Top 7 # Khái Niệm Về Kinh Tế Quốc Doanh Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 5/2023 # Top Trend | Tvzoneplus.com

Khái Niệm, Nội Dung Của Môi Trường Kinh Doanh Quốc Tế

1. Khái niệm:

Kinh doanh quốc tế khác biệt so với kinh doanh nội địa do môi trường thay đổi khi một doanh nghiệp mở rộng hoạt động của mình vượt ra ngoài biên giới quốc gia. Thông thường, một doanh nghiệp hiểu rất rõ về môi trường trong nước nhưng lại kém hiểu biết về môi trường ở các nước khác và do vậy doanh nghiệp phải đầu tư thời gian và nguồn lực để hiểu về môi trường kinh doanh mới. Môi trường kinh doanh quốc tế là môi trường kinh doanh ở nhiều quốc gia khác nhau. Môi trường này có nhiều đặc điểm khác biệt so với môi trường trong nước của doanh nghiệp, có ảnh hưởng quan trọng tới các quyết định của doanh nghiệp về sử dụng nguồn lực và năng lực. Vì các doanh nghiệp không có khả năng kiểm soát được môi trường bên ngoài nên sự thành công của doanh nghiệp phụ thuộc lớn vào việc các doanh nghiệp thích ứng như thế nào với môi trường này. Năng lực của một doanh nghiệp trong việc thiết kế và điều chỉnh nội lực để khai thác được các cơ hội của môi trường bên ngoài và khả năng kiểm soát các thách thức đặt ra của môi trường sẽ quyết định sự thành bại của doanh nghiệp.

2. Nội dung của môi trường kinh doanh quốc tế

Môi trường kinh doanh quốc tế thường bao gồm môi trường chính trị, pháp luật, môi trường kinh tế, môi trường văn hóa.

Môi trường chính trị là đề cập tới chính phủ, mối quan hệ giữa chính phủ với doanh nghiệp, và mức độ rủi ro chính trị ở một nước. Kinh doanh quốc tế có nghĩa là phải làm việc với các mô hình chính phủ khác nhau, các mối quan hệ và mức độ rủi ro khác nhau.

Một mối quan tâm đặc biệt của các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế là mức độ rủi ro chính trị tại một quốc gia cụ thể. Rủi ro chính trị là khả năng các hoạt động của chính phủ mang lại những kết quả không mong muốn cho doanh nghiệp ví dụ như quốc hữu hóa tài sản đầu tư, hay các quy định hay chính sách quy định hạn chế các hoạt động của doanh nghiệp. Thông thường, rủi ro gắn liền với tính bất ổn và một nước được coi là bất ổn, hay có mức độ rủi ro chính trị cao nếu như chính phủ dễ bị thay đổi, có bất ổn xã hội, có bạo loạn, cách mạng nổi dậy hay chiến tranh, khủng bố, vân vân… Các doanh nghiệp thường ưu tiên các quốc gia ổn định và có ít rủi ro chính trị, thu nhập của doanh nghiệp cần được tính toán trên cơ sở của các rủi ro. Đôi khi các doanh nghiệp thường kinh doanh tại các quốc gia khi các rủi ro tương đối cao. Trong trường hợp này, các doanh nghiệp sẽ quản trị và kiểm soát rủi ro thông qua bảo hiểm, quyền sở hữu và quản trị doanh nghiệp, kiểm soát cung ứng và thị trường, chương trình hỗ trợ tài chính…

Môi trường kinh tế giữa các nước khác nhau cũng khác nhau. Các nước về mặt kinh tế thường được chia ra làm ba loại chính – nước phát triển hoặc nước công nghiệp phát triển, nước đang phát triển và nhóm các nước chậm phát triển. Tại mỗi một nhóm nước, các chỉ số về kinh tế khác nhau nhiều nhưng chủ yếu có thể cho rằng các nước phát triển là nước giầu, nước đang phát triển là nước đang chuyển đổi từ nghèo sang giầu hơn và các nước nghèo. Sự phân biệt về môi trường kinh tế giữa các quốc gia này chủ yếu dựa trên chỉ số thu nhập quốc dân trên đầu người (GDP/người). Mức độ phát triển kinh tế của mỗi nước cũng quyết định về nền giáo dục, cơ sở hạ tầng, công nghệ, chăm sóc y tế và các lĩnh vực khác. Nước có mức độ phát triển kinh tế cao sẽ có chất lượng cuộc sống cao hơn các nước có mức độ phát triển kinh tế thấp.

