù đứng ở góc độ kinh tế học của tăng trưởng hay góc độ chính trị học của phân phối mà xét, thì chỗ đứng và điểm xuất phát cũng là quan điểm cơ bản này. Do đó, không nên tách rời con người kinh tế và con người xã hội. Nói đến tăng trưởng kinh tế tức là nói đến sản xuất xã hội, trong đó bao hàm sự thống nhất biện chứng của các quá trình tái sản xuất, trong đó vấn đề bình đẳng trong phân phối đóng vai trò rất quan trọng. Sẽ không thể có sự phát triển và cất cánh của đất nước nếu không có một chính sách xã hội tiến bộ và công bằng, nhằm tạo môi trường xã hội lành mạnh và ổn định. Những bài học lịch sử của chúng ta trong quá trình tìm tòi con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của những thập kỷ qua đã chứng minh điều đó.

Muốn có công bằng xã hội phải tiến hành rất nhiều giải pháp, phải có một hệ thống những giải pháp hữu hiệu, khả thi. Trước mắt, để có được tiến bộ và công bằng xã hội, cần phải xem xét khách quan và nghiêm túc vấn đề phân phối thu nhập trong xã hội. Tính công bằng trong phân phối thu nhập trước hết quyết định bởi việc thực hiện nguyên tắc ”hưởng theo lao động”. Nguyên tắc hưởng theo lao động không cho phép dành những khoản thu nhập lớn cho bất cứ đối tượng nào không có đóng góp lao động cho xã hội (bao gồm lao động trí óc và lao động chân tay). Những đóng góp lớn phải được hưởng thu nhập lớn, được xã hội tôn vinh và là nội dung hàng đầu của chuẩn mực xã hội. Vấn đề phân phối thu nhập đang là vấn đề bức xúc hiện nay trong xã hội, là lĩnh vực đang tồn tại những thói hư tật xấu về lợi ích cá nhân vị kỷ của một số người nhân danh tổ chức. Vì vậy, để thực hiện được tư tưởng đúng đắn về tiến bộ và công bằng xã hội, cần phải có chủ trương, giải pháp và những con người tương xứng có thể kiểm soát được lĩnh vực phân phối thu nhập trong xã hội hiện nay, mổ xẻ thực trạng bất công trong phối hợp thu nhập, phanh phui các hình thức biến tướng của nó và truy tìm căn nguyên của thực trạng ấy. Mọi việc được công khai minh bạch, được giám sát và phản biện. Đó là cách tốt nhất để thực hiện được tư tưởng công bằng xã hội của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trần Khắc Xin

TS, Học viện Chính trị khu vực III

Theo Báo Mặt trận

Tin cùng chuyên mục

Giá xăng ngày 25/9 dự kiến tăng mạnh? – (25/09/2021 – 9:09)

Hải Dương sẵn sàng kịch bản sản xuất và sống chung với dịch COVID-19 – (24/09/2021 – 19:35)

Việt Nam vẫn là điểm đến đầu tư quan trọng của Nhật Bản – (23/09/2021 – 9:33)

Lấy mẫu xét nghiệm SARS-CoV-2 cho thanh long trước khi xuất khẩu – (23/09/2021 – 9:32)

Doanh nghiệp chúng tôi không trụ nổi với chi phí xét nghiệm Covid-19 – (23/09/2021 – 9:13)

Doanh nghiệp kêu xét nghiệm COVID-19 mỗi nơi một giá – (23/09/2021 – 8:53)

Nhiều doanh nghiệp FDI rời đi: Có đáng lo? – (23/09/2021 – 8:35)

Bất động sản khu công nghiệp: Cơ hội đầu tư trong mùa dịch Covid-19 – (23/09/2021 – 7:57)

Thu hút vốn đầu tư nước ngoài giảm mạnh tại Hà Nội – (22/09/2021 – 21:26)

Khó khăn vì dịch, người dân mong được giảm tiền điện, nước nhiều hơn – (22/09/2021 – 9:29)

Tăng cường công tác vận tải hỗ trợ tiêu thụ nông sản – (21/09/2021 – 20:44)

Italy viện trợ bổ sung 796.000 liều vaccine AstraZeneca cho Việt Nam – (21/09/2021 – 20:43)

Thêm cảng biển được phép nhập khẩu ô tô dưới 16 chỗ – (21/09/2021 – 20:40)

