Top 13 # Chất Là Gì Trong Triết Học Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 5/2023 # Top Trend | Tvzoneplus.com

# Trong Triết Học Tiền Là Gì?

Theo kinh tế học “Tiền là tiền khi chỉ xét chức năng là phương tiện thanh toán, là tiền tệ được pháp luật quy định để phục vụ trao đổi hàng hóa và dịch vụ của một quốc gia, nền kinh tế”. Theo định nghĩa này, tiền cũng có thể được gọi là tiền lưu hành. Triết học Mác – Lênin, trên cơ sở nghiên cứu về lịch sử và bản chất tiền tệ của chúng tôi đã xác định: “Tiền tệ là hàng hoá đặc biệt tách ra từ trong thế giới hàng hoá như một vật ngang giá chung thống nhất. đối với các hàng hoá khác, nó thể hiện lao động xã hội và thể hiện mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá.

1. Tiền tệ theo quan điểm Mác – Lênin bao gồm 5 chức năng sau:

– Chức năng đo giá trị: Giá trị của mỗi hàng hóa được biểu thị bằng số lượngtiền nhất định. Tiền tệ có thể đóng vai trò là thước đo giá trị vì bản thân nó đã là hàng hóa.có giá trị như bất kỳ hàng hóa nào khác.Khái niệm, chức năng và sự phát triển của tiền1/3– Chức năng lưu thông xe Một chức năng tiền tệ khác. Tại thời điểm này, tiền làmlà hàng đổi hàng và bằng tiền mặt.– Chức năng phương tiện: Thực hiện chức năng này, tiền rút khỏi lưu thông và hầu hếtphải có đủ giá trị. Chỉ tiền, vàng, tiền, thỏi, bạc và châu báuVàng và bạc có thể làm chức năng này.– Chức năng phương tiện thanh toán: Khi tiền được dùng để trả nợ, để trao đổihàng hóa … là khi tiền thực hiện chức năng này.– Chức năng tiền tệ quốc tế: Tiền không chỉ được sử dụng trong một quốc gia mà cònNó cũng có thể được sử dụng bên ngoài quốc gia, khi tiền thực hiện chức năng tiền tệthế giới.

Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại, tiền có ba chức năng tiêu biểu:Chức năng trao đổi phương tiện, phương tiện đo lường và chức năng phương tiện tính toánchức năng tích lũy phương tiện.

– Chức năng trao đổi phương tiện: Tiền là vật ngang giá chung, là vật trung gian cho các vậtViệc trao đổi hàng hóa giữa người này với người khác trở nên thuận tiện hơn. Phương tiện được traoTiền tệ là chức năng quan trọng nhất của tiền tệ. Nếu không có chức năng này, tiền tệ sẽkhông còn nữa.– Chức năng của phương tiện đo và tính giá trị: Đo lường giá trị của hàng hóa và dịch vụVới tiền cũng giống như việc đo khối lượng bằng một chiếc cân và đo khoảng cách bằng mét.Tiền tệ là thước đo phổ biến được sử dụng trong các mối quan hệ xã hội. Cảm ơnchức năng kiếm tiền ngày càng phổ biến này trong sự phát triển của đo lườngcủa xã hội, đo lường mức sống của người dân … Nó đã tạo ra một nền kinh tế thựctiền tệ.– Chức năng xe tích lũy: Tích lũy là cơ sở để tái sản xuất và mở rộng sản xuấtvì vậy nó cũng là cơ sở của sự phát triển kinh tế. Tiền có chức năng này như nó vốn cóphương tiện trao đổi, là tài sản có tính thanh khoản cao nhất.

2. Quá trình phát triển tiền tệ

Khi nền kinh tế còn sơ khai, lúc đó chưa có ngân hàng thì tiền dùng để trao đổi làHiện vật (tiền hàng hóa) là tiền được tạo ra từ các hình thức vật chất mà bản thân nónó có sẵn để sử dụng, nó không được xuất bản bởi bất kỳ tổ chức nào. Là nền sản xuấtvà trao đổi hàng hóa đang phát triển từng ngày, nhân loại đã tìm thấy và khai thác kimLoại hàng hóa thể hiện nhiều nhược điểm của hàng hóa khi kim loại được chọnmệnh giá thông dụng với các ưu điểm như: bền, gọn nhẹ, mệnh giá bình dân. Cho thuận tiệnĐối với việc lưu thông tiền xu, ngân hàng có quy định thống nhất về việc đúc tiền như để kích cầuKhái niệm, chức năng và sự phát triển của tiền2/3thước, hình dạng, trọng lượng cho mỗi loại tiền tệ, đặt tên tiền xu, quy ướcmột phần của đồng xu. Tiền kim loại do nhà nước và cá nhân đúc, nhưng bình đẳngphải được nhà nước quản lý, đánh dấu sự ra đời của doanh nghiệp phát hành tiền.Nhờ số tiền này, kinh tế đi vào ổn định hơn, cũng trên cơ sở đó, nhàCác quốc gia thời đó không chỉ phát hành tiền kim loại mà còn phát hành tiền giấy.Như vậy, thời kỳ này đã xuất hiện tiền kim loại và tiền giấy, nhưng chưa xuấthiện ngân hàng.

Hoạt động ngân hàng xuất hiện là một tất yếu khách quan do yêu cầu của nền kinh tế. ngân hàngNHTM (NHTM) là ngân hàng đầu tiên xuất hiện, trong giai đoạn đầu hoạt độngNgân hàng còn rất sơ khai, ngân hàng sẽ phát hành chứng chỉ hoặc kỳSố phiếu đúng bằng giá trị vàng mà khách hàng gửi vào ngân hàng, là khả năngchuyển đổi những giấy tờ đó thành vàng luôn luôn thuận tiện. Tuy nhiên, với tốc độlưu thông ngày càng nhiều, nhu cầu về tiền ngày càng nhiều thúc đẩy sự ra đờicủa hàng loạt ngân hàng thương mại. Điều này dẫn đến rất nhiều tiền giấy được lưu hànhỞ những điểm khác nhau, nhiều ngân hàng vì mục tiêu lợi nhuận đã phát hành kỳ phiếuKhông có vàng để đảm bảo khả năng thanh toán khiến người dân nghi ngờ, mất uy tínTín dụng của khách hàng đối với các ngân hàng nhỏ và họ đổ xô nhau đến các ngân hàng lớn, đến hạnTrong khi đó, các ngân hàng lớn có cơ hội mở rộng và mua lại các ngân hàng nhỏ. BênBên cạnh đó, với nhiều loại giấy được đưa vào lưu thông làm cho tiền tệ không ổn định, do đóbuộc Nhà nước phải can thiệp để thống nhất việc phát hành tiền và đảm bảo an toànTiền giấy lưu hành bằng cách chỉ phát hành một số ngân hàng nhất địnhGiấy bạc ngân hàng gọi là ngân hàng phát hành. Ngân hàng phát hành là ngân hànghàng có vốn lớn, chi nhánh nhiều, có uy tín trên thị trường.

Cuối thế kỷ XIX, một số nước đã hình thành ngân hàng phát hành và ngân hàng phát hànhThông lệ này đã thực hiện một số chức năng của ngân hàng trung ương. Và đến đầu thế kỷ XX, các quanChức năng phát hành tiền đã được tách hoàn toàn khỏi chức năng kinh doanh tiền tệ của các ngân hàng thương mại,đánh dấu sự ra đời của ngân hàng trung ương, và ngân hàng trung ương trở thành cơ quan độc quyền phát hành tiềnở một quốc gia. Sự phát triển của công nghệ ngân hàng ngày càng hiện đạicho phép thay thế một phần tiền giấy, tiền xu do ngân hàng trung ương phát hành bằngTiền điện tử, điều này mang lại lợi ích to lớn cho bất kỳ quốc gia nào vì nó giúpđể tăng tốc độ luân chuyển vốn cho nền kinh tế.

* Bên ngoài: Làm thế nào để kiếm tiền? Bạn có thể học kiếm tiền online trên điện thoại qua các bài viết

Trong Triết Học Tiền Là Gì?

Theo kinh tế học thì ” Tiền tệ là tiền khi chỉ xét tới chức năng là phương tiện thanh toán, là đồng tiền được luật pháp quy định để phục vụ trao đổi hàng hóa và dịch vụ của một quốc gia hay nền kinh tế”. Theo định nghĩa này tiền tệ còn có thể gọi là tiền lưu thông. Triết học Marx-Lenin, dựa theo nghiên cứu về lịch sử và bản chất tiền tệ của K.Marx, định nghĩa: “Tiền tệ là hàng hoá đặc biệt được tách ra từ trong thế giới hàng hoá làm vật ngang giá chung thống nhất cho các hàng hoá khác, nó thể hiển lao động xã hội và biểu hiển quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá”.

1. Tiền tệ theo quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin thì gồm có 5 chức năng sau:

– Chức năng thước đo giá trị: Giá trị của mỗi hàng hoá được biểu hiện bằng một lượng tiền nhất định. Tiền tệ có thể làm thước đo giá trị vì bản thân nó cũng là một hàng hoá, cũng có giá trị như những hàng hoá khác. Khái niệm, chức năng và quá trình phát triển của tiền tệ 1/3 – Chức năng phương tiện lưu thông là một chức năng khác của tiền tệ. Lúc này, tiền làm môi giới trong trao đổi hàng hoá và phải là tiền mặt. – Chức năng phương tiện cất trữ: Làm chức năng này tiền rút khỏi lưu thông và nhất thiết phải có đủ giá trị. Chỉ tiền vàng, tiền bạc, tiền thỏi, bạc nén và các của cải bằng vàng, bạc mới làm được chức năng này. – Chức năng phương tiện thanh toán: Khi tiền được dùng để trả nợ, dùng để trao đổi hàng hoá… là khi tiền thực hiện chức năng này. – Chức năng tiền tệ quốc tế: Tiền được dùng không chỉ trong phạm vi một quốc gia mà còn có thể sử dụng ra ngoài phạm vi quốc gia, khi này tiền thực hiện chức năng tiền tệ thế giới.

*Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại, tiền tệ có ba chức năng tiêu biểu là: Chức năng phương tiện trao đổi, chức năng phương tiện đo lường và tính toán giá trị và chức năng phương tiện tích luỹ.

– Chức năng phương tiện trao đổi: Tiền là vật ngang giá chung, là trung gian làm cho sự trao đổi hàng hoá giữa người này với người khác trở nên thuận lợi hơn. Phương tiện trao đổi là chức năng quan trọng nhất của tiền tệ. Nếu không có chức năng này thì tiền tệ sẽ không còn. – Chức năng phương tiện đo lường và tính toán giá trị: Việc đo giá trị hàng hoá dịch vụ bằng tiền cũng giống như việc đo khối lượng bằng cân và đo khoảng cách bằng mét. Đơn vị tiền tệ là một thước do được sử dụng phổ biến trong các quan hệ xã hội. Nhờ chức năng này mà tính chất tiền tệ hoá ngày càng phổ biến trong đo lường sự phát triển của xã hội, đo lường mức sống của con người…Nó đã tạo ra một nền kinh tế mang tính chất tiền tệ. – Chức năng phương tiện tích luỹ: Tích luỹ là cơ sở để tái sản xuất và mở rộng sản xuất cho nên nó cũng là cơ sở phát triển kinh tế. Tiền có được chức năng này là vì nó là phương tiện trao đổi, là tài sản có tính lỏng cao nhất.

2. Quá trình phát triển tiền tệ

Khi nền kinh tế sơ khai, lúc bấy giờ chưa có ngân hàng, tiền sử dụng trong trao đổi là hiện vật (tiền hàng hoá) là những loại tiền được làm ra từ các dạng vật chất mà bản thân nó đã có giá trị sử dụng sẵn, nó không do một tổ chức nào phát hành. Khi nền sản xuất và trao đổi hàng hoá ngày càng phát triển, loài người đã tìm kiếm và khai thác được kim loại cùng với sự bộc lộ nhiều nhược điểm của tiền hàng hoá khi kim loại được chọn làm vật ngang giá chung với ưu điểm như: Có độ bền, gọn, giá trị phổ biến. Để thuận tiện cho lưu thông tiền kim loại, ngân hàng đã quy định thống nhất việc đúc tiền như về kích Khái niệm, chức năng và quá trình phát triển của tiền tệ 2/3 thước, hình dáng, trọng lượng cho mỗi đơn vị tiền tệ, đặt tên cho đồng tiền, quy ước các bộ phận chia nhỏ của đồng tiền. Tiền kim loại do nhà nước và cá nhân đúc nhưng đều phải được nhà nước quản lý, điều này đánh dấu sự ra đời của nghiệp vụ phát hành tiền. Chính nhờ đồng tiền này mà nền kinh tế đi vao ổn định hơn, cũng dựa trên cơ sở đó, nhà nước lúc bấy giờ không chỉ phát hành bằng tiền kim loại mà còn phát hành ra tiền giấy. Như vậy, trong giai đoạn này đã xuất hiện tiền kim loại và tiền giấy, tuy nhiên chưa xuất hiện ngân hàng.

Ngân hàng xuất hiện là một tất yếu khách quan do yêu cầu của nền kinh tế. Ngân hàng thương mại (NHTM) là ngân hàng xuất hiện đầu tiên, trong giai đoạn đầu này hoạt động của ngân hàng còn rất sơ khai, ngân hàng sẽ phát hành ra các chứng thư hay các kỳ phiếu đúng bằng giá trị của vàng mà khách hàng gửi vào ngân hàng, chính mà khả năng chuyển đổi các giấy tờ đó ra vàng luôn đảm bảo được thuận tiện. Tuy nhiên, với tốc độ buôn bán lưu thông ngày càng tăng, nhu cầu về tiền ngày càng nhiều thúc đẩy sự ra đời của hàng loạt NHTM. Điều này dẫn tới trong lưu thông có rất nhiều kỳ phiếu ngân hang khác nhau, nhiều ngân hàng vì mục tiêu lợi nhuận đã phát hành kỳ phiếu ra lưu thông không có vàng để đảm bảo khả năng thanh toán làm cho người dân nghi ngờ và mất uy tín của khách hàng đối với ngân hàng nhỏ và họ đổ xô nhau đến các ngân hàng lớn, do đó ngân hàng lớn có điều kiện mở rộng quy mô và thâu tóm các ngân hàng nhỏ. Bên cạnh đó,với nhiều loại giấy được đưa vao lưu thông làm cho tiền tệ mất ổn định, do đó buộc nhà nước phải can thiệp để thống nhất việc phát hành tiền và đảm bao an toàn cho lưu thông giấy bạc ngân hàng bằng cách chỉ cho một số ngân hàng thực hiện phát hành giấy bạc ngân hàng gọi là ngân hàng phát hành. Ngân hàng phát hành là những ngân hàng có vốn lớn, số lượng chi nhánh nhiều, có uy tín trên thị trường.

Cuối thế kỷ XIX, một số nước đã hình thành ngân hàng phát hành, các ngân hàng phát hành này đã thực hiện một số chức năng của NHTW. Và đến đầu thế kỷ XX thì các chức năng phát hành tiền đã hoàn toàn tách khỏi chức năng kinh doanh tiền tệ của NHTM, đánh dấu sự ra đời của NHTW, và NHTW trở thành cơ quan độc quyền phát hành tiền trong một quốc gia. Quá trình phát triển công nghệ ngân hàng ngày càng hiện đại đã cho phép thay thế một phần giấy bạc ngân hàng, tiền kim loại do NHTW phát hành bằng tiền điện tử, điều này mang lại một lợi ích to lớn cho bất kỳ một quốc gia nào vì nó giúp cho việc tăng tốc độ luân chuyển vốn cho nền kinh tế.

* Ngoài lề: Kiếm tiền như thế nào? Bạn có thể học kiếm tiền online trên điện thoại thông qua bài viết