Ngoài việc phân nhóm nước dựa trên mức độ phát triển kinh tế, các nước còn được phân loại dựa trên thể chế thị trường – có thể là nước có nền thị trường tự do, hoặc nền kinh tế kế hoạch tập trung hoặc nền kinh tế hỗn hợp. Nền kinh tế thị trường tự do là những nền kinh tế mà chính phủ ít tác động vào các hoạt động kinh doanh, các quy luật thị trường như quy luật cung cầu, quy luật giá trị được vận hành để ra các quyết định về khâu sản xuất và giá cả. Nền kinh tế kế hoạch tập trung là nền kinh tế tại đó chính phủ quyết định việc sản xuất và giá cả dựa trên những dự báo về cầu và khả năng cung theo mong muốn. Nền kinh tế hỗn hợp là nền kinh tế tại đó một số hoạt động được điều tiết bởi cung cầu thị trường và một số hoạt động khác, có thể là vì lợi ích quốc gia hoặc cá nhân mà chính phủ đứng ra trực tiếp điều tiết. Cuối thế kỷ XX đã chứng kiến sự dịch chuyển đáng kể của các quốc gia sang việc theo đuổi nền kinh tế thị trường tự do và nền kinh tế hỗn hợp. Rõ ràng trình độ kinh tế cùng với giáo dục, cơ sở hạ tầng… cũng như mức độ kiểm soát nền kinh tế của chính phủ sẽ ảnh hưởng mọi khía cạnh, mọi mặt của hoạt động kinh doanh và một doanh nghiệp cần am hiểu về môi trường này nếu như doanh nghiệp muốn kinh doanh quốc tế thành công.

Môi trường văn hóa là một trong những cấu phần quan trọng của môi trường kinh doanh quốc tế và là nội dung có tính thách thức nhất đối với kinh doanh quốc tế. Điều này bởi vì môi trường văn hóa thường khó nhận biết, môi trường văn hóa được hiểu là các giá trị và niềm tin được chia sẻ và được cho là đúng bởi một nhóm, một cộng đồng. Văn hóa quốc gia được hiểu là những niềm tin và giá trị được chia sẻ bởi cả một quốc gia. Niềm tin và giá trị thường được hình thành bởi các yếu tố như lịch sử, ngôn ngữ, tôn giáo, vị trí địa lý, chính phủ và đào tạo; vì vậy các doanh nghiệp cần phải phân tích văn hóa để hiểu về các yếu tố này.

Các doanh nghiệp cần hiểu về niềm tin và những giá trị của quốc gia mà doanh nghiệp đang thực hiện kinh doanh và một số các giá trị văn hóa do các học giả nghiên cứu đề xuất. Một trong số đó phải kể đến là hệ thống giá trị do Hofstede đề xuất vào năm 1980. Mô hình có bốn tham số đo lường về các giá trị văn hóa, đó là tính cá nhân, mức độ né tránh rủi ro, khoảng cách quyền lực và định hướng về giới. Tính cá nhân là mức độ một nước coi trọng và khuyến khích việc một cá nhân hành động và ra quyết định. Mức độ né tránh rủi ro là mức độ một nước chấp nhận và nhìn nhận rủi ro. Khoảng cách quyền lực là mức độ một nước chấp nhận và sự khác biệt về quyên lực. Định hướng về giới là mức độ một nước chấp nhận các giá trị truyền thống về nam giới và nữ giới. Mô hình các giá trị văn hóa này được sử dụng thường xuyên bởi các doanh nghiệp khi tiến hành đầu tư kinh doanh quốc tế. Ví dụ, một quốc gia có tính cá nhân cao thì doanh nghiệp đó cho rằng các hệ thống hướng đến mục tiêu cá nhân, nhiệm vụ cá nhân và chế độ thưởng sẽ phát huy được hiệu quả, trong khi đó chưa chắc hệ thống này sẽ có tác dụng tương tự ở một nước có tính cá nhân thấp.

phân biệt môi trường kinh doanh quốc tế và môi trường nội địa

,

Khái Niệm Về Toàn Cấu Hoá Kinh Tế Và Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế

Trong hơn một thập kỷ trở lại đây xu thế toàn cầu hoá gia tăng ngày càng mạnh mẽ.Và cùng với điều đó là những cách lý giải và thái độ không giống nhauđối với xu thế này.

