Top 10 # Ý Nghĩa Giáo Dục Là Gì Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Tvzoneplus.com

Vai Trò Ý Nghĩa Của Giáo Dục Steam Là Gì?

Giáo dục Steam không còn quá xa lạ tuy nhiên để hiểu đúng về Steam và vai trò ý nghĩa của giáo dục Steam lại là chuyện không dễ dàng.

1.Một số kiến thức cơ bản về giáo dục Steam

Khái niệm Steam là gì?

STEAM là viết tắt của những cụm từ Science ( Khoa học), Technology ( Công nghệ), Engineering ( Kỹ thuật), Arts ( Nghệ thuật) và Math ( Toán học).

Vai trò ý  nghĩa của giáo dục Steam là gì?

2. Những mô hình giáo dục Steam tiêu biểu

Steam cho trẻ mầm non

Trẻ mầm non không tiếp thu hết những khái niệm hay kiến thức mơ hồ theo kiểu lý thuyết suông mà trẻ ghi nhớ qua những gì trẻ nhìn thấy và trẻ làm theo.

Nghệ thuật là yếu tố quan trọng trong Steam mầm non

Chính vì vậy tạo cho trẻ môi trường học tập và vui chơi thỏa mái tự do là một trong những cách thức giáo dục phù hợp của phương pháp Steam mầm non.

Giáo dục stem cho học sinh tiểu học

Trên thực tế học sinh bậc tiểu học sẽ được trang bị những kiến thức xoay quanh các môn học tự nhiên xã hội cho các em học sinh lớp 1,2,3 và các môn khoa học cơ bản cho học sinh lớp 4,5. Tuy nhiên với mô hình Steam này thay vì phải tìm hiểu quá nhiều trên sách vở thì các em được trải nghiệm thực tế, vai trò ý nghĩa của giáo dục Steam là ứng dụng kiến thức đã được học vào giải quyết những vấn đề xảy ra trong đời sống hằng ngày.

STEAM dành cho cấp trung học cơ sở

Đến bậc trung học phương pháp này vẫn được áp dụng theo nguyên tắc cơ bản đó tuy nhiên độ khó tăng dần.

Robotics được xem là phương thức học mới mẻ và hấp dẫn

Nếu như ở những bậc thấp hơn các em chưa được tiếp xúc nhiều với khoa học, kỹ thuật, công nghệ thì lên cấp học này các em sẽ làm quen với nó.

STEAM dành cho cấp phổ thông trung học

Đây được xem là giai đoạn cốt lõi để quyết định nghề nghiệp tương lai của các em sau này. Học sinh có thể dựa vào sở thích, kỹ năng, kiến thức của mình thông qua những trải nghiệm Steam để làm căn cứ định hướng nghề nghiệp khi bước qua cánh cửa trung học phổ thông và đó cũng là vai trò ý nghĩa của giáo dục Steam giai đoạn này.

3. Vai trò ý nghĩa của giáo dục Steam

Giáo dục Steam đề cao phượng diện thực hành trong học tập từ đó rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy và sáng tạo là cốt lõi.

Steam đề cao tính thực hành trong việc học

Vai trò ý nghĩa của giáo dục Steam là trang bị cho học sinh những kỹ năng căn bản phù hợp với đòi hỏi phát triển của thế kỷ mới như khả năng diễn đạt và thuyết trình, kỹ năng phản biện và sáng tạo, kỹ năng làm việc nhóm…nhạy bén trong xử lý tình huống.

Qua các hoạt động tập thể và những sản phẩm thu hoạch được sau quá trình học có thể trực tiếp hoặc gián tiếp phục vụ cộng đồng, phục vụ xã hội.

Phương pháp giáo dục Steam lấy học sinh làm trung tâm của quá trình dạy học, học sinh được khuyến khích và động viên sáng tạo trong quá trình học. Học sinh được khám phá sáng tạo thỏa sức nên các em luôn được tạo cơ hội được thử thách và được phép thất bại trong quá trình học để trưởng thành hơn và quan trọng là học sinh được chủ động vượt lên chính mình.

Ý Nghĩa Của Phương Pháp Giáo Dục Sớm

Giáo dục sớm là nền tảng, khai mở và phát triển tiềm năng của con người

Trong giai đoạn vàng từ 0 – 6 tuổi, đặc biệt từ 0 – 3 tuổi. Đây là giai đoạn đầu đời của trẻ, chức năng của bộ não được nuôi dưỡng để phát triển. Trẻ được nuôi dưỡng trong điều kiện tốt nhất cả về thể chất lẫn tinh thần. Trẻ cần có chế độ ăn hợp lí, khoa học với đầy đủ các nhóm dinh dưỡng. Bên cạnh đó là trẻ cần được tiếp nhận các kích thích từ bên ngoài để hoạt động tốt.

Giáo dục sớm chính là quá trình bồi dưỡng nên nền tảng tính cách của mỗi người.

Nền tảng tính cách của mỗi người được hình thành từ hiện thực cuộc sống ở những năm đầu đời. Trẻ sinh ra không ở cùng cha mẹ thì sau 6 tháng sẽ mất đi cảm giác gần gũi với mẹ. Chúng sẽ bị ảnh hưởng với người mà luôn luôn ở bên.Tuổi ấu thơ sẽ là dấu ấn sâu sắc nhất trong cuộc đời mỗi đứa trẻ. Nói như lời của Krupskaya: “Trải nghiệm thời thơ ấu đã để lại những dấu ấn rất sâu sắc trong cuộc đời tôi”.