Vật Chất Với Tư Cách Là Phạm Trù Trong Triết Học Mác

Đề tài : Vật chất với tư cách là phạm trù trong triết học Mac – Lê nin LỜI NÓI ĐẦU Vấn đề phạm trù là một trong những vấn đề cơ bản của bất kì một môn khoa học nào, đó là những khái niệm chung nhất và rộng nhất. Chủ nghĩa duy tâm coi phạm trù là những cấu tạo thuần tuý thuộc tư duy, tồn tại độc lập với thế giới khách quan. Khi định nghĩa các khái niệm, các phạm trù, các quy luật khoa học, triết học mac – xít xuất phát từ lí luận phản ánh biện chứng của chủ nghĩa duy vật cho rằng các sự vật và hiện tượng của hiện thực, các thuộc tính và quan hệ của chúng đều tồn tại ở bên ngoài và độc lập với quá trình nhận thức. ” Vấn đề học thuyết về vật chất và cấu tạo của vật chất. Đó là một phương tiện tốt để chống lại các ”nọc độc” cần gọi chủ nghĩa duy tâm và thuyết không thể biết là ”nọc độc”. (V.I Lê nin : Toàn tập) Phạm trù vật chất bao gồm tất cả các nét chung của mọi phạm trù của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nó phản ánh bản chất của hiện thực. Phạm trù vật chất bao gồm tất cả các nét chung của mọi phạm trù của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nó phản ánh bản chất vật chất của hiện thực. Phạm trù vật chất có ý nghĩa quan trọng vè nhận thức luận vì nó phản ánh nguồn gốc nhận thức, do đó xác định và chỉ đạo công việc nghiên cứu của tất cả các vấn đề khác của nhận thức. Phạm trù vật chất giữ một vị trí quan trọng so với các phạm trù khác của Triết học Mác – Lê nin, trước hết vì nó xác định rằng thế giới quan Mác – xít là thế giới quan duy vật, phép biện chứng Mác – xít là phép biện chứng duy vật và lí luận phát triển xã hội của chủ nghĩa Mác là lí luận duy vật. Trong khi phản ánh bản chất vật chất của thế giới bao gồm cả tự nhiên và khoa học, phạm trù vật chất gắn bó chặt chẽ với khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Muốn nêu bật được nội dung triết học sâu sắc của phạm trù vật chất cần nghiên cứu lịch sử phát triển của nước, phân tích rõ nó đã được phong phú thêm cùng với sự phát triển của triết học duy vật và khoa học tự nhiên, đồng thời nó được kết tinh lại trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa duy tâm như thế nào. Việc nghiên cứu sự phát triển của phạm trù vật chất trong lịch sử triết học đã làm cho sự hiểu biết của chúng ta về lí luận nhận thức chủ nghĩa duy vật biện chứng thêm phong phú. Phải nói rằng định nghĩa của chủ nghĩa duy vật biện chứng về vật chất với tư cách là một phạm trù triết học là sự tổng kết, sự tóm tắt về mặt lí luận, sự đúc kết toàn bộ lịch sử triết học và khoa học tự nhiên, toàn bộ lịch sử đấu tranh của chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm, phép siêu hình và thuyết không thể biết. Lần đầu tiên triết học Mác – xít đã giải đáp một cách rõ ràng vấn đề khác nhau giữa vật chất với tính cách là một phạm trù triết học với các khái niệm phản ánh các thuộc tính nhất định và cấu tạo của vật chất, cũng như vấn đề liên hệ giữa khái niệm vật chất của triết học và các quan niệm cụ thể của khoa học tự nhiên về dạng riêng biệt của vật chất. NỘI DUNG I.Phạm trù vật chất trong thời kì cổ đại Quan điểm về vật chất trong triết học phương Đông cổ đại Điểm xuất phát và cơ sở của nhận thức là từ thực tiễn. Phạm trù triết học là kết quả hoạt động nhận thức và thực tiễn loài người. Trong quá trình lao động do quan sát nhiều lần, con người đã dần phát hiện những đặc tính mới của các sự vật xung quanh. Ấn Độ là một trong những nước đầu tiên mà triết học ra đời và bắt đầu phát triển, vào khoảng cuối thế kỉ II – đầu thế kỉ I trước công nguyên. Nhiều hệ thống triết học ấn độ trong thời gian này đã có các yếu tố duy vật và các khuynh hướng tìm ra một cách giải thích biện chứng các hiện tượng của tự nhiên, đồng thời truyền bá rộng rãi ý nghiệm về thuyết nguyên tử. Các quan điểm duy vật đầu tiên ấy đều gắn liền với việc thừa nhận một trong những dạng cụ thể của vật chất là cơ sở vật chất đầu tiên của thế giới như : Nước, lửa, không khí, ánh sáng. Các nhà duy vật khẳng định rằng thế giới vật chất phát sinh do sự kết hợp của các yếu tố vật chất do những quy luật vốn có của chúng. Quan niệm này còn mang tính chất trực quan, cảm tính khi cho rằng vật chất là tập hợp các yếu tố như : Lửa, nước, không khí, ánh sáng. Tuy nhiên nó cũng góp phần chống lại những quan điểm duy tâm, tôn giáo khi thừa nhận sự tồn tại của thần linh và các lực lượng siêu tự nhiên, đã sáng tạo ra thế giới vật chất. Cũng giống như ở Ấn độ, các quan điểm duy vật ở Trung quốc cổ đại đã hình thành cùng với sự phát triển của các tri thức khoa học tự nhiên. Các nhà bác học Trung quốc cổ đại đã đúc kết các thành tựu của nhận thức về tự nhiên và ra sức đi tìm cơ sở đầu tiên của tất cả các vật thể và các quá trình tự nhiên. Để đạt được mục đích đó họ xuất phát từ sự xem xét trực tiếp các hiện tượng của tự nhiên. Sự phát triển của chủ nghĩa duy vật chất phác ở Trung quốc cổ đại đã đạt tới một trình độ cao hơn ở Ấn độ. Ngay từ đầu thế kỉ XI và X Trước công nguyên các nhà tư tưởng của Trung quốc cổ đại đã cho rằng các nguyên tử vật chất : Nước, lửa, không khí và ánh sáng là những nguyên tố đầu tiên của thế giơi. Trong các nguyên thể vật chất ấy có hai mặt đối lập nhau : Khí dương và khí âm. Do sự tác động qua lại giữa các nguyên thể ấy, các vật thể được tạo ra và biến đổi. Thế kỉ VI đến thế kỉ IV trước công nguyên, trong lịch sử Trung quốc là thời kì đấu tranh của giai cấp gay gắt, chính trong thời kì này đã xuất hiện các trường phái triết học chủ yếu : Khổng Tử, Mặc Tử, Lão Tử…. Lão Tử đã cố chứng minh rằng vật chất là cơ sở tồn tại của thế giới, là nguồn gốc của tất cả mọi vật thể và hiện tượng, là bản chất của mọi đối tượng và quá trình. 2. Sự phát triển của các quan niệm về vật chất trong triết học Hy lạp cổ đại. Các quan điểm duy vật cổ đại về vật chất của các nhà tư tưởng phương Đông cổ đại đã được tiếp tục phát triển trong triết học Hy lạp cổ đại ra đời vào thế kỉ VI trước công nguyên. Aristot cho rằng : Vật chất là cái tạo thành tất cả mọi vật, cái đầu tiên từ đó tất cả mọi vật đều khai sinh. Theo Ta – let các vật thể riêng biệt đều là những biến thể, những sản phẩm của nước, một nguyên thể vật chất không biến đổi và không bị tiêu diệt. Thức ăn của mọi sinh vật đều ẩm ướt, hạt giống của tất cả mọi vật đều có bản chất ẩm ướt mà nguồn gốc của các vật thể ẩm ướt theo Ta-let chính là nước. Anaximen khẳng định nguyên thể đầu tiên ấy chính là không khí còn Hêraclit lại cho rằng đó là lửa. Xu hướng thống trị trong triết học duy vật thời bấy giờ là sự thừa nhận một nguyên thể vật chất dưới dạng những vật thể cảm tính cụ thể riêng biệt.Họ chỉ ra rằng trạng thái của vật chất và các đặc tính của nó đều biến đổi,nhưng bản thân nó thì không sinh ra và cũng không chết đi mà tồn tại vĩnh viễn, sự vận động của nó là một quá trình tự nhiên không phụ thuộc vào bất kì một lưc lượng siêu tự nhiên nào. Angghen đã nhận xét rằng : ” Chủ nghĩa duy vật biện chứng Hylạp cổ đại có tính thống nhất của những hiện tượng tự nhiên muôn hình muôn vẻ là một điều hiển nhiên và đi tìm tính thống nhất đó ở một cái gì hữu hình, rõ rệt ở một cái gì đặc biệt, chẳng hạn Talet đã đi tìm ở nước.” Những ngưòi sáng tạo ra thuyết nguyên tử của Hylạp cổ đại như Đêmôcrit cho rằng trong thế giới có cái tồn tại là nguyên tử. Nguyên tử là những hạt không thể phân chia,không thể thâm nhập,đồng nhất về bản chất nhưng khác nhau về hình thức .Sự hợp nhất và tách rời các nguyên tử theo trật tự khác nhau tạo nên tính muôn vẻ của vật chất. Một cống hiến quan trọng của Đêmôcrit là ông đặt vấn đề xem vật chất như một phạm trù triết học. Nhưng những người theo chủ nghĩa duy tâm như Platon thì cho rằng ý niệm là cái có trước và tồn tại vĩnh viễn, ý niệm sản sinh ra mọi hiện tượng tự nhiên, thế giới ý niệm có trước thế giới các sự vật cảm biết. Theo Platon thế giới ý niệm hoàn thiện và ưu việt hơn thế giới các sự vật cảm biết do chúng không vận động và biến đổi. Theo quan điểm của ông đối tượng của tri thức không phải là các vật thể của quá trình tự nhiên mà là những bản chất tinh thần, ông không quan tâm đến thế giới vật chất vì theo ông đó là thế giới của những hình ảnh tưởng tượng, những hình bóng. 3. Đánh giá những cống hiến của triết học cổ đại về quan niệm vật chất. Triết học cổ đại đã có những cống hiến quan trọng đối với việc phát triển học thuyết về vật chất. Các nhà duy vật cổ đại đã nêu nên những tác phẩm thiên tài về học thuyết vật chất với tính cách là phạm trù triết học và cấu tạo của vật chất. II. Quan điểm vật chất trong thời kì trung cổ và cận đại 1. Các quan điểm vật chất trong thời kì trung cổ Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm tiếp diễn trong thời kì trung cổ từ thế kỉ thứ V đến thể kỉ XIV ở cả phương Đông và Tây âu. Ở Tây âu diễn ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy danh và chủ nghĩa duy thực. Các nhà duy danh coi các vật thể cá biệt tồn tại khách quan và được nhận biết bằng cảm giác có trước các ý niệm chung. Ngược lại, các nhà duy thực cho rằng các ý niệm chung có trước các vật thể. Các tư tưởng của phái duy danh đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các nhà triết học duy vật Anh như : Hop-xo và J.Lôc-cơ. Mac viết rằng : Chủ nghĩa duy danh là một trong những yếu tố chính ở các nhà duy vật Anh nói chung là sự biểu hiện đầu tiên của chủ nghĩa duy vật. 2.Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm về tính vật chất của thế giới. Các quan điểm duy vật về tự nhiên và vật chất đã được phát triển trong cuộc đấu tranh quyết liệt với hệ tư tưởng phong kiến. Trọng tâm của cuộc đấu tranh giữa khoa học và tôn giáo trong thời kì Phục Hưng là quan hệ giữa Trời và Đất. Theo quan điểm của triết học kinh viện trung cổ, Trái đất là trung tâm của vũ trụ, tuyệt đối không vận động, Trời là bản chất tồn tại của các lực lượng siêu nhiên. Việc sáng tạo ra học thuyết lấy Mặt trời làm trung tâm của thế giới, là cơ sở của thiên văn học, khoa học đã xoá bỏ ranh giới thần bí giữa Trái đất và các thiên thể. Khoa học chỉ ra rằng Trời không phải là nơi chứa các lực lượng siêu tự nhiên, nó cũng là vật chất và vận động theo quy luật bên trong vốn có của nó. Bruno đã chỉ ra rằng xét về phương diện vật chất và thực thể vật chất cũng như xét về những quy luật thống nhất đã chi phối Trời và Đất thì thế giới là thống nhất, nghĩa là tính thống nhất của thế giới ở tính vật chất của thế giới. Bruno coi vật chất là nguyên nhân và nguồn gốc của tất cả mọi hiện tượng tự nhiên, là nền tảng và cơ sở của hiện thực vì sự biến đổi của vật chất sinh ra tính nhiểu vẻ của hiện thực. 3.Vật chất là phạm trù của tồn tại khách quan. F.Bêcơn là người sáng lập ra ” Hình thức mới” của chủ nghĩa duy vật ở Anh. Ông đã nghiên cứu những quan điểm triết học của mình về vật chất trong cuộc đấu tranh với triết học kinh viện. Ông cho rằng đối tượng chân chính của nhận thức là vật chất, cấu tạo của vật chất và sự biến hoá của vật chất. Ông phê phán quan niệm của chủ nghĩa kinh viện, lấy các khái niệm trừu tượng làm điểm xuất phát. Đối với Bêcơn : Vật chất, tự nhiên tồn tại ở bên ngoài độc lập với ý thức và chỉ được nhận thức băng giác quan của chúng ta. Chỉ có thể hiểu được các quy luật của tự nhiên, cấu tạo của tự nhiên mới có thể nắm giữ được các lực lượng tự nhiên bắt nó phục vụ con người. Mac viết : ”ở Bê cơn người sáng tạo đầu tiên ra chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy vật mạng trong mình nó những mầm mống của sự phát triển toàn diện, dù là còn dưới hình thức mộc mạc.” Bê cơn xuất phát từ chỗ cho rằng vật chất có tính chất hoạt động, nhiều hình vẻ và vận động là thuộc tính quan trọng của nó. Theo Bê cơn có cả thảy 19 hình thức vận động nhưng ông lại đưa tất cả về hình thức vận động chung : Vận động cơ giới. Đây là hạn chế trong quan điểm của ông về các hình thức vận động. Người sáng lập ra một trào lưu triết học khác đấu tranh chống lại học thuyết kinh viện là Đề cac tơ – nhà triết học, nhà bác học nổi tiếng của nước Pháp. Ông và những học trò của ông những người theo phái Đềcáctơ giải thích rằng thế giới chỉ xuất phát từ vật chất và vận động. Công lao vĩ đại nhất của Đề các là đã nêu lên nguyên tắc bảo toàn số lượng vận động đó là định luật bảo toàn năng lượng về mặt số lượng. Cố gắng của Đề các nhằm giải thích tất cả các hiện tượng của tự nhiên, xuất phát từ nguyên tắc thống nhất của vận động. Như thế ở Đề các tơ vật chất là sự tồn tại của tất cả mọi hiện tượng của hiện thực. Tuy nhiên Đề các tơ vẫn không thoát khỏi quan điểm siêu hình khi xem xét cấu tạo của vật chất cho rằng vật chất không tách rời với vận động cơ học. 4.Phạm trù vật chất trong triết học trong cổ điển Đức ( cuối XVIII – nửa đầu XIX) Trong triết học cổ điển Đức thì Hêghen là nhà triết học mang trong đầu nhiều nhiều tư tưởng có tính mâu thuẫn. Ông vừa là nhà duy vật nhưng cũng đồng thời là nhà duy tâm. Theo quan điểm của Hê ghen thì “một tinh thần tuyệt đối” nào đó tồn tại trước khi có tự nhiên và con người. Tinh thần là cái có trước và vĩnh viễn còn tự nhiên là cái có sau và do tinh thần sản sinh ra. Ông cho rằng toàn bộ tính nhiều vẻ của hiện tượng tự nhiên, xã hội chỉ là hiện thân của ý niệm tuyệt đối. Theo quan niệm của ông những thực tế đem lại cho chúng ta trong cảm giác không phải là hiện thực. Vật chất với tính cách là một phạm trù, ở Hê ghen được xem như một trình độ phát triển nhất định và sự tự ý thức của tinh thần tuyệt đối. ậ Hêghen các phạm trù : thực tại, tồn tại, vật thể, hiện thực khách quan đều được xem như những trình độ phát triển, trình độ nhận thức về những ý niệm tuyệt đối, những hình thức phát triển trừu tượng của tư duy thuần tuý. Ông viết rằng : ” Không có vật chất không vận động, điều đó cũng đúng như không có sự vận động nào không có vật chất” nhưng cần thấy rằng ở Hê ghen vật chất chỉ như một cái gì đó ở bên ngoài, có thể nhân thức được bằng tri giác, bằng cảm tính, còn vận động chỉ như là sự thay đổi vị trí giản đơn trong không gian, là sự lặp lại cái đã từng tồn tại. Đóng ghóp quan trọng của Hê ghen là đã phát biểu một loạt những dự đoán biện chứng có giá trị về mặt bản chất của thế giới khách quan sau này những dự đoán đó được chủ nghĩa duy vật tiếp tục phát triển thành hệ thống hoàn chỉnh. Đến thế kỉ XIX các quan điểm duy vật về vật chất đã được nhà triết học duy vật Phơ – bách phát triển. Phơ – bách bảo vệ chủ nghĩa duy vật, những quan điểm của ông về vật chất trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa duy tâm, đặc biệt là chủ nghĩa duy tâm của Hê ghen. Phơ – bách khẳng định rằng : “Đặc trưng cơ bản của tồn tại khách quan, của tồn tại bên ngoài tư duy là tính cảm giác được”. Theo quan niệm của Phơ – bách thì các vật thể không những tồn tại ở bên ngoài, độc lập với tư duy mà nó còn là đối tượng tác động vào các giác quan của con người và được các giác quan phản ánh. Ông phê phán quan điểm của thuyết không thể biết ở chỗ cho rằng : ” vật tự nó là một cái trừu tượng, không có thực”. Nhưng trong khi khẳng định tính khách quan của tự nhiên, tính có thể nhận thức và tính nhiều màu vẻ của nó. Phơ – bách không nêu lên được một định nghĩa tổng hợp về phạm trù triết học vật chất. Ông đã đem đồng nhất vật chất với các dạng cụ thể của nó. Phơ – bách coi vật chất là cái đang vận động trong không gian và thời gian có thuộc tính căn bản là vận động. III. Phạm trù vật chất và vấn đề cơ bản của triết học 1. Định nghĩa vật chất với tính cách là phạm trù triết học Theo định nghĩa của Ănghen, chủ nghĩa duy vật là thế giới quan chung dựa trên cơ sở một quan niệm nhất định về quan hệ giữa vật chất và tinh thần. Vì vậy, Lê Nin đã coi sự phủ nhận vật chất là hiện thực khách quan như sự phủ nhận những cơ sở của thế giới quan Mác – xít. Phạm trù vật chất trong chủ nghĩa duy vật biện chứng không còn là khái niệm hẹp dùng để chỉ các chất, các nguyên tử, mà là khái niệm cựu kì rộng bao trùm toàn bộ thực tại khách quan. Khi định nghĩa vật chất là một phạm trù triết học, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã gác lại thuộc tính cụ thể sẵn có của các dạng cụ thể của vật chất, các mối liên hệ, quan hệ giữa các thuộc tính ấy với nhau mà nêu bật lên cái bản chất chủ yếu trong các thuộc tính ấy và tính khách quan của chúng. Bản chất của các phạm trù triết học là ở chỗ chúng phản ánh các mặt, các mối liên hệ phổ biến của các đối tượng và các quá trình của hiện thực. Công lao của C.Mác và F.Ănghen là chứng minh được rằng vấn đề quan hệ giữa ý thức với vật chất là vấn đề cơ bản của triết học, rằng giải quyết vấn đề này, xét cho cùng quyết định bản chất của mỗi hệ thống triết học, quyết định tính Đảng của người sáng lập ra hệ thống đó. Các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác – Lê nin đã chứng minh rằng vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau. Vật chất tồn tại vĩnh viễn và như thế là có trước ý thức, ý thức do vật chất sản sinh ra. Ý thức là sản phẩm và kết quả phát triển của vật chất, là thuộc tính của vật chất. Vật chất là nguồn gốc và là nguyên nhân của các cảm giác, biểu tượng, tư tưởng….xem như tập hợp các hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Nhờ thực hiện triệt để chủ nghĩa duy vật trong giải thích các hiện tượng của tự nhiên và xã hội nên C.Mác và F.