Top 10 # Định Nghĩa Nhà Nước Tư Sản Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Tvzoneplus.com

Kiểu Nhà Nước Tư Sản Và Kiểu Nhà Nước Phong Kiến

Kiểu nhà nước tư sản và kiểu nhà nước phong kiến. Bản chất giai cấp của nhà nước tư sản. Hình thức nhà nước tư sản và nhà nước phong kiến.

Trong lịch sử xã hội loài người đã có bốn hình thái kinh tế xã hội, ứng với mỗi hình thái kinh tế xã hội là bốn kiểu nhà nước. Đó là nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tứ sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhìn chung sự thay thế các kiểu nhà nước phát triển theo hướng đi lên, kiểu nhà nước sau ra đời tiến bộ hơn kiểu nhà nước trước. Xét trong hai kiểu nhà nước phong kiến và tư sản, ta thấy nhà nước tư sản có sự phát triển vượt trội so với nhà nước phong kiến, thể hiện ở sự hoàn thiện về mặt bản chất, chức năng, tổ chức bộ máy nhà nước và hình thức nhà nước.

I. Khái quát chung về nhà nước tư sản và nhà nước phong kiến

Nhà nước phong kiến là nhà nước của giai cấp địa chủ phong kiến, cơ sở hình thành của nhà nước là quan hệ sản xuất phong kiến mà đặc trưng là chế độ chiếm hữu ruộng đất của giai cấp này. Các địa chủ phong kiến nắm trong tay đủ mọi quyền lực, còn nông dân chỉ có quyền sở hữu nhỏ phụ thuộc vào địa chủ và hầu như không có quyền gì.

Khi nền kinh tế hàng hóa thị trường phát triển, sự tập trung tư liệu sản xuất và xã hội hóa lao động đòi hỏi con người phải có quyền tự do bình đẳng, hội họp kinh doanh và đảm bảo quyền sở hữu tài sản. Chế độ phong kiến hà khắc đã không còn phù hợp với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Vì thế các cuộc cách mạng dân chủ tư sản liên tiếp nổ ra dưới sự lãnh đạo của giai cấp tư sản, lật đổ nhà nước phong kiến, thiết lập nhà nước tư sản, mở đường cho nền kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển. Các nhà nước tư sản đầu tiên ra đời sau cách mạng dân chủ tư sản là Hà Lan, Anh, Pháp…

II. Điểm tiến bộ cơ bản của nhà nước tư sản so với nhà nước phong kiến

Qua mỗi kiểu nhà nước bản chất nhà nước có sự thay đổi rõ rệt theo hướng phát triển hơn, dân chủ hơn. Xét trong hai kiểu nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản ta có thể thấy:

Ở nhà nước phong kiến: Quyền lực nhà nước chủ yếu được sử dụng để áp bức nhân dân lao động. Người nông dân dù đã được giải phóng nhưng vẫn còn phụ thuộc rất nhiều vào địa chủ phong kiến. Nhà nước phong kiến là công cụ để duy trì sự thống trị của giai cấp địa chủ, bảo vệ trật tự xã hội. Tuy nhiên những hoạt động này nhằm bảo vệ chế độ cai trị của giai cấp địa chủ chứ không phục vụ lợi ích của nhân dân lao động.

Ở nhà nước tư sản: Người lao động nhìn chung đã được tự do, bình đẳng, dựa trên chế độ làm thuê tự nguyện giữa nhân dân lao động và ông chủ. Về mặt hiến định, nhà nước tư sản đã khẳng định tất cả quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân, chủ quyền tối cao của nhà nước thuộc về nhân dân và cơ quan lập pháp đại diện cho toàn thể nhân dân.

Về mặt thực tiễn, các cơ quan ở tất cả các nhà nước tư sản hiện nay đều do bầu cử thành lập nên. Bản chất của nhà nước tư sản là công cụ thiết lập và bảo vệ chế độ dân chủ tư sản-chế độ dân chủ về mặt pháp lí các quyền lợi hợp pháp của mọi công dân thông qua cơ quan đại diện hoặc các biện pháp dân chủ trực tiếp.

Nếu so sánh hai kiểu nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản chúng ta thấy: ngoài bốn chức năng vốn có, phản ánh trực tiếp tính chất giai cấp của nhà nước là bảo vệ và duy trì chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, đàn áp sự phản kháng của nhân dân lao động bằng bạo lực,đàn áp nhân dân lao động về tư tưởng, tiến hành chiến tranh xâm lược nhằm nô dịch dân tộc khác, Nhà nước tư sản còn có những mặt tiến bộ về chức năng so với Nhà nước phong kiến.

Thứ nhất là về chức năng kinh tế xã hội , ở giai đoạn tự do cạnh tranh Nhà nước tư sản chưa can thiệp sâu vào đời sống kinh tế, nhưng trong các giai đoạn sau, hoạt động kinh tế của Nhà nước tư sản ngày càng mở rộng và dần dần trở thành chức năng cơ bản của nó.

Nội dung chủ yếu của các hoạt động kinh tế đó gồm: xác lập và thực hiện các chương trình, kế hoạch phát triển KT-XH cụ thể trong từng giai đoạn lịch sử, hoạch định và thực hiện chính sách tài chính-tiền tệ nhằm ngăn ngừa tình trạng lạm phát, bảo hộ đồng tiền trong nước , xây dựng và thực hiện chính sách đầu tư hợp lý vào các ngành kinh tế, tăng cường hợp tác, quan hệ kinh tế,thương mại với nước ngoài.

Một trong những điểm tiến bộ của Nhà nước tư sản đó là nhiều Nhà nước đã chú ý đến việc giải quyết các vấn đề xã hội vì quốc kế dân sinh. Một số Nhà nước đã thực hiện cải cách giáo dục, phổ cập giáo dục bắt buộc cho công dân,tăng đầu tư ngân sách để phát triển giáo dục, ban hành và thực hiện nhiều chính sách xã hội như việc làm cho người lao động, trợ cấp thất nghiệp, dân số, bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh xã hội…

Ví dụ: tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy đã ra quyết định hỗ trợ các doanh nghiệp lắp ráp ô tô của Pháp hang tỷ Euro để các doanh nghiệp này đảm bảo việc làm cho người lao động ( Theo tin Đài truyền hình Việt Nam ngày 10/02/2009).

