Cập nhật thông tin chi tiết về Tìm Hiểu Về Chủ Nghĩa Thực Dụng Của Hoa Kỳ mới nhất trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Lê Văn Bỉnh
Nhiều người trong chúng ta thường nói rằng người Mỹ –dùng chung cho cá nhân, chính trị gia, định chế, chính phủ –theo “chủ nghĩa thực dụng” (pragmatism). Khi tỏ ý chê bai, thì phê phán này có nghĩa là người Mỹ không có một lý tưởng rõ ràng, hễ thấy điều gì có lợi cho mình thì làm, quên cả mục tiêu mà mình muốn theo đuổi từ ban đầu. Khi ngợi khen, thì phê phán này hàm ý là người Mỹ không câu nệ, không cứng nhắc tuân theo nguyên tắc, mà trái lại biết linh động theo tình thế, sẵn sàng thay đổi phương cách hành động cũng như đường lối, chính sách. Sử dụng cụm từ “chủ nghĩa thực dụng” với những hàm ý này thiết nghĩ không chính xác, nếu không nói là lạm dụng chữ nghĩa, bởi lẽ hành động theo cung cách đổi tới đổi lui thì không thể gọi là theo một “chủ nghĩa” nào cả! Thiết nghĩ nói rằng người Mỹ “thực tế”, “thực tiễn” (practical) thì có lẽ đúng hơn.
Không phải chỉ có không ít người Việt chúng ta không hiểu về chủ nghĩa thực dụng, mà ngay cả nhiều người Mỹ có học cũng khá mơ hồ về nó. Thật vậy, đầu năm 2012, đài phát thanh National Public Radio ở thành phố New York (WNYC) tường thuật rằng 3 chữ pragmatic/pragmatism/pragmatist được cư dân mạng tìm kiếm nhiều nhất, cũng như đã được các phương tiện truyền thông đại chúng dùng nhiều nhất vào năm 2011 sau khi Tổng Thống Obama tuyên bố rằng ông và lịch trình hành động của ông từ khi vận động tranh cử đến lúc bấy giờ vẫn nhất quán, nghĩa là “pragmatic” và “pragmatist.” (Pragmatism and American Experience: An Introduction, TG Joan Richardson, NXB Cambridge, 2014, tr.1-2
Chủ nghĩa thực dụng thực ra đã được người Mỹ và thế giới công nhận là một trào lưu triết học, ra đời trên đất Mỹ từ hơn một trăm năm nay. Nó càng ngày càng phổ cập trong đời sống cũng như trong các lãnh vực giáo dục, pháp luật, chính trị, ngoại giao vv. Hoa Kỳ. Nhiều nhà triết học nổi tiếng thế giới đã nghiên cứu phong trào triết học mới này một cách nghiêm túc, coi đó là một sản phẩm trí tuệ của nước Mỹ đóng góp vào kho tàng triết học thế giới.
Trước khi giới thiệu nội dung của chủ nghĩa thực dụng, thiết nghĩ nên đề cập sơ lược về triết học để từ đó chúng ta có thể nhận ra những khám phá của phong trào triết học mới này.
Sơ Lược Về Triết Học
Triết học như nói trên nhằm tra vấn những phạm trù mà người nghiên cứu quan tâm. Nhưng trên đời, có biết bao vấn đề đáng quan tâm! Theo truyền thống, triết học chia ra 5 ngành chính:
Siêu hình học (metaphysics) nghiên cứu về bản chất căn bản của hiện thực và hiện hữu. Chia ra hai chi nhánh: hiện thể học (ontology, nghiên cứu hiện thể — tức “Being”) và vũ trụ học (cosmology, nghiên cứu về nguồn gốc vũ trụ qua tôn giáo, truyền thuyết và khoa học);
Tri thức học (epistemology) nghiên cứu về bản chất, căn bản và sự phát triển của tri thức (knowledge), để có thể giúp con người khám phá ra sự thực, tìm kiếm mối quan hệ giữa tri thức và niềm tin;
Luận lý học (logic) nghiên cứu về những nguyên tắc và phương pháp lý luận, có thể giúp người ta phân biệt giữa chính biện và ngụy biện;
Đạo đức học (ethics) nghiên cứu về cách cư xử, bản tính và những hệ thống giá trị của con người;
Thẩm mỹ học (aesthetics) nghiên cứu về sự sáng tạo và những nguyên tắc nghệ thuật và cái đẹp; cũng như tư tưởng, cảm nhận và thái độ khi thấy, nghe, đọc về những điều đẹp đẽ.
Ngày nay người ta còn kể thêm triết học về ngôn ngữ (philosophy of language), xem nó là quan trọng với lý do là mọi tranh cải triết lý đều từ ngôn ngữ mà ra. Câu hỏi chủ yếu “Ngôn ngữ là gì?” Ngoài ra, mỗi ngành học như khoa học, tôn giáo đều có triết lý “riêng” của mình, mà chỗ dựa chính vẫn là các ngành triết học kể trên.
Có thể nói mỗi người trong chúng ta hằng ngày đều phải đương đầu với những câu hỏi hoặc lớn hoặc nhỏ mang ít nhiều tính cách triết học: Vũ trụ từ đâu sinh ra? Tôi là ai? Cuộc đời này đáng sống hay không? Sau khi chết linh hồn đi về đâu? Tuân thượng lệnh để giết người mà tôi biết rằng làm như vậy là sai, tôi sẽ bị tội hay không? Bạn dựa vào đâu mà nói ông ta đúng hay sai? Chị dựa vào đâu mà khen bức tranh này đẹp hay xấu? Ngay cả người chủ trương rằng tìm hiểu triết học chỉ phí thì giờ, hãy cứ tự nhiên mà sống, thì người ấy cũng cho thấy cái triết lý sống của mình!
Từ đó có thể nói nghiên cứu triết học giúp làm sáng tỏ những điều người ta viết là đúng hay sai, đáng tin hay nên ngờ vực; hiểu được lý do, hoàn cảnh của một giai đoạn lịch sử nào đó để có thể phê phán cho công bằng, vv.
Xã hội con người được xây dựng trên những tư tưởng triết học. Những định chế như chính quyền, luật pháp, tôn giáo, học đường, hôn nhân, gia đình, tổ chức thương mại, vv. thường được thiết lập theo những tư tưởng triết học nhất quán. Thiếu tính nhất quán này, hay nếu những chuyển biến thô bạo vụng về thì dễ đưa đến đổ vỡ. Đổ vỡ bởi vì người cầm quyền tin rằng những gì mình ra lệnh là quan trọng, là đúng, là sự thực; nhưng thuộc cấp và dân chúng lại suy nghĩ hoàn toàn trái ngược.
