Top 13 # Khái Niệm Chủ Nghĩa Xã Hội Đặc Sắc Trung Quốc Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 5/2023 # Top Trend | Tvzoneplus.com

Chủ Nghĩa Xã Hội Đặc Sắc Trung Quốc

Do hoàn cảnh lịch sử cụ thể khác nhau nên các thế hệ lãnh đạo khác nhau ở Trung Quốc đã có những lý giải khác nhau về CNXH, dẫn đến những kết quả khác nhau.

Tuy nhiên, ngay sau đó, do lý giải một cách máy móc, giáo điều về Chủ nghĩa Mác, nhấn mạnh và tuyệt đối hóa lý luận về đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác, từ đó nêu lên các chủ trương đường lối sai lầm như “lấy đấu tranh giai cấp làm cương lĩnh”, “tiếp tục cách mạng không ngừng dưới nền chuyên chính vô sản”, “đấu tranh chống phái đương quyền đi theo con đường TBCN”, v.v… Đồng thời, do nhận thức và đánh giá sai lầm về thực tế đất nước, dẫn đến những quan điểm nôn nóng, duy ý chí, bất chấp quy luật khách quan khi định ra các chủ trương chính sách như: “Đại nhảy vọt”, “Công xã nhân dân”, “Cách mạng văn hóa”, v.v…

Việc lý giải giáo điều đối với chủ nghĩa Mác cùng với những đánh giá sai lầm về thực tế đất nước đã dẫn đến kết quả là kinh tế không phát triển – thậm chí đứng bên bờ vực sụp đổ, chính trị – xã hội hỗn loạn, không ổn định.

2. Nhận thức của thế hệ lãnh đạo thứ hai do Đặng Tiểu Bình là đại biểu

Đây là lần đầu tiên, trong văn kiện chính thức của Đảng Cộng sản Trung Quốc đề cập đến khái niệm “CNXH có đặc sắc Trung Quốc”. Từ đây về sau, với tinh thần “giải phóng tư tưởng, thực sự cầu thị”, Đặng Tiểu Bình và tập thể lãnh đạo đã dần dần nêu lên quan điểm nhằm giải đáp các vấn đề như: con đường phát triển, giai đoạn phát triển, nhiệm vụ căn bản, quy luật phát triển, bảo đảm chính trị, bước đi chiến lược, lực lượng lãnh đạo và lực lượng là chỗ dựa v.v…, từ đó hình thành nên hệ thống lý luận mang tên ông – lý luận Đặng Tiểu Bình. Còn về mặt thực tiễn, ông là người nêu lên chủ trương “lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm”, “bốn nguyên tắc cơ bản”, “cải cách mở cửa”… mở ra con đường XHCN đặc sắc Trung Quốc.

3. Nhận thức của thế hệ lãnh đạo thứ ba do Giang Trạch Dân làm đại biểu

Trên cơ sở kế thừa tinh thần “giải phóng tư tưởng, thực sự cầu thị” và bổ sung thêm tư tưởng “tiến cùng thời đại”, tập thể lãnh đạo thứ ba do Giang Trạch Dân làm đại biểu đã tiếp tục làm rõ hơn nữa những vấn đề lý luận và thực tiễn của CNXH ở Trung Quốc như: Quan điểm mới về sở hữu, theo đó vai trò chủ đạo của nền kinh tế công hữu không phải là tỷ trọng cao hay thấp mà là sức khống chế và sức ảnh hưởng của nó (Đại hội XV); bỏ từ “có” trong cụm từ “CNXH có đặc sắc Trung Quốc” viết thành “CNXH đặc sắc Trung Quốc” (Đại hội XVI). Đặc biệt, nhằm trả lời câu hỏi “thế nào là đảng cầm quyền và xây dựng đảng cầm quyền như thế nào?”, Giang Trạch Dân đã nêu lên lý thuyết về “ba đại diện”, theo đó lần đầu tiên đặt vấn đề Đảng Cộng sản Trung Quốc “đại diện cho yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất tiên tiến” thay cho quan điểm đại diện cho “quan hệ sản xuất tiên tiến” trước đây. Từ đó, Đảng Cộng sản Trung Quốc chủ trương mở rộng cơ sở xã hội của Đảng bằng cách kết nạp những phần tử tiên tiến trong các “giai tầng xã hội mới”, trong đó có tầng lớp chủ doanh nghiệp tư nhân vào Đảng. Bởi lẽ, nếu như trước đây tầng lớp này bị quy là “kẻ bóc lột”, nay “thân phận” họ được đổi thành “người xây dựng” sự nghiệp XHCN đặc sắc Trung Quốc.

Như vậy, với việc bỏ từ “có” trong cụm từ “CNXH có đặc sắc Trung Quốc” mà Đặng Tiểu Bình nêu lên trước đây (Đại hội XII) và nêu lên tư tưởng “ba đại diện” (Đại hội XVI), nhận thức về CNXH của tập thể thế hệ lãnh đạo thứ ba do Giang Trạch Dân là đại biểu đã rõ ràng hơn, sâu sắc hơn. Từ đây, lý luận CNXH ở Trung Quốc hoàn toàn mang “tính đặc thù” Trung Quốc.

Với tinh thần “dùng chủ nghĩa Mác phát triển để chỉ đạo thực tiễn mới”, tập thể thế hệ lãnh đạo hiện nay ở Trung Quốc do Hồ Cẩm Đào là Tổng Bí thư đã tiếp tục bổ sung, nêu lên các quan điểm mới như “lấy con người làm gốc” thay cho “lấy dân làm gốc” trước đây, “phát triển khoa học” thay cho “phát triển là đạo lý chung” trước đây và lý luận về xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa.

Đặc biệt, trong báo cáo chính trị đọc tại đại hội XVII ĐCS Trung Quốc (15-10-2007), Tổng Bí thư ĐCS Trung Quốc Hồ Cẩm Đào khi phân tích nguyên nhân căn bản của mọi thành tựu và tiến bộ đạt được trong thời kỳ cải cách mở cửa ở Trung Quốc đã nhấn mạnh, suy cho cùng chính là: “Mở ra con đường XHCN đặc sắc Trung Quốc, hình thành nên hệ thống lý luận XHCN đặc sắc Trung Quốc”.

, báo cáo chỉ rõ: Con đường XHCN đặc sắc Trung Quốc, chính là dưới sự lãnh đạo của ĐCS Trung Quốc, nắm vững tình hình cơ bản của đất nước, lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm, kiên trì nguyên tắc cơ bản, kiên trì cải cách mở cửa, giải phóng và phát triển sức sản xuất, củng cố và hòan thiện chế độ XHCN, xây dựng kinh tế thị trường XHCN, chính trị dân chủ XHCN, văn hóa tiên tiến XHCN, xã hội hài hòa XHCN, xây dựng quốc gia hiện đại hóa XHCN giầu mạnh, dân chủ, văn minh, hài hòa. Báo cáo khẳng định: Con đường XHCN đặc sắc Trung Quốc sở dĩ hoàn toàn đúng đắn, sở dĩ có thể dẫn dắt Trung Quốc phát triển tiến bộ, mấu chốt là ở chỗ Về con đường XHCN đặc sắc Trung Quốc vừa phải kiên trì những nguyên tắc cơ bản của CNXH khoa học, lại vừa phải căn cứ vào thực tế đất nước, đặc trưng thời đại và đặc sắc Trung Quốc rõ rệt. Cuối cùng, báo cáo nhấn mạnh: ở Trung Quốc hiện nay, kiên trì con đường XHCN đặc sắc Trung Quốc, chính là chân chính kiên trì chủ nghĩa xã hội.

, báo cáo chỉ rõ: Hệ thống lý luận XHCN đặc sắc Trung Quốc bao gồm lý luận Đặng Tiểu Bình, tư tưởng quan trọng “ba đại diện” và quan điểm phát triển khoa học. Hệ thống lý luận này, kiên trì và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông…, là thành quả mới nhất của việc Trung Quốc hóa chủ nghĩa Mác, là tài sản chính trị và tinh thần quý báu nhất của Đảng, là nền tảng tư tưởng chung của nhân dân các dân tộc toàn quốc đoàn kết phấn đấu. Tuy nhiên, báo cáo khẳng định: Hệ thống lý luận XHCN đặc sắc Trung Quốc là Về lý luận XHCN đặc sắc Trung Quốc hệ thống lý luận mở không ngừng phát triển. Báo cáo đã rút ra nhận xét khái quát cho rằng: Chủ nghĩa Mác chỉ có kết hợp với tình hình đất nước, tiến bộ cùng với sự phát triển của thời đại, cùng chung vận mệnh với quần chúng nhân dân, thì mới có sức sống, sức sáng tạo, sức cảm chiếu to lớn. Cuối cùng báo cáo khẳng định: ở Trung Quốc hiện nay, kiên trì hệ thống lý luận XHCN đặc sắc Trung Quốc, chính là chân chính kiên định chủ nghĩa Mác.

Như vậy, đến Đại hội XVII (2007) CNXH đặc sắc Trung Quốc đã định hình với “một ngọn cờ” (CNXH đặc sắc Trung Quốc là ngọn cờ phấn đầu đoàn kết nhân dân các dân tộc trong cả nước), “một lý luận” (tức hệ thống lý luận CNXH đặc sắc Trung Quốc) và “một con đường” (tức con đường XHCN đặc sắc Trung Quốc). Đây cũng chính là kết quả của một quá trình 60 năm, trong đó 30 năm tiến hành cải cách mở cửa nhằm tìm tòi giải quyết vấn đề phát triển của Trung Quốc. Điều này một lần nữa được Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào trong bài diễn văn Kỷ niệm 60 năm Quốc Khánh Trung Quốc khẳng định: Chỉ có CNXH mới có thể cứu Trung Quốc, chỉ có cải cách mở cửa mới có thể phát triển Trung Quốc, phát triển CNXH, phát triển chủ nghĩa Mác.