Có quan điểm cho rằng toàn cầu hoá chỉ mới xuất hiện gần đây. Toàn cầu hoá được hiểu làchính sách của Mĩ nhằm bành trướng quyền lực,thống trị thế giới theo kiểu Mĩ,thưc chất toàn cầu hoá là Mĩ hoá.Quan niệm này đã đẩy tới thái độ phải chống lại quá trình này nhằm đảm bảo cho sự phát triển độc lập,đa dạng của các quốc gia.

Loại quan điểm thứ hai là quan điểm thừa nhận tính tất yếu khách quan của quốc tế hoá,toàn cầu hoá.Nhưng trong quan điểm này cũng có nhiều ý kiến khác nhau:Có người cho rằngtoàn cầu hoá xét về bản chất là quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ sự ảnh hưởng, tác động lẫn nhau phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia các dân tộc trên toàn thế giới ;có người lại cho rằng : “Toàn cầu hoá là giai đoạn cao của quá trình phát triển của lực lượng sản xuất trên thế giới,là kết quả tất yếu của phát triển kinh tế thị trường và khoa học công nghệ”

Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về toàn cầu hoá nhưng điểm quan trọng mà ta nhận thấy là toàn cầu hoá không chỉ là quá trình phản ánh sự gia tăng của các mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau mà nét quan trọng hơn là phản ánh qui mô của các hoạt động liên quốc gia.Từ đó ta có thể đưa ra môt khái niệm mang tính chất khái quát về toàn cầu hoá: “Toàn cầu hoá là sự gia tăng mạnh mẽ các mối quan hệ gắn kết,tác động phụ thuộc lẫn nhau,là quá trình mở rộng qui mô và cường độ hoạt động giữa các khu vực,các quốc gia các dân tộc trên phạm vi toàn cầu trong sự vận động phát triển”

Với quan niệm như vậy thế giới hoá cũng có nghĩa là toàn cầu hoá và quốc tế hoá được xem như giai đoạn trước đó của toàn cầu hoá. Quốc tế hoá,toàn cầu hoá là một quá trình,và vì vậy nó khác với các vấn đề toàn cầu. Tham gia vào quá trình quốc tế hoá,toàn cầu hoá chính là thực hiện hội nhập quốc tế.

Cùng với toàn cầu hoá và bổ sung cho toàn cầu hoá là xu thế khu vực hoá. Xu thế khu vưc hoá vừa là sự thể hiện vừa là sự phản ứng đối với xu thế toàn cầu hoá.Trong quan hệ với toàn cầu hoá thì xu thế khu vực hoá được xem là bước chuẩn bị để tiến tới toàn cầu hoá,mặt khác khu vực hoá hiện nay phản ánh một thực trạng co cụm nhằm bảo vệ những lợi ích tương đồng giữa một vài quốc gia trước những nguy cơ,những tác động tiêu cực do toàn cầu hoá đăt ra.

Khu vực hoá phản ánh sự khác biệt,mâu thuẫn về lợi ích giữa các quốc gia khu vực trong một thế giới đa dạng,trong đó sự hợp tác liên kết quốc tế ngày càng tăng lên nhưng cuộc đấu tranh vì lợi ích quốc gia,dân tộc,khu vực cũng rất gay gắt quyết liệt.

Khu vực hoá có nhiều mức độ khác nhau tư một vài nước và một vài vùng lãnh thổ đến nhiều nước tham gia vào một tổ chức nhằm hỗ trợ cho nhau trong phát triển, tận dụng nhưng ưu thế của khu vực trong quá trình tham gia nền kinh tế toàn cầu.