Chủ Nghĩa Thực Dụng
Nếu Tocqueville còn sống thêm mười năm nữa, có thể ông sẽ nghĩ khác. Thật vậy, từ đầu thập niên 1860 trở đi, sinh hoạt triết học của giới trí thức trẻ Hoa Kỳ đã chớm bắt đầu. Phong trào triết học chủ nghĩa thực dụng không ngừng phát triển cho đến nay, lan dần vào nhiều lãnh vực văn học, nghệ thuật, giáo dục, pháp lý, vv. như đã đề cập ở trên. Nó không những được sự hưởng ứng nồng nhiệt của giới trí thức Hoa Kỳ, mà còn được sự tiếp nhận ít dè dặt hơn, nếu không nói khả quan, của giới trí thức bên ngoài nguyên xứ của nó.
Chủ nghĩa thực dụng là một hệ thống hay một khuynh hướng trong triết học, trắc nghiệm giá trị của tất cả khái niệm qua các kết quả thực tiển. (Webster’s New World Dictionary of the American Language, NXB The World Publishing Company, 1968, tr. 1146).
Chủ nghĩa thực dụng là một chủ thuyết cho rằng ý nghĩ và tư tưởng chỉ có giá trị khi mang lại hệ quả, và rằng kết quả là trắc nghiệm duy nhất về giá trị hay sự thật của một niềm tin của con người. (New Illustrated Webster’s Dictionary of the English Language, NXB PMC Publishing Company, Inc., 1992, tr. 761)
Chủ nghĩa thực dụng: một triết lý, lý giải chủ yếu bởi C.S. Pierce và Williams James, lượng giá các xác quyết đơn thuần bằng những hệ quả thực tiển, và liên hệ đến những lợi ích của con người. (The Oxford Encyclopedia English Dictionary, NXB OUP, 1996, tr. 1137)
Chủ nghĩa thực dụng: 1. (Triết học): một phong trào gồm những lý thuyết đa dạng nhưng kết hợp với nhau, khởi đầu được khai triển bởi Charles S. Pierce và William James và được phân biệt qua chủ thuyết cho rằng ý nghĩa của một tư tưởng hay của một tiền đề (proposition) nằm ở những hậu quả thực tiển có thể quan sát được; 2. một phương pháp thực tiển, thực sự để tiếp cận và đánh giá các tình huống và giải quyết các vấn đề (The American Heritage Dictionary of the English Language, NXB Houghton Mifflin Co., 2000, tr. 1378)
Chủ nghĩa thực dụng nghĩ về phương cách giải quyết các vấn đề theo phương cách thực nghiệm và cảm tính hơn là bằng những ý tưởng và lý thuyết cố định (Oxford Advanced America Dictionary, NXB OUP, 2011, tr. 1146)
Từ những định nghĩa tổng quát quát này, liệu người ta có thể đưa ra kết luận rằng theo CNTD thì một chủ thuyết (doctrine), hay một ý nghĩ, một tư tưởng được xem là sự thật và có ý nghĩa chỉ khi nào nó đưa đến một hệ quả hữu ích cho con người; còn nếu nó không đem lại kết quả như mong muốn, thì nó chỉ là những thứ vô bổ? Đây quả một câu hỏi quan trọng đáng được nghiên cứu cẩn thận trước khi có câu trả lời. Ngoài ra, CNTD còn được xem như một phương cách (method) đem lại giải pháp cho các tình huống. Tính cách thực tiển này giúp ích gì cho cuộc sống?
***
Trước khi giới thiệu CNTD và những người cha đẻ của nó, thiết nghĩ nên nói ngay rằng CNTD là “một cái tên mới cho những cách suy nghĩ cũ” (a new name for old ways of thinking) như William James đã đề nghị. Theo CNTD, một ý tưởng phải được phê phán qua cách thức hoạt động của nó, hơn là qua dáng vẻ bề ngoài hay qua tiếng nói phát ra. Phương pháp của CNTD được xem là gần gũi với phương pháp khoa học; hay nói rõ hơn là nó toan tính đưa các phương pháp khoa học vào triết học. Điều này khiến nhiều người xem CNTD là một triết học kỳ quái của người Mỹ!
Theo CNTD, người ta không thể phê phán rằng một ý tưởng là đúng hay sai chỉ bằng đơn thuần nhìn nó. Nó là thực/đúng với điều kiện là nó chứng tỏ hiệu quả khi liên hệ đến quá khứ và tương lai và khi tổ chức các trải nghiệm hiện tại làm thỏa mãn chúng ta. Một ý tưởng có thể đúng trong tình huống này, nhưng lại sai trong hoàn cảnh khác. Về sự chuyển động của mặt trời và những hành tinh lân cận chẳng hạn, tư tưởng nhà thiên văn học Ptolemy (100 -170) được xem là đúng trong một thời gian dài hơn cả nghìn năm, trước khi Copernicus (1473-1543) đưa ra quan điểm của mình. Gần đây, dựa vào lý thuyết tương đối của Newton, các nhà thiên văn học hiện đại, quan sát thấy sự chuyển động giản dị hơn nhiều so với các tính toán của Copernicus. Đối với những người theo CNTD, Ptolemy và Copernicus đều đúng cả, nghĩa là cả hai lý thuyết đều đúng cho tới khi chúng không còn hoạt động hiệu quả nữa.
Cũng cần nói thêm: CNTD chưa bao giờ long trọng tuyên bố rằng một ý tưởng được coi là đúng/thực đối với một người khi nó làm cho ông ta đạt được điều gì đó mà ông ta muốn. Điều hoang tưởng kỳ vĩ này có thể làm cho ông ta quá tự tin và khiến ông ta ra tay chế ngự kẻ khác để nhằm đạt mục tiêu của mình. Chính điều hoang tưởng này đã gây ra thảm họa cho nhiều dân tộc sau những cuộc bầu cử gay go, hay sau những chiến thắng bất ngờ hay những vụ đảo chính đẩm máu: những người chiến thắng xem sự thành công ban đầu — tức được đưa lên nắm chính quyền –là đúng/ thực, và sẽ mãi là ý tưởng đúng/ thực vĩnh viễn. Đối với CNTD, không có “chân lý” nào tồn tại vĩnh viễn.