Thứ hai: chức năng xúc tiến việc thành lập các liên minh kinh tế, quân sự trên thế giới, tham gia vào quá trình phân công quốc tế, thúc đẩy khuynh hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế, xu hướng toàn cầu hóa và tham gia vào cuộc đấu tranh chung của nhân loại vì các vấn đề toàn cầu. Nhìn chung trong thời kỳ phong kiến, các quan hệ ngoại giao và hữu nghị giữa các quốc gia chưa thực sự phát triển vì các Nhà nước phong kiến chưa chú trọng đến việc thực hiện chức năng này và nó chỉ giữ vai trò thứ yếu.

Thậm chí có nhiều triều đại phong kiến còn thực hiện chính sách bế quan tỏa cảng trong mối quan hệ với bên ngoài thì đương nhiên chức năng này không được quan tâm đến. Nhưng đối với Nhà nước tư sản thì đây là chức năng đặc biệt được chú ý. Từ sau những năm 1950, một số liên minh kinh tế của các Nhà nước tư sản đã hình thành và ngày càng phát triển, mở rộng như: khối thị trường chung châu Âu (EEC),…

Bộ máy nhà nước tư sản có sự phát triển, hoàn thiện rất đáng kể so với nhà nước phong kiến về cả tồ chức và hoạt động. Cụ thể:

Cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước ngày càng trở nên hoàn chỉnh, mang tính chuyên môn hóa cao. Trong bộ máy nhà nước ngày càng có đầy đủ cơ quan nhà nước để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước do yêu cầu, đòi hỏi của xã hội. Việc tổ chức bộ máy nhà nước hết sức chặt chẽ, cách thức tổ chức khoa học, tất cả các điều này đều được quy định cụ thể, rõ ràng trong pháp luật.

Nguyên tắc phân chia quyền lực đã thể hiện rõ sự tiến bộ trong tổ chức và hoạt động của nhà nước tư sản so với nhà nước phong kiến. Nếu như ở nhà nước phong kiến, người nắm quyền hành tối cao là nhà vua, mọi quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đều tập trung vào một người dễ gây tình trạng chuyên quyền, độc đoán, lạm quyền thì nhà nước tư sản xây dựng trên nguyên tắc phân chia quyền lực.

Quyền lực nhà nước được chia thành ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp; các quyền này được trao cho các cơ quan nhà nước khác nhau, như Nghị viện hay Quốc hội nắm quyền lập pháp, Chính phủ nắm quyền hành pháp và quyền tư pháp thuộc về Tòa án. Các cơ quan này hoạt động độc lập với nhau, có thể kiềm chế và đối trọng với nhau hoặc kiểm soát lẫn nhau trong quá trình hoạt động theo nguyên tắc “quyền lực ngăn cản quyền lực”;vậy nên tình trạng lạm quyền, lộng quyền trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước được hạn chế.

Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước thể hiện rõ tính dân chủ cũng là một điểm tiến bộ rõ nét của nhà nước tư sản so với nhà nước phong kiến. Điều này được thể hiện ở nguyên tắc dân chủ: công dân có quyền tham gia bầu cử hoặc ứng cử vào các cơ quan đại diện của nhà nước khi có đủ điều kiện do luật định, đều có thể được tuyển dụng hoặc bổ nhiệm vào các vị trí nhất định trong bộ máy nhà nước khi đáp ứng được các yêu cầu cần thiết.

Có thể hiểu, ở đây công dân có quyền tham gia vào việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; ngoài ra,trong một chừng mực nhất định công dân có thể kiểm tra, giám sát các hoạt động của các nhân viên, cơ quan nhà nước. Việc làm này ở nhà nước phong kiến là chưa từng xảy ra.

Về mặt chính thể, nhà nước tư bản đã có những bước phát triển tiến bộ hơn so với nhà nước phong kiến, người dân đã có quyền bầu ra cơ quan đại diện cho mình, quyền lực của giai cấp thống trị đã phần nào bị hạn chế. Bộ máy nhà nước cũng đã thể hiện tính dân chủ, đã có sự phân quyền, không còn tập trung quyền lực trong tay một cơ quan đứng đầu.

Cụ thể: Nếu như ở nhà nước phong kiến là chính thể quân chủ chuyên chế: quyền lực tối cao của nhà nước nằm trong tay nhà vua và duy trì theo nguyên tắc thừa kế, con của vua thì mới được làm vua; thì ở nhà nước tư sản, tồn tại chính thể quân chủ chuyên chế và chính thể cộng hòa. Ở chính thể quân chủ lập hiến, quyền lực của vua bị hạn chế bởi cơ quan dân cử (Nghị viện); ở chính thể cộng hòa tổng thống: tổng thống do dân bầu ra, tổng thống lập ra chính phủ; chính thể cộng hòa đại nghị: nghị viện thành lập do nhân dân bầu cử, nghị viện lập ra tổng thống, tổng thống phải chịu trách nhiệm trước nghị viện.

Về cấu trúc, nhà nước tư sản hình thành những cấu trúc mới như liên bang, liên minh: Các bang, vùng lãnh thổ hoặc các quốc gia độc lập liên kết với nhau, mỗi bang, mỗi nhà nước có một chính phủ, hiến pháp, pháp luật riêng tuy nhiên phải lấy hiến pháp chung làm căn bản, cùng nhau hợp tác phát triển mọi mặt kinh tế, chính trị, quân sự,… Một số nhà nước liên bang như: Hoa Kỳ, Canada, Nga,… và lien minh lớn như Liên minh Châu Âu EU.

