Top 6 # Khái Niệm Công Dân Là Gì Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Tvzoneplus.com

Dân Chủ Là Gì ? Khái Niệm Về Dân Chủ

Dân chủ là cách nói tắt về chế độ dân chủ hoặc quyền dân chủ.

Chế độ dân chủ là chế độ chính trị, trong đó, toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, do nhân dân thực hiện trực tiếp hoặc thông qua đại diện do nhân dân bầu ra.

Chế độ dân chủ đã được thành lập rất sớm từ thời chiếm hữu nô lệ ở nhà nước Cộng hoà Aphina. đánh giá sự phát triển tiến bộ trong lịch sử xã hồ loài người, nhằm chống lại chế độ nô lệ, chế để quân chủ, mà thực chất là một người độc đoán quyết định tất cả mọi vấn đề của đất nước. Ở Cộng hoà Aphina, vai trò chủ yếu trong quản lí nhà nước thuộc Hội nghị quốc dân được lập để giải quyết tất cả các vấn đề chính sách đối nội và đối ngoại của đất nước. Tất cả những người có chức trách trong nhà nước Aphina đều được dân bầu ra và được thay đổi, bãi miễn nhiệm theo nguyên tắc đa số. Tất cả nam công dân Aphina từ đủ 20 tuổi trở lên đều được quyền tham gia Hội nghị quốc dân. Phụ nữ, người nước ngoài, những nô lệ được giải phóng và nô lệ không được phép hưởng các quyền chính trị tại nhà nước Aphina. Do vậy, chế độ dân chủ cộng hoà ở Aphina là chế độ dân chủ chiếm hữu nô lệ của thiểu số.

Dân chủ tư sản ra đời cùng với thắng lợi của các cuộc cách mạng tư sản ở các nước châu Âu. Dân chủ tư sản đã đưa lại sự tiến bộ lớn lao so với chế độ chuyên chế phong kiến trước đó. Lênin khẳng định: “Cộng hoà tư sản, nghị viện, phổ thông đầu phiếu đó là sự tiến bộ lớn lao xét từ quan điểm phát triển xã hội trên phạm vi toàn cầu”, “Nếu không có chế độ nghị viện, không có chế độ bầu cử… Chắc sự phát triển của giai cấp công nhân không thể Có được”.

Tuy có vai trò lớn như vậy nhưng dân chủ tư sản vẫn là hình thức thống trị chính trị của giai cấp tư sản, là chế độ dân chủ hình thức, bị cắt xén, chế độ dân chủ dành cho thiểu số. Còn đa số nhân dân lao động nghèo khổ thì bị hạn chế trong thực thi các quyền dân chủ đã được tuyên bố trong các hiến pháp tư sản. Nhiều chế định của dân chủ tư sản, trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, đã bị hạn chế và bị xoá bỏ. Chế độ đế quốc chủ nghĩa, chế độ độc tài phát xít chuyên chế đã tạo lập đường lối chính trị gây chiến, nô dịch các nước kém phát triển và đàn áp phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước trên thế giới cũng như phong trào của quần chúng lao động và giai cấp công nhân trong nước. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được xác lập ở các nước đã hoàn thành cảch mạng dân tộc dân chủ và bắt đầu tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đặc trưng của dân chủ xã hội chủ nghĩa là quyền dân chủ của công dân không ngừng được được mở rộng trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước, xã hội thông qua hệ thống cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị, chính trị – xã hội và tổ chức xã hội với sự tham gia tích cực vào hoạt động chính trị hàng ngày của đông đảo quần chúng nhận dân lao động. Mục tiêu của dân chủ xã hội chủ nghĩa là xoá bỏ chế độ người bóc lột người, tạo ra ngày càng nhiều hơn các điều kiện thuận lợi để thực hiện triệt để công bằng xã hội, dân chủ, văn minh, công lí cho mọi người, bình đẳng thực sự giữa nam và nữ, giữa các dân tộc, tạo cơ hội cho mọi người dân hạnh phúc thông qua việc thừa nhận và khẳng định các quyền dân chủ đó một cách chính thức trong hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật, đặt ra các bảo đảm vật chất và tinh thần để thực hiện các quyền đó và không ngừng mở rộng các quyền dân chủ; đề cao trách nhiệm cá nhân đối với Nhà nước và xã hội, phát huy không ngừng quyền làm chủ của nhân dân lao động.