Như đã nêu ở trên, CNXH đặc sắc Trung Quốc là một hệ thống lý luận được nhà lãnh đạo Đặng Tiểu Bình nêu lên, sau đó tiếp tục bổ sung và hoàn thiện trong quá trình cải cách mở cửa. Cho đến nay, hệ thống lý luận đó đã bước đầu được định hình với bốn trụ cột chính là kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội. Đại hội XVII ĐCS Trung Quốc đặt vấn đề: Nhằm thích ứng với những biến đổi mới của tình hình trong nước và quốc tế, đáp ứng kỳ vọng mới có được cuộc sống tốt đẹp hơn của nhân dân các dân tộc, ĐCS Trung Quốc phải nắm vững xu thế và quy luật phát triển kinh tế xã hội, kiên trì mục tiêu cơ bản xây dựng kinh tế, chính trị, văn hóa XHCN đặc sắc Trung Quốc.

Có thể nói, cải cách mở cửa ở Trung Quốc từ khi bắt đầu đã đi theo hướng kinh tế thị trường. Tuy nhiên, mãi đến Đại hội XIV (1992) Đảng Cộng sản Trung Quốc mới chính thức nêu lên mục tiêu xây dựng thể chế kinh tế thị trường được hoàn thiện qua các quyết định của Hội nghị Trung ương 3 khóa XIV (11/1993) và Hội nghị Trung ương 3 khóa XVI (10/2003) của Đảng Cộng sản Trung Quốc; theo đó, nội dung chủ yếu bao gồm: Phát huy vai trò mang tính cơ sở của thị trường trong việc sắp xếp các nguồn lực, tăng cường sức sống và sức cạnh tranh của doanh nghiệp, kiên trì thể chế điều tiết vĩ mô, hoàn thiện chức năng quản lý và dịch vụ công của chính phủ, tạo ra sự bảo đảm về mặt thể chế cho việc xây dựng toàn diện xã hội khá giả v.v…

Đại hội XVII ĐCS Trung Quốc (2007) đặt vấn đề: Phải nhận thức sâu sắc hơn quy luật kinh tế thị trường XHCN, từ mặt chế độ phát huy tốt hơn vai trò mang tính cơ sở của thị trường trong việc sắp xếp các nguồn lực, từ đó hình thành nên hệ thống điều tiết vĩ mô có lợi cho phát triển một cách khoa học, nhằm thực hiện mục tiêu thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển “vừa tốt, vừa nhanh”. Đại hội đã đề ra 8 giải pháp, bao gồm: Một là, nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo, xây dựng nhà nước kiểu mới. Đây được xem là hạt nhân của chiến lược phát triển quốc gia, là mấu chốt của việc nâng cao sức mạnh tổng hợp. Hai là, nhanh chóng chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế, thúc đẩy ưu hóa và nâng cấp kết cấu ngành nghề. Đây được xem là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách có quan hệ đến toàn cục của nền kinh tế quốc dân. Ba là, quy hoạch thống nhất phát triển thành thị và nông thôn, thúc đẩy xây dựng nông thôn mới XHCN. Bốn là, tăng cường tiết kiệm năng lượng và tài nguyên, bảo vệ môi trường sinh thái, tăng cường năng lực phát triển bền vững. Năm là, thúc đẩy phát triển hài hòa các vùng miền, ưu hóa bố cục khai phát đất đai. Sáu là, hoàn thiện chế độ kinh tế cơ bản, kiện toàn hệ thống thị trường hiện đại. Bảy là, đi sâu cải cách thể chế tài chính, thuế, tiền tệ, hoàn thiện hệ thống điều tiết vĩ mô. Tám là, mở rộng độ rộng và độ sâu của mở đối ngoại, nâng cao trình độ kinh tế mở.

Những giải pháp trên sẽ tăng cường thực lực kinh tế, tạo động lực để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, qua đó góp phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế vừa tốt vừa nhanh.

Ngay từ khi bắt đầu tiến hành cải cách mở cửa, vào năm 1979 Đặng Tiểu Bình đã nêu lên luận điểm quan trọng: Không có dân chủ thì sẽ không có CNXH, không có hiện đại hóa XHCN. Đại hội XVIII ĐCS Trung Quốc (1987) chính thức nêu lên phương hướng cải cách thể chế chính trị ở Trung Quốc là “xây dựng nền chính trị dân chủ XHCN có đặc sắc Trung Quốc”. Sau sự kiện Thiên An Môn mùa hè năm 1989, Đại hội XIV ĐCS Trung Quốc (1992) nhấn mạnh: “Cải cách thể chế chính trị, mục tiêu là xây dựng nền dân chủ XHCN có đặc sắc Trung Quốc, quyết không phải là thực hiện chế độ đa đảng và chế độ nghị viện của phương Tây”. Đại hội XV ĐCS Trung Quốc (1997) nêu lên: “Tiếp tục thúc đẩy cải cách thể chế chính trị, mở rộng hơn nữa dân chủ XHCN, kiện toàn pháp chế XHCN, dựa vào luật mà trị nước, xây dựng nhà nước pháp trị XHCN”. Đại hội XVI ĐCS Trung Quốc (2002) đã đặt vấn đề tách rời, phân biệt “xây dựng chính trị” với “cải cách thể chế chính trị”, theo đó phạm vi của xây dựng chính trị rộng hơn, bao quát hơn. Đại hội nhấn mạnh sự thống nhất hữu cơ của mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân trong xây dựng nền chính trị dân chủ, theo đó: Sự lãnh đạo của Đảng là bảo đảm căn bản cho việc làm chủ của nhân dân và quản lý đất nước bằng pháp luật; nhân dân làm chủ là yêu cầu cơ bản nhất của nền chính trị dân chủ XHCN; còn quản lý đất nước bằng pháp luật là “phương lược cơ bản” Đảng lãnh đạo nhân dân giải quyết các công việc của đất nước.

Đại hội XVII ĐCS Trung Quốc (2007), trước những biến đổi mới của tình hình quốc tế, Trung Quốc và bản thân ĐCS Trung Quốc, báo cáo chính trị đại hội khẳng định sẽ kiên định không thay đổi phát triển nền chính trị dân chủ XHCN, trong đó nhấn mạnh hai mục tiêu: một là, cải cách thể chế chính trị phải không ngừng nâng cao để thích ứng với sự phát triển kinh tế xã hội và tích cực tham gia chính trị của nhân dân. Hai là, kiên trì sự thống nhất hữu cơ giữa sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân làm chủ và quản lý đất nước theo pháp luật, kiên trì và hoàn thiện chế độ Đại hội đại biểu nhân dân, chế độ hiệp thương chính trị và hợp tác nhiều đảng dưới sự lãnh đạo của ĐCS Trung Quốc, chế độ tự trị ở khu vực dân tộc và chế độ tự quản của quần chúng ở cơ sở, từ đó không ngừng thúc đẩy việc tự hoàn thiện, tự phát triển của chế độ chính trị XHCN.

Từ hai mục tiêu trên, báo cáo nêu lên 6 giải pháp, bao gồm: Một là, mở rộng dân chủ nhân dân, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; hai là, phát triển dân chủ ở cơ sở, bảo đảm cho nhân dân được hưởng quyền dân chủ cao hơn, thiết thực hơn; ba là, thực hiện toàn diện phương châm chiến lược quản lý đất nước theo pháp luật, nhanh chóng xây dựng nhà nước pháp trị XHCN; bốn là, làm lớn mạnh mặt trận thống nhất yêu nước, đoàn kết tất cả mọi lực lượng để có thể đoàn kết; năm là, đẩy nhanh cải cách thể chế quản lý hành chính, xây dựng chính phủ phục vụ; sáu là, hoàn thiện cơ chế ràng buộc và giám sát quyền lực, bảo đảm quyền lực mà nhân dân trao cho được sử dụng để mưu cầu lợi ích của nhân dân.

Cuối cùng, báo cáo chính trị rút ra nhận xét cho rằng: CNXH càng phát triển; dân chủ cũng sẽ phát triển; ĐCS và nhân dân Trung Quốc nhất định sẽ phát triển nền chính trị dân chủ XHCN có sức sống mạnh mẽ.

Như vậy, trong lĩnh vực chính trị, các nhà lãnh đạo Trung Quốc từ Đặng Tiểu Bình trước đây đến Hồ Cẩm Đào hiện nay đều thống nhất với nhau về mục tiêu là xây dựng, phát triển nền chính trị dân chủ XHCN. Tuy nhiên, về mặt nội dung và giải pháp, tùy tình hình cụ thể – mỗi nhà lãnh đạo có những cách đặt vấn đề khác nhau, nhưng xu hướng chung là mở rộng dân chủ và tăng cường ý thức pháp trị.

Xây dựng văn hóa là một nội dung của lý luận về xây dựng văn minh tinh thần XHCN. Lý luận này được Đặng Tiểu Bình nêu lên, sau đó được khẳng định tại Đại hội XII ĐCS Trung Quốc (1982) và được đánh giá là “một đặc trưng cơ bản của CNXH, là một đột phá về nhận thức đối với CNXH”.