Về chế độ chính trị, nếu như ở nhà nước phong kiến là chế độ phản dân chủ hay chế độ dân chủ nhưng chỉ biểu hiện rất hạn chế thì nhà nước tư sản, chế độ dân chủ đã thể hiện rõ ràng hơn và không còn bị hạn chế như nhà nước phong kiến. Thể hiện cụ thể ở các điểm sau: Tất cả quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân, chủ quyền tối cao của nhà nước thuộc về nhân dân; Trong hiến pháp và pháp luật đã thừa nhận công dân có khả năng sử dụng các quyền tự do dân chủ, có sự thừa nhận về mặt pháp lí quyền bình đẳng trước pháp luật; Tồn tại công khai các đảng cầm quyền và đảng đối lập cũng như các tổ chức xã hội đoàn thể công chúng, được tự do tranh cử trong bầu cử nghị viện và tổng thống…

Tóm lại, nhà nước tư sản đã có những bước tiến bộ đáng kể so với nhà nước phong kiến dựa trên cả bốn mặt: bản chất, chức năng, tổ chức bộ máy và hình thức của nhà nước. Sự xuất hiện của nhà nước tư bản là một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử phát triển của nhân loại, quan hệ giữa các giai cấp đã bớt gay gắt hơn cùng với những phát minh khoa học mới thúc đẩy nền kinh tế tư bản phát triển. Nhà nước tư sản đã thay thế cái lạc hậu, lỗi thời của nhà nước phong kiến trước và đặc biệt tính dân chủ đã được cải thiện rõ rệt. Sự tiến bộ này là hoàn toàn phù hợp với quy luật phát triển tự nhiên của Thế Giới.

Kiểu Nhà Nước Tư Sản Là Gì ? Sự Ra Đời Và Quá Trình Phát Triển Của Nhà Nước Tư Sản ?

Cũng như các kiểu nhà nước tồn tại trước đó, nhà nước tư sản là một nhà nước có giai cấp, đồng thời, là người đại diện chính thức của toàn xã hội đảm đương các chức năng công ích, xã hội; là bộ máy duy trì trật tự xã hội, điều hoà các mối quan hệ xã hội chung của cả cộng đồng dân cư của quốc gia – dân tộc. Tuy nhiên, do nhà nước tư sản hình thành trên một hình thái kinh tế – xã hội tiến bộ hơn, trong giai đoạn nền văn minh nhân loại phát triển cao hơn, vì vậy, tính xã hội của nhà nước tư sản cũng phát triển sâu rộng hơn.

Nhà nước tư sản có các đặc điểm cơ bản sau đây: thiết lập nguyên tắc chủ quyền nhà nước trên danh nghĩa thuộc về nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân; cơ quan lập pháp là cơ quan đại diện của các tầng lớp dân cư trong xã hội do bầu cử lập nên; thực hiện nguyên tắc phân chia quyền lực và kiểm chế, đối trọng giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp; thực hiện chế độ đa nguyên, đa đảng trong bầu cử nghị viện và tổng thống: hình thức chính thể phổ biến của nhà nước tư sản là cộng hoà (cộng hoà tổng thống, cộng hoà nghị viện, cộng hoà lưỡng tính) và quân chủ lập hiến (quân chủ nghị viện).

Sự ra đời và phát triển của nhà nước tư sản

Vào khoảng cuối thế kỉ XV, đầu thế kỉ XVI, trong lòng xã hội phong kiến phương Tây đang diễn ra quá trình tư bản hoá. Trong xã hội, một kiểu quan hệ sản xuất mới đang từng bước hình thành và ngày càng phát triển mạnh mẽ, đó là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Cùng với việc hình thành quan hệ sản xuất mới thì trong xã hội cũng hình thành những giai cấp mới, giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Sản xuất ngày càng phát triển, địa vị kinh tế của giai cấp tư sản ngày càng được nâng cao, nhung quyền lực chính trị vẫn do giai cấp địa chủ, phong kiến nắm giữ. Mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp địa chủ phong kiến ngày càng sâu sắc. Để bảo vệ địa vị kinh tế của mình, giai cấp tư sản tìm cách chiếm vũ đài chính trị, giành chính quyền về tay giai cấp mình. Tuy nhiên, do điều kiện hoàn cảnh cụ thể của các nước khác nhau, nên sự ra đời của nhà nước tư sản ở mỗi nước là không giống nhau. Trên thế giới có ba con đường dẫn đến sự ra đời của nhà nước tư sản:

– Một là, sự ra đời của các nhà nước tư sản thông qua các cuộc cách mạng xã hội dưới hình thức khởi nghĩa vũ trang như Hà Lan, Anh, Pháp…

– Hai là, sự ra đời các nhà nước tư sản thông qua các cuộc cải cách xã hội như ở Đức, Tây Ban Nha, Nhật Bản… Ở những nước này, giai cấp tư sản chưa đủ mạnh để lật đổ giai cấp phong kiến vì vậy có sự thoả hiệp giữa giai cấp tư sản và giai cấp phong kiến, xã hội được cải cách từng bước theo hướng tư bản hoá, chính quyền nhà nước dần dần chuyển vào tay giai cấp tư sản.

– Ba là, sự ra đời các nhà nước tư sản ở châu Mỹ, châu úc như Mỹ, Ca Na Đa, úc… Ở những khu vực này, giai cấp tư sản được hình thành từ những người châu Âu di cư, họ dùng vũ lực lấn át và tiêu diệt thổ dân bản xứ còn đang trong chế độ thị tộc, bộ lạc, thiết lập nên chính quyền nhà nước tư sản.

Cơ sở kinh tế của nhà nước tư sản là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, đó là quan hệ sản xuất giữa nhà tư bản và công nhân lao động làm thuê. Dưới chế độ tư bản, tư liệu sản xuất khá đa dạng, bao gồm nhà máy, công trường, hầm mỏ, đồn điền, tiền… đều thuộc sở hữu của các nhà tư bản. Người công nhân không có tư liệu sản xuất phải bán sức lao động của mình cho nhà tư bản để kiếm sống. Cơ sở xã hội của nhà nước tư sản là quan hệ giữa các giai cấp tầng lóp trong xã hội mà cốt lõi là quan hệ giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản.

Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, nhà nước tư sản đã phát triển qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn có những đặc thù riêng. Có thể phân chia sự phát triển của nhà nước tư sản gắn với ba giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản như sau:

– Giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh (từ đầu đến cuối thế kỉ XIX).

– Giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa tư bản độc quyền, lũng đoạn (từ cuối thế kỉ XIX đến sau chiến tranh thế giới thứ hai).

– Giai đoạn chủ nghĩa tư bản hiện đại (từ những năm 1970 trở lại đây).

Cho đến nay, nhà nước tư sản đã trải qua quá trình tồn tại và phát triển mấy trăm năm. Trong quá trình đó, hình thức sở hữu tư bản chủ nghĩa đã có sự thay đổi, ban đầu chủ yếu là sở hữu của các nhà tư bản riêng lẻ, các gia đình tư bản, một nhóm tư bản hoặc một hiệp hội cổ đông, về sau, các nhà tư bản liên kết với nhau, hình thành các tập đoàn tư bản, các công ti đa quốc gia, liên quốc gia, bên cạnh đó còn có hình thức sở hữu tư bản nhà nước. Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, kết cấu và địa vị của các giai cấp trong xã hội tư bản chủ nghĩa cũng có những biến đổi. Khi mới xuất hiện, giai cấp tư sản là giai cấp tiến bộ trong xã hội, về sau chúng ngày càng bộc lộ rõ tính chất phản động, thông qua nhà nước, tiến hành các cuộc chiến tranh xâm chiếm thuộc địa, tăng cường áp bức, bóc lột giai cấp vô sản. Ngày nay, giai cấp tư sản có nhiều biến đổi theo hướng quan tâm, chăm lo nhiều hơn cho người lao động. Trong xã hội diễn ra quá trình cổ phần hoá, tư nhân hoá một cách rộng khắp, một bộ phận người lao động trở thành cổ đông, đồng sở hữu chủ trong các công ty tư bản. Chính vì vậy, đời sống người lao động được cải thiện đáng kể, tầng lớp nghèo khổ chỉ còn là thiểu số, tầng lớp trung lưu ngày càng tăng. Một bộ phận công nhân nắm giữ số lượng cổ phiếu nhất định trong các công ti, một bộ phận là những người có tay nghề cao, các chuyên gia kĩ thuật… được hưởng lương cao, được hưởng nhiều ưu đãi, biến thành tầng lớp công nhân thượng lưu, bộ phận này dễ thoả hiệp với giai cấp tư sản.

Có thể nói, nhà nước tư sản đang tự hoàn thiện để thích nghi với điều kiện mới. Từ chỗ là công cụ chủ yếu phục vụ giai cấp tư sản, nhà nước tư sản dần dần trở thành công cụ tổ chức và quản lí có hiệu quả các mặt của đời sống xã hội, đảm bảo các quyền, tự do của con người, đảm bảo dân chủ, công bằng, bình đẳng và tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, dù phát triển đến giai đoạn nào, dù cố gắng cải biến đến đâu, nhà nước tư sản vẫn còn rất nhiều hạn chế, chế độ tư bản chủ nghĩa vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột, xã hội tư bản chủ nghĩa vẫn còn đầy rẫy những bất công. Theo báo cáo Global Wealth của Cresit Suisse, một phần trăm những người giàu có nhất thế giới hiện đang sở hữu tới một nửa khối tài sản toàn cầu, cùng với đó khoảng cách chênh lệch giữa người giàu và người nghèo lại tăng lên.1 Chính vì vậy, theo quy luật phát triển của xã hội, nhà nước tư sản phải bị thay thế bởi kiểu nhà nước mới, nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, thực tiễn cho thấy, chưa có những dấu hiệu chứng tỏ sự sụp đổ của nhà nước tư sản trong một sớm một chiều. Điều này c. Mác đã khẳng định:

“Không một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả những lực lượng sản xuất mà hình thải xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát triển, vẫn chưa phát triển, và những quan hệ sản xuất mới, cao hơn, cũng không bao giờ xuất hiện trước khỉ những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ”.

Bản Chất, Chức Năng, Bộ Máy Và Hình Thức Nhà Nước Tư Sản

51592

Bản chất của nhà nước tư sản

Chức năng của nhà nước tư sản

Chức năng củng cố, bảo vệ, duy trì sự thống trị của giai cấp tư sản

Chức năng kinh tế

Chức năng xã hội

Chức năng tiến hành chiến tranh xâm lược và chống phá các phong trào cách mạng thế giới

Chức năng đối ngoại hoà bình, hợp tác quốc tế

1. Bản chất của nhà nước tư sản

Bản chất của nhà nước tư sản do chính những điều kiện nội tại của xã hội Tư sản quyết định, đó chính là cơ sở kinh tế, cơ sở xã hội và cơ sở tư tưởng.

Cơ sở kinh tế của nhà nước tư sản là nền kinh tế tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ tư hữu tư bản về tư liệu sản xuất (chủ yếu dưới dạng nhà máy, hầm mỏ, đồn điền…), được thực hiện thông qua hình thức bóc lột giá trị thặng dư.

Cơ sở xã hội của nhà nước tư sản là một kết cấu xã hội phức tạp trong đó có hai giai cấp cơ bản, cùng tồn tại song song có lợi ích đối kháng với nhau là giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Trong hai giai cấp này giai cấp giữ vị trí thống trị là giai cấp tư sản, mặc dù chỉ chiếm thiểu số trong xã hội nhưng lại là giai cấp nắm hầu hết tư liệu sản xuất của xã hội, chiếm đoạt những nguồn tài sản lớn của xã hội. Giai cấp vô sản là bộ phận đông đảo trong xã hội, là lực lượng lao động chúnh trong xã hội. Về phương diện pháp lý họ được tự do, nhưng không có tư liệu sản xuất nên họ chỉ là người bán sức lao động cho giai cấp tư sản, là đội quân làm thuê cho giai cấp tư sản. Ngoài hai giai cấp chính nêu trên, trong xã hội tư sản còn có nhiều tầng lớp xã hội khác như: nông dân, tiểu tư sản, trí thức…

2. Chức năng của nhà nước tư sản

Bản chất của nhà nước tư sản thể hiện thông qua các chức năng đối nội và đối ngoại của nó. Chức năng của nhà nước tư sản chính là những phương diện hoạt động cơ bản của nhà nước nhằm thực hiện quyền lực nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống nhà nước và xã hội.