Dân Tộc Là Gì ? Các Khái Niệm Về Dân Tộc?

1. Khái niệm về dân tộc (cách hiểu về dân tộc):

Dân tộc (tộc người, ethnie) là hình thái đặc thù của một tập đoàn người, xuất hiện trong quá trình phát triển của tự nhiên và xã hội, được phân biệt bởi 3 đặc trưng cơ bản là ngôn ngữ, văn hoá và ý thức tự giác về cộng đồng, mang tính bền vững qua hàng nghìn năm lịch sử; ví dụ: dân tộc (hay tộc người) Việt, dân tộc (hay tộc người) Tày, dân tộc (hay tộc người) Khơ Me… Hình thức và trình độ phát triển của tộc người phụ thuộc vào các thể chế xã hội ứng với các phương thức sản xuất.

Dân tộc (nation) – hình thái phát triển cao nhất của tộc người, xuất hiện trong xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa (hình thái của tộc người trong xã hội nguyên thủy là bộ lạc, trong xã hội nô lệ và xã hội phong kiến là bộ tộc). Dân tộc đặc trưng bởi sự cộng đồng bền vững và chặt chẽ hơn về kinh tế, ngôn ngữ, lãnh thổ, các đặc điểm về văn hóa và ý thức tự giác tộc người.

So với bộ tộc thời phong kiến, dân tộc trong thời kì phát triển tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa có lãnh thổ ổn định, tình trạng cát cứ bị xoá bỏ, có nền kinh tế hàng hóa phát triển, thị trường quốc gia hình thành thống nhất, các ngữ âm, thổ ngữ bị xoá bỏ, tiếng thủ đô được coi là chuẩn và ngày càng lan rộng ảnh hưởng, sự cách biệt về văn hóa giữa các vùng, miền và giữa các bộ phận của tộc người bị xóa bỏ phần lớn, ý thức về quốc gia được củng cố vững chắc.

Cộng đồng dân tộc thường được hình thành hoặc từ một bộ tộc phát triển lên; hoặc là kết quả của sự thống nhất hai hay nhiều bộ tộc có những đặc điểm chung về lịch sử – văn hóa.

Ngoài những nét giống nhau trên, giữa dân tộc tư bản chủ nghĩa và dân tộc xã hội chủ nghĩa có những nét khác biệt nhau, do đặc điểm của phương thức sản xuất và thể chế xã hội. Ở dân tộc tư bản chủ nghĩa, xã hội phân chia đối kháng giai cấp giữa tư sản và vô sản, Nhà nước là của giai cấp tư sản, bảo vệ quyền lợi của giai cấp tư sản. Còn ở dân tộc xã hội chủ nghĩa, xã hội không còn đối kháng giai cấp, quyền lực nhà nước thuộc về giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

3. Dân tộc (quốc gia dân tộc; ví dụ: dân tộc Việt Nam) là cộng đồng chính trị – xã hội, được hình thành do sự tập hợp của nhiều tộc người có trình độ phát triển kinh tế – xã hội khác nhau cùng chung sống trên một lãnh thổ nhất định và được quản lí thống nhất bởi một nhà nước. Kết cấu của cộng đồng quốc gia dân tộc rất đa dạng, phụ thuộc vào điều kiện lịch sử, hoàn cảnh kinh tế, văn hóa, xã hội của từng nước. Một quốc gia dân tộc có tộc người đa số và các tộc người thiểu số. Có tộc người đã đạt đến trình độ dân tộc, song nhiều tộc người ở trình độ bộ tộc. Với cơ cấu tộc người như vậy, quan hệ giữa các tộc người rất đa dạng và phức tạp. Nhà nước phải ban hành chính sách dân tộc để duy trì sự ổn định và phát triển của các tộc người, sự ổn định và phát triển của đất nước. Cũng có trường hợp, một quốc gia chỉ gồm một tộc người (Triều Tiên).

