Top 11 # Khái Niệm Tiềm Lực Khoa Học Công Nghệ Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Tvzoneplus.com

Xây Dựng Và Phát Triển Tiềm Lực Khoa Học Công Nghệ

Dây chuyền sản xuất chè xuất khẩu ứng dụng công nghệ mới ở Nhà máy chè Thanh niên, xã Minh Đài, huyện Tân Sơn.

PTĐT – Khoa học và công nghệ (KH&CN) là một trong những cơ sở đảm bảo cho việc xây dựng các định hướng chiến lược cũng như chủ trương, chính sách phát triển kinh tế – xã hội của địa phương. Những năm qua, tỉnh ta đã quan tâm, chú trọng xây dựng, phát triển tiềm lực KH&CN và đạt được kết quả tích cực trên một số lĩnh vực.

Công tác quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực KH&CN được tỉnh quan tâm chú trọng, tạo cơ sở, hành lang pháp lý, cơ chế để KH&CN phát triển, góp phần quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ sản xuất, nâng cao giá trị và năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Các cơ quan, đơn vị đẩy mạnh việc ứng dụng, chuyển giao các tiến bộ KH&CN vào sản xuất và đời sống. Tỉnh đã dành kinh phí để đầu tư cho hoạt động KH&CN như: Nghiên cứu và triển khai các đề tài, dự án…; hỗ trợ cho hoạt động KH&CN của các sở, ban, ngành, huyện, thành, thị; hoạt động sự nghiệp KH&CN… Các sở, ban, ngành và huyện, thành, thị cũng đã triển khai các chủ trương, chính sách, lồng ghép nhiều chương trình, dự án, mục tiêu về vấn đề thu hút, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ.

Nhờ chính sách của tỉnh, hàng năm, số lượng đội ngũ trí thức KH&CN của tỉnh cũng tăng lên cả về số lượng và chất lượng, từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển KT – XH của địa phương. Có nhiều dự án điển hình như: Đầu tư xây dựng các Trung tâm KH&CN; mua sắm trang thiết bị tăng cường khả năng kiểm định phương tiện đo lường, thử nghiệm chất lượng hàng hóa cho Trung tâm kỹ thuật đo lường thử nghiệm, đến nay đã hoàn thành và đưa vào sử dụng; đầu tư xây dựng Trung tâm ứng dụng tiến bộ KH&CN… Từ đó, góp phần nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh cho nông sản hàng hóa và tăng nhanh tỷ lệ nông lâm sản chế biến cho các cơ sở sản xuất, nhất là trong chế biến hàng hóa xuất khẩu.

Tiềm lực KH&CN của tỉnh đã được tăng cường đáng kể trên các mặt tổ chức, đội ngũ cán bộ và đầu tư cơ sở vật chất. Mạng lưới các tổ chức KH&CN được tăng cường, đến nay trên địa bàn tỉnh có trên 120 tổ chức, trong đó có 9 tổ chức KH&CN của Trung ương, 30 trung tâm, cơ sở dịch vụ KH&CN, 2 trường Đại học, 18 trường cao đẳng và trung cấp, 30 cơ sở đào tạo, dạy nghề, 36 phòng thí nghiệm về các lĩnh vực hóa, lý, sinh học, xây dựng, giấy, thực phẩm, đồ uống, môi trường; nhân lực hoạt động trong lĩnh vực KH&CN đạt trên 1.800 người. Đặc biệt đã hình thành tương đối đồng bộ hệ thống các cơ quan nghiên cứu, chuyển giao KH&CN trên lĩnh vực nông, lâm, nghiệp, chăn nuôi, thủy sản, trong đó có nhiều Viện và Trung tâm nghiên cứu khoa học đầu ngành của Trung ương trên địa bàn tỉnh. Ngân sách chi cho sự nghiệp KH&CN của các cấp, doanh nghiệp, các tổ chức KH&CN ngày càng tăng. Đây là tiềm năng lớn cho sự nghiệp KH&CN của tỉnh.

Mô hình nuôi gà mía sử dụng đệm lót an toàn sinh học của anh Nguyễn Văn Kiểm ở xã Trung Giáp, huyện Phù Ninh cho thu nhập trên 100 triệu đồng/ năm.