Về mặt văn hóa, vào tháng 7-1991, Giang Trạch Dân trong một bài phát biểu đã nêu lên phương hướng cho rằng: Phát huy và phát triển văn hóa XHCN, kế thừa phát huy văn hóa truyền thống của dân tộc, đồng thời thể hiện tinh thần thời đại của CNXH, tiếp thu đầy đủ thành quả ưu tú của văn hóa nhân loại, Đại hội XV ĐCS Trung Quốc (1997) nhấn mạnh: Coi việc bồi dưỡng công dân có lý tưởng, có văn hóa, có đạo đức, có kỷ luật là mục tiêu; phát triển nguồn lực văn hóa XHCN dân tộc – khoa học – đại chúng hướng tới hiện đại hóa, hướng ra thế giới và hướng tới tương lai. Đại hội XVI ĐCS Trung Quốc (2002) đã nêu lên phương hướng xây dựng nền văn hóa tiên tiến bao gồm: Phát huy và bồi dưỡng tinh thần dân tộc, tăng cường xây dựng đạo đức tư tưởng, phát triển giáo dục và khoa học, phát triển văn hóa và sản phẩm văn hóa, đi sâu cải cách thể chế văn hóa… Trên cơ sở đó, vừa qua, Chính phủ Trung Quốc đã xây dựng bản Quy hoạch quốc gia về phát triển văn hóa thời kỳ đến năm 2010, trong đó nhấn mạnh một số quan điểm cho rằng: văn hóa vừa tạo ra động lực tinh thần to lớn cho sự phát triển toàn diện, hài hòa kinh tế xã hội; đồng thời cũng là nội dung quan trọng của sự phát triển kinh tế xã hội.

Đại hội XVII ĐCS Trung Quốc (10 – 2007) đã nêu lên một nhận định quan trọng khi cho rằng; “Trong thời đại này nay, văn hóa ngày càng trở thành nhân tố quan trọng của cạnh tranh quốc lực tổng hợp”. Đặc biệt, lần đầu tiên mệnh đề “nâng cao sức mạnh mềm văn hóa quốc gia” được đưa vào một văn kiện chính thức của Đảng.

Dưới tiêu đề “Thúc đẩy văn hóa XHCN đại phát triển, đại phồn vinh”, báo cáo chính trị nêu lên 4 giải pháp, cụ thểnhư sau: Một là, xây dựng hệ thống giá trị hạt nhân XHCN, tăng cường sức hấp dẫn và sức ngưng tụ của ý thức hệ XHCN. Hai là, xây dựng văn hóa hài hòa, coi đây là chỗ dựa tinh thần quan trọng của đoàn kết và tiến bộ của toàn thể nhân dân; bồi dưỡng bầu không khí văn minh. Ba là, đề cao văn hóa Trung Hoa, xây dựng công viên tinh thần của dân tộc Trung Hoa. Bốn là, thúc đẩy sáng tạo văn hóa, tăng cường sức sống cho sự phát triển của văn hóa.

Những giải pháp nêu trên sẽ phát huy vai trò chủ thể của nhân dân trong xây dựng văn hóa, phát huy tích cực của những người làm công tác văn hóa, từ đó thúc đẩy một cách tự giác, chủ động làm cho văn hóa phát triển và phồn vinh, thực hiện sáng tạo văn hóa trong thực tiễn CNXH đặc sắc Trung Quốc.

Nhận thức có tính bước ngoặt về mặt xã hội của các nhà lãnh đạo Trung Quốc là chuyển từ một xã hội “lấy đấu tranh giai cấp là chính” sang xây dựng “xã hội hài hòa XHCN”. Hội nghị Trung ương 4 khóa XVI ĐCS Trung Quốc (2006) đã ra nghị quyết chuyên đề về xây dựng xã hội hài hòa XHCN, trong đó nhấn mạnh: “Xã hội hài hòa là thuộc tính bản chất của CNXH đặc sắc Trung Quốc, là bảo đảm quan trọng của quốc gia giầu mạnh, dân tộc chấn hưng, nhân dân hạnh phúc”. Xã hội hài hòa XHCN mà Trung Quốc xây dựng bao gồm 4 thuộc tính và 6 đặc trưng; 4 thuộc tính là: Công bằng trong thu nhập các nguồn lực, hợp lý trong kết cấu xã hội, quy phạm trong hành vi xã hội, hiệu quả trong hài hòa các lợi ích; còn 6 đặc trưng là: Dân chủ pháp trị, công bằng chính nghĩa, hữu ái thành tín, tràn đầy sức sống, ổn định có trật tự, hài hòa giữa con người với tự nhiên.

Đại hội XVII ĐCS Trung Quốc tiếp tục khẳng định và nêu lên mục tiêu: Trên cơ sở phát triển kinh tế, cần chú trọng hơn xây dựng xã hội, tập trong cho đảm bảo và cải thiện dân sinh, thúc đẩy cải cách, thể chế xã hội, mở rộng dịch vụ công, hoàn thiện quản lý xã hội, thúc đẩy xã hội công bằng chính nghĩa; phấn đấu làm cho toàn thể nhân dân đi học có trường lớp, lao động có nơi làm việc, ốm đau có nơi chữa trị, già có nơi dưỡng lão, có chỗ ở, thúc đẩy xây dựng xã hội hài hòa.

Nhằm thực hiện mục tiêu nêu trên, đại hội nêu lên 6 giải pháp, bao gồm: Một là, ưu tiên phát triển giáo dục, xây dựng cường quốcnguồn nhân lực; hai là, thực thi rộng rãi chiến lược phát triển việc làm, thúc đẩy lấy sản nghiệp lôi kéo làm việc làm; ba là, đi sâu cải cách thể chế phân phối, tăng thu nhập cho nhân dân thành thị và nông thôn; bốn là, nhanh chóng xây dựng hệ thống an sinh xã hội phủ khắp cư dân thành thị và nông thôn; năm là, xây dựng chế độ y tế chữa bệnh một cách cơ bản, nâng cao trình độ sức khỏe của nhân dân; sáu là, hoàn thiện thể chế quản lý xã hội, duy trì xã hội ổn định đoàn kết.

Như vậy, với việc nêu lên nội dung xây dựng xã hội hài hòa XHCN, hệ thống lý luận về CNXH đặc sắc Trung Quốc đã hoàn thiện hơn, bao gồm 4 bộ phận cấu thành chủ yếu là kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội. Theo ông Ngô Bang Quốc, hiện là Chủ tịch Quốc hội Trung Quốc: việc nêu lên xây dựng xã hội hài hòa XHCN “đánh dấu nhận thức của ĐCS Trung Quốc về bản chất của CNXH đã sâu sắc hơn”.

Qua tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của lý luận về CNXH đặc sắc Trung Quốc, chúng tôi sơ bộ rút ra một số nhận xét như sau:

Ở đây có 3 vấn đề: một là, chủ nghĩa Mác; hai là, thực tế Trung Quốc và ba là, sự kết hợp. Theo chúng tôi, sự thành công hay thất bại của ĐCS Trung Quốc trong 3 thời kỳ lớn; lãnh đạo giành chính quyền, xây dựng CNXH theo mô hình kinh tế kế hoạch truyền thống và cải cách mở cửa; thậm chí cả những cuộc đấu tranh quyết liệt trong nội bộ Đảng đều có nguyên nhân từ việc nhận thức và xử lý 3 vấn đề nêu trên.

Nếu nhận thức và xử lý đúng thì thành công; ngược lại, nếu nhận thức và xử lý sai thì thất bại, thậm chí bị trả giá đắt. Điều này cho thấy, sự “kết hợp” giữa chủ nghĩa Mác với thực tế cụ thể của một đất nước là không dễ dàng, thậm chí là rất khó. Nó đòi hỏi một Đảng và lãnh tụ tối cao của Đảng vừa phải có bản lĩnh chính trị vững vàng vừa phải rất giỏi về “kết hợp”. Bởi vì, thực tiễn cuộc sống luôn thay đổi. Báo cáo Chính trị Đại hội XVI ĐCS Trung Quốc (2002) đã nêu lên một quan điểm rất đáng chú ý khi đưa ra “ba điều giải phóng” cho rằng: “Tự giác đem tư tưởng giải phóng khỏi những trói buộc của những quan niệm, cách làm và thể chế không còn thích hợp, giải phóng khỏi những lý giải sai lầm và giáo điều đối với chủ nghĩa Mác, giải phóng khỏi những xiềng xích của chủ nghĩa chủ quan và siêu hình”. Theo tôi, đây là một sự đúc kết kinh nghiệm lịch sử mấy chục năm lãnh đạo giành chính quyền và cầm quyền của ĐCS Trung Quốc; đồng thời cũng là bài học được rút ra từ việc nghiên cứu sự thất bại trong cầm quyền của một số Đảng Cộng sản trên thế giới.

Có thể nói rằng, CNXH đặc sắc Trung Quốc vẫn đang trong quá trình hình thành và phát triển. Bản thân Tổng Bí thư Hồ Cẩm Đào cũng cho rằng cần phải “tiếp tục đi sâu tìm hiểu và nghiên cứu”. Tôi cho rằng, đến thời điểm hiện nay, CNXH đặc sắc Trung Quốc tuy có một số quan điểm mang tính đặc thù như lý luận về “một quốc gia hai chế độ”…, nhưng vẫn có những điểm mang tính phổ biến, nhất là đối với các ĐCS cầm quyền ở các nước đang trong quá trình chuyển đổi. Những giá trị phổ biến đó là: Về kinh tế, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế; về chính trị, thực hành dân chủ và pháp trị (pháp quyền); về văn hóa, xây dựng văn hóa tiên tiến, theo đó vừa chú ý bảo tồn phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, vừa coi trọng tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; về xã hội, xây dựng xã hội hài hòa, trong đó giải quyết vấn đề công bằng xã hội là hạt nhân.

Về nhận thức , từ việc tham khảo xây dựng CNXH đặc sắc Trung Quốc, chúng ta có thể nêu lên mệnh đề “xây dựng CNXH mang bản sắc Việt “. Đây chính là sự kết hợp một cách sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác với thực tiễn và điều kiện lịch sử cụ thể của Việt .