Triết học, như đã đề cập, chia ra nhiều ngành. CNTD đề cập đến hầu hết những ngành triết học đó, một phần vì những người sáng lập được đào tạo từ nhiều ngành nghề khác nhau; phần khác họ muốn đưa ra những chủ thuyết khác đối kháng với các trường phái cũ. Nói một cách tổng quát, CNTD là kết hợp của 3 lý thuyết chính sau đây. Thứ nhất, lý thuyết về tư tưởng (theory of mind), theo đó niềm tin là những giả định, và ý tưởng là những kế hoạch hành động. Thứ hai, lý thuyết về ý nghĩa (theory of meaning), theo đó các ý tưởng được làm sáng tỏ bằng cách cho thấy mối quan hệ của chúng với hành động. Thứ ba, lý thuyết về sự thực (theory of truth), theo đó những niềm tin là thực chỉ khi chúng là những hướng dẫn đem lại kết quả trong các tiên liệu và hành động. Yếu tố xuyên suốt trong ba chủ thuyết này là hành động, chứ không phải những suy xét có tính cách lý thuyết. (The Columbia History of Western Philosophy hiệu đính bởi Richard H. Popkin, do MJF Books xuất bản năm1999, tr. 592). Nói cách khác, CNTD cho rằng ý nghĩa và sự thực của một ý tưởng được định đoạt bởi những hệ quả của ý tưởng đó qua thực hành và cư xử (in practice and conduct).
Ngoài ra, cũng nên lưu ý rằng cùng một phạm trù, nhưng các triết gia CNTD đôi khi đưa ra những quan điểm khác nhau. Ba người tiên phong sáng lập CNTD là: Charles Sanders Peirce, William James và John Dewey.
Charles Sanders Peirce (1839 – 1914)
Là người sáng lập CNTD tại Mỹ, nhưng về sau Peirce lại đổi tên pragmatism thành pragmaticism, một cái tên mà ông cho là “kỳ quặc nhưng sẽ không bị người khác bắt cóc”. Tuy nhiên ngày nay, pragmatism được phổ biến rộng rãi hơn để chỉ trào lưu triết học càng ngày càng được phát triển, trong khi đó pragmaticism chỉ được sử dụng hạn chế trong ngành ngôn ngữ học (thí dụ trong quyển “Pragmaticism: Theory and Application” của Ellyn Lucas Arwood).
Theo Peirce, nguyên tắc chủ đạo của CNTD là “nếu người ta có thể định nghĩa chính xác tất cả những hiện tượng thực nghiệm có thể nhận thức được mà sự xác nhận hay phủ nhận có thể ám chỉ, thì người ta sẽ có một định nghĩa đầy đủ về khái niệm” (if one can define accurately all the conceivable experimental phenomena which the affirmation or denial of the concept could imply, one will have a complete definition of the concept).
Ông đặc biệt quan tâm đến sự khác biệt giữa niềm tin và sự hoài nghi. Đối với ông “sự hoài nghi trên lý thuyết” (paper doubt) của Descartes không ích lợi gì; trái lại sự hoài nghi thực sự (real doubt) được củng cố sau nhiều trải nghiệm sẽ làm cho chúng ta hoãn lại những niềm tin, tức những gì mà thoạt đầu chúng ta tin là đúng/thực. Theo Peirce, những tiền đề trong triết học (proposition) –tương đương với những định đề (theorem) trong toán học– xuất phát từ một vài nghĩ suy sắp đặt thông minh (intellectual disposition) chưa đáng được gọi là niềm tin (belief); mà niềm tin là do một sự biểu thị về thói quen ứng phó trong hành động (a behavioral habit manifest in action). Do đó, khi “sự hoài nghi thực sự” được đặt ra, thì thái độ thường có của con người sẽ bị đổ vỡ. Mặt khác, sự hoài nghi của Descartes có thể không làm cho chúng ta thay đổi cách thức hành động. Theo Peirce, tri thức, mà ông định nghĩa như là giải pháp cho những thói quen bị đổ vỡ vì sự xét lại niềm tin, mới chính là một “tiến trình phản ứng tự nhiên” (homeostatic process, như trong trường hợp cơ thể chúng ta rùng mình khi gặp lạnh, hắt hơi khi bị chói nắng). Đối với Peirce, tri thức là phương tiện dùng để ổn định cách ứng phó theo thói quen đối với sự hoài nghi. (Philosophy: 100 Essential Thinkers, Philip Stokes, NXB Arturus, 2016, tr. 126).
Trong bài nói chuyện đầu tiên với tựa đề “How to Make Our Ideas Clear”, Peirce viết: “Cốt lõi của niềm tin là sự hình thành thói quen, và những niềm tin khác nhau được phân biệt bằng các phương cách hành động mà những niềm tin đó gợi ra. Nếu các niềm tin không khác biệt nhau trong phạm vi này; nếu chúng không hạ giảm bớt sự hoài nghi đó bằng cách sản sinh cùng qui luật hành động, thì những sự khác biệt đơn thuần về phương diện ý thức của chúng có thể khiến chúng thành những niềm tin khác nhau.” (Pragmatism: A Reader do Louis Menand hiệu đính, do A Vintage Orginal xuất bản năm 1997, tr.33)
Về đạo đức học, một phạm trù mà ông tham gia bàn luận tương đối trễ, Peirce chỉ trích là trong triết học cổ truyền, “khuynh hướng của các triết gia là luôn luôn xác quyết rất tuyệt đối”; và tuy không tranh luận rằng James và Dewey là những người theo thuyết tương đối (relativists), nhưng ông e sợ rằng triết lý của hai người này cực kỳ linh động và công trình nghiên cứu của họ có thể dẫn dắt người ta đi theo một đường hướng khác. Cùng chính vì lý do này, mà ông thay đổi chủ thuyết của mình, từ “pragmatism” thành “pragmaticism”. Theo Peirce, đạo đức học có nhiệm vụ hình thành mục tiêu cuối cùng cho cách ứng xử của con người (the summum bonum), một cứu cánh mà theo ông, có tính cách năng động, chứ không có tính cách tĩnh. Ngoài ra, Peirce còn lý luận rằng đạo đức học không phải là sự nghiên cứu những gì có tính cách lý tưởng, mà là “sự nghiên cứu những cứu cánh của hành động mà chúng ta chuẩn bị kỹ lưỡng để theo.” Trong ý hướng ấy, Peirce thích nghi đạo đức học của ông với lý tưởng thẩm mỹ về những điều hữu lý (aesthetic ideal of reasonableness). Ông tranh cải rằng cách cư xử của con người nên nhắm mục tiêu đóng góp vào sự phát triển những điều hữu lý cụ thể này, chẳng hạn trong tư duy chính trị tại Hoa Kỳ, chúng ta có thể chỉ danh phong trào dân quyền (civil rights) là giá trị cụ thể rút ra từ lý tưởng chung đã được ấn định trong Hiến Pháp (Peirce: Ethics and the Conduct of Life, viết bởi Douglas R. Anderson, trong quyển Classical American Pragmatism: Its Contemporary do S.B. Rosenthal, C.R. Hausman và D.R. Anderson hiệu đính, tr. 137-145).