Chống dịch hiệu quả, sản xuất tăng trưởng nhìn từ Bắc Ninh, Bắc Giang – (21/09/2021 – 8:45)

Lịch phát sóng

Giá vàng JSC

Khu vực Mua vào Bán ra

Hồ Chí Minh 56.350 57.000

Hà Nội 56.350 57.020

Ngoại tệ

Mã NT Mua TM Mua CK Bán

USD 22.00 22.00 22.00

SGD 16.00 16.00 17.00

JPY 200.85 202.88 212.47

GBP 30.00 30.00 31.00

EUR 26.00 26.00 27.00

CAD 17.00 17.00 18.00

AUD 16.00 16.00 16.00

Thông tin thời tiết

Dự báo thời tiết Hải Dương

Hôm nay, 25/09/2021

°C -°C

°C -°C

°C -°C

Theo TTKTTV

Về Khái Niệm Tiến Bộ Xã Hội

Nói đến tiến bộ người ta thường hiểu là tiến bộ trong xã hội, của xã hội, thuộc về xã hội. Rất ít khi khái niệm tiến bộ được dùng để chỉ các quá trình thuần tuý tự nhiên. Với các quá trình tự nhiên, sự vận động tiến về phía trước từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn… được biểu thị trong khái niệm phát triển.

Cố nhiên, khái niệm phát triển không chỉ đặc trưng cho các quá trình tự nhiên. Nó còn được đùng khá phổ biến trong nhận thức các lĩnh vực thuộc đời sống xã hội. Trong những trường hợp như vậy, thông thường phát triển được hiểu như là tiến bộ. Tuy thế, điều đáng lưu ý là ở chỗ, với tính cách là một khái niệm triết học thì tiến bộ lại hẹn hơn so với phát triển: Không nhải mọi sự phát triển trong xã hội ều là tiến bộ. Cũng không phải mọi tập hợp các tiêu chí của sự phát triển đều có thể được thừa nhận là tiến bộ. Trong hầu hết các quan niệm khác nhau, tiến bộ chỉ là một trình độ – trình độ cao của sự phát triển.

Do được sử dụng một cách phổ biến không những trong nhiều khoa học xã hội mà còn cả trong ý thức thông thường cho nên đến nay, việc phân định phạm vi ứng dụng và mức độ khái quát của các khoa học khi sử dụng khái niệm tiến bộ xã hội cũng là vấn đề gây tranh cãi. Không ít khoa học xã hội tự coi tiến bộ xã hội là khái niệm thuộc bộ máy phạm trù của mình. Tuy vậy, cũng có những tác giả xem tiến bộ xã hội lại chỉ là khái niệm của triết học. Theo các tác giả này thì ở các khoa học chuyên ngành hoặc liên ngành, tiến bộ xã hội là khái niệm có tính chất vay mượn, nó chỉ phản ánh những mật, những khía cạnh đặc thù của tiến bộ.

Vậy tiến bộ xã hội thuộc hệ thống phạm trù của khoa học nào?

Theo chúng tôi, khó có thể phủ nhận quan niệm cho rằng tiến bộ xã hội là khái niệm thuộc các khoa học như xã hội học, kinh tế học, chính trị học… hoặc thuộc những khoa học liên ngành nào đó. Do chỗ bản thân khái niệm tiến bộ không bị vướng mắc trong việc định nghĩa, cho nên khi các khoa học khác nhau xác định tiêu chuẩn của tiến bộ, người ta có thể chấp nhận được những khác biệt đặc thù do tính đặc thù của đối tượng nghiên cứu quy định. Sẽ là bất hợp lý nếu đòi hỏi sự tiến bộ trong các phương diện khác nhau của đời sống xã hội đều phải được đo bằng một thước đo duy nhất. Cần phải thừa nhận rằng mỗi khoa học chuyên biệt, thậm chí mỗi quan điểm nghiên cứu đều có thể và có quyền đưa ra báng tiêu chuẩn riêng của mình về tiến bộ xã hội. Vấn đề tất nhiên sẽ là ở chỗ, bảng tiêu chuẩn riêng ấy khách quan đến mức nào, hợp lý đến mức nào trong mối tương quan với những điều kiện lịch sử – xã hội cụ thể.