Về mặt giải pháp , từ việc tham khảo 4 nộidung chủ yếu của CNXH đặc sắc Trung Quốc, chúng ta có thể xây dựng mô hình CNXH của Việt Nam, bao gồm: kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, văn hóa tiên tiến. Riêng về mặt xã hội, chúng ta có thể đặt vấn đề xây dựng xã hội dân chủ, đoàn kết, đồng thuận, hài hòa.

i, CNXH đặc sắc Trung Quốc là kết quả của việc nhận thức lại chủ nghĩa Mác và sự vận dụng nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác với hoàn cảnh thực tế cụ thể của Trung Quốc. Quá trình vận dụng hay kết hợp đó còn được gọi là Trung Quốc hóa chủ nghĩa Mác. Giờ đây đứng trước những biến đổi mới của tình hình thế giới, tình hình đất nước và bản thân Đảng, Hội nghị Trung ương 4 khóa XVII ĐCS Trung Quốc đã rút ra nhận xét cho rằng: Chủ nghĩa Mác chỉ có kết hợp với tình hình thực tiễn đất nước, tiến bộ cùng với thời đại, gắn bó với vận mệnh nhân dân, thì mới có sức sống, sức sáng tạo và sức cảm chiếu to lớn. Từ đó, Văn kiện hội nghị này đã bổ sung và nhấn mạnh: Chủ nghĩa Mác không chỉ Trung Quốc hóa, mà phải còn thời đại hóa và đại chúng hóa.

Là một nước đang trong quá trình chuyển đổi có nhiều điểm tương đồng với Trung Quốc, những kinh nghiệm của Trung Quốc trong quá trình tìm tòi, xây dựng CNXH đặc sắc Trung Quốc cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn đều có giá trị tham khảo nhất định đối với Việt Nam.

Đôi Điều Về ‘Chủ Nghĩa Xã Hội Đặc Sắc Trung Quốc Thời Đại Mới’

Về phương pháp luận, Trung Quốc luôn quán triệt quan điểm “kết hợp chân lý phổ biến của chủ nghĩa Marx với thực tế cụ thể của Trung Quốc, xây dựng CNXH đặc sắc Trung Quốc”; xây dựng CNXH phải dựa vào bối cảnh cụ thể của dân tộc và thời đại.

Hai là, tư tưởng của các nhà lãnh đạo tiền bối của Đảng Cộng sản Trung Quốc, tiêu biểu như: “tư tưởng Mao Trạch Đông”, “lý luận Đặng Tiểu Bình”, “tư tưởng quan trọng “ba đại diện” và “quan điểm phát triển khoa học”

Tư tưởng Mao Trạch Đông được Đảng Cộng sản Trung Quốc quan niệm là: “sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Marx – Lenin ở Trung Quốc, là nguyên tắc lý luận và sự tổng kết kinh nghiệm đúng đắn về công cuộc cách mạng và xây dựng của Trung Quốc đã được thực tiễn chứng minh, là sự kết tinh trí tuệ tập thể của Đảng Cộng sản Trung Quốc”(3).

Lý luận Đặng Tiểu Bình: “là sản phẩm của sự kết hợp các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Marx – Lenin với thực tiễn ngày nay của Trung Quốc và những đặc trưng của thời đại, là sự kế thừa và phát triển của tư tưởng Mao Trạch Đông trong điều kiện lịch sử mới, là giai đoạn phát triển mới của chủ nghĩa Marx ở Trung Quốc, là chủ nghĩa Marx của Trung Quốc ngày nay, là sự kết tinh trí tuệ của tập thể Đảng Cộng sản Trung Quốc, dẫn dắt sự nghiệp hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc không ngừng tiến lên”(4).

Tư tưởng quan trọng “Ba đại diện”: “là sự kế thừa và phát triển chủ nghĩa Marx – Lenin, tư tưởng Mao Trạch Đông, lý luận Đặng Tiểu Bình, phản ánh yêu cầu mới của sự phát triển thay đổi của thế giới và Trung Quốc hiện nay đối với công tác của Đảng và Nhà nước, là vũ khí lý luận mạnh mẽ nhằm tăng cường cải tiến công tác xây dựng Đảng, thúc đẩy quá trình tự hoàn thiện và phát triển chủ nghĩa xã hội Trung Quốc, là sự kết tinh trí tuệ tập thể của Đảng Cộng sản Trung Quốc, là tư tưởng chỉ đạo mà Đảng phải kiên trì lâu dài. “Ba đại diện” là nguồn gốc lập Đảng, là nền tảng cầm quyền, là ngọn nguồn sức mạnh của Đảng”(5).

Quan điểm phát triển khoa học: “là lý luận khoa học chung một dòng với chủ nghĩa Marx – Lenin, tư tưởng Mao Trạch Đông, lý luận Đặng Tiểu Bình và tư tưởng quan trọng “Ba đại diện”, vừa tiến cùng thời đại, là sự thể hiện tập trung của thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Marx về phát triển, là thành quả mới nhất của Trung Quốc hóa chủ nghĩa Marx, là kết tinh trí tuệ tập thể của Đảng Cộng sản Trung Quốc, là tư tưởng chỉ đạo cần phải kiên trì và quán triệt trong phát triển chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc”(6).

Văn kiện Đại hội XIX, Đảng Cộng sản Trung Quốc khẳng định: “Tư tưởng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới là sự kế thừa và phát triển chủ nghĩa Marx – Lenin, tư tưởng Mao Trạch Đông, lý luận Đặng Tiểu Bình, tư tưởng quan trọng “ba đại diện” và quan điểm phát triển khoa học, là thành quả mới nhất của việc Trung Quốc hóa chủ nghĩa Marx; là kết tinh của kinh nghiệm thực tiễn và trí tuệ tập thể của Đảng và nhân dân, là bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống lý luận chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, là kim chỉ nam hành động để toàn Đảng, toàn dân phấn đấu thực hiện công cuộc phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa”(7).

– Cơ sở thực tiễn

Một là, bối cảnh thời đại: sự sụp đổ của CNXH hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu vào thập kỷ cuối của thế kỷ XX đặt ra yêu cầu phải nhận thức lại toàn diện, sâu sắc hơn lý luận của chủ nghĩa Marx – Lenin về mô hình và con đường đi lên CNXH phù hợp với đặc điểm cụ thể của mỗi quốc gia, dân tộc và thời đại. Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự khủng hoảng, sụp đổ của các nước trên đó là tư tưởng giáo điều, chủ quan, nóng vội, phủ nhận các quy luật phát triển khách quan… Mặc dù sự kiện này đã qua gần 30 năm, nhưng những bài học kinh nghiệm lịch sử của nó vẫn còn nguyên giá trị.

Hiện nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0 bên cạnh những tác động tích cực, cũng tạo ra những thách thức không nhỏ trong phát triển kinh tế – xã hội Trung Quốc. Trung Quốc là một quốc gia với hơn một tỷ người, trong nhiều năm qua, nền kinh tế Trung Quốc chủ yếu dựa trên tiềm lực nguồn lao động đông, giá rẻ, khai thác tài nguyên thiên nhiên. Bước vào kỷ nguyên công nghệ mới, mô hình phát triển trước đây không còn phù hợp, đây là nguyên nhân khách quan dẫn đến đòi hỏi phải có hệ thống lý luận mới dẫn đường.

Hai là, bối cảnh cụ thể Trung Quốc: Những thành tựu phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, khoa học công nghệ của Trung Quốc sau gần 40 năm thực hiện cải cách, mở cửa và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XVIII đã tạo ra tiền đề mới cho xây dựng CNXH đặc sắc Trung Quốc:

Kinh tế tăng trưởng cao, GDP tăng từ 54 nghìn tỷ nhân dân tệ (2012) lên 80 nghìn tỷ nhân dân tệ (tương đương 2 nghìn tỷ USD) năm 2017, đứng vị trí thứ hai thế giới, đóng góp trên 30% cho tăng trưởng GDP toàn cầu.

Trong cải cách chính trị, qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XVIII, với dũng khí chính trị to lớn, Đảng Cộng sản Trung Quốc khẳng định: “đã đề ra một loạt các quan điểm mới, tư tưởng mới, chiến lược mới; ban hành một loạt những phương châm, chính sách lớn, giải quyết được nhiều vấn đề nan giải lâu nay muốn giải quyết nhưng chưa giải quyết được; làm được nhiều việc lớn lâu nay muốn làm nhưng chưa làm được”(8).

Trong quan hệ quốc tế, vị thế của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Nhà nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế: Trung Quốc đã có nhiều sáng kiến, chính sách nổi bật như: sáng kiến xây dựng “Vành đai và con đường”; khởi xướng thành lập Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á; xây dựng Quỹ con đường tơ lụa; đăng cai tổ chức Diễn đàn cấp cao hợp tác quốc tế “Vành đai và con đường” lần thứ nhất (5/2017), Tổ chức Hội nghị thượng đỉnh G20 tại Hàng Châu (9/2016), Hội nghị thượng đỉnh nhóm BRICS tại Hạ Môn (9/2017)…

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, Trung Quốc cũng đang đứng trước không ít những khó khăn, thách thức như: phát triển không cân bằng, không đầy đủ; chất lượng, hiệu quả phát triển chưa cao; năng lực sáng tạo chưa đủ mạnh; trình độ phát triển của nền kinh tế thấp; lĩnh vực dân sinh còn nhiều hạn chế; chênh lệch về trình độ phát triển và mức sống giữa các dân tộc, vùng miền còn cao…

Xét về mặt thời gian, thời đại mới mà Trung Quốc nhắc đến ở đây chính là thế kỷ XXI. Thế kỷ mà Trung Quốc đặt ra những mục tiêu vĩ đại, như hoàn thành mục tiêu xây dựng xã hội khá giả toàn diện (vào năm 2021), phấn đấu đưa Trung Quốc trở thành cường quốc XHCN phát triển, giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hài hòa, tươi đẹp vào giữa thế kỷ XXI.