Theo Louis Menand trong quyển “The Metaphysical Club: A Story of Ideas in Ameica”, tr. 161, thì khi còn là sinh viên, Peirce thích dùng tam đoạn luận (syllogism) để để chia xẻ quan điểm với cha mình trong vấn đề này:
Tất cả con người đều bình đẳng về các quyền chính trị;
Người da đen là con người;
(Vì vậy) Người da đen bình đẳng về các quyền chính trị như người da trắng.
Quan điểm dân quyền này được coi là rất quan trọng, đến nỗi nhiều người cho rằng nếu CNTD ra đời sớm và được phổ biến rộng rãi, thì cuộc nội chiến Nam Bắc tương tàn với 600.000 nhân mạng, và những kết quả tiêu cực vẫn còn tồn tại đến ngày nay, có thể đã không xảy ra trên đất nước Hoa Kỳ. Quan điểm này cũng không hẳn đúng. Bởi lẽ CNTD đã ra đời trên 100 năm nay rồi, mà nạn kỳ thị chủng tộc đâu có biến mất, cứ tái đi tái lại trên đất nước này; cũng như gần đây xảy ra những tranh chấp gay gắt thậm chí chết người về việc gỡ bỏ các tượng đài kỷ niệm do cánh Miền Nam dựng lên sau cuộc Nội Chiến Nam Bắc. Hình như con người khắp mọi nơi trên thế giới đã “quen” yêu chủ nghĩa nhất nguyên của mình rồi! Bỏ nó đi, thì cảm thấy mất đi bản sắc!
William James (1842-1910)
Trong quyển The Principles, James cho rằng kinh nghiệm — chứ không phải lý thuyết, những điều trừu tượng và triết học truyền thống — mới là chìa khóa giúp chúng ta hiểu biết một cách thực tiển về mình cũng như về thế giới. Ông không đồng ý với chủ nghĩa nhị nguyên truyền thống về vật chất và tinh thần, nhưng đồng thời cũng không cho rằng tinh thần bị giảm xuống chỉ còn là vật chất. Theo ông, trí não phải được xem như là công cụ thực hiện các mục tiêu; siêu hình học hay thần học mới chứng tỏ sự hiện hữu của linh hồn. Ông phân biệt “tôi” (I) và “cái tôi” (Me). “Tôi” thì lúc nào cũng ý thức (concious); còn “cái tôi” là cái được ý thức về. Ông phân biệt cái tôi vật chất, cái tôi xã hội và cái tôi tinh thần; chúng là đối thủ, cạnh tranh nhau, và hầu hết chúng ta bị thúc đẩy như là một khán giả lý tưởng trong việc phán xét các tương tác của chúng.
James giúp người đọc nhận ra cái cụ thể, tính hữu dụng cũng như tính tiên liệu của CNTD. Thật vậy, trong khi trường phái học giả thần học thời trung cổ (scholasticism) tra vấn: “Cái này thật ra là gì?” để rồi rơi vào vòng lý sự, lẩn quẩn đi tìm lại tiền đề (quiddities); hay chủ nghĩa Darwin mạnh dạn hỏi: “Nguồn gốc của cái này là chi đây?” để rồi phải tiếp tục tìm kiếm câu trả lời trong khối tinh vân hổn độn (nebulas), thì CNTN đi thẳng vào “đời thường” rất thực tế: “Cái này đem lại những hậu quả gì?” Câu hỏi này nghe ra rất trần tục, nghe không có gì triết học, nhưng khiến người ta suy nghĩ để hành động và nghĩ đến tương lai.
Ngày nay sống trong xã hội đa nguyên, nhiều người trong chúng ta không thấy chủ nghĩa đa nguyên là điều mới lạ. Nhưng không phải chủ nghĩa đa nguyên thời nào cũng thấy được và ở đâu cũng có được. Vào thế kỷ 16-17, chủ nghĩa nhất nguyên đã đưa châu Âu văn minh đến những cuộc chiến tranh tôn giáo đẩm máu. Sau những chém giết đó, chủ nghĩa tự do (liberalism) mới nảy sinh, và người ta mới thấy một sự dung hòa, dung hợp, độ lượng là cần thiết để có hòa bình lâu dài. CNTD kêu gọi mọi người đón tiếp chủ nghĩa đa nguyên nồng nhiệt và tích cực. Theo James, nhiều người trong chúng ta quá thờ ơ hay quá dễ dàng không nhận ra được là có nhiều người có cuộc sống không giống cuộc sống của mình. Khi làm như thế, thì chúng ta không nhận ra được những khác biệt chính đáng.
John Dewey (1859 – 1952)
Chịu ảnh hưởng khá mạnh của thuyết tiến hóa do Charles Darwin chủ xướng, Dewey nghĩ rằng tư tưởng và trí tuệ là những công cụ được phát triển trong quá trình tiến hóa cho phép con người chỉnh đốn lại môi trường sống của mình. Theo Dewey, những niềm tin (Peirce gọi đó là những thói quen) đủ mạnh mẽ và ổn định để chúng ta tin cậy, nhưng chúng ta luôn phải mở rộng đầu óc sẵn sàng xét lại, đặc biệt là vì chúng phải tự thích nghi với những đổi thay của môi trường. Ông viết: “những ý niệm, những lý thuyết, những hệ thống tư tưởng … là những công cụ (tools). Giống như trong trường hợp tất cả các công cụ, giá trị của chúng không nhờ vào chính chúng, nhưng nhờ ở khả năng làm việc của chúng mà người ta nhìn thấy được qua các hiệu quả khi sử dụng chúng” (Dewey, The Middle Work: 12, 163). Ông cho rằng đối với chủ nghĩa thực dụng, mà sau đó ông đặt lại tên là chủ nghĩa công cụ (instrumentalism), tất cả các ý tưởng đều là công cụ. Do đó, những ý tưởng thật sự là những ý tưởng đem lại hiệu quả tốt nhất nhằm đạt những mục tiêu của con người (real ideas are those work best for attaining human goals).