Đầu tư vào KH&CN là một trong những giải pháp quan trọng giúp nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Xác định được điều đó, nhiều doanh nghiệp, đơn vị, cá nhân đã đầu tư, ứng dụng đổi mới công nghệ vào sản xuất, kinh doanh mang lại hiệu quả thiết thực, giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động địa phương. Trong lĩnh vực công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, nhiều kết quả nghiên cứu KH&CN có tính ứng dụng cao vào thực tế, tạo sự gắn kết giữa các doanh nghiệp với KH&CN, đẩy mạnh đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Điển hình như việc nghiên cứu công nghệ sản xuất trà cốm gạo lứt từ chè xanh kết hợp với cốm gạo lứt, quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm chè đậu nành túi lọc và chè râu ngô hòa tan; nghiên cứu thiết kế, chế tạo thành công thiết bị phân loại nguyên liệu chè xanh hái máy công suất 0,8 – 1 tấn/giờ, góp phần nâng cao chất lượng chè xanh, đa dạng hóa sản phẩm chè xanh chất lượng cao, tăng khả năng cạnh tranh cho thương hiệu chè xanh Phú Thọ…

Việc đầu tư, ứng dụng KH&CN vào sản xuất, kinh doanh là yếu tố quan trọng hàng đầu đưa sản xuất nông, lâm nghiệp của tỉnh phát triển vững chắc, đặc biệt đối với việc tăng năng suất, sản lượng lương thực. Nhờ ứng dụng tiến bộ KH&CN vào sản xuất, chăn nuôi an toàn, nhiều thương hiệu đã được công nhận, bảo hộ địa lý, điển hình như: Bưởi Đoan Hùng, gà nhiều cựa Xuân Sơn, mì gạo Hùng Lô, khoai tầng vàng Thanh Sơn…

Từ năm 2015 đến nay, trên địa bàn tỉnh đã triển khai thực hiện hơn 120 đề tài, dự án cấp Nhà nước và cấp tỉnh với tổng kinh phí hơn 200 tỷ đồng bám vào 7 lĩnh vực KH&CN trọng điểm. Các đề tài, dự án đều xuất phát từ thực tiễn sản xuất và đời sống, đưa các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, nâng cao thu nhập và đời sống cho bà con nông dân; hỗ trợ phát triển doanh nghiệp, tạo lập và phát triển các nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận, chỉ dẫn địa lý cho các sản phẩm đặc trưng của tỉnh, phát triển nguồn gen các cây bản địa của địa phương. Một số quy trình công nghệ, sản phẩm được nghiên cứu tạo ra đã từng bước được thương mại hóa, chào bán.

Xác định KH&CN có vai trò quyết định đến sự phát triển KT – XH, thời gian tới, tỉnh tiếp tục xây dựng và phát triển tiềm lực KH&CN, xây dựng chính sách khuyến khích hình thành hệ thống các tổ chức KH&CN; tạo môi trường thu hút nguồn nhân lực ngoài địa phương; tỉnh cũng sẽ tiếp tục tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hiện có và tăng cường cơ sở hạ tầng kỹ thuật, phục vụ hoạt động KH&CN. Ngành KH&CN tiếp tục tham mưu cho tỉnh xây dựng các chính sách ưu đãi để thu hút các tổ chức, cá nhân đầu tư nghiên cứu, đào tạo, giáo dục; tiếp tục triển khai các chương trình hỗ trợ xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tại các cơ quan hành chính Nhà nước trên địa bàn tỉnh…

Khái Niệm Khoa Học Công Nghệ Là Gì? Ảnh Hưởng Của Khoa Học Công Nghệ

Trước khi tìm hiểu khái niệm khoa học công nghệ là gì thì ta phải hiểu rõ được các định nghĩa sau đây:

– “Khoa học” là những hoạt động nhằm xây dựng và tổ chức kiến thức dưới những lời giải thích là tiên đoán có thể kiểm chứng được về thế giới xung quanh. Thông qua các thông tin đó, các nhà khoa học sử dụng các quan sát dấu hiệu để biểu hiện ra tính vật chất và bất thường rồi sắp xếp chúng thành những dữ liệu để phântisch các hoạt động, tồn tại của sự vật hiện tượng.