Xét về chất lượng và trình độ phát triển: Các điều kiện về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của Trung Quốc đã có sự phát triển vượt bậc; những nhu cầu cơ bản trong cuộc sống người dân đã được đảm bảo. Trung Quốc đã qua thời kỳ “đứng lên”- thời kỳ mà thế hệ lãnh đạo thứ nhất đã làm được; Trung Quốc đã qua kỳ “giàu lên”- thời mà các thế hệ lãnh đạo thứ hai, ba, tư đã thực hiện được trong giai đoạn cải cách, mở cửa đến nay. Và hiện tại, Trung Quốc đang ở thời kỳ “mạnh lên”- tức là từ thế hệ lãnh đạo thứ năm: “Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc bước vào thời đại mới có nghĩa là dân tộc Trung Hoa sau khi trải qua muôn vàn khó khăn đã trải qua những bước tiến lớn từ đứng lên, giàu mạnh lên, chào đón viễn cảnh tươi sáng thực hiện phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa”(10).

Hai là, về xác định nhiệm vụ, bố cục tổng thể, mâu thuẫn chủ yếu của chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới

Nhiệm vụ tổng thể: Đảng Cộng sản Trung Quốc cho rằng nhiệm vụ tổng thể của CNXH đặc sắc Trung Quốc thời đại mới là: thực hiện hiện đại hóa CNXH và phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa (gồm hai bước, bước 1: xây dựng xã hội khá giả toàn diện; bước hai, thành cường quốc XHCN hiện đại, giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hài hòa, tươi đẹp).

Bố cục tổng thểcủa CNXH đặc sắc Trung Quốc hiện nay là “năm trong một” (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường); bố cục chiến lược là “bốn toàn diện” (xây dựng xã hội khá giả toàn diện, đi sâu cải cách toàn diện, quản lý đất nước theo pháp luật toàn diện và quản lý Đảng nghiêm minh toàn diện); bố cục tư tưởng là “bốn tự tin” (tự tin về đường lối, tự tin về lý luận, tự tin về chế độ, tự tin về văn hóa).

Ba là, tư tưởng và phương châm chiến lược của chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới

Ngày 30/3/1979, tại Hội nghị nghiên cứu công tác lý luận của Đảng, Đặng Tiểu Bình lần đầu tiên đưa ra khái quát “bốn nguyên tắc cơ bản”, đó là: “kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa; kiên trì chuyên chính vô sản; kiên trì sự lãnh đạo của Đảng cộng sản; kiên trì chủ nghĩa Marx và tư tưởng Mao Trạch Đông”(14). Những nguyên tắc này được các thế hệ lãnh đạo tiếp sau quán triệt một cách triệt để.

Đến Đại hội XIX, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã phát triển thành 14 kiên trì là: “Kiên trì sự lãnh đạo của Đảng trong mọi mặt công tác; kiên trì lấy nhân dân làm trung tâm; kiên trì đi sâu cải cách toàn diện; kiên trì quan điểm phát triển mới; kiên trì nhân dân làm chủ; kiên trì quản lý xã hội theo pháp luật toàn diện; kiên trì hệ thống giá trị cốt lõi xã hội chủ nghĩa; kiên trì bảo đảm và cải thiện dân sinh trong phát triển; kiên trì sinh sống hài hòa giữa con người với thiên nhiên; kiên trì quan niệm tổng thể về an ninh quốc gia; kiên trì sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng với quân đội nhân dân; kiên trì thực hiện “một đất nước hai chế độ”, thúc đẩy thống nhất đất nước; kiên trì thúc đẩy cộng đồng chung vận mệnh nhân loại và kiên trì quản lý Đảng nghiêm minh toàn diện”(15). Đây được coi là tư tưởng và phương châm chỉ đạo chiến lược trong xây dựng CNXH đặc sắc Trung Quốc thời đại mới.

Bốn là, những quan điểm, giải pháp nhằm hiện thực hóa tư tưởng “chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới” trên các lĩnh vực chủ yếu

Trong kinh tế: quan điểm chỉ đạo cơ bản là coi phát triển kinh tế là nhiệm trung tâm, kiên trì giải phóng sức sản xuất và cải cách kinh tế thị trường XHCN. Chủ trương chuyển từ “tăng trưởng cao” sang tăng trưởng “chất lượng cao”. Trong đó tập trung vào chuyển đổi phương thức phát triển, tối ưu hóa kết cấu nền kinh tế, chuyển đổi động lực tăng trưởng.

Về các giải pháp chủ yếu: xây dựng kết cấu kinh tế theo hướng trọng cung, đưa Trung Quốc thành cường quốc chế tạo, đẩy nhanh phát triển ngành chế tạo tiên tiến, đẩy mạnh phát triển kinh tế kỹ thuật số, trí tuệ nhân tạo gắn với môi trường xanh, carbon thấp, kinh tế chia sẻ, chuỗi cung ứng hiện đại…; thực thi chiến lược chấn hưng nông thôn; cân bằng phát triển giữa các vùng miền; hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN…

Trong xây dựng hệ thống chính trị: bản chất của chế độ chính trị XHCN đặc sắc Trung Quốc là nền chuyên chính dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy liên minh công – nông làm nền tảng, mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân.

Trung Quốc cho rằng, trên thế giới không có mô hình chế độ chính trị hoàn toàn giống nhau, không thể đánh giá một cách trừu tượng chế độ chính trị nếu tách khỏi điều kiện chính trị, xã hội và truyền thống lịch sử, văn hóa riêng của nước đó. Do vậy, cũng không thể sùng bái, áp dụng rập khuôn máy móc một chế độ chính trị nào ở bên ngoài. Thể chế chính trị CNXH đặc sắc Trung Quốc là “kết quả tất yếu của logic lịch sử, logic lý luận, logic thực tiễn của quá trình phấn đấu lâu dài của Đảng và nhân dân Trung Quốc”(16).

Về các giải pháp hoàn thiện hệ thống chính trị: thực hiện nhất quán phương thức vận hành của hệ thống chính trị theo nguyên tắc “Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ và quản lý đất nước theo pháp luật”; tăng cường bảo đảm thể chế để nhân dân làm chủ; phát huy vai trò quan trọng của hiệp thương dân chủ XHCN theo phương châm “có việc gì thì cùng bàn bạc, việc của nhiều người thì do nhiều người cùng bàn bạc”; làm sâu sắc thực tiễn quản lý đất nước theo pháp luật, cần kiên trì thực hiện nghiêm pháp trị, thúc đẩy “lập pháp khoa học, chấp pháp nghiêm minh, tư pháp công minh, toàn dân tuân thủ pháp luật”; đi sâu cải cách bộ máy hành chính; quản lý Đảng nghiêm minh toàn diện.

Về xây dựng văn minh tinh thần xã hội chủ nghĩa: Đảng Cộng sảnTrung Quốc cho rằng: “Văn hóa là linh hồn của một quốc gia, dân tộc. Văn hóa hưng thịnh thì đất nước hưng thịnh, văn hóa mạnh thì dân tộc sẽ mạnh. Không có sự tự tin vào văn hóa thì văn hóa không phồn vinh, thịnh vượng và càng không có công cuộc phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa”(17).

Các giải pháp xây dựng nền văn hóa XHCN ở Trung Quốc: nắm vững quyền lãnh đạo của Đảng với công tác ý thức hệ; phương châm thực hiện: Trung Quốc hóa, thời đại hóa, quần chúng hóa chủ nghĩa Marx; xây dựng ý thức hệ XHCN có sức hội tụ và sức dẫn dắt lớn mạnh, để toàn dân đoàn kết chặt chẽ về niềm tin, lý tưởng, quan điểm giá trị, quan điểm đạo đức; bồi dưỡng và thực hiện giá trị quan cốt lõi XHCN; tăng cường xây dựng đạo đức tư tưởng, theo phương châm “nhân dân có niềm tin, đất nước mới có sức mạnh, dân tộc mới có hy vọng”, do đó cần nâng cao giác ngộ tư tưởng, trình độ đạo đức, tố chất văn minh của nhân dân. Triển khai sâu rộng giáo dục niềm tin, lý tưởng về CNXH đặc sắc Trung Quốc, giấc mộng Trung Hoa, tôn vinh tinh thần thời đại, tinh thần dân tộc; đẩy mạnh phát triển các lĩnh vực văn hóa nghệ thuật XHCN; thúc đẩy sự nghiệp văn hóa và ngành công nghiệp văn hóa.

Về xã hội: quan điểm của Đảng Cộng sản Trung Quốc: “chăm lo cho con người là hòn đá thử vàng để kiểm nghiệm tính chất của một chính đảng hay một chính quyền”(18), Trung Quốc luôn đặt lợi ích của nhân dân lên vị trí cao nhất, đem thành quả của cải cách và phát triển đến mọi tầng lớp nhân dân; không ngừng thúc đẩy công bằng, chính nghĩa trong xã hội…

Về vấn đề môi trường:quan điểm cơ bản là: con người phải tôn trọng thiên nhiên, thuận theo thiên nhiên, bảo vệ thiên nhiên; phương châm thực hiện là ưu tiên tiết kiệm tài nguyên, gắn khai thác với khôi phục thiên nhiên; hình thành bố cục không gian, kết cấu ngành nghề, phương thức sản xuất, phương thức sinh sống tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường.

Đại hội XIX đề xuất một số giải pháp cụ thể như: thúc đẩy phát triển xanh; tập trung giải quyết các vấn đề nổi cộm về môi trường (ô nhiễm không khí, ô nhiễm đất, ô nhiễm nước, xử lý chất thải rắn…); tăng cường bảo vệ hệ thống sinh thái; cải cách thể chế quản lý giám sát môi trường sinh thái.