Ông viết: “Triết học tự hồi phục khi nó không còn là công cụ dùng để đối phó với những vấn đề của các triết gia, và trở thành một phương pháp (method, in đậm do người viết), được trao dồi bởi các triết gia để đối phó với những vấn đề của nhân loại.” Ông thúc bách triết học nên trở thành công cụ dùng để đối phó với những vấn đề đặc biệt của nhân loại, hơn là với những vấn đề xa vời của các triết gia. Ông chủ trương dùng phương pháp khoa học để chỉnh đốn lại giáo dục, luân lý, chính trị và xã hội. Dewey cho rằng Peirce là một nhà lý luận (logician); còn James là nhà nhân bản (humanist). Về phần mình, Dewey nhấn mạnh tính cách xã hội của tri thức (the social character of knowledge). Nhưng Peirce lại thấy rằng khảo hướng theo tự nhiên học của Dewey đối với luận lý học là quá tâm lý.
Cũng như James, Dewey nghĩ rằng con người làm ra sự thực. Sự thực không phải là thứ được làm sẵn chế sẵn. Ông viết: “Người theo CNTD nói rằng vì mỗi tiền đề là một giả định về một tra vấn còn đang tiến hành (nói gọn, một đề xuất), nên sự thực của nó là một vấn đề nghề nghiệp, một vấn đề lịch sử: nghĩa là nó trở nên thực, hoặc được làm cho thực (hoặc sai).” (The pragmatist says that since every proposition is a hypothesis referring to an inquiry still to be undertaken (a proposal for short) its truth is a matter of its career, of its history: that it becomes or is made true (or false).
Trong khi Peirce cho rằng sự thực ở tình trạng tĩnh, nghĩa là một niềm tin hoặc vượt qua hoặc không vượt qua nổi những khắc nghiệt của tra vấn, thì Dewey –cũng như James—cho rằng sự thực và tri thức không phải là những hiện tượng tĩnh, nghĩa là không ở trong trường hợp mà những niềm tin của chúng ta hoặc phản ảnh thực tế (và do đó là đúng) hoặc không phản ảnh thực tế (và do đó là sai).
Về phương diện dân chủ, nếu học giả Pháp Tocqueville nhiệt tình ca ngợi sinh hoạt dân chủ tại Hoa Kỳ và than phiền Hoa Kỳ thiếu một nền triết học nói chung cho mình, thì Dewey mới là người chết sống với dân chủ và triết lý hóa dân chủ. Ngoài việc cổ vũ dân chủ trên lý thuyết, Dewey còn giúp thành lập hai hiệp hội: The American Civil Liberties và The National Assosiation for the Advancement of Colored People; và năm 1937, lúc đó đã 78 tuổi, Dewey còn dẫn đầu một ủy ban sang Mexico điều tra về cái chết của Leon Trotsky được cho là bị người của Joseph Stalin ám sát. Những hoạt động tích cực này đã khiến ông được tặng cho danh hiệu “triết gia của dân chủ” của Hoa Kỳ.
Triết lý dân chủ của Dewey được xem là gạch nối giữa chủ nghĩa cá nhân (individualism) của Locke –đã được các chính trị gia Mỹ đưa vào Hiến Pháp cùng những văn bản quan trọng chính trị khác—và chủ nghĩa thực nghiệm (empiricism). Về phương diện tái thiết chính trị xã hội, ông đưa ra một quan điểm rất thực nghiệm. Theo ông, chúng ta sẽ chưa thoát khỏi thời kỳ siêu hình học về triết lý chính trị, nếu chúng ta vẫn tiếp tục ném vào đầu nhau những khái niệm trừu tượng mà khi dứt cuộc chiến, thì đâu vẫn vào đấy, không đạt được điều gì dứt khoát cả. Trái lại, chúng ta cần phải đối phó với mỗi vấn đề chính trị xã hội bằng một giả thuyết đặc biệt, chứ không phải bằng một lý thuyết phổ quát; tất cả các lý thuyết đều rộng trãi, còn đời sống tiến bộ tốt đẹp phải trông cậy vào những thử nghiệm nhận ra cái đúng cái sai. (Goethe có cùng quan điểm về vấn đề này khi viết “Tất cả lý thuyết đều màu xám, chỉ có cây đời là mãi mãi xanh tươi.”).
Dewey viết: “Trong các khái niệm tiền-thực nghiệm, tôi chẳng thấy trường hợp nào mà kết quả cuối cùng lại là một cái gì đó giống như chiến thắng cho khái niệm này hay cho khái niệm kia. Tất cả chúng đều biến mất đi vì chúng càng trở nên không còn liên hệ gì đối với tình thế mới được khám phá; và với mối bất liên hệ được bắt gặp này, chúng trở thành vô nghĩa và không đáng được quan tâm.” (New Republic, Feb 3, 1917, trích lại từ The Story of Philosophy do Will Durant viết, Pocket Books xb năm 2006, tr. 689)
Về sự đánh giá con người, ông đưa ra tiêu chuẩn khá đặc biệt: “Người xấu là người bắt đầu xuống dốc, trở thành ít tốt hơn, dẫu trước đó, anh ta tốt thế nào đi nữa. Người tốt là người đang tiến tới tốt hơn, dẫu trước đó, anh ta chẳng đáng giá gì về tinh thần.” (Reconstruction in Philosophy, trích lại trong sách trên, tr. 685). Quan điểm này của ông rất nhân bản, không khác gì quan điểm trong Phật giáo và Thiên Chúa giáo, nhưng liệu có ai áp dụng vào lãnh vực chính trị, cũng như tại tòa án chăng? Ông còn thêm rằng, tốt không có nghĩa là chỉ biết vâng lời và không hãm hại ai; tốt mà không có khả năng, thì là què quặt khập khiễng. Theo ông, tất cả những đức tính trên đời không cứu nỗi chúng ta nếu chúng ta thiếu thông minh. Chúng ta phải tin vào tư duỵ, chứ đừng tin vào trực giác, bởi lẽ trực giác làm sao giúp nỗi chúng ta điều chỉnh với ngoại cảnh càng ngày càng đổi thay quanh ta.