(Nội dung trên được đưa ra bởi: Từ điển luật học xuất bản năm 2010)

Khái niệm dân tộc trong tiếng Việt có thể đề cập đến các nghĩa sau:

+ Dân tộc (cộng đồng): theo nghĩa rộng là cộng đồng người có chung nền văn hóa, nhóm sắc tộc, ngôn ngữ, nguồn gốc, lịch sử; đôi khi bao gồm nhiều nhóm sắc tộc. Dân tộc trong trường hợp quốc gia dân tộc còn được gọi là quốc dân.

+ Sắc tộc: chỉ nhóm xã hội được phân loại dựa trên nhiều nét chung như di sản văn hóa, nguồn gốc, lịch sử, ngôn ngữ hoặc phương ngữ.

Một số định nghĩa khác về dân tộc:

Dân tộc có thể chỉ một cộng đồng người chia sẻ một ngôn ngữ, văn hóa, sắc tộc, nguồn gốc, hoặc lịch sử. Tuy nhiên, nó cũng có thể chỉ những người có chung lãnh thổ và chính quyền (ví dụ những người trong một quốc gia có chủ quyền) không kể nhóm sắc tộc.

Trong trường hợp gắn liền với một quốc gia dân tộc, dân tộc còn được gọi là quốc dân. “Dân tộc” mang nhiều nghĩa và phạm vi nghĩa của thuật ngữ thay đổi theo thời gian.

Hầu hết mọi dân tộc sống trong một lãnh thổ cụ thể gọi là quốc gia. Một số dân tộc khác lại sống chủ yếu ngoài tổ quốc của mình. Một quốc gia được công nhận là tổ quốc của một dân tộc cụ thể gọi là “nhà nước – dân tộc”. Hầu hết các quốc gia hiện thời thuộc loại này mặc dù vẫn có những tranh chấp một cách thô bạo về tính hợp pháp của chúng. Ở các nước có tranh chấp lãnh thổ giữa các dân tộc thì quyền lợi thuộc về dân tộc nào sống ở đó đầu tiên. Đặc biệt ở những vùng người châu Âu định cư có lịch sử lâu đời, thuật ngữ “dân tộc đầu tiên” dùng cho những nhóm người có chung văn hóa cổ truyền, cùng tìm kiếm sự công nhận chính thức hay quyền tự chủ.

Khái niệm dân tộc, sắc tộc thường có nhiều cách sử dụng không thống nhất trên toàn thế giới:

Thường thì những thuật ngữ như dân tộc, nước, đất nước hay nhà nước được dùng như những từ đồng nghĩa. Ví dụ như: vùng đất chỉ có một chính phủ nắm quyền, hay dân cư trong vùng đó hoặc ngay chính chính phủ. Chúng còn có nghĩa khác là nhà nước do luật định hay nhà nước thực quyền. Trong tiếng Anh các thuật ngữ trên không có nghĩa chính xác mà thường được dùng uyển chuyển trong cách nói viết hàng ngày và cũng có thể giải nghĩa chúng một cách rộng hơn.

Khi xét chặt chẽ hơn thì các thuật ngữ “dân tộc”, “sắc tộc” và “người dân” (chẳng hạn người dân Việt Nam) gọi là nhóm thuộc về con người. “Nước” là một vùng theo địa lý, còn “nhà nước” diễn đạt một thể chế cầm quyền và điều hành một cách hợp pháp. Điều rắc rối là hai tính từ “quốc gia” và “quốc tế” lại dùng cho thuật ngữ nhà nước, chẳng hạn từ “luật quốc tế” dùng trong quan hệ giữa các nhà nước hoặc giữa nhà nước và các cá nhân, các công dân.

Thuật ngữ “dân tộc” thường dùng một cách ẩn dụ để chỉ những nhóm người có chung đặc điểm hay mối quan tâm.