Các vấn đề kinh tế không chỉ mang các đặc trưng kinh tế đơn thuần ma luôn gắn liền với một hệ thôngs chính trị là nền tảng của nó. Về mặt thực tiễn rõ rằng ở quốc gia nào cũng vậy, người ta chỉ chấp nhận hội nhập kinh tế quốc tế một khi lợi ích của quốc gia đó cả về kinh tế, chính trị xã hội được đảm bảo. Với cách tiếp cận này có thể hiểu hội nhập kính tế quốc tế không chỉ la quá trình tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế mà còn được biểu hiện trong bản thân hệ thống chính sách thương mại, chính sách phát triển kinh tế của mỗi nước. Như vậy có thể xác định hội nhập kính tế quốc tế là việc các nước đi tìm kiếm một số điều kiện nào đó mà họ có thể thống nhất được với nhau, kể cả dành cho nhau nhưng ưu đãi, tạo ra nhưng điều kiện công bằng, có đi có lại trong quan hệ hợp tác với nhau… nhằm khai thác các khả năng lẫn nhau phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế của mình.

Để thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế, các điều kiện chung được quy định đối với mỗi quốc gia, là tự do hoá thương mại và đầu tư một cách công khai, rõ ràng. Cụ thể, các tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế hay khu vực nói chung đều hoạt động theo 4 nguyên tắc cơ bản sau:

– Tự do hoá thương mại: các nước chỉ được sử dụng thuế làm công cụ bảo hộ cho nền sản xuất của mình, các biện pháp phi thuế quan như giấy phép, quota, hạn ngạch xuất nhập khâu… đều không được sử dụng, các biểu thuế này đều phải có lộ trình rõ ràng công khai về việc giảm dần đến tự do hoá hoàn toàn (thuế suất bằng 0%).

– Làm ăn hay thương lượng với nhâu phải trên cơ sở có đi có lại: khi nền kinh tế thịt rường của một nước thành viên bị bị hàng nhập khâu đe doạ thái quá hoạc bị những biện pháp phận biệt đối xử gây hại, thì nước đó có quyền khước từ một nghĩa vụ nào đó hoặc có thể có những hành động khẩn cấp cần thiết, được các nước thành viên khác thừa nhận, đề bảo vệ quyền lợi cua nền kinh tế trong nước.

– Công khai mọi chính sách thương mại và đầu tư.

Với các điều kiện và nguyên tắc trên, nước ” đi sau” như nước ta có nhiều thuận lợi, nhất là học hỏi kinh nghiệm của các nước “đi trước”, nhưng cũng phải chịu rất nhiều khó khăn thách thức, mà quan trọng hàng đầu là bảo hộ nền sản xuất trong nước và các doanh nghiệp việt nam, nhất là các doanh nghiệp mới “chân ướt chân ráo” bước vào nền kinh tế thị trường. Đây khong chỉ đơn thuần là việc bảo hộ thuần tuý cho nền kinh tế, cho từng doanh nghiệp, mà còn là vấn đề của yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Trong giai đoạn mới việc hội nhập kinh tế quốc tế gắn liền với quá trình tự do hoá. Không thể có hội nhập quốc tế mà không có tự do hoá kinh tế, đây là một đặc điểm mới của xu thế toàn cầi hoá ngày nay. Vấn đề quan trọng trong việc hội nhập kinh tế quốc tế là cần xác định mức độ tiến trình hội nhập và tự do hoá như thế nào cho phù hợp với trình độ phát triển kinh tế để có thể phát huy được các thế mạnh của đất nước, tận dụng được những ưu thế của hợp tác quốc tế, tạo rá sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế quốc gia, nâng cao vị thế của mình trong phân công lao động quốc tế.

Tổng Quan Về Kinh Tế Ngoài Quốc Doanh

Kinh tế ngoài quốc doanh là loại hình kinh tế khá phong phú, bao gồm mọi loại hình kinh doanh cá thể, tổ hợp, hợp tác xã , công ty TNHH, công ty Cổ phần… hoạt động trên tất cả các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Với lĩnh vực tham gia rộng rãi như vậy, kinh tế ngoài quốc doanh đã tạo một phần không nhỏ GDP, thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế đất nước, thu hút lao động xã hội, tận dụng, khai thác tiềm năng của đất nước… Nhận thức rõ tầm quan trọng của khu vực kinh tế này, năm 1986, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã khẳng định đường lối phát triển kinh tế theo hướng: “kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN”. Sự khẳng định này khiến cho kinh tế quốc doanh không còn vị trí độc tôn như trước nữa, thay vào đó là chủ sở hữu tư nhân được thừa nhận, kinh tế ngoài quốc doanh được tồn tại và phát triển bình đẳng với kinh tế Nhà nước.

Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là các đơn vị kinh doanh có tính chất tư hữu (không kể các đơn vị đầu tư nước ngoài). Xét về loại hình doanh nghiệp bao gồm: Doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần và các đơn vị theo hình thức hợp tác xã (HTX).

Trong những năm gần đây quan điểm phát triển kinh tế nước ta bằng con đường công nghiệp hoá – hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân đòi hỏi sự khác nhau của các thành phần kinh tế. Số lượng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã tăng lên nhanh chóng và tham gia ngày càng tích cực vào thị trường, làm tăng sự sôi động trong nền kinh tế.

Trong nền kinh tế thị trường mọi thành phần kinh tế đều tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Chính sách kinh tế mở đã tạo cơ hội cho kinh tế ngoài quốc doanh phát huy hết khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường mọi thành phần kinh tế đều có quyền bình đẳng, chính điều này đã tạo nên sức mạnh và những thế mạnh riêng cho thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.

Thành phần kinh tế ngoài quốc doanh nước ta có những đặc điểm sau:

– Chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh và dễ thích ứng:

Người quản lý thường là chủ sở hữu hoặc là người có vốn lớn nhất nên họ được quyền đưa ra các quyết định. Cũng do quy mô hoạt động nhỏ nên họ được tự do hành động, họ có khả năng tự quyết, nên họ có thể chớp lấy những cơ hội kinh doanh thuận lợi. Vì vậy, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có sự thích ứng nhanh với sự thay đổi của thị trường. Việc thâm nhập vào thị trường hàng hoá trong giai đoạn này, sẽ đem lại cho doanh nghiệp thành công và khi sản phẩm bị thị trường từ chối thì doanh nghiệp dễ dàng rút lui và lựa chọn mặt hàng kinh doanh khác trong phạm vi được phép sao cho có lợi nhất phù hợp với khả năng của mình. Vì vậy đây là một thế mạnh để doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia thị trường với các doanh nghiệp Nhà nước.

– Cơ cấu quản lý linh hoạt:

Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường thích hợp với những cơ cấu tổ chức đơn giản. Số lượng nhân viên ít và các nhân viên này thường phải đảm nhận công việc theo kiểu đa năng. Phần lớn các chủ doanh nghiệp vừa phải đảm nhận vai trò quản trị (điều hành và chỉ huy nhân viên) vừa phải đảm nhiệm vai trò lãnh đạo (tìm kiếm và quyết định cơ hội đầu tư). Mặt khác, vốn của thành phần kinh tế này là do những chủ thể kinh doanh tình nguyện đóng góp, do các cổ đông đóng góp hay do liên doanh liên kết… bằng tiền hoặc tài sản. Vì thế họ có toàn quyền quyết định ngành nghề kinh doanh phù hợp với khả năng, trình độ nhu cầu của thị trường đối với loại hàng hoá mà họ sẽ kinh doanh. Mặc dù quy mô hoạt động khá bé nhỏ, song đó lại là một lợi thế cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng vòng quay vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.

– Chi phí gián tiếp thấp:

Đặc điểm của một doanh nghiệp ngoài quốc doanh là một người chủ và số nhân viên làm việc không thường xuyên, giúp cho chi phí thấp. Chi phí gián tiếp thấp tạo lợi thế cạnh tranh về giá của các sản phẩm cuối cùng. Chủ doanh nghiệp có tinh thần trách nhiệm cao vì lợi ích của họ gắn liền với sự thành bại của doanh nghiệp. Cũng chính vì vậy, họ đòi hỏi nhân viên làm việc nghiêm túc và hiệu quả, giảm thiểu sự lãng phí nguồn lực vẫn thường gặp ở các doanh nghiệp quốc doanh. Do vậy khối luợng vốn để hỗ trợ cho từng doanh nghiệp sẽ không lớn, hiệu quả và sử dụng vốn cao và thời gian thu hồi vốn nhanh.

Tuy nhiên, thành phần kinh tế ngoài quốc doanh cũng có không ít những hạn chế của nó.

. Trình độ công nghệ sản xuất còn ở mức thấp: Trình độ công nghệ là yếu tố quyết định đến năng suất, chất lưọng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Hiện tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có công nghệ hiện đại không nhiều, chỉ có một số công ty liên doanh, công ty có vốn đầu tư nước ngoài được trang bị máy móc và dây truyền tiên tiến, còn lại sử dụng các công cụ thủ công , thiếu đồng bộ.