Thực tế xác nhận rằng, thời gian gần đây, nhiều cộng đồng khác nhau trên thế giới, mặc dù sống trong những điêu kiện chính trị – xã hội hết sức đặc thù nhưng cũng đã chấp nhận và sử dụng các bảng tiêu chuẩn chung do các tổ chức quốc tế nêu ra để đánh giá mức độ phát triển của cộng đồng mình. Trong những bảng tiêu chuẩn này, không phải không còn những tiêu chuẩn chưa thoả đáng, song để kiểm tra trình độ tiến bộ so với mặt bằng chung của tiến bộ nhân loại thì việc đưa ra những bảng tiêu chuẩn này, về cơ bản là có ý nghĩa. Tiến bộ về kinh tế, tiến bộ về giáo dục và khoa học, tiến bộ về y tế và mức sống… có thể chưa phải là những mục tiêu tối thượng trong chiến lược phát triển của các quốc gia. Tuy nhiên, đó cũng là những tiêu chuẩn có giá trị phổ biến mà việc thừa nhận nó nói lên rằng, dù có bị quy định bởi những điều kiện đặc thù đến mức nào đi nữa thì các dân tộc khác nhau, các cộng đồng khác nhau cũng đều có những cái chung, cái phổ quát đặc trưng cho sự tiến bộ của xã hội.

Đây chính là điểm mà triết học cần phải bàn cãi.

Khi thừa nhận điều nói trên, không nên quên rằng, trong các tác phẩm kinh điển của triết học mácxít, khái niệm tiên bộ xã hội không được các tác gia kinh điển trình bày như là một trong những phạm trù cấu thành những nguyên lý cơ bản của CNDV lịch sử. C.Mác và F.Engen có bàn đến tiến bộ xã hội, thậm chí bàn nhiều đến tiến bộ xã hội, nếu tính đến cả những chỗ các ông lý giải không trực tiếp. Thế nhưng, trên thực tế, các ông không coi tiến bộ xã hội là khái niệm giữ vị trí tương đương với các khái niệm như phương thức sản xuất, tồn tại xã hội, ý thức xã hội… Chính các nhà lý luận mácxít hậu thế là những người có công làm phong phú và soi sáng thêm một số phạm trù của CNDV lịch sử, trong đó có phạm trù tiến bộ xã hội.

Hoàn toàn có thể lý giải được tại sao C.Mác và F.Engen lại không bàn tới tư cách triết học của khái niệm tiến bộ xã hội và chức năng của nó trong hệ thống các phạm trù triết học. Tuy nhiên, đây không phải là trọng tâm của sự tranh cãi. Vấn đề cần thiết phải tháo luận là: Nếu tiến bộ xã hội là khái niệm triết học thuộc hệ thống phạm trù của CNDV lịch sử thì điều đó thể hiện như thế nào?

Có thể lý giải điều này như sau:

Tuy nhiên cần lưu ý rằng, điều.vừa nói trên không thể đảm bảo cho các quan niệm triết học về tiến bộ xã hội khỏi bị rơi vào sai lầm. Trái lại, tính hợp lý hay không hợp lý, khả năng đạt tới đúng đắn hay mắc phải sai lầm của các quan niệm triệt học khác nhau, về cơ bản không do chức năng triết học của các quan mệm ấy quy định, mà chính là do trình độ khai quật và sức mạnh ứng dụng của chúng chi phối. Có thể thấy trong lịch sử tư tưởng nhân loại từng xuất hiện không ít những quan điểm ở tầm triết học hoặc mang tính triết học song lại rơi vào ấu trĩ, sai lầm hay các đoàn khi kiến giải về tiến bộ xã hội. Và, hâu quả của việc ứng dụng những quan điểm ấy, tất nhiên, sẽ là mang tính tiêu cực – chẳng những chúng không thúc đẩy xã hội vận động theo chiều tiến bộ mà ngược lại chúng còn cản trở kìm hãm hoặc làm đổ vờ các quá trình xã hội tích cực. Trường hợp những quan niệm phi triết học, ngoài triết học… nhưng do vô tình hoặc cố ý được sử dụng như những quan niệm triết học, tức là được mở rộng phạm vi ứng dụng và trình độ khái quát tới các lĩnh vực ngoài khả năng bao quát của chúng, cũng thuộc về loại này.