Qua các giai đoạn phát triển khác nhau của nhà nước tư sản các chức năng của nhà nước tư sản có những thay đổi đáng kể, tuy vậy khi xem xét ta thấy tựu chung nhà nước tư sản có các chức năng đối nội và đối ngoại sau:

a) Chức năng củng cố, bảo vệ, duy trì sự thống trị của giai cấp tư sản

– Củng cố và bảo vệ chế độ tư hữu tư sản

Chức năng này bao hàm những nội dung sau:

– Trấn áp các giai cấp bị trị về mặt chính trị

Tất cả các nhà nước tư sản đều coi quyền tư hữu là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm. Thông qua pháp luật các nhà nước tư sản đã thiết lập và bảo vệ quyền tư hữu cùng với sự giúp đỡ của tất cả bộ máy bạo lực và các biện pháp khác. Song ở các giai đoạn phát triển khác nhau, nhà nước tư sản đã thực hiện chức năng này cũng khác nhau, thích ứng với hoàn cảnh kinh tế của mỗi giai đoạn. Trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do, nhà nước tư sản bảo vệ quyền tư hữu của toàn bộ giai cấp tư sản. Hiện nay, nhà nước tư sản bảo vệ quyền tư hữu của những nhóm tư bản độc quyền dưới nhiều hình thức khác nhau, như: chuyển sở hữu của nhóm tư bản độc quyền đang bị đe doạ sang sở hữu nhà nước, tạo cho nó những độ quyền trong đầu tư hoặc khai thác tín dụng, giúp đỡ các nhóm tư bản độc quyền mở rộng thị trường ra bên ngoài…

– Trấn áp giai cấp bị trị về mặt tư tưởng

Đây là hoạt động thường xuyên của nhà nước tư sản nhằm bảo vệ địa vị thống trị về chính trị của giai cấp tư sản. Tuy vậy hoạt động này cũng có những biểu hiện khác nhau. Trong giai đoạn đầu, để bảo vệ địa vị thống trị của mình, nhà nước tư sản thướng sử dụng bộ máy bạo lực đàn áp trực tiếp các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Trong giai đoạn hiện nay, nhà nước tư sản vẫn duy trì sự đàn áp chính trị nhưng dưới những hình thức, phương pháp ngụy trang tinh vi hơn, như: quy định các hình thức, thể thức ứng cử, bầu cử …

Một mặt nhà nước tư sản luôn tuyên truyền về tinh thần dân chủ đa nguyên, nhưng trên thực tế trong tất cả các giai đạo phát triển các nhà nước tư sản luôn tìm mọi cách nhằm đảm bảo địa vị độc tôn của ý thức hệ tư sản, ngăn cản việc truyền bá những tư tưởng cách mạng, tiến bộ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Hoạt động này được bảo đảm bởi sự liên kết giữa nhà nước tư sản với các thế lực tôn giáo và hệ thống các phương tiện thông tin đại chúng.

Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do chức năng này chưa được chú trọng. Chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, nhà nước tư sản từng bước can thiệp vào lĩnh vực kinh tế, và khi chủ nghĩa tư bản độc quyền chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước thì sự can thiệp này được tăng cường và làm nảy sinh chức năng mới – chức năng kinh tế.

Mục đích của chức năng này nhằm tạo ra các điều kiện, các đảm bảo vật chất, kỹ thật, pháp lý và chính trị cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh của các tập đoàn tư bản, đảm bảo sự tăng trưởng của nền kinh tế tư bản, ngăn ngừa và khắc phục những nguyên nhân dẫn đến tình trạng khủng hoảng kinh tế.

Để thực hiện chức năng này, nhà nước tư sản sử dụng hàng loạt các hình thức và phương pháp như: sử dụng hệ thống đòn bẩy kinh tế, các kích thích kinh tế thể hiện trong các tác động mang tính hành chính – kinh tế lên hệ thống các quan hệ kinh tế.

Sự biểu hiện của chức năng này thể hiện:

+ Nhà nước tư sản căn cứ vào tình hình kinh tế – xã hội để xây dựng và đưa ra các chương trình kinh tế cụ thể.

+ Nhà nước thông qua chương trình đầu tư tài chính nhằm phục vụ trực tiếp cho các chương trình và mục tiêu kinh tế.

+ Nhà nước đưa ra và thực hiện các chính sách tài chính – tiền tệ, chính sách thuế, chính sách thị trường thích hợp với điều kiện và nhu cầu phát triển kinh tế.

+ Nhà nước áp dụng các biện pháp để bảo vệ nền sản xuất trong nước trước sức ép của thị trường kinh tế quốc tế.

c) Chức năng xã hội

d) Chức năng tiến hành chiến tranh xâm lược và chống phá các phong trào cách mạng thế giới

Chức năng tiến hành chiến tranh xâm lược để mở rộng thuộc địa là chức năng đối ngoại chủ yếu của nhà nước tư sản thời kỳ chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do. Các nhà nước tư sản tìm mọi cách xâm lược các vùng đất mới hoặc gây chiến tranh với nhà nước tư sản khác để chia lại thế giới, xác định quyền thống trị hay mở rộng vùng ảnh hưởng của mình.

Khi hệ thống xã hội chủ nghĩa được thiết lập, chức năng đối ngoại chủ yếu của các nhà nước tư sản là tiến hành chống phá các nước xã hội chủ nghĩa, đe doạ, chia rẽ phong trào giải phóng dân tộc.

e) Chức năng đối ngoại hoà bình, hợp tác quốc tế

Trong giai đoạn hiện nay bối cảnh quốc tế có nhiều thay đổi vì thế nhiều nhà nước tư sản có sự thay đổi tích cực trong quan hệ đối ngoại, giải quyết các vấn đề quốc tế thông qua đối thoại với những chính sách đối ngoại mềm dẻo. Bên cạnh đó, các nhà nước tư sản tăng cường mở rộng các hình thức hợp tác quốc tế trong nhiều lĩnh vực phát triển xã hội như: kinh tế, văn hoá – xã hội, môi trường, khoa học – kỹ thuật, các vấn đề nhân đạo… với các nước có chế độ chính trị khác nhau.