1

Công tác dân tộc

Công tác dân tộc là những hoạt động quản lý nhà nước về lĩnh vực dân tộc nhằm tác động và tạo điều kiện để đồng bào các dân tộc thiểu số cùng phát triển, đảm bảo sự tôn trọng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Nghị định 05/2011/NĐ-CP

6

Dân tộc thiểu số tại chỗ

Là đồng bào dân tộc thiểu số có nguồn gốc, tổ tiên sinh sống lâu đời trên địa bàn

15/2008/QĐ-UBND

(Hết hiệu lực)

Tỉnh Đắk Lắk

7

bao gồm các đề tài nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đề tài khoa học xã hội và nhân văn. Đề tài có thể độc lập hoặc thuộc dự án, chương trình.

9

Mạng Ủy ban Dân tộc

Là tên viết tắt của hệ thống mạng thông tin của Ủy ban

10

Nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp Bộ của Ủy ban Dân tộc

là những vấn đề khoa học và công nghệ thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước về công tác dân tộc cần giải quyết, được xác định, thực hiện theo quy định của Nhà nước về quản lý khoa học và công nghệ và những quy định tại Thông tư này;

11

Trường phổ thông dân tộc bán trú

là trường chuyên biệt, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thành lập cho con em dân tộc thiểu số, con em gia đình các dân tộc định cư lâu dài tại vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn nhằm góp phần tạo nguồn đào tạo cán bộ cho các vùng này bao gồm trường phổ thông dân tộc bán trú cấp tiểu học có trên 50% học sinh là người dân tộc thiểu số và có từ 25% trở lên số học sinh ở bán trú, trường phổ thông dân tộc bán trú liên cấp tiểu học và trung học cơ sở có trên 50% học sinh là người dân tộc thiểu số và có từ 50% trở lên số học sinh ở bán trú, trường phổ thông dân tộc bán trú cấp trung học cơ sở có trên 50% học sinh là người dân tộc thiểu số và có từ 50% trở lên số học sinh ở bán trú.

12

Trường phổ thông dân tộc bán trú

Là trường chuyên biệt, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập nhằm đáp ứng yêu cầu học tập của con em dân tộc thiểu số, con em gia đình các dân tộc định cư lâu dài tại vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn, góp phần tạo nguồn đào tạo cán bộ cho địa phương, bao gồm: trường phổ thông dân tộc bán trú cấp tiểu học có trên 50% học sinh là người dân tộc thiểu số và có từ 25% trở lên số học sinh ở bán trú, trường phổ thông dân tộc bán trú liên cấp tiểu học và trung học cơ sở có trên 50% học sinh là người dân tộc thiểu số và có từ 50% trở lên số học sinh ở bán trú, trường phổ thông dân tộc bán trú cấp trung học cơ sở có trên 50% học sinh là người dân tộc thiểu số và có từ 50% trở lên số học sinh ở bán trú, các tỷ lệ này ổn định

Tỉnh Đắk Lắk

13

Vùng dân tộc thiểu số

Vùng dân tộc thiểu sốlà địa bàn có đông các dân tộc thiểu số cùng sinh sống ổn định thành cộng đồng trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Nghị định số 05/2011/NĐ-CP

Nguồn: Thư viện pháp luật

3. Đặc điểm các dân tộc ở Việt Nam

Nước ta là quốc gia đa dân tộc và có nhiều đặc điểm quan trọng, nổi bật. Trong đó cần chú ý các đặc điểm sau:

– Các dân tộc sinh sống trên đất nước ta có truyền thống đoàn kết.

– Các dân tộc ở Việt Nam cư trú xen kẽ nhau.

– Các dân tộc ở Việt Nam trình độ phát triển kinh tế – xã hội không đều nhau.

– Sự phân bố dân cư không đều; trên vùng núi, biên giới, chủ yếu là các dân tộc thiểu số đang sinh sống.

4. Thế nào là công tác dân tộc? Các nguyên tắc cơ bản của dân tộc?

” Công tác dân tộc ” là những hoạt động quản lý nhà nước về lĩnh vực dân tộc nhằm tác động và tạo điều kiện để đồng bào các dân tộc thiểu số cùng phát triển, đảm bảo sự tôn trọng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Tại Điều 3 Nghị định 05/2011/NĐ-CP về công tác dân tộc quy định các nguyên tắc cơ bản sau:

– Thực hiện chính sách dân tộc theo nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển.