– “Công nghệ” là sự phát minh và thay đổi việc vận dụng, sử dụng kiến thức về các công cụ máy móc kỹ thuật, các tính năng nhằm giải quyết một vấn đề hoặc cải tiến những giải pháp đã tồn tại nhằm đạt mục đích hoặc chức năng cụ thể, ảnh hưởng lên khả năng kiểm soát và thích nghi của con người.

2. Khoa học công nghệ thay đổi cuộc sống như thế nào?

Rất nhiều người dân cũng chia sẻ rằng nhờ sự tiến bộ của khoa học công nghệ mà các dịch vụ hiện đại như trên khiến họ không còn cảm thấy bị giới hạn bởi khảong cách địa lý nữa. Kể cả có mua hàng hoá hay dịch vụ từ nước ngoài thì các hao tác cũng được chuẩn bị nhanh chóng và dễ dàng, tiện lợi hơn.

2.2. Di chuyển bằng ứng dụng

Khái niệm khoa học công nghệ là gì đã cho ta thấy những sáng kiến, phát minh vĩ đại của con người có thể làm thay đổi bộ mặt của xã hội. Di chuyển bằng ứng dụng hiện nay cũng không phải là điều gì mới mẻ. Xuất hiện vào năm 2009 và hiện nay đang thành công vang dội, phủ sóng khắp mọi nơi, các ứng dụng di chuyển Uber và Grab đã khẳng định thế mạnh bắt nhịp làn sóng công nghệ và đảm bảo phục vụ nhu cầu về phương tiện đi lại cho con người một cách nhanh chóng nhất, gọn nhẹ nhất.

Việc áp dụng công nghệ này đã giúp giảm thiểu các chi phí nhân sự như tổng đài hgay điều phối viên. Các ứng dụng này hiện nay đã đem lại sự lựa chọn di chuyển với mức giá rẻ bất ngờ so với các phương thức truyền thống taxi. Không những vậy, công nghệ còn giúp người tài xế và khách hàng tìm được nhau nhanh hơn vì các ứng dụng sẽ tìm kiếm dựa trên cơ sở “Phạm vi gần đây” trong khoảng 1-2km đổ lại. Điều này giảm thời gian chờ xe trung bình của người dùng mà vẫn đảm bảo rằng họ vẫn có thể theo dõi lộ trình của bác tài đang đi đến đâu.

Chi phí cho chuyến di cũng được thanh toán qua các hình thức đa dạng như: Tiền mặt, thẻ thanh toán hoặc các thẻ tài khoản tín dụng.

2.3. Ăn uống, học hành cũng… online

Hiện nay không khó để người dân tìm được một món ăn ngon lành với mức giá “hạt dẻ” được mang đến tận nơi qua các ứng dụng trực tuyến như DeliveryNow, GrabFood. Những ứng dụng này sẽ cho phép người dùng chọn các quán ăn, nhà hàng sang trọng Hàn Quốc, Á, Âu đến những món ăn bình dân, ăn vặt,… với các hình thức thanh toán trực tuyến an toàn và đơn giản.

Không chỉ dừng lại ở đó, sự phát triển của khoa học công nghệ còn mang tới cho con người những lợi ích cho việc phát triển kiến thức và kỹ năng. Có các ứng dụng học tập trực tuyến thì bạn không còn phải lo lắng về chuyện tắc đường, đến muộn, hay nghỉ học nữa. Giờ đây mọi người có thể vào lớp trong bất cứ thời gian nào, địa điểm nào vì việc giảng dạy sẽ được gói gọn trong chiếc điện thoại. Các khoá học online cũng rất đa dạng đáp ứng mọi nhu cầu học tập của mọi người. Bạn có thể sử dụng những ngày cuối tuần với các khoá học miễn phí để dần dần làm quen với nội dung. Sau đó một thời gian thì bạn có thể tìm đến các khoá chuyên sâu hơn để ôn lượng các kỹ năng khác. Việc thanh toán cho các khoá học cũng nhanh chóng hơn nhờ vào dịch vụ thanh toán trực tuyến.

2.4. Thanh toán hoá đơn hàng tháng qua mạng

Nếu như trước đây bạn phải chi trả hoá đơn, điện, nước, internet qua các nhân viên thu tiền đến tận nhà hoặc đến tận nơi thu phí. Tuy nhiên giờ đây bạn chỉ cần đăng ký duy nhất một lần qua hệ thống tài khoản ngân hàng thì các chi phí cũng sẽ được trả tự động và đặc biệt còn chính xác đến từng số lẻ.