Ănghen đã xây dựng được một cách toàn diện một trong những nguyên lý nền tảng của chủ nghĩa duy vật biện chứng là nguyên lý về tính vật chất và tính thống nhất của thế giới. Dựa vào các nguyên lý ấy và toàn bộ các tư tưởng phong phú của chủ nghĩa duy vật biện chứng, đúc kết các thành tựu quan trọng nhất của khoa học sau này, khi Ănghen mất, trong những điều kiện mới, V.I Lê nin đã phát triển một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác và lần đầu tiên nêu lên trong lịch sử triết học duy vật định nghĩa sâu sắc về vật chất với tính cách là một phạm trù triết học. V.I Lênin chỉ ra rằng : Để định nghĩa phạm trù có tính vật chất không thể sử dụng những phương pháp quen thuộc trong lôgic học. Để định nghĩa vật chất phải xét nó trong quan hệ với ý thức, nghĩa là giải quyết một cách khoa học vấn đề cơ bản của triết học: Vấn đề quan hệ của ý thức với vật chất. V.I Lênin nêu lên một định nghĩa sâu sắc, triệt để và khoa học nhất về vật chất. Lênin định nghĩa rằng : ” Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, nghĩa là được cảm giác của chúng ta sao chép lại, chụp lại, phản ánh lại và tồn tại độc lập với các cảm giác ấy”. Định nghĩa mở rộng của Lê nin giải quyết vấn đề cơ bản của triết học là có thể nhận thức được thế giới khách quan. Định nghĩa kinh điển này nêu ra những đặc điểm quan trọng nhất của vật chất : nó là cái có trước và có thể nhận thức được, được đem lại trong cảm giác. 2. Vật chất – vấn đề cơ bản của triết học Trong thế giới tồn tại rất nhiều những hiện tượng phong phú và đa dạng nhưng nếu khái quát lại thì có những hiện tượng thuộc về tự nhiên và những hiện tượng thuộc về tinh thần hay mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Có rất nhiều nhà triết học đi nghiên cứu về vấn đề này, giữa họ có những tranh cãi xung quanh vật chất- ý thức tạo nên hai trường phái triết học : Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Chúng ta đã biết những vấn đề cơ bản của triết học được Ănghen nêu ra một cách đầy đủ nhất trong “Lut vich Phơ – bách và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức”. Khi nêu ra vấn đề cơ bản của triết học Ănghen đã nêu ra cách giải quyết duy tâm của Hê ghen và chỉ ra rằng cách giải quyết theo chủ nghĩa duy tâm có nguyên nhân lịch sử do gắn liền với quan niệm chật hẹp của xã hội, quan niệm về tôn giáo. Ănghen đặc biệt chú trọng phê phán cách giải quyết của chủ nghĩa duy tâm khách quan về vấn đề cơ bản của triết học : ” Những người nào quả quyết rằng tinh thần có trước tự nhiên và do đó cuối cùng thừa nhận rằng thế giới đã được sáng tạo ra bằng cách này hay cách khác đều thuộc về phái duy tâm. Ngược lại những người nào cho rằng tự nhiên là yếu tố có trước, thì đều thuộc về các trường phái khác nhau của chủ nghĩa duy vật.” Như vậy thì cách giải quyết duy vật về vấn đề cơ bản của triết học của Ănghen là nhằm chống lại tất cả các biến tướng của chủ nghĩa duy tâm đặc biệt là chủ nghĩa duy tâm khách quan. Lê nin cũng đặc biệt chú ý phê phán chủ nghĩa duy tâm chủ quan ở chỗ chủ nghĩa duy tâm cho rằng khách thể không tồn tại ở ngoài tâm trí, khách thể là những phức hợp cảm giác. IV. Tính vật chất và tính thống nhất của thế giới. 1. Tính vật chất của thế giới Trong ” Chống Đuyrinh” Ănghen viết : ” Tính thống nhất thực sự của thế giới là ở tính vật chất của nó, mà tính vật chất ấy chỉ được chứng minh bởi sự phát triển lâu dài và khó khăn của triết học và khoa học tự nhiên”. Chủ nghĩa duy vật biện chứng với tính cách là thế giới quan khoa học xây dựng những kết luận của nó trên cơ sở những dữ kiện của khoa học về các thuộc tính và các quy luật phát triển của thế giới. Lênin đã nêu lên hai đặc điểm của vật chất xem như một thực tại khách quan : Sự độc lập của vật chất với ý thức với tinh thần và khả năng của nó tác động vào ý thức, nghĩa là được phản ánh trong cảm giác. Trước hết, thuộc tính của tất cả mọi sự vật và hiện tượng của thế giới xung quanh ta là thuộc tính tồn tại khách quan. Thứ hai, các vật thể và hiện tượng đều mang tính chất cảm giác chứ không phải là siêu cảm giác, siêu tự nhiên. Phủ nhận các nguyên lý đó thì sẽ không thể nào nêu lên được những mối liên hệ qua lại và những mối quan hệ giữa các mặt của thế giới vật chất, không thể nghiên cứu được một cách có ý thức, quy luật phát triển của các dạng vật chất riêng lẻ, cũng như cấu tạo và thuộc tính của chúng. 2. Sự gắn liền giữa vật chất và vận động Triết học Mac – xit không phải chỉ xây dựng và xác minh quan điểm về sự có trước của vật chất và tính vật chất của thế giới mà còn nghiên cứu các thuộc tính bên trong quan trọng nhất của nó ở trạng thái vận động, cũng như các hình thái tồn tại của vật chất. Cách giải quyết duy vật biện chứng triệt để về vấn đề liên hệ giữa vật chất với vận động, giữa vật chất đang vận đông với các hình thức tồn tại của vật chất là một phạm trù hiện thực. Triết học Mac-xit cho rằng vận động là một thuộc tính gắn liền với vật chất, vận động là hình thức, là phượng thức vận động của vật chất. Vận động là sự biến đổi của vật chất, sự chuyển hoá từ những hình thức này sang những hình thức khác. Nguyên nhân và nguồng gốc của vận động nằm trong các mâu thuẫn bên trong của vật thể, các hiện tượng. Vận động của vật chất là tự thân vận động, không thể tách rời giữa vật chất và vận động vì vật chất là vật chứa vận động là nội dung và thực thể của vận động, còn vận động là hình thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính của nó. Nếu tất cả mọi hiện tượng và quá trình của thế giới bên ngoài đều có tính vật chất, đều là kết quả của vật chất đang vận động thì thế giới là một thể thống nhất hoàn chỉnh. Thế giới về bản chất là thống nhất và sự thống nhất của thế giới ở tính vật chất. Nhưng nếu coi thế giới như một tổng thể các vật thể giản đơn và hiện tượng riêng lẻ không liên hệ với nhau, không có tác động qua lại với nhau, không vận động thì chúng ta không bao giờ quan niệm được tính thống nhất vật chất của thế giới. Ănghen cho rằng : Chỉ có trong vận động các thuộc tính của các vật thể mới được biểu lộ ra, rằng : “bản chất của vật thể vận động là rút ra từ các hình thức của vận động”. Ănghen chỉ ra rằng sự phát triển của các hình thức trong vận động giản đơn nhất đến các hình thức cao làm cho vật chất đang vận động trở nên phức tạp. Theo các nhà duy vật biện chứng thì có năm hình thức vận động : Vận động cơ học, vận động vật lý, vận động hoá học, vận động sinh học, vận động xã hội. Trong đó vận động xã hội là hình thức vận động cao nhất. Với quan điểm giải thích tất cả các hiện tượng của hiện thực là những hình thức vận động khác nhau của vật chất, có liên hệ và chuyển hoá cho nhau, phép biện chứng đã đồng thời khẳng định quan điểm duy vật với tự nhiên không dành chỗ đứng cho các lực lượng siêu tự nhiên, thần linh. Ý NGHĨA CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Ý nghĩa thực tiễn Nghiên cứu phạm trù vật chất giúp chúng ta chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Vật chất có trước ý thức nên trước khi đưa ra quyết định phải xem xét thật kỹ những yếu tố bản chất tất yếu bên trong mỗi sự vật hiện tượng, nghiên cứu nó trong mối liên hệ với các sự vật hiện tượng khác để không mắc sai lầm trong định hướng hoạt động thực tiễn. Góp phần tạo hiệu quả trong công việc của mỗi đơn vị, tổ chức, mỗi nghành, mỗi địa phương. 2. Ý nghĩa lý luận Nghiên cứu phạm trù vật chất trong triết học có ý nghĩa chỉ đạo phổ biến về mặt thế giới quan cũng như về mặt phương pháp luận đối với tất cả mọi nghành khoa học và đối vơi mọi hoạt động thực tiễn của con người. Phạm trù vật chất có ý nghĩa quan trọng về nhận thức luận vì nó phản ánh nguồn gốc, nhận thức và do đó chỉ đạo công việc nghiên cứu tất cả các vấn đề khác của lý luận nhận thức. Là điểm xuất phát giải quyết các vấn đề của lôgic biện chứng. D. KẾT LUẬN Thời đại quá độ hiện nay từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời đại đấu tranh tư tưởng cực kì gay gắt giữa thế giới quan của tư sản phản động và thế giới quan của giai cấp vô sản cách mạng. Do đó đòi hỏi chúng ta phải tuyên truyền mạnh mẽ các tư tưởng của chủ nghĩa Mac – Lê nin cũng như phải phát triển hơn nữa một số nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng trên cơ sở đúc kết thực tiễn trong công cuộc xây dựng CNXH và chủ nghĩa cộng sản cũng như trong cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản. Nghiên cứu phạm trù vật chất giúp con người giải quyết được các vấn đề quan trọng nhất của lí luận nhận thức. Vấn đề vật chất với tính cách là một phạm trù triết học luôn luôn là một vấn đề trung tâm được các nhà triết học Mac-xit đặc biệt chú ý. Đó là vũ khí chống lại những tư tưởng duy tâm thần bí, quan điểm tôn giáo xung quanh vấn đề vật chất. Giúp con người định hướng các hoạt động thực tiễn đi đúng các quy luật khách quan của nhận thức. E. DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Triết học ấn độ cổ đại 2. V.I Lê nin toàn tập : Tập 1, 5, 14, 38 3. F.Ănghen : Biện chứng của tự nhiên 4. Hêghen toàn tập 5. Lịch sử triết học 6. C.Mác và Ănghen toàn tập : Tập 1, tập 2 7. Chống Đuyrinh – Ănghen 8. Những vấn đề triết học 9. C.Mác và Ănghen : Các tác phẩm cổ đại. 10. Giáo trình triết học : Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.