Ông tin tưởng rằng giáo dục của con người cứ tiếp tục nhờ sự tham gia của từng cá nhân vào sự ý thức tranh đua trong xã hội. Tiến trình này bắt đầu một cách vô thức từ khi sinh ra, và tiếp tục hình thành năng lực của cá nhân đó, thấm vào ý thức, hình thành thói quen, tôi luyện tư tưởng, và gợi lên trong anh ta những cảm nghĩ và xúc động… Ông cũng tin tưởng rằng giáo dục thực sự chỉ đến nhờ sự kích thích năng lực trẻ do những của tình huống xã hội trong đó đứa trẻ tìm thấy chính mình. Theo ông, tiến trình giáo dục có 2 lãnh vực: tâm lý và xã hội, không lãnh vực nào là phụ hay bị bỏ rơi mà không đưa đến tệ hại, cũng không phải là sự dung hòa cả hai. Dewey cho rằng giáo dực trẻ con phải bắt đầu từ hiểu biết tâm lý về khả năng, hứng thú và thói quen của đứa trẻ. Những thứ này phải tiếp tục được giảng giải theo hình huống phát triển mới của xã hội. Nói cách khác, cái học chỉ dừng lại khi người ta chết.
Với quan niệm giáo dục là một tiến trình sống (a process of living) chứ không phải là một sự chuẩn bị cho cuộc sống trong tương lai, Dewey chủ trương học đường phải tượng trưng cho cuộc sống –một cuộc sống thực sự và sinh động cho đứa trẻ như thể cuộc sống mà nó có tại nhà, tại khu láng giềng hay tại sân chơi. Như một định chế, học đường nên giản lược hóa đời sống xã hội hiện hữu; nên thhu nhỏ nó xuống còn là hình thức phôi thai, vì cuộc sống hiện hữu quá phức tạp đối với em. Ông cho rằng như cuộc sống giản lược hóa, học đường sẽ lớn dần thành cuộc sống gia đình, nó đảm trách và tiếp tục các hoạt động khiến em quen với đời sống gia đình. Nói khác đi, công việc của học đường là phát triển và làm sâu xa thêm cái ý thức của đứa trẻ về mái ấm gia đình. Ông cho rằng nền giáo dục hiện thời thất bại vì nó lãng quên cái nguyên tắc căn bản của học đường là một hình thức của đời sống cộng đồng.
Về những môn học dạy ở học đường, Dewey tin rằng cách duy nhất khiến cho đứa trẻ ý thức được cái di sản xã hội của nó là làm cho nó có khả năng thực hiện được những hoạt động căn bản tạo ra cái văn minh như ngày nay. Ông chủ trương đưa khoa học vào học đường, nhưng không cần những thông tin chi tiết rườm rà, mà là chỉ cho đứa trẻ thấy những yếu tố đã sẵn trong kinh nghiệm trước đây, và cung cấp cho đứa trẻ các công cụ nhờ đó mà kinh nghiệm có thể điều chỉnh lại dễ dàng hơn và hiệu quả hơn. Nếu giáo dục là cuộc đời, thì trọn cuộc đời, ngay từ lúc ban đầu, đã bao gồm các lãnh vực khoa học, nghệ thuật, văn hóa và thông đạt. Tiến bộ không nằm trong việc tiếp tục nghiên cứu, mà nằm trong việc phát triển những thái độ mới và những quan tâm mới đối với kinh nghiệm. Dewey tin rằng đặt ra bất kỳ cứu cánh nào bên ngoài gaío dục, như đưa ra mục tiêu và tiêu chuẩn, là tước đoạt đi nhiều cái ý nghĩa của quá trình giáo dục, và có khuynh hướng làm cho chúng ta trông cậy vào những kích thích tố sai lầm và từ ngoài để đối phó với đứa trẻ. (Dewey on Education: Selections, do Matin S. Dworkin xb năm 1959, tr.19 – 27)
***
Thế hệ thứ hai của CNTD với Richard Rorty, Hilary Putman, Richard Posner, Susan Haack, vv. ở Hoa Kỳ; Jurgen Habernas, Richrad Bernstein vv. ở châu Âu; Cheryl Misak ở Canada vv. đã giúp hồi sinh CNTD và đưa tinh túy của nó vào các lãnh vực ngoại giao, luật pháp và văn hóa. Đây là một điều đáng cho chúng ta tìm hiểu thêm trong tương lai.
Lê Văn Bỉnh
Virginia, tháng 11 năm 2017
Tài Liệu Đề Nghị Đọc Thêm Để Tìm Hiểu CNTD
100 Years of Pragmatism: William James‘s Revolutionary Philosophy, do John J. Stuhr hiệu đính, Indiana University Press xb 2010
The American Pragmatists, do Cheryl Misak viết, Oxford University Press xb 2013
Pragmatism: An Introduction, do Michael Bacon viết, Polity Press xb 2012
The Promise of Pragmatism: Modernism and the Crisis of Knowledge and Authority, do John Patrick Diggins viết, The Chicago University Press xb 1994
Pragmatism in Law & Society, do Michael Brint & William Weaver hiệu đính, Westview Press xb 1991.
Hits: 986
Tìm Hiểu Về Ngành Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học
Cập nhật: 08/06/2019
Chủ nghĩa xã hội khoa học về mặt lý luận là một trong ba bộ phận hợp thành chủ nghĩa Mac – Lenin, nhằm nghiên cứu sự vận động của xã hội, thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, xây dựng xã hội chủ nghĩa, xã hội cộng sản chủ nghĩa. Ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học sẽ giúp bạn có cái nhìn sâu hơn về phân tích, lập luận và thuyết trình phục vụ cho công việc.
1. Tìm hiểu ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học
Ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học (tiếng Anh là Scientific Socialism) là ngành giảng dạy các kiến thức về chủ nghĩa xã hội khoa học, về các phương pháp tư duy khoa học, các kỹ năng giải quyết vấn đề trong công việc và cuộc sống.
Chương trình đào tạo ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học trang bị những kiến thức về hệ thống chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những chính sách đường lối, pháp luật của Đảng, của Nhà nước. Bên cạnh đó, cung cấp thêm tri thức các lĩnh vực như khoa học xã hội và nhân văn.
Ngành học này cung cấp tri thức chuyên sâu về phương pháp giảng dạy Chủ nghĩa xã hội khoa học, giúp bạn tư duy khoa học, và có khả năng vận dụng kiến thức đã học được vào thực tế công việc. Từ đó, sinh viên có đủ khả năng hoàn thành nhiệm vụ và giải quyết nhanh chóng, linh hoạt các vấn đề về thực tiễn.
Ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học giảng dạy các bạn sinh viên có năng lực đấu tranh với các thế lực thù địch, quan điểm sai trái, những tư duy đi ngược với lợi ích dân tộc, của đất nước. Đồng thời, hình thành ý thức, tư tưởng bảo vệ hệ tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước. Sinh viên được đào tạo thêm kỹ năng sư phạm, kỹ năng xử lý các tình huống giao tiếp, công việc và mối quan hệ cấp trên, đồng nghiệp. Qua đó, giúp sinh viên:
Tự độc lập trong việc nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn.
Khả năng phân tích nhạy bén, biết nắm bắt vấn đề nhanh, phân tích đánh giá hiệu quả trong công việc và cuộc sống.
Có khả lên kế hoạch, đề xuất ý tưởng, tham mưu, tư vấn cho các cấp lãnh đạo, quản lý cấp cao, giúp hoạch định chiến lược kinh doanh, quản lý hiệu quả.
Ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học trang bị những kiến thức về hệ thống chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh…2. Chương trình đào tạo ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học
Theo Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội
3. Các khối thi vào ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học
– Mã ngành: 7229008
– Các tổ hợp môn xét tuyển:
C03 (Ngữ văn, Toán, Lịch sử)
C04 (Ngữ văn, Toán, Địa lí)
C14 (Ngữ văn, Toán, Giáo dục công dân)
D01 (Ngữ Văn, Toán, Tiếng Anh)
Điểm chuẩn ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học năm 2018 là 20 điểm, dựa theo kết quả thi tốt nghiệp THPT Quốc gia.
5. Các trường đào tạo ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học
Hiện nay, ở nước ta chưa có nhiều trường đại học đào tạo ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học, nếu bạn muốn theo học ngành này thì có thể đăng ký nguyện vọng vào ngành Triết học – chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học của trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội) và Học viện Báo chí và tuyên truyền
6. Cơ hội việc làm của ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học
Sau khi tốt nghiệp ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học, các bạn có đủ năng lực và kỹ năng để có thể đảm nhận các vị trí công việc sau:
Giảng dạy môn Chủ nghĩa xã hội, môn Đường lối cách mạng Việt Nam, môn Tư tưởng Hồ Chí Minh, môn Các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin cho các trường đại học, cao đẳng và trung cấp nghề.
Giáo viên dạy bộ môn Giáo dục công dân tại các trường THPT, THCS trên địa bàn cả nước. Hoặc bạn có thể nhận học sinh dạy thêm tại nhà, mở lớp ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học.
Nghiên cứu tại các viện nghiên cứu chính trị, triết học, Chủ nghĩa xã hội khoa học, hay các cơ quan nghiên cứu triết học.
Cán bộ công tác tại các cơ quan quản lý nhà nước, Chính Phủ, cơ quan Đảng từ cấp trung ương tới địa phương như: hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, Ban tuyên giáo, Đảng ủy, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ…
Hành chính văn phòng: làm việc tại các cơ quan, doanh nghiệp nước ngoài và Việt Nam.
Viết văn, viết sách: làm việc tại các cơ quan phát hành sách, truyên tranh, thơ… Tham gia viết lời bình văn, thơ tại các diễn đàn lớn.
Sau khi tốt nghiệp bạn sẽ làm cán bộ công tác tại các cơ quan quản lý nhà nước, Chính Phủ, cơ quan Đảng từ cấp trung ương tới địa phương7. Mức lương của ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mức lương cơ bản nếu làm việc tại các cơ quan hành chính Nhà nước, sẽ được tính theo quy định của Nhà nước đối với bậc đại học, với mức trung bình là 5-6 triệu/tháng.
Đối với những cá nhân làm tại các cơ quan nước ngoài, mức lương cơ bản sẽ cao hơn khoảng 7 – 10 triêu/tháng, tùy theo năng lực của bạn.
8. Những tố chất phù hợp với ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học
Nếu bạn có những tố chất sau thì bạn hoàn toàn phù hợp với ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học đó. Cụ thể:
Có tư duy sâu sắc, đầu óc linh hoạt, sáng tạo;
Khả năng làm việc độc lập: Tự lên kế hoạch công việc và mục tiêu thực hiện;
Cần cù chịu khó trong công việc;
Có thái độ làm việc nghiêm túc;
Tính nhẫn nại và chịu được khó khăn, thử thách;
Có khả năng thích ứng nhanh với công việc;
Có năng lực về lý luận, phân tích, đánh giá;
Biết cách áp dụng lý thuyết học được vào thực tế cuộc sống và công việc.
Hy vọng những thông tin trong bài viết đã giúp bạn có cái nhìn tổng quan về ngành Chủ nghĩa khoa học xã hội và giúp bạn có những lựa chọn ngành học phù hợp với sở thích và năng lực của bản thân.
Tìm Hiểu Về Tác Dụng Của Máy Lão Hóa Rượu
Chắc hẳn mọi người rất lạ lầm với khái niệm
máy lão hóa rượu
đúng không nào? Đây là một phát minh giúp làm già tuổi rượu nhanh hơn so với giải pháp ngâm rượu trong chum sành và hạ thổ truyền thống.
Giới thiệu về máy lão hóa rượu Thái An
Thiết bị Thái An đã nghiên cứu và đưa ra giải pháp giúp các đơn vị sản xuất rượu nhanh chóng đưa rượu ra thị trường mà vẫn đảm bảo chất lượng rượu là tốt nhất. Đồng thời giúp rượu khử bỏ hết độc tố, an toàn cho khách hàng khi sử dụng. Sản phẩm là máy lão hóa rượu hay còn gọi là máy khử độc tố rượu, sản phẩm giúp khử độc và làm già tuổi rượu, cho chất lượng rượu tốt hơn.
Các bạn cũng biết rằng ông cha ta thường ngâm rượu trong các chum sành và hạ thổ dưới đất trong khoảng 6-9 tháng mới bắt đầu đưa ra ngoài thị trường. Điều này sẽ giúp rượu uống thơm ngon hơn và hạn chế độc tố gây hiện tượng đau đầu chóng mặt, buồn nôn khi uống say.
Tuy nhiên giải pháp này có nhiều hạn chế đối với các cơ sở sản xuất rượu ở quy mô lớn. Khi lượng lưu trữ rượu nhiều lên, đồng nghĩa với việc vốn bị tồn đọng, làm giảm khả năng sinh lời và ảnh hưởng đến quá trình sản xuất nhiều hơn.