Trong tương quan với những phạm trù cấu thành nội dung các nguyên lý cơ bản của CNDV (chẳng hạn, tồn tại xã hội – ý thức xã hội, phương thức sản xuất: lực lượng sản xuất – quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng – kiến trúc thượng tầng…) có thể thấy rằng, tiến bộ xã hội là sự thể hiện nội dung của các nguyên lý đó trong khía cạnh giá trị của vấn đề. Nói một cách khác, nếu nội dung các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử được xem xét từ lăng kính giá trị học thì giá trị của các quan hệ xã hội được phản ánh trong các nội dung đó chính là nội dung của khái niệm tiến bộ xã hội.

Như chúng tôi đã có dịp trình bày, tiến bộ xã hội dù xét ở góc độ nào, dù có mang tính khách quan đến mấy thì cũng không thể là cái gì khác ngoài sản phẩm của sự đánh giá của con người đối với các hiện tượng và quá trình mang tính xã hội đã, đang hoặc sẽ diễn ra cùng với sự tồn tại của con người. Ở đây chúng tôi muốn lưu ý thêm là, trong so sánh với những giá trị khác của các quan hệ đánh giá, những giá trị của sự tiến bộ, phần nhiều là các giá trị thứ sinh, phái sinh, tức là những giá trị được xác định trên cơ sở đã tồn tại các giá trị vật chất hoặc tinh thần khác. Điều này nói lên tính khái quát của các giá trị Của sự tiến bộ : Sự đánh giá về trình độ tiến bộ của một hiện tượng hoặc một quá trình nào đó, thông thường không đơn thuần chỉ là đánh giá dựa vào các giá trị nội tại, ban đầu của các hiện tượng và các quá trình đã diễn ra trong đời sống xã hội, mà là sự đánh giá ở cấp độ cao hơn – những hiện tượng và quá trình cụ thể đó cô ý nghĩa như thế nào đối với sự phát triển nói chung của cộng đồng và của xã hội loài người. Thông thường, mỗi hiện tượng và quá trình trong đời sống xã’ hội, ngay từ khi xuất hiện đều đã có những giá trị nội tại, ban đầu nào đó. Nói chính xác hơn, bất kỳ một hiện tượng hoặc một quá trình nào, một khi đã xuất hiện trước con người, bao giờ cũng được con người đánh giá bằng những nấc thang giá trị theo các quan hệ chủ – khách thể khác nhau. Những giá trị nội tại, ban đầu đó có thể là tích cực hoặc tiêu cực. Tuy nhiên, vấn đề là ở chỗ, nếu những giá trị nội tại ấy được đặt trong những quan hệ tổng thể của sự tồn tạ người, thì chúng có bị thay đổi hoặc biến dạng hay không? chúng sẽ đóng vai trò như thế nào đối với sự phát triển nói chung trong đời sống xã hội? Trong hiện thực xã hội đã có không ít những sự kiện để chứng tỏ rằng, đôi khi những giá trị tích cực ban đầu của sự sáng tạo của con người lại bị tha hoá đi và biến thành kẻ phản bội hạnh phúc của con người. Làm thế nào để mọi sự phát triển đều đi theo một “quán tính chung” là tiến hộ xã hội? Hay nói một cách khác, mọi sự vận động trong xã hội phải được diễn ra theo một định hướng như thế nào để xã hội luôn luôn đạt tới tiến bộ? Đây chính là vấn đề của mọi vấn đề, là cái mà các lý thuyết triết học xã hội đều phải bằng cách này hay bằng cách khác quan tâm giải quyết.

Khi đặt vấn đề tiến bộ xã hội cần phải trở thành “quán tính chung” cho mọi sự vận động và phát triển trong đời sống xã hội, cần thiết phải thừa nhận rằng, theo lập trường của CNDV lịch sử thì tiến bộ xã hội, xét cho cùng, là sự vận động của xã hội từ hình thái kinh tế – xã hội này tới hình thái kình tế xã hội khác cao hơn. Sự vận động ấy diễn ra trong một quá trình lịch sử – tự nhiên. Với khuynh hướng của sự phủ định có kế thừa giữa các xã hội theo chiều xoáy ốc đi lên.

Như vậy, theo quan điểm của CNDV lịch sử thì tiến bộ xã hội là một tiến trình mang tính quy luật, là một hiện tượng khách quan và tất yếu – nó vốn có đối với mọi xã hội.

Vấn đề là ở chỗ, trong điều kiện của thời đại ngày nay, một quan điềm như vậy có ý nghĩa gì đối với việc định hướng các quan niệm về tiến bộ xã hội.