– Đảm bảo và thực hiện chính sách phát triển toàn diện, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số.

– Đảm bảo việc giữ gìn tiếng nói, chữ viết, bản sắc dân tộc, phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mỗi dân tộc.

– Các dân tộc có trách nhiệm tôn trọng phong tục, tập quán của nhau, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

5. Các hành vi bị nghiêm cấm trong công tác dân tộc ở Việt Nam là gì?

Nghiêm cấm các hành vi sau đây:

– Mọi hành vi kỳ thị, phân biệt đối xử, chia rẽ, phá hoại đoàn kết các dân tộc.

– Lợi dụng các vấn đề về dân tộc để tuyên truyền xuyên tạc, chống lại đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

– Lợi dụng việc thực hiện chính sách dân tộc, quản lý nhà nước về công tác dân tộc để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

– Các hành vi khác trái với quy định của Chính phủ.

Trân trọng./.

Các câu hỏi thường gặp

Suy Nghĩ Về Khái Niệm “Công Dân Toàn Cầu”

“Công dân toàn cầu” là gì?

“Công dân toàn cầu” là những người có thể sống và làm việc ở nhiều quốc gia khác nhau. Họ có thể có một hoặc nhiều quốc tịch. Hiện tượng xuất hiện khái niệm công dân toàn cầu đã làm thay đổi cơ bản mọi khái niệm và giá trị về biên giới, lãnh thổ, chính trị, văn hóa, quản lý nhà nước và cả ngành tư pháp quốc tế.

“Công dân toàn cầu” được sản sinh từ hoạt động của các công ty đa quốc gia, từ chính sách thu hút chất xám của chính phủ các nước và nhu cầu tồn tại, phát triển trong những môi trường thuận lợi hơn của con người. Quá trình toàn cầu hóa trong thế kỷ XXI đã làm phát sinh thế hệ công dân toàn cầu mới

Ban đầu là nhu cầu làm việc và quản lý của các công ty đa quốc gia. Những công ty này có chi nhánh, văn phòng đại diện, cơ sở sản xuất, thí nghiệm… rải khắp các châu lục. Từ đội ngũ quản lý này đã manh nha hình thành những công dân toàn cầu đầu tiên.

Sau đó để tiếp tục cuộc chiến “tranh giành chất xám” khốc liệt trên thế giới, ngay từ Chiến tranh thế giới thứ hai, chính phủ của nhiều quốc gia như Đức, Mỹ đã có chiến dịch ưu đãi, mời gọi các nhà khoa học, danh nhân nổi tiếng đến sinh sống và làm việc tại đất nước mình[cần dẫn nguồn]. Ngày nay, đã có nhiều quốc gia tạo điều kiện nhập quốc tịch dễ dàng cho các doanh nhân, nhà khoa học hay những người tốt nghiệp tiến sĩ của các trường đại học danh tiếng.

Kế đến, đó còn là những người có nhu cầu và điều kiện làm việc ở hai quốc gia khác nhau. Họ đi lại, sinh sống hoặc làm việc thường xuyên bên ngoài cương thổ quê hương mình. Nếu không xét tới mặt chính trị, các công dân toàn cầu có thể mang lại nhiều lợi ích cho xã hội nhờ lượng kiến thức và kinh nghiệm họ tích luỹ được khi sinh sống và làm việc tại nhiều quốc gia và nhiều nền văn hoá khác nhau.

“Công dân toàn cầu” là người có kiến thức về thế giới rộng lớn và có ý thức về vai trò của mình đối với thế giới, hiểu biết, tôn trọng và đánh giá cao sự đa dạng của thế giới; sẵn sàng chịu trách nhiệm về hành động của mình; tham gia cộng đồng ở nhiều cấp độ, từ địa phương đến toàn cầu, đấu tranh chống lại sự bất bình đẳng, phân biệt đối xử, bất công xã hội; sẵn sàng hành động để tạo ra một thế giới thành một nơi công bằng và bền vững hơn.