3. Bộ máy nhà nước tư sản

Các nhà nước tư sản dù được tổ chức dưới hình thức chính thể nào thì vẫn đều có chung một cách thức tổ chức bộ máy nhà nước trên cơ sở thuyết phân quyền nhằm chống lại sự độc đoán chuyên quyền của chế độ chuyên chế phong kiến, giải quyết những vấn đề thuộc nội bộ của giai cấp tư sản và che đậy bản chất thực của mình trước quần chúng nhân dân lao động.

Nội dung của thuyết phân quyền là sự phân chia quyền lực nhà nước thành 3 nhánh quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ba nhánh quyền này phải được giao cho ba cơ quan nhà nước khác nhau nắm giữ trên một cơ chế kìm chế, đối trọng nhau nhưng độc lập với nhau, yếu tố chủ đạo của học thuyết là “dùng quyền lực để hạn chế quyền lực”.

Trên cơ sở của nguyên tắc phân chia quyền lực, về cơ bản bộ máy nhà nước tư sản bao gồm những bộ phận sau:

b) Nguyên thủ quốc gia

Nguyên thủ quốc gia là người người đớng đầu nhà nước, đại diện cho các quốc gia trong các quan hệ đối nội và đối ngoại.

Chức vụ này trong các nhà nước có các hình thức chính thể khác nhau, sự hình thành và thẩm quyền cũng hết sức khác nhau. Trong các nhà nước có hình thức chính thể quân chủ lập hiến nguyên thủ được hình thành bằng con đường truyền kế, và được nhìn nhận như là biểu tượng cho truyền thống và sự thống nhất dân tộc (Nhật Bản, Vương quốc Anh…).

Ở các nước có chính thể cộng hoà, nguyên thủ quốc gia được hình thành thông qua con đường bầu cử. Tuy nhiên thẩm quyền của họ cũng hết sức khác nhau ở các loại hình chính thể khác nhau. Nếu như trong chính thể cộng hoà tổng thống quyền lực của nguyên thủ là hết sức lớn, vừa là người đứng đầu nhà nước, vừa là người đứng đầu cơ quan hành pháp (Mỹ, Mêxicô, Philippin…), thì trái lại ở những nước có chính thể cộng hoà đại nghị cũng giống như các nước có chính thể quân chủ lập hiến, nguyên thủ quốc gia phần lớn mang tính chất đại diện hình thức. Tuy nhiên, nguyên thủ quốc gia cũng có ảnh hưởng nhất định trong việc thành lập chính phủ hoặc trong một số vấn đề khác nhờ sử dụng sứ mạng đạo đức và là biểu tượng của vị đứng đầu đầu nhà nước (Đức, Ý, Nhật Bản…).

c) Chính phủ

Chính phủ là cơ quan nắm quyền hành pháp trong nhà nước tư sản. Chính phủ đóng một vai trò cực kỳ quan trọng và giữ vị trí trung tâm trong bộ máy nhà nước. Trên thực tế, chính phủ tư sản quyết định phần lớn các chính sách đối nội và đối ngoại của nhà nước tư sản.

Cách thức hình thành chính phủ trong các nhà nước tư sản cũng hết sức khác nhau. Đối với những nước có chính thể cộng hoà tổng thống, chính phủ được thành lập không phụ

thuộc vào nghị viện, đứng đầu chính phủ là tổng thống, những nước này không đặt ra chức vụ thủ tướng. Đối với các nước có chính thể cộng hoà đại nghị hoặc quân chủ đại nghị, chính phủ được thành lập trên cơ sở của đảng chính trị nắm đại đa só ghế trong nghị viện. Thủ tướng chính phủ và các thành viên chính phủ có thể do tổng thống bổ nhiệm (Italia, Pháp, Nhật), có thể do tổng thống kết hợp với nghị viện bầu (Đức).

d) Toà án

Toà án tư sản nắm quyền tư pháp, Toà án có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp tư sản.

Các thẩm phán của nhà nước tư sản thường có tính chuyên nghiệp cao, chủ yếu được bổ nhiệm với nhiệm kỳ dài, thậm chí ở một số nước là nhiệm kỳ suốt đời, nếu bảo đảm sức khỏe và không phạm tội.

Tuy nhiên ở các hệ thống pháp luật khác nhau, thẩm quyền và phương thức hoạt động của toà án cũng khác nhau, đặc biệt là giữa hệ thống pháp luật Ăng lô – Xắc xông và Hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa.

Bên cạnh hệ thống toà án cổ điển, nhà nước tư sản còn thiết lập các toà án khác như: toà hành chính, toà thương mại, toà vị thành niên, toà bảo hiến …

4. Hình thức nhà nước tư sản

Xét dưới góc độ khoa học pháp lý, hình thức nhà nước tư sản gồm: Hình thức chính thể, hình thức cấu trúc nhà nước và chế độ chính trị.

a) Hình thức chính thể tư sản

– Chính thể quân chủ lập hiến

Nhà nước Tư sản có hai dạng chính thể cơ bản là chính thể quân chủ lập hiến và chính thể cộng hoà.

Trong các nhà nước có chính thể quân chủ lập hiến có hai dạng biến dạng chính là chính thể quân chủ nhị nguyên và quân chủ đại nghị.

Chính thể quân chủ nhị nguyên thể hiện tính song phương quyền lực giữa nhà vua và nghị viện. Vua chỉ bị hạn chế trong lĩnh vực lập pháp mà không bị hạn chế trong lĩnh vực hành pháp. Các đạo luật do nghị viện thông qua phải có sự phê chuẩn của nhà vua.Chính phủ chịu trách nhiệm trước nhà vua. Hình thức này chỉ tồn tại ở nhà nước tư sản trong giai đoan đầu (Nhà nước Phổ thời kỳ đệ nhị đế quốc, 1871 – 1918 và nhà nước Nhật theo Hiến pháp Minh Trị 1889).