Theo chúng tôi, nêu đã thừa nhận CNDV lịch sử thì không nên quên rằng, tiến bộ xã hội trong quan điểm của CNDV lịch sử là sự đánh giá ở tầm phổ quát nhất, là sự khái quát ở mức độ trừu tượng nhất đối với quá trình vận động của lịch sử xã hội loài người nói chung. Một sự khái quát như vậy, dĩ nhiên, buộc phải trừu tượng đi những hiện tượng ngẫu nhiên, những sự kiện không bản chất, buộc phải tạm thời không tính đến những quá trình nằm ngoài quỹ đạo chung… để tìm ra “dòng chảy” của lịch sử. Tuy nhiên, cũng không nên quên rằng, một khi đã tìm ra “dòng chảy” của lịch sử nói chung, đã phát hiện ra quy luật chung của sự tiến bộ thì đó chính là cơ sở để giải thích những hiện tượng ngẫu nhiên, những sự kiện không bản chất, những quá trình nằm ngoài quỹ đạo chung…

Do vậy, việc kiến giải về tiến bộ xã hội theo quan điểm của CNDV lịch sử cho phép khẳng định rằng, dù lịch sử xã hội loài người có quanh co đến mấy, dù bộ mặt của tiến bộ trong xã hội hiện đại có đa dạng đến mấy thì cái có ý nghĩa sâu xa, quyết định mọi tiến bộ vẫn là sự phát triển của lực lượng sản xuất, vẫn là sự lớn mạnh của nền sản xuất xã hội.

Điều này sẽ trở nên đặc biệt có ý nghĩa, khi lưu ý rằng, vai trò to lớn của những nhân tố “phi vật chất”, của những quá trình nằm “ngoài sản xuất”… mà gần đây người ta thường nói tới, trên thực tế, cũng chỉ có ý nghĩa khi chúng trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tới xã hội thông qua việc chúng kìm hãm hay thúc đẩy nền sản xuất xã hội (“Văn hoá góp phần vào sự cứu rỗi song không hứa hẹn sự cứu rỗi” – Lới F.Mayor diễn đạt lại tu tưởng của F.Dostoievski). Không tác động được tới nền sản xuất xã hội, không bằng cách nào đó gây được sức ép tới con người (con người với tính cách là yếu tố của lực lượng sản xuất xã hội) thì mọi nhân tố tâm linh, truyền thống, chỉ là những nhân tố có ý nghĩa hết sức hạn chế.

Cố nhiên, xác nhận điều này không có nghĩa là xem nhẹ vai trò của những nhân tố tinh thần, cái hiền đang được coi trọng và rất xứng đáng được coi trọng. Với sự xác nhận điều này, cái mà chúng tôi cảm thấy cần phải một lần nữa nhắc lại khi đề cập tới quan niệm của CNDV lịch sử về tiến bộ xã hội là. Mặc dù tiến bộ xã hội là một giá trị gắn rất chặt với các nhân tố tinh thần, chịu sự chi phối của các nhân tố tinh thần, tuy nhiên, cái quyết định tiến bộ xã hội, xét cho cùng vẫn là các nhân tố vật chất, thuộc về nền sản xuất xã hội. Việc bàn luận tới vai trò to lớn của đời sống tinh thần, tính quy định của các nhân tố văn hoá tinh thần… trên thực tế, đều phải dựa vào một tiền đề là thừa nhận tính quyết định của đời sống vật chất. Sự tác động trở lại của tác nhân tố tinh thần đối với đời sống vật chất xã hội, về thực chất, cũng là tác động để các nhân tố vật chất tăng thêm sức mạnh vốn có của nó. Trong nghiên cứu về tiến bộ xã hội, đôi khi ta có thể cố tình nhấn mạnh và đề cao vai trò của các nhân tố “phi vật chất” sự đề cao có lúc tưởng như thái quá, cực đoan. Trong những trường hợp như vậy, không phải lúc nào sự đề cao đó cũng đồng nghĩa với việc phủ nhận vai trò của các nhân tố vật chất. Ở đây cần phân biệt độ tinh tế của các lập trường nghiên cứu. Có thể người ta coi sức mạnh của các nhân tố vật chất đối với tiến bộ xã hội là một cái gì đó hiển nhiên. Vai trò của sự phát triển lực lượng sản xuất, của sự tăng trưởng kinh tế đối với tiến bộ xã hội là cái không cần phải bàn .cãi. Người ta chú ý hơn đến vai trò của phong tục, tập quán, nếp tư duy hoặc thế giới tâm linh… của mỗi cộng đồng. Và quả thật khi hướng sự quan tâm vào những lĩnh vực này, bộ mặt của tiến bộ xã hội lại được cắt nghĩa bằng những nguyên nhân không kém phần ý nghĩa.