Về mặt thực tế, những công dân toàn cầu là những người có ít nhất một vài trong số các tính chất sau: đi lại nhiều nơi trên thế giới, có nhiều hơn một quốc tịch, tiếp xúc trực tiếp thường xuyên với những người từ các nước khác nhau, có hiểu biết về văn hoá của nhiều nước trên thế giới, có mức thu nhập ở tầm quốc tế, có ảnh hưởng hay đóng góp đến nhiều nước, v.v.

Làm thế nào để trở thành một “công dân toàn cầu”?

Để trở thành một “công dân toàn cầu”, trước hết, bạn cần có một nền tảng tri thức, kỹ năng, văn hóa tốt, phù hợp với yêu cầu của thế giới. Bạn cũng cần có năng lực ngoại ngữ đủ tốt để có thể giao tiếp với công dân các nước, thực hiện cá hoạt đông trao đổi, giao lưu, hợp tác một cách hiệu quả. Bản lĩnh văn hóa của một “công dân toàn cầu” rất quan trọng. Cần giữ vũng “bản sắc văn hóa dân tộc”, đồng thời tiếp cạn, sàng lọc và tiếp nhận những giá trị văn hóa phù hợp, tiến bộ của thế giới, làm đa dạng hóa cảm thức văn hóa của mình.

Để là một “công dân toàn cầu” hiệu quả, những người trẻ cần phải linh hoạt, sáng tạo và chủ động trong công việc. Họ cần có khả năng giải quyết vấn đề, đưa ra quyết định, suy nghĩ nghiêm túc, truyền đạt ý tưởng hiệu quả và làm việc nhóm tốt. Những kỹ năng và thuộc tính này ngày càng được công nhận là cần thiết để thành công trong các lĩnh vực khác của đời sống thế kỷ 21, bao gồm nhiều nơi làm việc.

Những kỹ năng và phẩm chất này không thể được phát triển mà không sử dụng các phương pháp học tập chủ động mà qua đó học sinh học bằng cách làm và cộng tác với những người khác. “Giáo dục không chỉ là một truyền thống văn hoá mà còn là nhà cung cấp các quan điểm thay thế của thế giới và một sự tăng cường các kỹ năng để khám phá chúng”

Với bản chất liên kết và phụ thuộc lẫn nhau của thế giới chúng ta, toàn cầu không phải là “ngoài kia”; nó là một phần trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, vì chúng ta được liên kết với những người khác trên mọi châu lục.

Mỗi cá nhân có thể liên kết với xã hội và văn hóa các quốc gia khác thông qua các phương tiện truyền thông và viễn thông, và thông qua du lịch và di cư, thông qua các hoạt động kinh tế thông qua thương mại, văn hóa, chính trị,… miễn đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc chung đã được quy định.

Các cơ hội mà thế giới “toàn cầu hóa” thay đổi nhanh chóng mang lại cho những người trẻ là rất lớn. Nhưng đi kèm theo đó cũng là những thách thức. Những người trẻ tuổi được hưởng một nền giáo dục trang bị cho họ kiến ​​thức, kỹ năng và giá trị họ cần để nắm lấy cơ hội và thách thức họ gặp phải, và tạo ra thế giới mà họ muốn sống. Một nền giáo dục hỗ trợ họ phát triển trở thành công dân toàn cầu.

Với những bạn trẻ ngày nay, có thể do quá vội vàng trên hành trình hòa nhập với thế giới mà có cái nhìn sai lệch về công dân toàn cầu. Mở rộng giao lưu, hợp tác, nhưng hãy tiếp nhận và tiếp biến cho phù hộ, đảm bảo “hòa nhập nhưng không hòa tan”. Quá sính ngoại mà quên đi cái đẹp cái hay của dân tộc là một hành vi cần phải lên án mạnh mẽ. Giáo dục không phải là một sự chuẩn bị cho cuộc sống, nó chính là cuộc sống

Học hỏi, hòa nhập một cách có chọn lọc là việc làm khôn ngoan của các “công dân toàn cầu” tương lai. Bởi lẽ ở mỗi quốc gia đều có cái đẹp và cái chưa được đẹp, có cái phù hợp và cái chưa phù hợp với dân tộc ta. Nếu các bạn là những người đang còn trẻ, nếu các bạn thật sự nghĩ mình cần phá vỡ ranh giới của riêng bạn. Nếu bạn nói về một điều gì đó thì đó là ước mơ, nếu bạn hình dung ra nó thì nó là có thể, nhưng nếu bạn lên kế hoạch thì đó sẽ là hiện thực.