Triết Học Là Gì? Những Ý Nghĩa Của Triết Học

Blog chúng tôi giải đáp ý nghĩa Triết học là gì

Định nghĩa Triết học là gì?

Triết học là một bộ môn chính thực hiện việc nghiên cứu về các vấn đề chung, cơ bản về con người – thế giới quan cũng như vị trí của con người ở trong thế giới quan – những vấn đề đó có kết nối lại với chân lý – sự tồn tại – kiến thức – giá trị – quy luật – ngôn ngữ. Dựa vào cách mà triết học giải quyết các vấn đề này, người ta sẽ phân biệt được nó với lại những môn khoa học khách. Trong đó, nó nổi bật nhất khi thể hiện rõ tính phê phán, các phương pháp tiếp cận vào hệ thống chung nhất, sự phụ thuộc của nó sẽ dựa vào tính duy lý ở việc lập luận.

Triết học có tên gọi tiếng Anh là Philosophy, từ này được xuất phát trong tiếng Hy Lạp cổ đại, nghĩa dịch ra “tình yêu đối với sự thông thái”. Các thuật ngữ như là “triết học” hay “ triết gia” ra đời là gắn cùng với nhà tư tưởng người Hy Lạp Pythagoras.

Hiện nay, triết học cũng là một ngành khoa học được đào tạo riêng biệt dành cho sinh viên và triết học là môn học bắt buộc đối với tất cả các sinh viên trong trường Đại học – Cao đẳng. Để học ngành triết học, sinh viên sẽ phải thi khối C, học trong thời gian 4 năm. Hiện nay có một số trường đào tạo chuyên ngành triết học như: Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn (Đại học Quốc gia Hà Nội),…

Nguồn gốc của triết học

Triết học xuất hiện do hoạt động nhận thức của con người nhằm phục vụ nhu cầu cuộc sống, song với tư cách là hệ thống tri thức lý luận chung nhất, triết học không thể xuất hiện cùng sự xuất hiện của xã hội loài người, mà chỉ xuất hiện khi có những điều kiện nhất định.

Nguồn gốc nhận thức:

+ Đứng trước thế giới rộng lớn, bao la, các sự vật hiện tượng muôn hình muôn vẻ, con người có nhu cầu nhận thức thế giới bằng một loạt các câu hỏi cần giải đáp: thế giới ấy từ đâu mà ra?, nó tồn tại và phát triển như thế nào?, các sự vật ra đời, tồn tại và mất đi có tuân theo quy luật nào không? … trả lời các câu hỏi ấy chính là triết học.

+ Triết học là một hình thái ý thức xã hội có tính khái quát và tính trừu tượng cao, do đó, triết học chỉ xuất hiện khi con người đã có trình độ tư duy trừu tượng hoá, khái quát hoá, hệ thống hoá để xây dựng nên các học thuyết, các lý luận.

– Nguồn gốc xã hội:

Lao động đã phát triển đến mức có sự phân công lao động thành lao động trí óc và lao động chân tay, xã hội phân chia thành hai giai cấp cơ bản đối lập nhau là giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ. Giai cấp thống trị có điều kiện nghiên cứu triết học. Bởi vậy ngay từ khi Triết học xuất hiện đã tự mang trong mình tính giai cấp, phục vụ cho lợi ích của những giai cấp, những lực lượng xã hội nhất định.

Những nguồn gốc trên có quan hệ mật thiết với nhau, mà sự phân chia chúng chỉ có tính chất tương đối.

Đối tượng của Triết học; Sự biến đổi đối tượng triết học qua các giai đoạn lịch sử

* Khi mới xuất hiện, Triết học Cổ đại còn được gọi là Triết học tự nhiên – bao hàm trong nó tri thức về tất cả các lĩnh vực, không có đối tượng riêng. Đây là nguyên nhân sâu xa làm nảy sinh quan niệm sau này cho rằng Triết học là khoa học của mọi khoa học.

* Thời kỳ Trung cổ, ở Tây Âu khi quyền lực của giáo hội Thiên chúa bao trùm mọi lĩnh vực đời sống xã hội thì Triết học trở thành một bộ phận của thần học. Triết học chỉ có nhiệm vụ lý giải và chứng minh cho sự đúng đắn của nội dung trong kinh thánh. Triết học tự nhiên bị thay thế bởi nền Triết học kinh viện.

* Từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18, để đáp ứng yêu cầu của sản xuất công nghiệp, các bộ môn khoa học chuyên ngành có tính chất là khoa học thực nghiệm đã ra đời với tính cách là các khoa học độc lập. Triết học lúc này có tên gọi là Siêu hình học – Khoa học hậu vật lý. Đối tượng của Triết học thời kỳ này là nghiên cứu cái ẩn dấu, cái bản chất đằng sau các sự vật, hiện tượng “vật thể” có thể thực nghiệm được.

+ Triết học duy vật dựa trên cơ sở tri thức của khoa học thực nghiệm đã phát triển nhanh chóng, đạt tới đỉnh cao mới với các đại biểu như Ph. Bây cơn, T.Hốpxơ (Anh), Diđrô, Hen Vêtiúyt (Pháp), Xpinôda (Hà Lan)…

+ Mặt khác, tư duy Triết học cũng được phát triển trong các học thuyết duy tâm mà đỉnh cao là Triết học Hêghen.

+ Song, cũng chính sự phát triển của các bộ môn khoa học độc lập chuyên ngành cũng từng bước làm phá sản tham vọng của Triết học muốn đóng vai trò “Khoa học của mọi khoa học”, mà Triết học Heghen là Triết học cuối cùng mang tham vọng đó. Heghen xem Triết học của mình là một hệ thống phổ biến của nhận thức, trong đó những ngành khoa học riêng biệt chỉ là những mắt khâu phụ thuộc vào Triết học.

* Đầu thế kỷ 19, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, cùng với sự chuyển biến tính chất từ khoa học thực nghiệm sang khoa học lý thuyết là cơ sở khách quan cho triết học đoạn tuyệt triệt để với quan niệm “khoa học của mọi khoa học”. Triết học Mác – Triết học duy vật biện chứng ra đời thể hiện sự đoạn tuyệt đó. Triết học Mác xít xác định đối tượng nghiên cứu của mình là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật biện chứng và nghiên cứu những qui luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.

* Do tính đặc thù của Triết học là xem xét thế giới như một chỉnh thể và tìm cách đưa ra một hệ thống lý luận về chỉnh thể đó.Và điều đó chỉ thực hiện được bằng cách tổng kết toàn bộ lịch sử của khoa học, lịch sử của bản thân tư tưởng Triết học. Cho nên, vấn đề tư cách khoa học của Triết học và đối tượng của nó đã gây ra cuộc tranh luận kéo dài cho đến hiện nay.

Tóm lại, cái chung trong các học thuyết Triết học từ cổ tới kim là nghiên cứu những vấn đề chung nhất của giới tự nhiên, của xã hội và con người, mối quan hệ của con người nói chung, của tư duy con người nói riêng với thế giới xung quanh.

Triết học – hạt nhân lý luận của thế giới quan

* Thế giới quan: Là toàn bộ những quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới.

*Thế giới quan là sự hoà nhập giữa tri thức và niềm tin: Tri thức là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành thế giới quan; niềm tin định hướng cho hoạt động của con người, từ đó tri thức trở thành niềm tin, niềm tin phải trên cơ sở tri thức.

* Các loại thế giới quan (phân chia theo sự phát triển):

+Thế giới quan huyền thoại: Là phương thức cảm nhận thế giới của người nguyên thuỷ, có đặc điểm là các yếu tố tri thức và cảm xúc, lý trí và tín ngưỡng, hiện thực và tưởng tượng, cái thật và cái ảo, cái thần và cái người hoà quyện vào nhau thể hiện quan niệm về thế giới.

+ Thế giới quan tôn giáo: Niềm tin tôn giáo đóng vai trò chủ yếu, tín ngưỡng cao hơn lý trí, cái ảo lấn át cái thật, cái thần trội hơn cái người.

+ Thế giới quan triết học diễn tả quan niệm dưới dạng hệ thống các phạm trù, qui luật đóng vai trò như những bậc thang trong quá trình nhận thức. Như vậy, Triết học được coi như trình độ tự giác trong quá trình hình thành phát triển của thế giới quan. Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan, đóng vai trò định hướng, củng cố và phát triển thế giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng trong lịch sử.

VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC. CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA DUY TÂM TRIẾT HỌC.

Vấn đề cơ bản của triết học

Ăngghen định nghĩa vấn đề cơ bản của triết học như sau: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi Triết học, đặc biệt là Triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại”.

* Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:

+ Mặt thứ nhất: Giữa tư duy và tồn tại thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?

+ Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thể giới hay không?

* Tại sao nó là vấn đề cơ bản của triết học:

+ Trên thực tế những hiện tượng chúng ta gặp hàng ngày hoặc là hiện tượng vật chất tồn tại bên ngoài ý thức của chúng ta, hoặc là hiện tượng tinh thần tồn tại trong ý thức của chúng ta, không có bất kỳ hiện tượng nào nằm ngoài hai lĩnh vực ấy.

+ Bất kỳ trường phái triết học nào cũng phải đề cập và giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại và tư duy.

+ Kết quả và thái độ của việc giải quyết vấn đề đó quyết định sự hình thành thế giới quan và phương pháp luận của nhà nghiên cứu, xác định bản chất của các trường phái triết học đó, cụ thể:

– Căn cứ vào cách trả lời câu hỏi thứ nhất để chúng ta biết được hệ thống triết học này, nhà triết học này là duy vật hay là duy tâm, họ là triết học nhất nguyên hay nhị nguyên.

– Căn cứ vào cách trả lời câu hỏi thứ hai để chúng ta biết được nhà triết học đó theo thuyết khả tri hay bất khả tri.

+ Đây là vấn đề chung, nó mãi mãi tồn tại cùng con người và xã hội loài người.

Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm

Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm

Việc giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học đã chia các nhà triết học thành hai trường phái lớn:

+ Chủ nghĩa duy vật: Là những người cho rằng vật chất giới tự nhiên là cái có trước và quyết định ý thức của con người; học thuyết của họ hợp thành các môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy vật.

+ Chủ nghĩa duy tâm: là những người cho rằng ý thức, tinh thần có trước giới tự nhiên; học thuyết của họ hợp thành các môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy tâm.

* Chủ nghĩa duy vật và các hình thức cơ bản của nó

Ngay từ thời cổ đại, khi xuất hiện triết học thì đã phân chia ra chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Lịch sử phát triển của chủ nghĩa duy vật từ đó đến nay luôn gắn với lịch sử phát triển của khoa học và thực tiễn. Chủ nghĩa duy vật đã trải qua nhiều hình thức khác nhau, nhưng đều có quan điểm thống nhất coi vật chất là cái có trước, quyết định ý thức, đều xuất phát từ bản thân thế giới để giải thích thế giới. Cụ thể:

+ Chủ nghĩa duy vật chất phác ngây thơ thời cổ đại:

Là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật thời cổ đại mang tính trực quan nên ngây thơ và chất phác, tuy còn nhiều hạn chế nhưng với nguyên tắc cơ bản là đúng. Trường phái này giải thích giới tự nhiên từ chính bản thân tự nhiên, không viện dẫn thần linh hay thượng đế.