– Chính thể cộng hoà tư sản

Hình thức quân chủ đại nghị thể hiện tính hình thức của quyền lực nhà vua. Nhà vua, với tính cách là nguyên thủ quốc gia chỉ là người đại diện tượng trưng chứ không nắm quyền hành thực tế. Trên thực tiễn, nhà vua không nắm quyền lực trên cả lĩnh vực hành pháp và lập pháp. Các đạo luật do nghị viện thông qua và nhà vua không có quyền phủ quyết. Chính phủ do nghị viện thành lập và phải chịu trách nhiệm trước nghị viện (Anh, Nhật bản theo Hiến pháp1946…).

Đây là hình thức chính thể phổ biến của nhà nước tư sản hiện nay. Ở Hình thức này có hai biến dạng chủ yếu là cộng hoà tổng thống và cộng hoà đại nghị.

Ở chính thể cộng hoà tổng thống, vai trò của nguyên thủ quốc gia là rất quan trọng. Tổng thống vừa là người đứng đầu nhà nước, vừa là người đứng đầu chính phủ, do nhân dân trực tiếp bầu ra hoặc do các đại biểu cử tri bầu ra. Các thành viên của chính phủ do tổng thống lựa chọn và bổ nhiệm, chịu trách nhiệm trước tổng thống. Tổng thống có quyền phủ quyết các dự luật của nghị viện. Nghị viện không có quyền giải tán chính phủ trừ trường hợp tổng thống phạm tội nghiêm trọng bị hạ viện khởi tố và thượng viện xét xử theo thủ tục đặc biệt (thủ tục đàn hạch).

Ở chính thể cộng hoà đại nghị, vai trò của nghị viện là rất lớn, nghị viện là thiết chế quyền lực trung tâm trong cơ chế thực thi quyền lực nhà nước. Nghị viện bầu ra nguyên thủ quốc gia (tổng thống) và đảng chính trị nắm đa số ghế trong nghị viện có quyền thành lập chính phủ, chính phủ chịu trách nhiệm trước nghị viện và có thể bị nghị viện giải tán, vai trò của tống thống không lớn (Liên bang Đức, Ý, Áo).

Ngoài chính thể cộng hoà tổng thống và chính thể cộng hoà đại nghị, hiện nay còn xuất hiện và tồn tại hình thức cộng hoà hỗn hợp giữa cộng hoà tổng thống và cộng hoà đại nghị (Pháp, Bồ đào Nha). Trong hình thức chính thể này, những đặc điểm của cộng hoà đại nghị được bảo lưu nhưng bên cạnh đó lại tăng cường quyền lực của tổng thống. Tổng thống được tuyển cử qua hình thức phổ thông đầu phiếu. Chính phủ do tổng thống bổ nhiệm, người đứng đầu chính phủ là thủ tướng nhưng tổng thống vẫn có quyền điều hành hoạt động đối với chính phủ. Trong trường hợp cần thiết, tổng thống có quyền giải tán cả nghị viện.

b) Hình thức cấu trúc nhà nước tư sản

Nhà nước tư sản có các hình thức cấu trúc sau: Hình thức liên bang và hình thức đơn nhất.

Hình thức cấu trúc liên bang là sự hợp thành từ nhiều bang thành viên, song mỗi thành viên của liên bang không có đầy đủ các dấu hiệu của một nhà nước độc lập. Mặc dù mỗi thành viên đều có lãnh thổ riêng, hiến pháp riêng, hệ thống chính quyền riêng song bang không có chủ quyền quốc gia riêng (không là chủ thể của luật pháp quốc tế). Nhà nước liên bang có hiến pháp riêng, hệ thống pháp luật riêng, có giá trị tối cao so với hiến pháp và pháp luật của các bang thành viên. Đồng thời trong nhà nước liên bang tồn tại một chế độ hai quốc tịch đối với mỗi công dân. Trong hình thức cấu trúc nhà nước liên bang, về mặt nguyên tắc, các thành viên không có quyền tách khỏi nhà nước liên bang.

Nhà nước đơn nhất là hình thức cấu trúc phổ biến của các nhà nước tư sản. Nhà nước đơn nhất có những dấu hiệu đặc trưng:

– Có hiến pháp và hệ thống pháp luật thống nhất;

– Hệ thống cơ quan nhà nước ở trung ương thống nhất (cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp);

– Có chủ quyền lãnh thổ thống nhất;

– Có quốc tịch thống nhất;

– Các cơ quan chính quyền địa phương tổ chức và hoạt động theo quy định chung của chính quyền trung ương.

Tuy nhiên, khi xem xét hình thức cấu trúc nhà nước đơn nhất tư sản cần chú ý một số biểu hiện cụ thể trong tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước địa phương. Trong một số nước, xu hướng tập trung quyền lực về trung ương được coi trọng. Các cơ quan chính quyền địa phương phục tùng tuyệt đối quyền lực nhà nước trung ương. Nhà nước cử đại diện của mình về địa phương trực tiếp quản lý mọi mặt hoạt động ở đây. Hoặc một số nước mặc dù có bầu ra các cơ quan chính quyền địa phương bên cạnh đại diện của trung ương, song hoạt động của các cơ quan này đặt dưới sự kiểm soát của các đại diện do trung ương cử về. Hình thức này tồn tại ở Nhật Bản và Pháp.

Một số nước lại thực hiện nguyên tắc tản quyền trong tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước ở địa phương. Tại các nước này xuất hiện dấu hiệu sự tự trị của chính quyền địa phương. Cơ quan quyền lực địa phương do nhân dân bầu ra hoạt động theo nguyên tắc tự quản. Nhà nước gián tiếp kiểm soát hoạt động của các cơ quan địa phương, hình thức này được áp dụng ở một số địa phương của Anh, Tân Tây Lan, Pháp, Tây Ban Nha.