Khái Niệm Quyền Con Người Và Quyền Của Công Dân

Kể từ khi Liên hợp quốc được thành lập (năm 1945). Quyền con người đã được quy định cụ thể trong hàng trăm văn kiện pháp luật quốc tế. Trở thành một hệ thống tiêu chuẩn pháp lý toàn cầu đòi hỏi mọi quốc gia, trong đó có Việt Nam, tôn trọng và thực hiện. Tại Việt Nam trong bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cũng đã chính thức ghi nhận các quyền thiêng liêng của con người.

Khái niệm quyền con người là gì?

Là một khái niệm rộng lớn cho nên quyền con người cũng được nhiều tổ chức, quốc gia định nghĩa khác nhau. Tuy nhiên đến nay, định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc thường được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu, theo đó quyền con người được định nghĩa như sau:

Bên cạnh đó, nhân quyền còn được định nghĩa một cách khái quát là những quyền bẩm sinh, vốn có của con người mà kể từ khi sinh ra vốn đã được thiết lập mà khi trong cuộc sống nếu không được đảm bảo đầy đủ thì chúng ta sẽ không thể sống như một con người

Đó là về mặt quốc tế, còn tại Việt Nam, cũng có nhiều định nghĩa về quyền con người khác nhau đưqợc đưa ra bởi các chuyên gia và cơ quan nghiên cứu. Tuy nhiên điểm chung của những định nghĩa này đều gặp nhau ở cùng một quan điểm đó là được đáp ứng những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.

Quyền con người còn có một cách gọi khác là nhân quyền, cả hai thuật ngữ này đều bắt nguồn từ thuật ngữ chung bằng tiếng Anh được sử dụng trong môi trường quốc tế, đó là human rights. Từ human rights trong tiếng Anh có thể được dịch là quyền con người (thuần Việt) hoặc nhân quyền (Hán – Việt). Như vậy, xét về mặt ngôn ngữ học, quyền con người và nhân quyền là hai từ đồng nghĩa, do đó, hoàn toàn có thể sử dụng cả hai từ này trong nghiên cứu, giảng dạy và hoạt động thực tiễn về nhân quyền.

Quyền con người và quyền công dân

Quyền công dân (citizen’s rights) là một khái niệm xuất hiện cùng cách mạng tư sản. Cách mạng tư sản đã đưa con người từ địa vị những thần dân trở thành những công dân (với tư cách là những thành viên bình đẳng trong một nhà nước) như vậy có thể thấy quyền công dân có nguồn gốc từ quyền con người.

Một điểm khác biệt nữa của quyền công dân với quyền con người là nếu như quyền con người được quy định chung như một công ước quốc tế thì quyền công dân tại mỗi hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia lại không hoàn toàn giống nhau, cũng như đều hoàn toàn tương thích với hệ thống các tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người

Về tính chất, quyền con người không bị bó hẹp trong mối quan hệ giữa cá nhân với nhà nước mà thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với toàn thể cộng đồng nhân loại.

Về phạm vi áp dụng, quyền con người không không bị giới hạn bởi chế định quốc tịch, chủ thể của quyền con người là tất cả các thành viên của gia đình nhân loại, bất kể vị thế, hoàn cảnh, quốc tịch…Quyền con người bình đẳng trên phạm vi toàn thế giới. Một cá nhân, ngoại trừ những người không quốc tịch, về danh nghĩa đồng thời là chủ thể của cả hai loại quyền con người và quyền công dân, tuy nhiên, sự phân biệt trong thụ hưởng hai loại quyền này chỉ được thể hiện trong một số hoàn cảnh đặc biệt.