NỘI DUNG KHÁI NIỆM VỀ QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC VÀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
Kiểm soát quyền lực nhà nước là yêu cầu tất yếu khách quan.
1.1 Khái niệm về quyền lực nhà nước và kiểm soát quyền lực nhà nước
Nhà nước là sản phẩm của đấu tranh giai cấp, xuất hiện từ khi xã hội loài người bị phân chia thành những giai cấp đối kháng. Quyền lực nhà nước là biểu hiện tập trung của quyền lực chính trị và là trung tâm của quyền lực chỉnh trị, được hình thành thông qua cuộc đấu tranh chính trị, nhằm giành quyền tổ chức nhà nước và thực hiện chức năng thống trị xã hội. Quyền lực nhà nước được thực hiện thông qua tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, trong đó có việc tổ chức và việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đồng thời còn được bảo đảm bằng các phương tiện độc quyền như luật pháp, và bộ máy cưỡng chế chuyên nghiệp quân đội, cảnh sát, nhà tù…
Sự thay đổi vai trò vị trí của các giai cấp trong đời sống sản xuất xã hội sẽ dẫn tới việc chuyển chính quyền nhà nước từ tay giai cấp này sang tay giai cấp khác, dẫn tới thay đổi căn bản tính chất của quyền lực nhà nước, phương thức cầm quyền, các quan hệ chính trị, các thể chế chính trị và hệ thống chính trị. Các cơ quan nhà nước thực chất là các cơ quan thực thi quyền lực nhà nước, được các giai cấp và lực lượng xã hội (còn gọi là nhân dân) trao quyền cho mà thôi. Tuy nhiên, do những hình thức ủy quyền và kiểm soát quyền lực nhà nước khác nhau, nên nhiều lúc quan hệ giữa người có chủ quyền và người được ủy quyền bị tha hóa, xuyên tạc.
Quyền lực nhà nước dưới chủ nghĩa xã hội có những điểm khác biệt so với quyền lực nhà nước trong các xã hội trước đó ở chỗ nhà nước chủ nghĩa xã hội là nhà nước chuyên chính của giai cấp công nhân. Nhưng lợi ích căn bản của giai cấp công nhân là thống nhất với lợi ích của đại đa số nhân dân lao động. Nên quyền lực nhà nước dưới chủ nghĩa xã hội đã có sự thống nhất giữa tính giai cấp và tính xã hội, giữa tính chính trị với tính công quyền. Trong các kiểu nhà nước khác, đặc biệt là nhà nước quân chủ chuyên chế, giữa chức năng giai cấp đối lập với chức năng xã hội, lợi ích của giai cấp thống trị đối lập với lợi ích quảng đại quần chúng.
Trong nền dân chủ chủ nghĩa xã hội, chức năng giai cấp và chức năng xã hội tạo thành một thể thống nhất, trở thành điều kiện và tiền đề hoàn thiện cho nhau. Ở Việt Nam, các bản hiến pháp đều nhất quán khẳng định quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Tại Điều 1 Hiến pháp 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã quy định rõ: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo giai cấp, tôn giáo”. Tư tưởng nhất quán này đều được thể hiện qua Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992. Tại Điều 2 và Điều 6 Hiến pháp 1992 thì “Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức”, “nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”. Quyền lực nhà nước bao giờ cũng được thực hiện bởi các cơ quan trong bộ máy, với những con nguời cụ thể trong bộ máy ấy. Vì vậy, việc thực thi quyền lực cụ thể phụ thuộc vào phương thức tổ chức bộ máy nhà nước và con người trong bộ máy ấy. Nếu như người cầm quyền được trao quyền, không biết thực thi quyền lực cho đúng, hoặc sử dụng quyền lực vì mục đích vụ lợi thì sức mạnh của quyền lực nhà nước sẽ gây nguy hiểm cho xã hội. Vì thế muốn có một xã hội tốt đẹp, quyền tự do con người được đề cao, xã hội không phải gánh chịu những lộng hành sai phạm vô ý thức hoặc có ý thức của nhà nước thì phải có cơ chế kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước, kiểm soát hoạt động của công chức, viên chức nhà nước. Đây là một yêu cầu tất yếu trong tổ chức và hoạt động của một nhà nước dân chủ, kể cả trong nền dân chủ XHCN của chúng ta.
Kiểm soát quyền lực nhà nước là hoạt động có chủ đích của nhà nước và xã hội, với tổng thể những phương tiện tổ chức và pháp lý thông qua các hình thức hoạt động như giảm sát, kiểm tra, thanh tra, kiếm sát, kiếm toán, tài phản nhằm hạn chế nguy cơ sai phạm cũng như những hành vi lộng quyền, chuyên quyền, độc đoán của cơ quan quyền lực nhà nước và của công chức nhà nước. Đảm bảo cho quyền lực nhà nước được thực hiện đúng mục đích, khoa học, hiệu lực và hiệu quả.