Các phương thức thanh toán tại quầy đã được thay thế bằng các hình thức khác như qua internet banking, mobile banking. Có những ngân hàng còn áp dụng dịch vụ tự động thanh toán cho các hoá đơn khác nhau mà người sử dụng dịch vụ sẽ không bị tính phí chút nào. Chỉ bằng một bước tự động hoá thì khách hàng sẽ luôn luôn trả hoá đơn đúng hạn, bớt đi 1 lo toán trong cuộc sống thường ngày.

2.5. Chăm sóc sức khoẻ thời 4.0

Sự đột phá trong lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ cũng là một bước tiến lớn của khoa học công nghệ. Với nhu cầu đảm bảo sức khoẻ ngày càng tăng của con người, các kết quả y tế phải chính xác hơn và đáp ứng phương pháp chẩn đoán, can thiệp và lưu trữ bệnh. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã phát và đang phát triển các nền tảng tích hợp cao độ của hệ thống số hoá – vật lý – sinh học. Công nghệ thông minh sẽ cung cấp kết quả ý tế với hiệu quả cao hơn. Các bệnh viện và cơ sở y tế hiện nay đã lắp đặt và sử dụng các hệ thống điện tử trong việc theo dõi phác đồ điều trị giảm tải đội ngũ y bác sĩ trong công tác chữa bệnh. Bằng những thuật toán hiện đại và trí tuệ nhân tạo AI, khoa học công nghệ đã mang lại những thay đổi lớn trong việc điều trị, phòng ngừa bệnh tật, chăm sóc sức khoẻ nhân dân.

Như vậy, để có những sự tiện nghi như hôm nay chúng ta phải thầm gửi lời cảm ơn tới sự phát triển của khoa học công nghệ. Bài viết trên đã giải thích khái niệm khoa học công nghệ là gì và những tác động tích cực của nó trong đời sống xã hội. Hy vọng rằng Timviec365 đã trang bị cho bạn những tin tức và kiến thức bổ ích, phục vụ cho công việc và học tập hàng ngày.

Chất Lượng Nguồn Nhân Lực Khoa Học Công Nghệ

Bài viết bàn về vấn đề nâng cao chất lượng nguồn nhân lực khoa học công nghệ. Nhận rõ tầm quan trọng của lực lượng cán bộ khoa học công nghệ (KHCN) trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước, Việt Nam đã đưa ra các chủ trương và chính sách nhằm thúc đẩy sự lớn mạnh cả về lượng và chất của đội ngũ này. Kết quả hiện nay, đội ngũ cán bộ KHCN nước ta đã được tăng cường về số lượng, nâng cao về chất lượng và hoạt động năng động, sáng tạo hơn trong cơ chế mới. Tuy nhiên, so với những yêu cầu của công cuộc CNH-HĐH đất nước, nhất là trong xu thế Việt Nam đang tiến hành hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới đòi hỏi các cán bộ KHCN phải có trình độ trí tuệ ngang tầm với khu vực và quốc tế, thì nguồn nhân lực KHCN của Việt Nam vẫn còn có nhiều điểm hạn chế. Điều đó đòi hỏi, cần có những giải pháp đồng bộ và thiết thực hơn để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực khoa học công nghệ.

Từ khóa: Chất lượng, nguồn nhân lực, khoa học công nghệ.

Phát triển nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực KHCN nói riêng là yếu tố quan trọng nhất để thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, đồng thời là mục tiêu của quá trình CNH,HĐH đất nước. Để KHCN phát huy được vai trò động lực phát triển kinh tế – xã hội, cần phải phát triển đồng bộ cả nguồn nhân lực KHCN lẫn cơ sở vật chất nghiên cứu và hoàn thiện cơ chế, chính sách KHCN, trong đó việc phát triển nguồn nhân lực có ý nghĩa quyết định.