. Môi trường sản xuất kinh doanh chưa ổn định: Nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã làm cho nền kinh tế nước ta trì trệ, không tạo động lực thúc đẩy các thành phần kinh tế nói chung và nền kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng, phát triển.

Trong cơ chế mới, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã dược phục hồi dần, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế có khả năng cạnh tranh bình đẳng trên thị trường. Với tinh thần tự chủ, năng động, sáng tạo, kinh tế ngoài quốc doanh đã sớm thích nghi với những biến đổi thường xuyên của thị trường, đóng góp không nhỏ cho nền kinh tế và ngày càng khẳng định vai trò không thể thiếu được của mình trong nền kinh tế.

Thứ nhất, kinh tế ngoài quốc doanh phát triển tạo điều kiện thu hút lao động, tạo thêm nhiều công ăn việc làm góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp trong xã hội.

Như chúng ta đã biết, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh với quy mô vốn đầu tư không nhiều có thể dễ dàng thành lập bởi một số cá nhân, gia đình hay một số tổ chức, cùng với việc sử dụng kỹ thuật sản xuất cần tương ứng nhiều lao động vì đây là nơi cung cấp việc nhanh nhất, giúp tạo việc làm với số vốn thấp hơn nhiều so với doanh nghiệp có quy mô lớn.

Trong những năm gần đây, cùng với số lao động được giải quyết việc làm bằng vốn đầu tư của ngân sách Nhà nước, đã có khá nhiều lao động có thêm việc làm do các đơn vị tư nhân bỏ vốn vào kinh doanh. Hàng năm có khoảng một triệu lao động có việc làm được tạo ra chủ yếu nhờ khu vực kinh tế này.

Thứ hai, kinh tế ngoài quốc doanh tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh, là động lực phát triển của nền kinh tế.

Trước đây hầu hết các lĩnh vực kinh tế, các ngành nghề sản xuất kinh doanh đều do khu vực kinh tế quốc doanh đảm nhận. Sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh đã tác động mạnh mẽ đến doanh nghiệp Nhà nước, buộc các doanh nghiệp này phải đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức kinh doanh để tồn tại và đứng vững trong cơ chế thị trường. Như vậy, sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã góp phần quan trọng hình thành và xác lập vị trí của chủ thể sản xuất kinh doanh theo yêu cầu của cơ chế thị trường, đẩy nhanh việc hình thành nền kinh tế nhiều thành phần, thúc đẩy cải cách doanh nghiệp nhà nước, cải tổ cơ chế quản lý theo hướng thị trường, mở cửa hợp tác với bên ngoài, nâng cao năng lực cạnh tranh.

Thứ ba, kinh tế ngoài quốc doanh phát triển góp phần tăng thu ngân sách Nhà nước.

Sản xuất kinh doanh phát triển là tiền đề tạo ra nguồn thu ngân sách Nhà nước. Do vậy, để tăng nguồn thu cho ngân sách, biện pháp quan trọng nhất là không ngừng phát triển kinh tế và đời sống xã hội. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tồn tại và phát triển là phần đóng góp to lớn cho ngân sách Nhà nước( khoảng 30%) thông qua thuế và các khoản khác. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có vai trò điều hoà thu nhập cũng như đóng góp vào ngân sách Nhà nước.

Thứ tư, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đóng góp cho nền kinh tế một khối lượng hàng hoá lớn, dịch vụ phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.

Bằng việc sản xuất hàng hoá, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã góp phần to lớn vào việc tạo ra sự phong phú về chủng loại hàng hoá, nâng cao chất lượng sản phẩm, từng bước cải thiện nâng cao đời sống nhân dân. Do đó, cơ hội lựa chọn hàng hoá và dịch vụ của người dân tăng lên và các doanh nghiệp phải ra sức cạnh tranh để có thể tiêu thụ sản phẩm của mình nhanh nhất. Để thắng lợi trong cạnh tranh, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh luôn tìm cách nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí để từ đó giảm giá thành.

Thứ năm, kinh tế ngoài quốc doanh là thị trường để ngân hàng huy động vốn, góp phần ổn định lưu thông tiền tệ.