Đây chính là các quan điểm, giải pháp nhằm hiện thực hóa bố cục tổng thể “5 trong 1” của CNXH đặc sắc Trung Quốc thời đại mới.

3. Nhận xét bước đầu về lý luận chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới

Một là, về ý nghĩa chính trị: CNXH đặc sắc Trung Quốc thời đại mới thể hiện tư duy, vị thế chính trị của một thế hệ lãnh đạo mới đứng đầu là Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình đối với lịch sử, nhân dân Trung Quốc và thế giới hiện nay. Không phải ngẫu nhiên, mỗi thế hệ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc đều đưa ra một “tuyên ngôn” hay “cương lĩnh hành động” riêng của mình. Đúng như nhận định của một nhà nghiên cứu: “Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới không chỉ là một ý tưởng mới dựa trên điều kiện hiện tại mà còn là một tuyên bố với thế giới rằng Trung Quốc đã đi đúng con đường và sẽ duy trì chủ nghĩa xã hội với đặc trưng Trung Quốc”(19).

Hai là, ý nghĩa chiến lược: CNXH đặc sắc Trung Quốc thời đại mới là ngọn cờ lý luận dẫn dắt nhân dân Trung Quốc xây dựng CNXH trong thời đại mới với nhiều đột phá về tư tưởng, mục tiêu và chính sách thực hiện; nó phản ánh những yêu cầu của xã hội Trung Quốc và thực tiễn thời đại.

Ba là, tư tưởng CNXH đặc sắc Trung Quốc thời đại mới cũng là sự vận dụng đúng đắn phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Marx – Lenin, phát triển nội dung của CNXH khoa học. Xét về bản chất, lý luận là phản ánh thực tiễn, khi thực tiễn thay đổi đặt ra những yêu cầu mới cho lý luận, buộc lý luận phải thay đổi cho phù hợp với thực tiễn; xét về vai trò, lý luận không chỉ làm rõ thực tiễn mà còn đóng vai trò dẫn dắt thực tiễn. CNXH đặc sắc Trung Quốc thời đại mới thực hiện được cả hai chức năng trên. Một mặt, nó phản ánh được hiện thực thay đổi của Trung Quốc; mặt khác là ngọn cờ lý luận dẫn dắt hành động của Đảng Cộng sản và nhân dân Trung Quốc trong bối cảnh hiện nay. Đúng như Đảng Cộng sản Trung Quốc quan niệm: “Thời đại là cội nguồn của tư tưởng, thực tiễn là nguồn gốc của lý luận”(20).

Bốn là, bên cạnh những ý nghĩa trên, cũng còn có những ý kiến quan ngại về “chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới”, cho rằng lý luận này đang đi vào con đường dân tộc chủ nghĩa; nhất là việc Trung Quốc diễn giải nhiều luận điểm của chủ nghĩa Marx theo cách của mình. CNXH đặc sắc Trung Quốc thời đại mới cũng thể hiện tham vọng của Trung Quốc khi cho rằng lý luận này không chỉ có tác dụng với nhân dân Trung Quốc mà còn: “mở ra con đường tiến lên hiện đại hóa của các quốc gia đang phát triển, mang lại sự lựa chọn hoàn toàn mới cho các quốc gia và dân tộc vừa muốn đẩy nhanh phát triển, vừa muốn giữ gìn tính độc lập của riêng mình”, đây chính là “đóng góp trí tuệ Trung Quốc, phương án Trung Quốc trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế đương đại”(21).

(1), (3), (4), (5), (6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Cộng sản Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013, tr.105-106, 106, 107, 108, 109. (2), (7), (8), (9), (10), (12), (13), (15), (16), (17), (18), (20), (21) Đảng Cộng sản Trung Quốc: Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIX, https://vov.vn. (11), (14) Viện nghiên cứu lịch sử phát triển chủ nghĩa Marx – Lenin, Trường Đại học Nhân dân Trung Quốc, Lịch sử chủ nghĩa Mác, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.1094, 1092. (19) New era of socialism with Chinese characteristics, https://news.cgtn.com.

Theo TẠP CHÍ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Tags: Trung Quốc, Chủ nghĩa xã hội

Về Chủ Nghĩa Hiện Thực Và Chủ Nghĩa Hiện Thực Xã Hội Chủ Nghĩa Ở Trung Quốc

Từ cuộc phê phán tư tưởng văn nghệ Hồ Phong năm 1954 và phê phán thuyết “tả chân thực” năm 1957 trở đi, tính chân thực trở thành vấn đề kiêng kỵ của giới phê bình. Mặc dù các nhà phê bình lý giải tính chân thực không giống nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau, nhưng khôi phục lại tính chân thực của văn học được coi là có ý nghĩa quan trọng đầu tiên của việc khôi phục lại tinh thần hiện thực chủ nghĩa và được mọi người đồng thuận. Nhà lý luận Khiết Mẫn nói: “Nếu văn học xa rời tính chân thực của hiện thực thì sẽ mất đi chủ nghĩa hiện thực, mất đi sức mạnh sinh mệnh của nghệ thuật, xa rời tính chân thực, thì tác dụng nhận thức của văn học và chức năng phản ánh hiện thực của nó… cũng không thể nói đến được” 1. Ba Kim cho rằng, trong một thời gian dài, văn học Trung Quốc chỉ thích nói những lời trống rỗng, lời nói dối và xu nịnh, kết quả là “nói hết những lời nói hay, nằm mơ hết mộng đẹp, khi mở mắt ra, vẫn chỉ là giấc mộng lớn. Văn học không dám nói sự thật thì làm sao có được chủ nghĩa hiện thực” 2. Coi tính chân thực là hạt nhân, là thước đo quan trọng đầu tiên của nền phê bình hiện thực chủ nghĩa, đó là hòn đá tảng của các nhà phê bình thời kỳ mới đặt lại nền móng cho chủ nghĩa hiện thực. Đúng như có nhà phê bình đã nói: “Sau 20 năm lý luận về tính chân thực của văn học gặp trắc trở, giờ đây cuối cùng đã được đa số thừa nhận. Điều đó không thể không nói là sự tiến bộ lớn của giới lý luận văn nghệ Trung Quốc” 3.

Bàn lại vấn đề “tả bản chất”. Người nghi ngờ khá sớm là nhà lý luận Vương Xuân Nghiêm. Trong khi “phản tỉnh” về lý luận miêu tả nhân vật anh hùng, ông chỉ ra: “Thuyết “tả bản chất” làm tổn hại trực tiếp đến sáng tác, vì nó bắt nhà văn phải tuân theo khái niệm và định nghĩa về “bản chất xã hội” để lý giải danh hiệu “nhân vật anh hùng” một cách trống rỗng và trừu tượng, đó là sự phá hoại thô bạo nhất đối với đặc trưng nghệ thuật”. Thực chất của “tả bản chất” là “dưới danh nghĩa “tả bản chất”, tô hồng cuộc sống, che giấu mâu thuẫn, dùng hư trương thanh thế để thay thế tình cảm chân thực” 4. Các nhà nghiên cứu phê bình cho rằng thuyết “tả bản chất” trước kia dẫn đến tình trạng sáng tác và phê bình xa rời chủ nghĩa hiện thực, một trong những nguyên nhân là giải thích “tả chân thực” một cách tiên nghiệm chủ quan và duy ý chí, coi bản chất là quan niệm hoặc khái niệm tồn tại trước tiên, yêu cầu nhà văn dựa vào mớ quan niệm đó mà sáng tác, nên đã dẫn đến khuynh hướng công thức hóa và khái niệm hóa. Nguyên nhân thứ hai là ở chỗ giải thích “tả bản chất” một cách xã hội học dung tục, giải thích “bản chất” thành “chủ lưu” hoặc “mặt chủ yếu của mâu thuẫn”. Trong lĩnh vực phê bình cũng theo đó mà chia cuộc sống xã hội do nhà văn miêu tả thành cái gọi là “hiện tượng chủ lưu bản chất”, “hiện tượng phi bản chất”, “hiện tượng xa rời bản chất”… Sự phân loại xã hội học dung tục ấy làm cho phê bình bị đơn giản hóa, những câu nói như “bản chất xã hội lẽ nào lại như thế”, “miêu tả đen tối không thể phản ánh được bản chất của chủ nghĩa xã hội”… đều từ đó mà ra. Nguyên nhân thứ ba, là ở chỗ thoát ly thực tiễn sáng tác văn học và hiện tượng cuộc sống cụ thể, yêu cầu văn học phản ánh cái gọi là “bản chất” một cách trừu tượng. Kỳ thực “khái niệm “bản chất” trần trụi, về cơ bản không phải là cái thuộc về phạm trù mỹ học, nó không phải là đối tượng của văn học nghệ thuật, do đó cũng không có quyền đi vào lĩnh vực miêu tả văn học” 5. Những quan điểm đổi mới này chứng tỏ sự quan tâm của các nhà phê bình Trung Quốc đối với sáng tác hiện thực chủ nghĩa đã từ khái niệm “bản chất” trừu tượng, phổ biến chuyển dịch sang hiện thực cuộc sống cụ thể, sinh động, cảm tính.