+ Chủ nghĩa duy vật máy móc siêu hình thế kỷ thứ XVII – XVIII.

Là kết quả nhận thức của các nhà triết học từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII. Từ sự phát triển rực rỡ của cơ học khiến cho quan điểm xem xét thế giới theo kiểu máy móc chiếm vị trí thống trị và tác động mạnh mẽ đến các nhà duy vật.

+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng.

Là kết quả nhận thức của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác. Mác, Ăngghen, Lênin đã kế thừa những tinh hoa của các học thuyết trước đó, đồng thời khắc phục những hạn chế, sai lầm của chủ nghĩa duy vật siêu hình, dựa trên những thành tựu của khoa học hiện đại đã sáng lập ra chủ nghĩa duy vật biện chứng. Chủ nghĩa duy vật biện chứng của triết học Mác Lênin mang tính chất cách mạng triệt để và biện chứng khoa học, không chỉ phản ánh hiện thực đúng như bản thân nó mà còn là công cụ hữu ích giúp con người cải tạo hiện thực đó.

* Chủ nghĩa duy tâm và các hình thức cơ bản của nó:

+ Duy tâm chủ quan thừa nhận ý thức là tính thứ nhất, phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực. Mọi sự vật hiện tượng chỉ là phức hợp cảm giác của cá nhân, của chủ thể.

+ Duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức, nhưng đó là thứ tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người. Thực thể tinh thần khách quan này thường mang tên gọi khác nhau như: ý niệm; tinh thần tuyệt đối; lý tính thế giới…

Một hình thức biến tướng của chủ nghĩa duy tâm khách quan là chủ nghĩa duy tâm tôn giáo, với sự thừa nhận thượng đế; chúa trời sáng tạo thế giới. Tuy nhiên có sự khác nhau đó là, chủ nghĩa duy tâm tôn giáo thì lòng tin là cơ sở chủ yếu, đóng vai trò chủ đạo; còn chủ nghĩa duy tâm triết học lại là sản phẩm của tư duy lý tính dựa trên cơ sở tri thức và lý trí.

Nguồn gốc của chủ nghĩa duy tâm:

+Về phương diện nhận thức luận, sai lầm của chủ nghĩa duy tâm bắt nguồn từ cách xem xét phiến diện, tuyệt đối hoá, thần thánh hoá một mặt, một đặc tính nào đó của quá trình nhận thức mang tính biện chứng của con người.

* Triết học nhị nguyên: vật chất và ý thức song song tồn tại, không có cái nào có trước, cả hai đều là nguồn gốc tạo nên thế giới, triết học nhị nguyên có khuynh hướng điều hoà chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm. Xét về thực chất, Triết học nhị nguyên thể hiện sự dao động ngả nghiêng, cuối cùng cũng rơi vào chủ nghĩa duy tâm.

Thuyết khả tri; bất khả tri và hoài nghi luận

– Giải quyết mặt thứ hai của vấn đề cơ bản “con người có nhận thức được thế giới không?”:

+ Thuyết khả tri( Thuyết có thể biết) là những nhà Triết học cả duy vật và duy tâm trả lời một cách khẳng định: Con người có khả năng nhận thức được thế giới

+Hoài nghi luận xuất hiện từ thời Cổ đại (từ chữ Hy Lạp skeptikos và skiptomai có nghĩa là tôi thẩm tra) mà đại biểu là Pirôn (nhà triết học Hy Lạp cổ đại). Họ là những người đã luận nâng sự hoài nghi lên thành nguyên tắc trong việc xem xét tri thức đã đạt được và cho rằng con người không thể đạt tới chân lý khách quan.

Hoài nghi luận thời Phục hưng lại có tác dụng quan trọng trong cuộc đấy tranh chống hệ tư tưởng Trung cổ và uy tín của Giáo hội thời trung cổ vì nó thừa nhận sự hoài nghi đối với cả Kinh thánh và các tín điều tôn giáo.

+Thuyết bất khả tri (thuyết không thể biết): là sự phát triển mặt tiêu cực của trào lưu hoài nghi luận. Theo thuyết này, con người không thể hiểu được thế giới hay ít ra là không thể nhận thức được bản chất của nó, hoặc có chăng chỉ là hiểu cái bề ngoài vì các hình ảnh về đối tượng do giác quan con người mang lại không bảo đảm tính chân thực, từ đó họ phủ nhận khả năng nhận thức của con người và các hình thức cơ bản của nó.

Đại biểu nổi tiếng nhất của “thuyết không thể biết” là Hium (nhà triết học Anh) và Cantơ (nhà triết học Đức). Theo Hium, chẳng những chúng ta không thể biết được sự vật là như thế nào, mà cũng không thể biết được sự vật đó có tồn tại hay không. Còn Cantơ thì thừa kế nhận có một thế giới sự vật tồn tại, ông gọi đó là “vật tự nó”; nhưng chúng ta không thể nhận thức được bản chất thế giới ấy mà chỉ là nhận thức những hiện tượng của nó mà thôi.

Thuyết không thể biết đã bị Hêghen và Phoiơbắc phê phán gay gắt. Song, đúng như Ph. Ăngghen đã nhận xét, chính thực tiễn của con người đã bác bỏ thuyết không thể biết một cách triệt để nhất. “Sự bác bỏ một cách hết sức đanh thép những sự vặn vẹo triết học ấy, cũng như tất cả những triết học khác, là thực tiễn, chính là thực nghiệm và công nghiệp. Nếu chúng ta có thể chứng minh được tính chính xác của quan điểm của chúng ta về một hiện tượng tự nhiên nào đó, bằng cách tự chúng ta làm ra hiện tượng ấy, bằng cách tạo ra nó từ những điều kiện của nó, và hơn nữa, còn bắt nó phải phục vụ mục đích của chúng ta, thì sẽ không còn có cái “vật tự nó” không thể nắm được của Cantơ nữa”.

SIÊU HÌNH VÀ BIỆN CHỨNG

Trong lịch sử triết học không những có sự đối lập giữa CNDV và CNDT khi tìm hiểu bản chất của thế giới, mà đồng thời còn phải trả lời các câu hỏi: thế giới là bất động, đứng im hay là không ngừng vận động và phát triển? Các sự vật, hiện tượng của thế giới ở trạng thái cô lập, tách rời nhau hay có liên hệ với nhau, tác động qua lại và chuyển hoá lẫn nhau.

Lịch sử đã biết đến hai quan điểm, hai cách xem xét nhìn nhận trái ngược nhau trong khi giải đáp những câu hỏi trên. Đó là phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình

Sự đối lập giữa phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng

Phương pháp siêu hình Phương pháp biện chứng

+Thừa nhận đối tượng ở trạng thái cô lập,tách rời với các chỉnh thể khác và giữa các mặt đối lập nhau có một ranh giới tuyệt đối +Thừa nhận đối tượng qua các mối liên hệ của nó với các đối tượng khác và sự ảnh hưởng ràng buộc lẫn nhau giữa chúng

+ Thừa nhận đối tượng ở trạng thái tĩnh tại; nếu có biến đổi thì đấy chỉ là biến đổi về mặt số lượng, nguyên nhân của mọi sự biến đổi nằm ngoài đối tượng. + Thừa nhận đối tượng ở trạng thái vận động biến đổi có khuynh hướng chung là phát triển, có sự thay đổi về chất, mà nguyên nhân của mọi sự biến đổi ấy là do nguồn gốc bên trong đối tượng. Đó là sự đấu tranh của các mặt đối lập.

– Phương pháp siêu hình chỉ nhìn thấysự vật riêng biệt mà không thấy mối liên hệ qua lại giữa chúng; chỉ thấy sự tồn tại mà không thấy quá trình sự phát sinh và tiêu vong .(Về bản chất là không hiểu được mối quan hệ giữa vận động và đứng im, hay đứng im chỉ là một hình thức vận động đặc biệt).– Tư duy của nhà siêu hình chỉ dựa trên những phản đề tuyệt đối không thể dung nhau được, họ nói có là có, không là không. Đối với họ, một sự vật hoặc tồn tại hoặc không tồn tại, một hiện tượng không thể vừa là chính nó lại vừa là cái khác, cái khẳng định và cái phủ định tuyệt đối bài trừ lẫn nhau, v.v…Nguồn gốc của phương pháp siêu hình: Là bắt nguồn từ việc muốn nhận thức đối tượng, trước hết con người phải tách đối tượng ra khỏi những mối liên hệ và nhận thức nó ở trạng thái không biến đổi trong một không gian và thời gian xác định. Tuy phương pháp đó là cần thiết và có tác dụng trong một phạm vi nhất định, nhưng thực tế thì hiện thực không rời rạc và ngưng đọng như phương pháp này quan niệm. – Phương pháp biện chứng không chỉ thấy những sự vật cá biệt mà còn thấy cả mối quan hệ qua lại giữa chúng, không chỉ thấy sự tồn tại của sự vật mà còn thấy cả sự sinh thành và sự tiêu vong của sự vật.– Phương pháp biện chứng thể hiện tư duy mềm dẻo, linh hoạt trong sự phản ánh hiện thực,– Phương pháp biện chứng thừa nhận trong những trường hợp cần thiết thì bên cạnh cái “ hoặc là.. hoặc là” còn có cái “vừa là… vừa là”; đối tượng hay chỉnh thể trong lúc tồn tại là nó thì cũng đồng thời bao hàm sự tồn tại không là nó; cái khẳng định và cái phủ định vừa loại trừ nhau vừa gắn bó nhau. Do đó, nó phản ánh hiện thực ngày càng chân thực chính xác, và nó trở thành công cụ hữu hiệu giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới.