2. Khái niệm nhân lực khoa học công nghệ

Quan niệm nhân lực khoa học công nghệ ở Việt Nam

Bộ Khoa học – Công nghệ vận dụng khái niệm nêu trong Luật Khoa học – Công nghệ đã có quy định cụ thể hơn về quan niệm nhân lực khoa học và công nghệ gồm các đối tượng: ” Đã tốt nghiệp đại học, cao đẳng và làm việc trong một ngành khoa học và công nghệ; đã tốt nghiệp đại học, cao đẳng, nhưng không làm việc trong một ngành khoa học và công nghệ nào; chưa tốt nghiệp đại học, cao đẳng, nhưng làm một công việc trong một lĩnh vực khoa học và công nghệ đòi hỏi trình độ tương đương “.

Tổng hợp các quan điểm, quy định nêu trong Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013, quan niệm của Bộ Khoa học – Công nghệ và các quan niệm của đa số các nhà nghiên cứu ở Việt Nam hiện nay, có thể thấy rằng, nhân lực khoa học và công nghệ nước ta gồm 5 thành phần chủ yếu sau:

+ Cán bộ nghiên cứu.

+ Cán bộ kỹ thuật, công nghệ.

+ Các cá nhân thuộc mọi tầng lớp xã hội.

+ Cán bộ quản lý các cấp.

+ Tri thức Việt Nam ở nước ngoài và các chuyên gia nước ngoài.

3. Vai trò của nhân lực KHCN

Những đóng góp của nguồn nhân lực KHCN trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội nói chung và trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng được thể hiện rõ nét ở những nội dung sau.

Thứ nhất, nguồn nhân lực KHCN là lực lượng chủ yếu trong việc xây dựng các luận cứ khoa học giúp Đảng và Nhà nước xác định đường lối chiến lược, chính sách, kế hoạch CNH, HĐH đất nước; đồng thời là lực lượng nòng cốt trong triển khai thực hiện các đường lối chính sách đó.

Thứ hai, nguồn nhân lực KHCN đảm nhiệm việc nghiên cứu, khảo nghiệm và ứng dụng các quy trình công nghệ mới, các thiết bị, công cụ mới, vào sản xuất; cải tiến và hệ thống hóa công nghệ truyền thống, nâng cao trình độ công nghệ.

Thứ ba, có thể nói, đây là lực lượng xung kích trong việc lựa chọn, tiếp thu và ứng dụng những tiến bộ công nghệ mới của thế giới vào phát triển các ngành kinh tế quốc dân của Việt Nam. Vai trò cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng của nguồn nhân lực KHCN là họ đã có đóng góp lớn trong việc tuyên truyền, phổ biến rộng rãi tri thức khoa học, kiến thức và công nghệ sản xuất tiên tiến, thực hiện việc dẫn dắt cho những bộ phận có năng lực và trình độ thấp hơn đi lên, qua đó góp phần nâng cao trình độ hiểu biết về KHCN và kỹ thuật sản xuất, nâng cao năng lực hoạt động sản xuất của công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động khác.

Thực trạng nguồn nhân lực khoa học công nghệ

Nhận rõ tầm quan trọng của lực lượng cán bộ KHCN trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước, Việt Nam đã đưa ra các chủ trương và chính sách nhằm thúc đẩy sự lớn mạnh cả về lượng và chất của đội ngũ này. Kết quả là hiện nay, đội ngũ cán bộ KHCN nước ta đã được tăng cường về số lượng, nâng cao về chất lượng và hoạt động năng động, sáng tạo hơn trong cơ chế mới. Theo số liệu thống kê, số cán bộ có trình độ đại học, cao đẳng trở lên hiện có khoảng 1,5 triệu người, trong đó số giáo sư, phó giáo sư khoảng 2.000 người, hơn 14.000 tiến sĩ, hơn 11.000 thạc sĩ. Số cán bộ hoạt động trong lĩnh vực KHCN hơn 34.000 người, hơn 42.000 cán bộ giảng dạy trong các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và hàng vạn cán bộ KHCN làm việc trong các ngành, lĩnh vực kinh tế khác.

Trong điều kiện quy mô và tiềm lực của nền kinh tế còn thấp, Việt Nam đã có những tiến bộ đáng khích lệ so với các quốc gia có thu nhập trung bình thấp, xét về trình độ và năng lực khoa học và công nghệ. Khoảng cách giữa Việt Nam và các nước trong khu vực được rút ngắn đáng kể trong xếp hạng năng lực cạnh tranh, năng lực đổi mới sáng tạo toàn cầu và ở một số lĩnh vực khoa học và công nghệ có thế mạnh.