Ngoài hai hình thức cấu trúc trên, trong lịch sử của nhà nước tư sản còn tồn tại một kiểu cấu trúc nhà nước khác là liên minh giữa các quốc gia, như liên minh ở Mỹ từ 1776 – 1787, Đức đến 1867, Thụy Sỹ 1848; nhà nước liên minh là sự kết hợp các quốc gia có chủ quyền, nhằm giải quyết một số vấn đề nào đó trong một khoảng thời gian nhất định. Xét dưới góc độ khoa học pháp lý, nhà nước liên minh có cơ cấu tổ chức không chặt chẽ và chỉ gây ảnh hưởng mang tính quyền lực đối với các nước thành viên trong một số lĩnh vực nhất định. Hiện nay, đáng chú ý là Liên minh Châu Âu.

c) Chế độ chính trị của nhà nước tư sản

Chế độ chính trị của nhà nước tư sản được hiểu là toàn bộ các phương pháp, thủ đoạn mà giai cấp tư sản sử dụng để thực hiện nền chính trị tư sản. Chế độ chính trị của nhà nước tư sản được phản ảnh qua các phương pháp hoạt động của hệ thống cơ quan nhà nước, địa vị pháp lý của công dân cùng các tổ chức chính trị xã hội và những biện pháp bảo đảm thực hiện các quyền tự do, dân chủ cho công dân. Chế độ chính trị tư sản là một cơ chế năng động, linh hoạt, ở các giai đoạn phát triển khác nhau của nhà nước tư sản, cũng như ở từng quốc gia cụ thể biểu hiện của nó là hết sức khác nhau. Tuy nhiên, nhìn chung cho thấy nhà nước tư sản hoặc có chế độ chính trị dân chủ hoặc chế độ phản dân chủ. Việc xác lập chế độ chính trị nào là tuỳ thuộc vào tương quan chính trị trong nước, vai trò tiến bộ hay phản động của bộ phận cầm quyền, tình hình chính trị quốc tế.

Trong các chế độ chính trị nói trên thì chế độ dân chủ tư sản là chế độ chính trị tốt nhất của nhà nước tư sản, nó được biểu hiện bằng các dấu hiệu:

– Có sự thừa nhận sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật;

– Khả năng người dân được sử dụng rộng rãi các quyền tự do dân chủ;

– Có sự cùng tồn tại của các đảng chính trị, kể cả đảng của phái đối lập bên cạnh đảng cầm quyền;

– Hệ thống các cơ quan đại diện được hình thành bằng con đường bầu cử theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu;

– Nguyên tắc pháp chế tư sản được bảo đảm.

Tuy nhiên, với chế độ chính trị dân chủ tư sản bộ mặt nhà nước tư sản đã co sự thay đổi đáng kể, song thực chất nó vẫn chưa vượt ra khỏi khuôn khổ của một nhà nước bóc lột, như V.I LêNin đã nhận xét: “xã hội tư bản chủ nghĩa, xét trong những điều kiện phát triển thuận lợi nhất của nó, đem lại cho ta một chế độ dân chủ ít nhiều hoàn bị trong chế độ cộng hoà dân chủ. Nhưng chế độ dân chủ ấy tựu chung vẫn bị bó trong khuôn khổ chật hẹp của sự bóc lột tư bản chủ nghĩa, và do đó, thực ra, nó tựu chung vẫn là một chế độ dân chủ đối với riêng những giai cấp có của, đối với riêng bọn giàu có mà thôi”1.

Chế độ phản dân chủ là cơ chế sử dụng bạo lực của các nhóm tư sản phản động lũng đoạn ttrong việc thực hiện chuyên chính tư sản. Đặc trưng của chế độ này là mọi quyền tự do, dân chủ bị hạn chế tới mức tối đa, hoặc bị xoá bỏ hoàn toàn; các đảng phái chính trị đối lập, các tổ chức chính trị – xã hội độc lập bị đặt ra ngoài vòng pháp luật và bị đàn áp dã man, các thể chế dân chủ bị vô hiệu.

Biến dạng cao nhất của chế độ phản dân chủ là chế độ phát xít. Chế độ phát xít với tính chất cực đoan đã xoá bỏ hoàn toàn các thể chế dân chủ tư sản, cấm mọi tổ chức, đảng phái đối lập hoạt động, công khai sử dụng bạo lực và các biện pháp khủng bố, thực hiện chính sách phân biệt chủng tộc. Ngày nay chế độ phát xít không còn tồn tại với đầy đủ các dấu hiệu đặc trưng của nó. Tuy nhiên, hiện vẫn còn có khuynh hướng phục hồi chủ nghĩa phát xít ở đây đó với những luận điệu mới cùng với sự phục hồi của những đảng tân phát xít trong một số nhà nước tư sản, và vì thế nguy cơ tiềm ẩn yếu tố đe doạ nền dân chủ tư sản vẫn luôn là có thật ở một số quốc gia.

Định Nghĩa Investment Advisor / Nhà Tư Vấn Đầu Tư Là Gì?

Khái niệm thuật ngữ

Người hoặc công ty đưa ra khuyến nghị mua – bán và thông tin thị trường cho khách hàng đầu tư. Những người tư vấn đầu tư được yêu cầu đăng ký với Ủy ban Giao dịch Chứng khoán và, theo Đạo luật Tư vấn Đầu tư 1940, công khai mọi mâu thuẫn lợi ích trong những khuyến nghị họ đưa ra. Các ngân hàng thường có thể đưa ra tư vấn về những khoản đầu tư giới hạn cho những khách hàng nhỏ lẻ, nhưng có một số ràng buộc về mặt pháp lý đối với tư vấn đầu tư cho các tài khoản thuộc định chế, như các quỹ lương hưu, các hãng quản lý đầu tư cũng như các tài khoản của công ty.

Phòng tín thác của ngân hàng cung cấp hoạt động tư vấn, và thực hiện đầu tư cho các kế hoạch phân chia lợi nhuận và lương hưu, di sản cá nhân và những hoạt động khác. Ngân hàng cũng chủ động như nhà tư vấn đầu tư cho các công ty đầu tư mở rộng, các quỹ tương hỗ – bán cho các nhà đầu tư nhỏ và nhà đầu tư định chế, đưa ra các khuyến nghị đầu tư, và quản lý chứng khoán được giữ trong danh mục đầu tư của một quỹ tương hỗ.