Làm rõ “tính khuynh hướng” là gì? Trong lý luận về chủ nghĩa hiện thực trước đây, do phóng đại một cách phiến diện tác dụng quyết định của thế giới quan đối với phương pháp sáng tác, do cường điệu một cách phiến diện tác dụng chỉ đạo của khuynh hướng chính trị đối với tính chân thực của văn học, từ đó xuất hiện xu hướng dùng tính khuynh hướng để bài xích tính chân thực. Do đó, nhìn lại nguyên tắc tính chân thực của chủ nghĩa hiện thực thì cũng cần phải nhìn lại quan hệ giữa tính khuynh hướng và tính chân thực. Cái mà các nhà phê bình Trung Quốc nhấn mạnh là “sự thống nhất giữa tính chân thực nghệ thuật và tính khuynh hướng xã hội chủ nghĩa” 6, nhưng khi trình bày “sự nhất trí”, “sự thống nhất” họ lại nghiêng về việc đảo lại mối quan hệ quyết định và bị quyết định giữa tính khuynh hướng và tính chân thực, coi miêu tả chân thực cuộc sống là cơ sở của sự thống nhất giữa hai cái đó. Nhà lý luận Tưởng Khổng Dương nói: “Tính khuynh hướng mà chủ nghĩa Marx nói, là tính khuynh hướng duy vật chủ nghĩa, nó nảy sinh ra từ sự phản ánh chân thực cuộc sống hiện thực khách quan”, do đó lý giải phiến diện tính khuynh hướng thành tính chính trị và coi tính xác thực của khuynh hướng chính trị là cơ sở chân thực thì hoàn toàn là cách nói “tựa như đúng mà hóa sai” 7. Những ý kiến này giúp ta nhận thức chính xác quan hệ giữa tính khuynh hướng và tính chân thực.

Người ta có thể hỏi, nếu cho rằng trong tính chân thực và tính lịch sử cụ thể của việc miêu tả nghệ thuật không có “tinh thần xã hội chủ nghĩa”, không có tác dụng giáo dục nhân dân, nên nó cần phải “kết hợp” với những cái bên ngoài, vậy “tinh thần xã hội chủ nghĩa” là gì? Nó không tồn tại ở trong tính chân thực của cuộc sống và chân thực của nghệ thuật mà chỉ là một khái niệm trừu tượng ở trong đầu óc nhà văn được đưa vào tác phẩm hay sao. Như vậy, cái được tuyệt đối coi trọng không phải là chân thực khách quan mà là “tinh thần xã hội chủ nghĩa” và nguyện vọng trừu tượng ở trong đầu óc nhà văn mà thôi. Kết quả là có thể làm cho tác phẩm văn học thoát ly chân thực khách quan, thậm chí trở thành cái loa phát ra những khái niệm chính trị.

Cái gọi là “tinh thần xã hội chủ nghĩa” tức một loại khái niệm của chủ quan nhà văn, nó là một phần của thế giới quan nhà văn. Sự tác động của thế giới quan nhà văn đối với sáng tác phải chăng là “nằm ngoài tính chân thực của miêu tả nghệ thuật”? Thế giới quan nói ở đây là thế giới quan mác xít, nó có tác động hữu cơ, tự nhiên, sinh động ở trong quá trình sáng tác nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa, ở trong quá trình nhận thức cuộc sống, hình thành hình tượng, do đó tác động này biểu hiện trong tính chân thực của nghệ thuật chứ không cần “kết hợp” với cái gì khác ngoài tính chân thực của việc miêu tả nghệ thuật” 11. Tóm lại, ý kiến của Tần Triệu Dương cũng như của Hồ Phong trước đây đều cho rằng định nghĩa về chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa còn nhiều lỗ hổng. Phương pháp sáng tác này có nhiều lý thuyết trói buộc việc “miêu tả chân thật”. Trước ngày đất nước Trung Quốc đổi mới, trong những tác phẩm viết theo phương pháp “hiện thực xã hội chủ nghĩa” tồn tại khá phổ biến căn bệnh công thức, sơ lược, giả tạo. Ngược lại, những tác phẩm nào viết theo phương pháp hiện thực chủ nghĩa không thôi, thì tỏ ra trung thành với hiện thực và phản ánh được chân thực cuộc sống. Nhà nghiên cứu Lý Vận Đoàn viết: “Chân lý vốn bình dị. “Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa” chồng chất những khái niệm triết học xơ cứng, trống rỗng, cuối cùng cự tuyệt một chân lý bình dị: phản ánh cuộc sống chân thực một cách vô điều kiện” 12.

Phương pháp “hiện thực xã hội chủ nghĩa” được vận dụng một cách dung tục ở Trung Quốc, gây nhiều khó khăn cho các nhà văn. Ví dụ, một mặt nói phải “thâm nhập cuộc sống”, “trung thành với cuộc sống” “phản ảnh chân thực cuộc sống”, nhưng có một số nhà văn tuân theo lời khuyên đó thì bị chỉ trích là không điển hình, là không lành mạnh. Nhà văn Khang Trạc trong bài Lại bàn về chủ nghĩa hiện thực cách mạng13 kể về nỗi khổ của mình trước “cách mạng văn hóa”: Năm 1957 bị phê phán vì viết quá thật về “những mặt đen tối”; năm 1958 mù quáng đi tuyên truyền “đại nhảy vọt”, đợi đến sau hội nghị Đại Liên 1962, phát hiện ra con đường sáng tác của mình đi chệch hướng liền viết một số truyện ngắn nói lên mâu thuẫn trong xã hội. Sau đó ít lâu, bị quy là phần tử “phái hữu”. Nỗi khổ của Khang Trạc là kết quả của lý luận hỗn loạn một thời ở Trung Quốc.

Gần đây giới lý luận phê bình Trung Quốc truy tìm xem “chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa” đã xuất hiện ở Liên Xô như thế nào. Dựa vào tư liệu trong tạp chí Những vấn đề văn học số 2 năm 1989 của Liên Xô cho biết: Cuối tháng 4 (hoặc đầu tháng 5) năm 1932, Stalin từng gặp đồng chí phụ trách tổ chức của Hội nhà văn lúc bấy giờ để bàn về phương pháp sáng tác của văn học Liên Xô. Đồng chí ở ban tổ chức Hội nhà văn đề nghị gọi phương pháp sáng tác mới của Liên Xô là “chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa của giai cấp vô sản” hoặc gọi là “chủ nghĩa hiện thực của chủ nghĩa cộng sản”. Stalin nói: “Đồng chí đã tìm được cách giải quyết vấn đề khá chính xác, nhưng biểu đạt còn chưa chuẩn xác. Nếu chúng ta gọi phương pháp sáng tác văn học nghệ thuật của Liên Xô là chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa thì theo đồng chí thấy thế nào?” Đồng chí phụ trách ban tổ chức của Hội nhà văn Liên Xô hoàn toàn tán thành ý kiến của Stalin và đến ngày 20/5/1932, trong cuộc họp của tiểu ban văn học ở Moskva công khai tuyên bố ” Phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa là phương pháp cơ bản của văn học Liên Xô “. Ngày 26/10 cùng năm, trong cuộc tọa đàm của các nhà văn Liên Xô, Stalin một lần nữa khẳng định rõ ràng chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Từ đó phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa có chỗ đứng vững chắc không hề bị lung lay. Qua đó, ta rõ người đầu tiên nêu ra “phương pháp cơ bản” cho văn học Liên Xô không phải ai khác mà chính là Stalin. Có nhà lý luận Trung Quốc nêu ra rằng: Là một phương pháp sáng tác, chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa cần phải có đặc trưng mỹ học. Mặc dù từ năm 1932 đến nay giới lý luận văn học Liên Xô đã viết nhiều về vấn đề này nhưng trước sau vẫn chưa có ai nói được rõ ràng. Người có tư cách nói rõ thực chất của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa không ai hơn ngoài Zhidanov. Ở Hội nghị đại biểu các nhà văn Liên Xô lần thứ nhất năm 1934, ông nói: “Phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa đòi hỏi nhà văn “lấy cuộc đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội làm cơ sở cho sự lựa chọn sáng tác của mình”, “tăng cường vũ khí tư tưởng” của mình để viết ra những “tác phẩm mang tính thời đại”. Có nhà nghiên cứu cho rằng, bài nói chuyện của Zhidanov chỉ là cụ thể hóa ý kiến của Stalin mà thôi chứ chưa đề cập đến đặc trưng mỹ học của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Từ nội dung của bài nói chuyện của Zhidanov và mấy bài nói chuyện của Stalin mà xét, thì chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa thực ra chỉ là yêu cầu chính trị, quy phạm chính trị đối với sáng tác của văn nghệ sĩ mà thôi chứ không phải là phương pháp sáng tác gì.

Các nhà lý luận Trung Quốc còn đề cập đến M. Gorki – trong một thời gian dài được mệnh danh là người đặt nền móng cho chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Gần đây có ý kiến nghi ngờ về điều đó. Lý do chủ yếu là: Trong cuộc tọa đàm của các nhà văn Liên Xô tối ngày 26/10/1932, mặc dù Gorki chủ trì cuộc họp đó, nhưng cả buổi tối hôm ấy ông không hề nhắc đến khái niệm “chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa”. Đến ngày khai mạc đại hội các nhà văn Liên Xô lần thứ nhất năm 1934, khi đã chính thức thừa nhận phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa rồi, Gorki mặc dù vẫn là người chủ trì hội nghị, nhưng trong diễn văn khai mạc, bản báo cáo dài và diễn văn bế mạc cùng bài nói chuyện ở cuộc họp toàn thể Ban chấp hành của Hội nhà văn, ông chỉ một hai lần nhắc đến chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa mà hoàn toàn không giải thích đặc điểm của khái niệm, định nghĩa, phương pháp này là gì. Chuyện đó không phải là không có lý do. Điều đáng chú ý hơn nữa là, sau đại hội đại biểu nhà văn được nửa năm, M. Gorki trong lá thư gửi thư ký Ban chấp hành Hội Nhà văn Ia. Serpakov, viết: “Tôi hoài nghi chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa – với tư cách là một phương pháp – trước khi hiển thị tính minh xác của nó một cách hoàn toàn tất yếu, chúng ta đã bàn đến sự “thắng lợi” của nó và là sự thắng lợi “huy hoàng”. Qua đó ta thấy được thái độ của Gorki đối với chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa là như thế nào. Sau khi Gorki mất, tiểu thuyết Người mẹ (1906-1907) được giới phê bình nghiên cứu coi là “tác phẩm đặt nền móng cho chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa”. Nhưng nếu đọc một lượng lớn tác phẩm được viết trong 30 năm sau khi hoàn thành Người mẹ của nhà văn, ta thấy không có một tác phẩm nào của ông phù hợp với định nghĩa của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa cả. Lẽ nào có thể nói rằng, Gorki thông qua Người mẹ để xác lập chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, rồi sau đó ông lại bỏ phương pháp sáng tác này? Trước sự thực lịch sử văn học đó, luận điểm cho Gorki là “người đặt nền móng cho chủ nghĩa hiện thực xã hội chữ nghĩa” khó mà đứng vững được: Một số nhà nghiên cứu Trung Quốc cho rằng sự xuất hiện khái niệm chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa là có mối liên hệ chặt chẽ với sự sùng bái cá nhân và chính sách văn nghệ “tả” của Liên Xô thời bấy giờ.