Tuy nhiên, so với những yêu cầu của công cuộc CNH,HĐH đất nước, nhất là trong xu thế Việt Nam đang tiến hành hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới đòi hỏi các cán bộ KHCN phải có trình độ trí tuệ ngang tầm với khu vực và quốc tế, nguồn nhân lực KHCN của Việt Nam vẫn còn có nhiều điểm hạn chế. Thứ nhất, lực lượng này còn quá nhỏ bé so với yêu cầu (mới chỉ chiếm 17,5% lao động xã hội), trong khi đó vẫn còn 2,2% trong tổng số lao động có trình độ chưa có việc làm. Tại Hội chợ Nhân lực phần mềm Việt Nam năm 2015, có tới 63,4% công ty phần mềm khẳng định thiếu nhân lực trình độ cao. Thứ hai, chất lượng đội ngũ cán bộ KHCN nước ta hiện nay còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu của CNH, HĐH, nhất là yêu cầu đi tắt đón đầu về công nghệ. Hiện nay, Việt Nam rất thiếu nguồn nhân lực KHCN ở các ngành mũi nhọn, có tính chất quyết định như công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới,… Ví dụ rõ ràng nhất được thể hiện trong việc đăng ký và cấp bằng độc quyền sáng chế rất thấp của các cán bộ KHCN Việt Nam. Thứ ba, đội ngũ cán bộ KHCN nước ta hiện còn phân tán, thiếu tập trung với một bộ phận không nhỏ còn chưa tận tâm với nghiên cứu khoa học. Thứ tư, cơ chế thị trường chưa thực sự vận hành trong lĩnh vực nhân lực KHCN. Một yếu tố quan trọng của thị trường lao động là tiền lương chưa được xác định trên cơ sở thị trường. Cơ chế trả lương đang còn bị chi phối bởi quy định của Nhà nước về lương tối thiểu, thang, bảng lương.

4. Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực KHCN

Hội nhập quốc tế toàn diện với xu hướng toàn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ trên thế giới đã và đang đặt nước ta vào nguy cơ tụt hậu ngày càng xa về khoa học và công nghệ. Hơn lúc nào hết chúng ta càng phải thực hiện một cách thực chất các giải pháp mang tính đồng bộ, toàn diện để phát triển nhân lực khoa học và công nghệ.

Đổi mới tổ chức và cơ chế quản lý nguồn nhân lực KHCN:

Tổ chức bộ máy và nhân sự khoa học công nghệ vẫn do các cơ quan chủ quản của tổ chức KHCN quyết định nên đã hạn chế rất nhiều tính linh hoạt trong sử dụng nguồn lực, nhất là cán bộ có trình độ chuyên môn cao. Cách quản lý nhân sự hiện hành làm cho tổ chức KHCN luôn bị động trong sử dụng lao động, bị động trong việc trả lương và không khuyến khích cán bộ có năng lực. Vì vậy, cần tiếp tục đổi mới hơn nữa tổ chức và cơ chế quản lý đối với các tổ chức KHCN; đổi mới chính sách lương, thưởng đối với cán bộ hoạt động KHCN, mở rộng điều kiện tăng thu nhập cho các nhà khoa học tương xứng với những đóng góp của họ cho xã hội, đồng thời có các chính sách ưu đãi về vật chất và động viên kịp thời về tinh thần cho các nhà khoa học có đóng góp quan trọng.

Tăng cường gắn nghiên cứu với ứng dụng tạo động lực cho cán bộ KHCN:

Cần tạo điều kiện thuận lợi để các nhà khoa học gắn nghiên cứu với hoạt động sản xuất, kinh doanh, kết hợp đào tạo với nghiên cứu, không để lãng phí nguồn chất xám. Có như vậy, mới tạo ra được một thị trường khoa học rộng lớn, các nhà khoa học sẽ có “sân” để phát huy năng lực của mình.

Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển nguồn nhân lực KHCN:

Nhà nước cần hoàn thiện quy hoạch, kế hoạch đào tạo cán bộ KHCN trẻ để tạo ra một lực lượng lao động có năng lực và phẩm chất cần thiết đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của sự nghiệp CNH,HĐH. Để thực hiện điều đó, Nhà nước cần phải quan tâm nhiều hơn đến giáo dục – đào tạo, thực sự coi đó là “quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”; đồng thời phải đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo đại học và sau đại học ở các trường đại học, các học viện và các viện nghiên cứu, nhằm đáp ứng kịp thời lực lượng lao động có trình độ KHCN cao; cần có quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng lại đội ngũ cán bộ KHCN ở các trung tâm, viện nghiên cứu khoa học.

Nhà nước cần tăng cường đầu tư và đổi mới trang thiết bị nghiên cứu khoa học hiện đại cho các phòng nghiên cứu, thí nghiệm tại các trung tâm khoa học, các trường đại học, viện nghiên cứu; đồng thời, cần phải phát triển hệ thống thông tin, trang thiết bị thông tin hiện đại, mở rộng mạng thông tin để tất cả cán bộ KHCN đều có thể tiếp cận, khai thác và sử dụng các nguồn tài liệu KHCN vào công tác nghiên cứu. Cần tạo điều kiện cho các nhà khoa học đi đào tạo, bồi dưỡng, tham quan học tập trao đổi, hợp tác nghiên cứu khoa học ở những nước có trình độ khoa học – công nghệ tiên tiến hiện đại.

5. Kết luận

Tóm lại, đầu tư cho nhân lực khoa học và công nghệ là đầu tư cho phát triển bền vững, trực tiếp nâng tầm trí tuệ và sức mạnh của dân tộc. Quá trình chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động quản lý về kinh tế – xã hội, điều đó đòi hỏi càng ngày phải ứng dụng rộng rãi KHCN vào hoạt động quản lý của các Bộ, ngành, góp phần thực hiện tốt các nhiệm vụ đang đặt ra trong điều kiện mới. Tri thức khoa học và các thành tựu công nghệ cùng với việc lựa chọn được các biện pháp xây dựng, quản lý đội ngũ nhân lực khoa học công nghệ, trong đó xây dựng và hoàn thiện hệ thống chức danh nghề nghiệp trong lĩnh vực khoa học, công nghệ là một mũi nhọn, sẽ tạo lên sức mạnh tổng thể và là nguồn sức mạnh bền vững.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

Ban Chấp hành Trung ương (2016), Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 1/11/2016 về một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Chính phủ (2017), Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/09/017 về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức.

Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 579/QĐ-TTg ngày 19/4/2011 phê duyệt Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020.

Improving the quality of the science and technologgy’s human resourcesMaster. Ha Thi Thu ThuyFaculty of Basic EconomicsUniversity of Economics – Technology for Industries Abstract:

This article discusses the quality improvement of the science and technology’s human resources. Recognizing the importance of the science and technology’s human resources for the country’s renovation and development, Vietnam has set forth guidelines and policies to promote the growth of the science and technology’s human resources. As a result, the science and technology’s staff of Vietnam has ỉmproved in terms of both quantity and quality and become more creative in the new development mechanism. However, the science and technology’s human resources of Vietnam is still facing with shortcomings when comparing the country’s industrialization and modernization requirements. Especially when Vietnam has integrated more deeply into the world’s economy, it is important for the country to have high-quality human resources witth a certain level of knowledge and expertise. It is necessary for Vietnam to have comprehensive and practical soluttions to improve its quality of the science and technology’s human resources.

Keywords: Qualitty, human resource, science and technology.

Sở Khoa Học Và Công Nghệ

Thông báo số 309/TB-SKHCN ngày 06/4/2021 của Sở Khoa học và Công nghệ Thông báo Kết quả lựa chọn nhà gói thầu” Thiết kế cơ sở dữ liệu, lập trình phần mềm tính toán và phân tích đánh giá trình độ công việc và năng lực công nghệ sản xuất của doanh nghiệp và ngành/lĩnh vực trên địa bàn tỉnh Trà Vinh, năm 2020 thuộc Phương án Khảo sát, điều tra đánh giá trình độ công nghệ và năng lực công nghệ sản xuất của doanh nghiệp, ngành/lĩnh vực trên địa bàn tỉnh Trà Vinh, năm 2020

(700 Lượt xem )