Tóm lại, phương pháp siêu hình là phương pháp xem sét sự vật trong trạng thái biệt lập, ngưng đọng với một tư duy cứng nhắc; còn phương pháp biện chứng là phương pháp xét sự vật trong mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau và trong trạng thái vận động biến đổi không ngừng với tư duy mềm dẻo, linh hoạt.

Các giai đoạn phát triển cơ bản của phương pháp biện chứng

* Hình thức thứ nhất là phép biện chứng tự phát thời Cổ đại. thể hiện rõ nét trong “thuyết Âm – Dương” của triết học Trung Quốc, đặc biệt là trong nhiều học thuyết của triết học Hy Lạp cổ đại. Các nhà triết học đều thấy các sự vật hiện tượng của vũ trụ sinh thành, biến hoá trong những mối liên hệ vô cùng tận. Cách nhận xét thế giới như vậy, theo Ăngghen, là một cách nhận xét còn nguyên thuỷ, ngây thơ, nhưng căn bản là đúng và là kết quả của một trực kiến thiên tài, song chưa phải là kết quả cuả những sự nghiên cứu và thực nghiệm khoa học. Chính vì hạn chế này mà phép biện chứng Cổ đại phải nhường bước cho phép siêu hình, phương pháp thống trị trong tư duy triết học ở thế kỷ XVIII là điều không thể tránh khỏi. Đây là giai đoạn khám phá kết cấu, thuộc tính của đối tượng.

* Hình thức thứ hai là phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức, bắt đầu từ Cantơ và hoàn chỉnh ở Hêghen. Lần đầu tiên trong lịch sử phát triển tư duy nhân loại, các nhà triết học cổ điển Đức đã trình bày một cách có hệ thống những nội dung của phép biện chứng. Tuy nhiên, đây mới chỉ dừng lại ở biện chứng của khái niệm, của tinh thần, và tai hại hơn là họ cho rằng giới hiện thực chỉ là sự sao chép của tinh thần, bởi vậy phép biện chứng cổ điển Đức là có tính chất duy tâm.

* Hình thức thứ ba là phép biện chứng duy vật. Trên cơ sở kế thừa những hạt nhân hợp lý của phép biện chứng duy tâm, sau khi gạt bỏ tính chất duy tâm thần bí của nó, Mác – Ăng ghen xây dựng phép biện chứng duy vật với tính cách là học thuyết về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất.

VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI

Vai trò thế giới quan và phương pháp luận

Vai trò thế giới quan của triết học

* Tồn tại trong mối quan hệ với thế giới xung quanh, dù muốn hay không con người cũng phải nhận thức thế giới và nhận thức bản thân mình. Những tri thức này cùng với niềm tin vào nó dần dần hình thành nên thế giới quan.

* Thế giới quan là nhân tố định hướng cho quá trình hoạt động sống của con người. Thế giới quan như một “thấu kính” qua đó con người xác định mục đích, ý nghĩa cuộc sống và lựa chọn cách thức đạt mục đích đó.

* Trình độ phát triển của thế giới quan là tiêu chí quan trọng về sự trưởng thành của mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đồng nhất định.

* Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới quan phát triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri thức do các khoa học đưa lại. Đó là chức năng thế giới quan của triết học.

+ Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là cơ sở lý luận của hai thế giới quan cơ bản đối lập nhau. Chính vì vậy chúng đóng vai trò là nền tảng thế giới quan của các hệ tư tưởng đối lập.

Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học biểu hiện bằng cách này hay cách khác cuộc đấu tranh giữa những giai cấp, những lực lượng xã hội đối lập nhau.

Do vậy:

+ Thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực giúp cho con người sáng tạo trong hoạt động.

+ Thế giới quan sai lầm làm cho con người sống thụ động hoặc sai lệch trong hoạt động. + Việc nghiên cứu triết học giúp ta định hướng hoàn thiện thế giới quan.

Vai trò phương pháp luận của triết học

Phương pháp luận là lý luận về phương pháp; là hệ thống quan điểm có tính nguyên tắc chỉ đạo việc tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp.

* Triết học thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất

+ Tri thức triết học là hệ thống tri thức chung nhất về thế giới và vai trò con người trong thế giới, nghiên cứu các qui luật chung nhất chi phối cả tự nhiên, xã hội và tư duy.

+ Mỗi luận điểm triết học đồng thời là một nguyên tắc trong việc xác định phương pháp, là lý luận về phương pháp.

Việc nghiên cứu triết học giúp ta có được phương pháp luận chung nhất, trở nên năng động sáng tạo trong hoạt động phù hợp với xu thế phát triển chung.

Vai trò của triết học Mác – Lê nin

Triết học Mác – Lênnin kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của tư duy triết học nhân loại. Nó được C.Mác và Ph. Ăngghen sáng tạo ra và V.I.Lênin phát triển một cách xuất sắc. Đó là chủ nghĩa duy vật biên chứng trong việc xem xét giới tự nhiên cũng như xem xét đời sống xã hội và tư duy con người.

* Với tư cách là một hệ thống nhận thức khoa học có sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và phương pháp: triết học Mác-Lênin như Lê nin nhận xét: “Là một chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị” và “là một công cụ nhận thức vĩ đại”, triết học Mác-Lênin là cơ sở triết học của một thế giới quan khoa học, là nhân tố định hướng cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, là nguyên tắc xuất phát của phương pháp luận.

+ Trong triết học Mác – Lênin, lý luận và phương pháp thống nhất hữu cơ với nhau. Chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng là phép biện chứng duy vật. Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên triệt để, và phép biện chứng trở thành lý luận khoa học; nhờ đó triết học mácxít có khả năng nhận thức đúng đắn cả giới tự nhiên cũng như đời sống xã hội và tư duy con người.

+ Nắm vững triết học triết học Mác-Lênin không chỉ là tiếp nhận một thế giới quan đúng đắn mà còn là xác định một phương pháp luận khoa học. Nguyên tắc khách quan trong sự xem xét đòi hỏi phải biết phân tích cụ thể theo tinh thần biện chứng, đồng thời nó ngăn ngừa thái độ chủ quan tuỳ tiện trong việc vận dụng lý luận vào hoạt động thực tiễn.

* Trong quan hệ với các khoa học cụ thể, mối quan hệ giữa triết học Mác- Lênin và các khoa học cụ thể là mối quan hệ biện chứng, cụ thể là: các khoa học cụ thể là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của triết học. Đến lượt mình, triết học Mác- Lênin cung cấp những công cụ phương pháp luận phổ biến, định hướng sự phát triển của các khoa học cụ thể. Mối quan hệ này càng đặc biệt quan trọng trong kỷ nguyên cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ.

Chính vì vậy, để đẩy mạnh phát triển khoa học cụ thể cũng như bản thân triết học, sự hợp tác chặt chẽ giữa những người nghiên cứu lý luận triết học và các nhà khoa học khác là hết sức cần thiết. Điều đó đã được chứng minh bởi lịch sử phát triển của khoa học và bản thân triết học.

Ngày nay trong kỷ nguyên cách mạng khoa học công nghệ, sự gắn bó càng trở nên đặc biệt quan trọng. Trong kỷ nguyên này, cuộc đấu tranh chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm không bị thủ tiêu mà vẫn tiếp tục diễn ra với những nội dung và hình thức biểu hiện mới. Trong tình hình đó, lý luận triết học sẽ trở nên khô cứng và lạc hậu, nếu không được phát triển dựa trên sự khái quát khối tri thức hết sức lớn lao của khoa học chuyên ngành. Ngược lại, nếu không đứng vững trên lập trường duy vật khoa học và thiếu tư duy biện chứng thì đứng trước những phát hiện mới mẻ người ta có thể mất phương hướng và đi đến kết luận sai lầm về triết học.

Tuy nhiên, triết học Mác không phải là đơn thuốc vạn năng chứa sẵn mọi cách giải quyết các vấn đề đặt ra trong hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn. Để có thể tìm lời giải đáp đúng đắn cho những vấn đề đó, bên cạnh tri thức triết học cần có hàng loạt những tri thức khoa học cụ thể cùng với những tri thức kinh nghiệm do cuộc sống tạo nên một cách trực tiếp ở mỗi con người. Thiếu tri thức đó, việc vận dụng những nguyên lý triết học không những khó mang lại hiệu quả, mà trong nhiều trường hợp có thể còn dẫn đến những sai lầm mang tính giáo điều.

Do vậy, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta cần tránh cả hai thái cực sai lầm:

+ Xem thường triết học sẽ sa vào tình trạng mò mẫm, dễ bằng lòng với những biện pháp cụ thể nhất thời, đi đến chỗ mất phương hướng, thiếu nhìn xa trông rộng, thiếu chủ động và sáng tạo trong công tác;

+ Tuyệt đối hóa vai trò của triết học sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều, áp dụng một cách máy móc những nguyên lý, những quy luật vào từng trường hợp riêng mà không tính đến tình hình cụ thể trong từng trường hợp riêng và kết quả là dễ bị vấp váp, thất bại.

Bồi dưỡng thế giới quan duy vật và rèn luyện tư duy biện chứng để phòng và chống chủ nghĩa chủ quan, tránh phương pháp tư duy siêu hình, đó vừa là kết quả vừa là mục đích trực tiếp của việc nghiên cứu lý luận triết học nói chung, triết học Mác – Lênin nói riêng.

Kết luận