Chủ Nghĩa Tiến Hóa Xã Hội: Xã Hội Hiện Đại Phát Triển Như Thế Nào?

Tiến hóa xã hội là cái mà các học giả gọi là một tập hợp rộng các lý thuyết cố gắng giải thích làm thế nào và tại sao các nền văn hóa hiện đại khác với các nền văn hóa trong quá khứ. Những câu hỏi mà các nhà lý thuyết tiến hóa xã hội tìm kiếm câu trả lời bao gồm: Tiến bộ xã hội là gì? Nó được đo như thế nào? Những đặc điểm xã hội nào được ưu tiên? và Họ đã được chọn như thế nào?

Tiến hóa xã hội có nhiều cách giải thích mâu thuẫn và mâu thuẫn giữa các học giả – trên thực tế, theo Perrin (1976), một trong những kiến ​​trúc sư của tiến hóa xã hội hiện đại (1820 đến 1903), đã có bốn định nghĩa thay đổi trong suốt sự nghiệp của mình. . Qua lăng kính của Perrin, sự tiến hóa xã hội của người Spencerian nghiên cứu một chút về tất cả những điều này:

Vào giữa thế kỷ 19, quá trình tiến hóa xã hội chịu ảnh hưởng của các lý thuyết tiến hóa vật lý của được thể hiện trong , nhưng sự tiến hóa xã hội không bắt nguồn từ đó. Nhà nhân chủng học thế kỷ 19 thường được mệnh danh là người đầu tiên áp dụng các nguyên lý tiến hóa vào các hiện tượng xã hội. Khi nhìn lại (một điều dễ trêu ngươi trong thế kỷ 21), quan niệm của Morgan rằng xã hội đã chuyển động không ngừng qua các giai đoạn mà ông gọi là dã man, man rợ và nền văn minh dường như lạc hậu và hạn hẹp.

Nhưng Morgan không phải là người đầu tiên nhìn thấy điều đó: tiến hóa xã hội như một quá trình một chiều và có thể xác định được bắt nguồn sâu xa từ triết học phương Tây. Bock (1955) liệt kê một số tiền nhân của các nhà tiến hóa xã hội thế kỷ 19 cho các học giả trong thế kỷ 17 và 18 ( , Condorcet, Cornelius de Pauw, Adam Ferguson, và rất nhiều người khác). Sau đó, ông gợi ý rằng tất cả các học giả đó đang hưởng ứng “văn học du hành”, những câu chuyện của các nhà thám hiểm phương Tây thế kỷ 15 và 16, những người đã mang lại báo cáo về các loài thực vật, động vật và xã hội mới được phát hiện. Bock nói, văn học này đã khiến các học giả kinh ngạc trước tiên rằng “Chúa đã tạo ra rất nhiều xã hội khác nhau”, hơn là cố gắng giải thích các nền văn hóa khác nhau không được khai sáng như chính họ. Ví dụ, vào năm 1651, nhà triết học người Anh đã tuyên bố một cách rõ ràng rằng các dân tộc bản địa ở Châu Mỹ đã ở trong tình trạng tự nhiên được chuẩn hóa như tất cả các xã hội trước khi họ vươn lên thành các tổ chức chính trị, văn minh.

Thậm chí đó không phải là tia sáng đầu tiên của sự tiến hóa xã hội phương Tây: để làm được điều đó, bạn phải quay trở lại Hy Lạp và La Mã. Các học giả cổ đại như xây dựng lịch sử của xã hội riêng của họ, bằng cách mô tả các nền văn hóa La Mã và Hy Lạp sơ khai như những phiên bản man rợ của chính họ hiện nay. Ý tưởng của sự tiến hóa xã hội là xã hội phát triển từ một tổ chức dựa trên gia đình, sang dựa trên làng xã, và cuối cùng là thành nhà nước Hy Lạp. Phần lớn các khái niệm hiện đại về sự tiến hóa xã hội đều có mặt trong văn học Hy Lạp và La Mã: nguồn gốc của xã hội và tầm quan trọng của việc khám phá chúng, nhu cầu có thể xác định nội động đang hoạt động và các giai đoạn phát triển rõ ràng. Ngoài ra, trong số các tổ tiên Hy Lạp và La Mã của chúng ta, khuynh hướng của viễn tượng học, rằng “hiện tại của chúng ta” là kết thúc đúng đắn và là kết thúc duy nhất có thể có của quá trình tiến hóa xã hội.