Ở Trung Quốc, trong Bài nói chuyện tại toạ đàm văn nghệ Diên An năm 1942, Mao Trạch Đông là người đầu tiên nêu ra “chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa” và nó được độc tôn ở trong Đại hội văn nghệ toàn Trung Quốc lần thứ nhất, năm 1949. Trong thời kỳ “Nhảy vọt”, ông lại nêu ra phương pháp “hai kết hợp”, tức kết hợp giữa chủ nghĩa hiện thực cách mạng và chủ nghĩa lãng mạn. Thực chất của phương pháp “hai kết hợp” này cũng chủ yếu là tinh thần của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa của Liên Xô trước đây mà thôi.

Khi Trung Quốc bước sang thời kỳ đổi mới, do nội hàm của phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa còn chưa rõ ràng, do không phù hợp với tình hình sáng tác phong phú, do xưa kia lý giải phương pháp này thiên về cường điệu miêu tả mặt tươi sáng, thiên về ca ngợi là chính mà né tránh mặt đen tối, không cho phép phê phán, nên giờ đây giới lý luận phê bình Trung Quốc không còn nhắc đến phương pháp này nữa. Trong các giáo trình về lý luận văn nghệ của Trung Quốc gần đây khái niệm về “chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa” đã biến mất. (Xin xem cuốn Giáo trình lý luận văn học in năm 1992, năm 2002 tái bản lần thứ 10, do Đồng Khánh Bính chủ biên, NXB Giáo dục cao đẳng ấn hành và cuốn Khái luận văn học in năm 2002, do Dương Xuân Thời, Du Triệu Bình và Hoàng Minh Phấn viết, NXB Văn học nhân dân ấn hành).

Tạp chí Văn học nước ngoài, số 2/2005

Chú thích:

2 Ba Kim: Tập tìm tòi. Nxb. Văn học nhân dân, Bắc Kinh, 1981, tr. 2.

9 ” Văn học Thượng Hải “, số 1 và số 8 năm 1 981.

10 Trình Đại Hy: Không thể khinh suất phê phán Anghen – cảm tưởng sau khi đọc một bài báo. “Văn học Thượng Hải” số 4/1981.

12 Lý Vận Đoàn: Năm mươi năm tiểu thuyết đương đại Trung Quốc. Nxb. Đại học Ký Nam, Quảng Châu, 2000, tr. 310.

14 Xem những bài: Hồ Kiều Mộc – Những vấn đề trên mặt trận tư tưởng hiện nay của “Hồng kỳ” số ra ngày 23/12/1981; Trịnh Bá Nông: Phong phong vũ vũ, thị thị phi phi của tạp chí ” Lý luận và phê bình văn nghệ “, số 4/2001.

Khái Niệm Và Phân Loại Tư Tưởng Xã Hội Chủ Nghĩa

Khái niệm tư tưởng xã hội chủ nghĩa

Định nghĩa tư tưởng xã hội chủ nghĩa

Tư tưởng (tiếng Hy Lạp là Idéa – hình tượng) là một hình thái ý thức của con người phản ánh thế giới hiện thực. Bất cứ tư tưởng nào cũng do điều kiện sinh hoạt vật chất, do chế độ xã hội quy định và là sự phản ánh những điều kiện sinh hoạt vật chất của chế độ xã hội nhất định.

Từ khi xuất hiện chế độ tư hữu và đi liền với nó là sự phân chia xã hội thành các giai cấp: thống trị và bị thống trị, áp bức và bị áp bức…, trong ý thức xã hội cũng bắt đầu xuất hiện và không ngừng phát triển các tư tưởng biểu hiện cho sự đối lập về lợi ích, về sự đấu tranh giữa các giai cấp. Ngay từ thời cổ đại, bên cạnh các tư tưởng phản ánh, bảo vệ lợi ích của các giaicấp thống trị, đã xuất hiện tư tưởng phản ánh, bảo vệ cho lợi ích, khát vọng của các giai cấp bị thống trị. Tư tưởng của giai cấp thống trị, duy trì củng cố địa vị của giai cấp thống trị, bất công, áp bức xã hội… Còn tư tưởng của các giai cấp bị thống trị phản ánh những nhu cầu về một chế độ xã hội không có áp bức, bất công, mọi người cùng lao động, sống bình đẳng… Không những thế, những nhu cầu, những quan niệm, ước mơ, khát vọng ấy dần trở thành những con đường, cách thức, phương pháp… đấu tranh thực tiễn của nhân dân lao động. Nếu không có những tư tưởng tiến bộ xã hội chủ nghĩa có căn cứ khoa học thì không thể dẫn dắt được các phong trào thực tiễn của nhân dân đấu tranh vì lợi ích của mình.

Vậy, tư tưởng xã hội chủ nghĩa là một hệ thống những quan niệm về những nhu cầu hoạt động thực tiễn và những ước mơ của các giai cấp lao động, bị thống trị; về con đường, cách thức và phương pháp đấu tranh nhằm thực hiện một chế độ xã hội mà trong đó, tư liệu sản xuất là thuộc về toàn xã hội, không có áp bức và bóc lột, bất công, mọi người được bình đẳng về mọi mặt và đều có cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc, văn minh.

Chính sự xuất hiện chế độ tư hữu, xuất hiện giai cấp thống trị và bóc lột được xem như tiền đề kinh tế – xã hội cho sự xuất hiện các phong trào và tư tưởng xã hội chủ nghĩa từ phía nhân dân lao động.

Các biểu hiện cơ bản của tư tưởng xã hội chủ nghĩa

Tư tưởng xã hội chủ nghĩa là các quan niệm về một chế độ xã hội mà mọi tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên, thuộc về toàn xã hội.

Tư tưởng xã hội chủ nghĩa là tư tưởng về một chế độ xã hội mà ở đó ai cũng có việc làm và ai cũng lao động.

Tư tưởng xã hội chủ nghĩa là những tư tưởng về một xã hội, trong đó mọi người đều bình đẳng, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Mọi người đều có điều kiện để lao động, cống hiến, hưởng thụ và phát triển toàn diện.

Phân loại các tư tưởng xã hội chủ nghĩa

Các nhà nghiên cứu lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa thường đưa ra hai tiêu chí phân loại các tư tưởng xã hội chủ nghĩa: thứ nhất, căn cứ vào quá trình lịch sử hình thành các tư tưởng xã hội chủ nghĩa gắn với các chế độ xã hội; thứ hai, căn cứ vào tính chất, trình độ phát triển của các tư tưởng ấy. Tuy nhiên, các nhà sử học mácxít, các nhà nghiên cứu tư tưởng xã hội chủ nghĩa theo quan điểm duy vật lịch sử thường tiến hành phân loại dựa trên sự kết hợp đúng mức hai tiêu chí nói trên.

Phân loại tư tưởng xã hội chủ nghĩa theo lịch đại

Theo tiến trình lịch sử phát triển, hay theo lịch đại, các nhà nghiên cứu lịch sử tư tưởng thường chia tư tưởng xã hội chủ nghĩa thành các giai đoạn phát triển tương ứng với các giai đoạn phát triển xã hội loài người. Theo cách này, người ta chia thành: tư tưởng xã hội chủ nghĩa cổ đại và trung đại, tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời kỳ Phục hưng, tư tưởng xã hội chủ

nghĩa thời kỳ cận đại và tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời kỳ hiện đại.

Phân loại tư tưởng xã hội chủ nghĩa theo trình độ phát triển

Theo trình độ phát triển của tư tưởng xã hội chủ nghĩa, người ta phân thành: chủ nghĩa xã hội sơ khai, chủ nghĩa xã hội không tưởng, chủ nghĩa xã hội không tưởng – phê phán và chủ nghĩa xã hội khoa học.

Kết hợp tính lịch đại với trình độ phát triển để phân loại các tư tưởng xã hội chủ nghĩa

Dù sử dụng tiêu chí theo lịch đại hay theo trình độ phát triển của tri thức được tích luỹ trong phân loại tư tưởng xã hội chủ nghĩa, các nhà nghiên cứu đều cho rằng không nên tuyệt đối hoá các tiêu chí được sử dụng để phân loại, mà chỉ nên coi đó là tiêu chí chủ yếu, cơ bản nhất mà thôi.

Do đó, khi phân loại tư tưởng xã hội chủ nghĩa để nghiên cứu, cần chú ý đến các cấp độ phát triển nội tại (theo kiểu kế thừa, phủ định, phát triển) của các tư tưởng ấy. Đây được coi là phương pháp phân loại đúng đắn nhất và là cơ sở để tiến hành khảo sát các tư tưởng xã hội chủ nghĩa.