Giờ đây các đơn vị sẽ không còn phải mất khoảng thời gian đó nữa. Thay vào đó, rượu sau khi nấu sẽ được chạy qua máy lão hóa rượu (hay còn gọi là máy khử độc rượu) để khử hết độc tố andehit, methanol trong rượu, đồng thời giúp rượu uống êm hơn, ngon hơn và không còn gằn sốc.
Nguyên lý hoạt động của máy lão hóa rượu
Rượu được hình thành dưới dạng các cụm phân tử. Và trong quá trình chưng cất rượu không phải lúc nào rượu cũng hình thành các cụm phân tử rượu đồng đều. Hiện tượng các cụm phân tử rượu sắp xếp không đồng đều dẫn đến hiện tượng rượu uống có độ gằn, khó uống.
Hiểu nôm na nó hình thành các “nốt” với các cấp độ nặng nhẹ khác nhau. Dẫn đến việc thưởng thức rượu không tốt, không tròn vị, không êm.
Dựa vào đặc điểm này, máy lão hóa rượu được thiết kế để phá vỡ các cụm phân tử rượu, và sắp xếp lại để tạo nên các “nốt” đồng đều hơn. Khi các cụm phân tử rượu được sắp xếp đồng đều sẽ tạo được cảm giác rượu tốt hơn trong khoang miệng.
Mô phỏng cụm phân tử rượu được tách nhỏ và sắp xếp lại để tạo độ êm và mềm khi thưởng thức rượu
Quá trình phá vỡ và sắp xếp lại phân tử rượu cũng là nhân tố để các độc tố trong rượu dễ dàng được phát tán ra bên ngoài. Ở đây là các độc tố tồn dư như andehit, methanol, fufural…có điều kiện thích hợp thoát ra khỏi dung dịch rượu.
Chính việc sử dụng sóng siêu âm và từ trường đa phân cực, để tác động lên dung dịch rượu, đã giúp khử bỏ độc tố tồn dư trong rượu, đồng thời giúp rượu êm hơn, ngon hơn khi sử dụng. Đây cũng là công nghệ tiên tiến đang được áp dụng tại các nhà máy sản xuất rượu lớn ở Châu Âu hiện nay.
Ngoài ra với tác động của siêu âm và từ trường, máy còn giúp rượu trong hơn. Chính vì thế sản phẩm này còn có người gọi là máy lọc rượu, tuy nhiên đây là sản phẩm cao cấp, khác với các sản phẩm máy lọc trong rượu sử dụng cột lọc ngoài thị trường.
Thời gian để có thể làm già rượu chỉ trong khoảng 2 giờ đồng hồ. Đây là khoảng thời gian rất ngắn so với 3-6 tháng theo cách truyền thống bình thường.
Mức độ tác động của máy lên rượu dựa trên cơ chế từ trường, và kết hợp thêm sóng siêu âm. Việc tăng tần suất và cường độ tác động lên rượu làm đẩy nhanh quá trình lão hóa rượu hơn so với thực tế.
Sản phẩm của thiết bị Thái An cũng được thiết kế tạo hình đẹp tạo nên sự sang trọng, bắt mắt. Máy cho các nhân gia đình có thể để trưng bày ở vị trí trong phòng khách, hoặc đây là sản phẩm cực độc và lạ để đem biếu trong những dịp quan trọng.
Hiện nay công ty Thiết bị Thái An đã và đang sản xuất dòng sản phẩm này với nhiều dung tích khác nhau như máy lão hóa rượu mini 1.8 lít, máy 2.5 lít, máy 5 lít là dành cho gia đình. Các loại máy có dung tích lớn hơn như 35 lít, 60 lít, 150 lít là dùng cho các đơn vị sản xuất rượu.
Liên hệ ngay với
thiết bị thái an
để được tư vấn kĩ hơn về sản phẩm và giải pháp sản xuất rượu sạch.
Phương Pháp ‘Zeroing’ Trong Thực Thi Luật Chống Bán Phá Giá Của Hoa Kỳ
Hoa Kỳ và các quốc gia khác áp đặt các quy tắc chống bán phá giá của họ theo cùng một cách cứng nhắc. Tuy nhiên, có một điểm khác đó là, hiện nay chỉ có Hoa Kỳ sử dụng ‘zeroing’ trong quyết định của nước này về việc hàng hóa nhập khẩu có phá giá hay không. Việc sử dụng ‘zeroing’ sẽ gần như là luôn làm tăng bất kỳ mức thuế chống bán phá giá nào, và đôi khi sẽ tạo ra một loại thuế chưa bao giờ có, làm phát sinh biện pháp chưa bao giờ được sử dụng.
Tất cả các quốc gia kiểm tra việc phá giá bằng cách xem xét liệu rằng hàng hóa nhập khẩu có đang được bán thấp hơn giá ‘thông thường’ hay không. Nhiều quốc gia khác kiểm tra bằng việc so sánh đơn giản giá trung bình mà các hàng hóa này được bán tại nước sản xuất với giá trung bình của các sản phẩm tương tự được bán tại thị trường nước nhập khẩu. Nếu trung bình các giá được quan sát tại nước nhập khẩu thấp hơn giá trung bình tại nước sản xuất (giá ‘thông thường’), thì doanh nghiệp nước ngoài bị cho là bán phá giá. Tuy nhiên, với việc sử dụng zeroing, Hoa Kỳ theo dõi giá nhập khẩu dựa trên giá ‘thông thường’ xem liệu rằng giá nhập khẩu có bằng giá ‘thông thường’ hay không (đúng hơn là các mức giá được quan sát). Các giao dịch tại các giá thấp hơn giá thông thường được coi như là tại các mức quan sát giá. Kết quả của zeroing đã khiến cho luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ mang tính hạn chế hơn bản chất ban đầu của nó, do khả năng biên độ phá giá luôn xảy ra cho dù có bất kỳ một giao dịch nào diễn ra tại mức giá thấp hơn giá ‘thông thường’, thậm chí là nếu trung bình các giá nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ cao hơn giá ‘thông thường’.
Việc áp dụng zeroing trong thời gian gần đây đã bị phản đối ít nhất 6 lần tại Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), và nói chung là đi ngược lại với các cam kết của Hoa Kỳ tại WTO.
Bạn đang xem bài viết Tìm Hiểu Về Chủ Nghĩa Thực Dụng Của Hoa Kỳ trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!