Do đó, tất cả các nhà tiến hóa xã hội, hiện đại và cổ đại, nói Bock (viết năm 1955), đều có quan điểm cổ điển coi sự thay đổi là sự tăng trưởng, rằng sự tiến bộ là tự nhiên, tất yếu, dần dần và liên tục. Bất chấp sự khác biệt của chúng, các nhà tiến hóa xã hội viết về các giai đoạn phát triển liên tiếp, được phân loại rõ ràng; tất cả đều tìm kiếm những hạt giống trong nguyên bản; tất cả đều loại trừ việc coi các sự kiện cụ thể là yếu tố hiệu quả, và tất cả đều bắt nguồn từ sự phản ánh các hình thái văn hóa hoặc xã hội hiện có được sắp xếp thành một chuỗi.

Một vấn đề rõ ràng đối với sự tiến hóa xã hội như một nghiên cứu là định kiến ​​rõ ràng (hoặc ẩn ngay trong tầm nhìn rõ ràng) đối với phụ nữ và người không phải da trắng: các xã hội không phải phương Tây mà những người đi du hành nhìn thấy bao gồm những người da màu thường có lãnh đạo nữ và / hoặc bình đẳng xã hội rõ ràng. Rõ ràng, chúng chưa được giải đáp, các học giả nam giàu có da trắng trong nền văn minh phương Tây thế kỷ 19 cho biết.

Các nhà nữ quyền thế kỷ 19 như Charlotte Perkins Gilman đã và hào hứng với khả năng rằng bằng cách điều tra sự tiến hóa xã hội, khoa học có thể vượt qua định kiến ​​đó. Gamble đã bác bỏ rõ ràng quan niệm của Darwin về tính hoàn hảo – rằng tiêu chuẩn tiến hóa vật chất và xã hội hiện tại là lý tưởng. Cô cho rằng nhân loại đã bắt đầu suy thoái tiến hóa, bao gồm ích kỷ, ích kỷ, tính cạnh tranh và khuynh hướng hiếu chiến, tất cả đều phát triển mạnh mẽ ở loài người “văn minh”. Nếu lòng vị tha, quan tâm đến người khác, ý thức về xã hội và lợi ích nhóm là quan trọng, thì các nhà nữ quyền cho rằng, cái gọi là man rợ (người da màu và phụ nữ) đã tiến bộ hơn, văn minh hơn.

Bằng chứng về sự suy thoái này, trong , Darwin gợi ý rằng đàn ông nên chọn vợ cẩn thận hơn, như những người chăn nuôi gia súc, ngựa và chó. Trong cùng một cuốn sách, ông cũng lưu ý rằng trong thế giới động vật, con đực phát triển bộ lông, tiếng kêu và màn biểu hiện để thu hút con cái. Gamble đã chỉ ra sự mâu thuẫn này, Darwin cũng vậy, người đã nói rằng sự chọn lọc của con người giống với sự chọn lọc của động vật ngoại trừ việc con cái lấy phần của nhà lai tạo con người. Nhưng Gamble nói (theo báo cáo của Deutcher 2004), nền văn minh đã suy thoái đến mức dưới tình trạng kinh tế và xã hội hà khắc, phụ nữ phải làm việc để thu hút nam giới để thiết lập sự ổn định kinh tế.

Không có nghi ngờ gì rằng sự tiến hóa xã hội tiếp tục phát triển mạnh như một nghiên cứu và sẽ tiếp tục trong tương lai gần. Nhưng sự gia tăng đại diện của các học giả không thuộc miền Tây và nữ (không kể đến các cá nhân có giới tính khác nhau) trong lĩnh vực học thuật hứa hẹn sẽ thay đổi các câu hỏi của nghiên cứu đó bao gồm “Điều gì đã xảy ra khiến nhiều người bị tước quyền quản lý?” “Một xã hội hoàn hảo sẽ trông như thế nào” và, có lẽ giáp với kỹ thuật xã hội, “Chúng ta có thể làm gì để đạt được điều đó?

Bạn đang xem bài viết Tiến Bộ Và Công Bằng Xã Hội trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!