Trong nền kinh tế thị trường, kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng phát triển đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân và cá thể. Kinh tế ngoài quốc doanh đã phát triển nhanh chóng cả về quy mô lẫn chất lượng. Tính đến tháng 12 năm 2002, cả nước có khoảng 36000 doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Các nhà sản xuất đều mở tài khoản tiền gửi tại hệ thống ngân hàng thương mại. Đây có thể coi là nguồn vốn rẻ và dồi dào cho việc huy động vốn của ngân hàng thương mại nếu họ biết tổ chức tốt công tác thanh toán, tạo ra nhiều dịch vụ hơn và thay đổi phong cách làm việc với khách hàng.

Khái Niệm Về Quan Hệ Quốc Tế

Hiện nay đã có nhiều định nghĩa về quan hệ quốc tế (international relation), nhưng tựu trung thì có các định nghĩa sau:

– Quan hệ quốc tế là mối quan hệ giữa các quốc gia có chủ quyền. Mọi quốc gia đều có quyền quyết định tối cao và tự do. Các quốc gia không ở dưới một uy quyền nào và đối nghịch với nhau, sử dụng quyền lực để thực hiện các mục tiêu và thỏa mãn các quyền lực của quốc gia mình. Quan hệ quốc tế có thể bao gồm nhiều vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.

– Quan hệ quốc tế là tổng thể những mối quan hệ về kinh tế, chính trị, tư tưởng, luật pháp, ngoại giao, quân sự…giữa những quốc gia & hệ thống quốc gia với nhau, giữa các giai cấp chính, các lực lượng tổ chức xã hội, kinh tế và chính trị chủ yếu hoạt động trên trường quốc tế (QHQT sau CTTG II. Nxb CTQG, 1962, tr.26; Inodensev, Liên Xô).

– Quan hệ quốc tế là tất cả các loại hình trao đổi hoạt động, là đối tượng quan hệ giữa các quốc gia và giữa các trao đổi của cá nhân (Krapchenko, Liên Xô).

Mở rộng: Học thuyết Marx – Lenin cho rằng, quan hệ xã hội, trong đó có quan hệ quốc tế, là do quan hệ vật chất (đó là hình thức kinh tế – xã hội, hiện tượng xã hội) quyết định ra. Quan hệ quốc tế được tiếp tục trong phạm vi quốc tế, các mối quan hệ xã hội được tiếp tục trong phạm vị dân tộc, và chính sách đối ngoại của quốc gia là từ chính sách đối nội mà ra. Hiển nhiên, chính sách đối ngoại độc lập có tác động trở lại đến chính sách đối ngoại quốc gia (mục tiêu, chính sách) nhưng theo một mức độ nào đó mà thôi. Động lực chính khiến cho quan hệ quốc tế xuất hiện đó là cuộc đấu tranh giữa các giai cấp khác nhau, các quốc gia và các chế độ xã hội khác nhau để giải quyết mâu thuẫn đối kháng giữa họ với nhau. Tương quan lực lượng các giai cấp, các quốc gia, các tổ chức chính trị – xã hội khác nhau sẽ quyết định đến quan hệ quốc tế. GS người Nga Sygankov thì cho rằng, quan hệ quốc tế là loại quan hệ xã hội đặc biệt vượt ra ngoài quan hệ xã hội bên trong quốc gia. Để làm rõ vấn đề này, ông đề ra 2 tiêu chí: các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chiến lược đối nội – đối ngoại; vai trò của người tham gia của nhà nước, các tổ chức chính trị – xã hội, đảng phái… Quan hệ quốc tế thực ra rất đa dạng, nhiều chiều và có sự tác động qua lại lẫn nhau. Chúng bao gồm các hoạt động thực tiễn của con người từ chính trị đến kinh tế, quân sự, thể thao…, do đó quan hệ quốc tế là loại quan hệ đặc biệt.

Khái niệm về quan hệ quốc tế

Admin Mr.Luân

Với kinh nghiệm hơn 10 năm, Luận Văn A-Z nhận hỗ trợ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ một cách UY TÍN và CHUYÊN NGHIỆP. Liên hệ: 092.4477.999 – Mail : luanvanaz@gmail.com ✍✍✍ Báo giá dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ ✍✍✍