Giáo dục sớm là một bước đột phá của khoa học giáo dục hiện đại, tập trung trong giai đoạn vàng từ 0 (thai nhi) đến 6 tuổi, thời kỳ phát triển nhanh nhất của não bộ. Nghiên cứu về giáo dục trẻ từ sớm đã khẳng định: Cung cấp những trải nghiệm phong phú kích hoạt não trẻ ngay từ sơ sinh và trong lứa tuổi mầm non sẽ hình thành nên hàng tỉ các kết nối và mạng lưới thần kinh dày đặc trên bộ não trẻ, giúp trẻ đạt được những tiềm năng trí lực tối đa cho cả cuộc đời.

Nhà giáo dục Nhật Bản Makoto Shichida từng nói: “Không nên đợi đến lúc não phát triển mới sử dụng nó, mà phải thúc đẩy não phát triển ngay trong quá trình sử dụng nó. Giáo dục sớm chính là giáo dục nhằm thúc đẩy chức năng hai bên bán cầu não phải và não trái phát triển một cách tối ưu”.

Sau nhiều năm nghiên cứu, nhà tâm lý học người Mỹ Benjamin Bloom đã phát biểu: nếu đến năm 17 tuổi, trí tuệ của một con người có thể phát triển 100% thì vào năm 4 tuổi, trí tuệ của anh ta đã phát triển tới 50%, đến năm 8 tuổi đã phát triển tới 80%, trong 9 năm từ 8 tới 17 tuổi chỉ phát triển thêm 20%.

Vì vậy, phương pháp giáo dục trẻ sớm nhằm kích hoạt tư duy, khai mở tiềm năng trí tuệ của não bộ trẻ một cách tối đa để trẻ có thể phát triển toàn diện về ngôn ngữ, trí tuệ, tư duy, thể chất, tính cách, kỹ năng sống và tiềm năng về năng khiếu.

Xã Hội Hóa Giáo Dục Là Gì? Bản Chất, Vai Trò Và Ý Nghĩa

Xã hội hoá giáo dục là huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý của Nhà nước để xây dựng một xã hội học tập; là việc thực hiện mối liên hệ phổ biến giữa hoạt động giáo dục và cộng đồng xã hội, làm cho giáo dục phù hợp với sự phát triển của xã hội, thích ứng với xã hội, duy trì sự cân bằng giữa hoạt động giáo dục và xã hội.

Xã hội hoá giáo dục là làm cho hoạt động giáo dục mang tính xã hội. Trong đó người đi giáo dục và người được giáo dục trong mọi hoạt động về nội dung và phương thức thực hiện, kết quả đạt được đều mang tính xã hội, tính chuẩn mực xã hội rất cao. Giáo dục nhằm bồi đắp cho người học tư tưởng, hình thành ý thức chính trị, nhân cách, bản lĩnh dân tộc cùng với những tri thức khoa học, kỹ thuật, văn hoá, đạo đức, lối sống.

Công tác xã hội hoá giáo dục là đa dạng hoá các loại hình giáo dục; là quá trình trao đổi những kinh nghiệm, đổi mới nội dung chương trình, phương pháp, hình thức, phương tiện giáo dục một cách phù hợp với đối tượng và điều kiện nước ta.

Tại Việt Nam, công tác xã hội hóa giáo dục là điều kiện cần thiết và tất yếu để phát triển giáo dục và đào tạo; là chủ trương đúng đắn mang tính chiến lược của Đảng. “xã hội hóa công tác giáo dục là chính sách huy động mọi nguồn lực của nhân dân, của các tổ chức kinh tế – xã hội tham gia vào sự nghiệp giáo dục, đầu tư vào hoạt động giáo dục trên cơ sở phù hợp với khả năng tài chính và trình độ chuyên môn nhằm xây dựng xã hội học tập”.

Văn kiện Đại hội IX của Đảng có nêu: “Thực hiện chủ trương xã hội hóa giáo dục, phát triển đa dạng các hình thức đào tạo, đẩy mạnh việc xây dựng các quỹ khuyến khích phát triển tài năng, các tổ chức khuyến học, bảo trợ giáo dục”.

Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ X nhấn mạnh: “Đổi mới cơ cấu tổ chức, nội dung, phương pháp dạy và học theo hướng “Chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa”. Phát huy trí sáng tạo, khả năng vận dụng, thực hành của người học. Đề cao trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội. Chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở – mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời”.

Như vậy xã hội hóa công tác giáo dục là một quá trình mà cả cộng đồng và xã hội cùng tham gia vào giáo dục. Trong đó mọi tổ chức xã hội, gia đình và công dân có trách nhiệm chăm lo sự nghiệp giáo dục, phối hợp với nhà trường thực hiện các mục tiêu giáo dục, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh và an toàn.

2.1. Bản chất của xã hội hóa công tác giáo dục

Mác quan niệm: ” Con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”, nhân cách con người hình thành dưới tác động các mối quan hệ xã hội và thông qua các hoạt động giáo dục. Đó là cơ sở khoa học để chứng minh rằng xã hội hóa công tác giáo dục là việc làm thích hợp để trả lại cho giáo dục bản chất xã hội vốn có của nó.

Xã hội được xem như sự hợp thành của các thành phần là nhà trường, gia đình, xã hội. Trong cấu trúc xã hội, giáo dục nằm trong các thành phần này, vì thế giáo dục không còn là trách nhiệm riêng một mình ngành giáo dục mà là của tất cả mọi thành phần, đòi hỏi có sự tham gia, gánh vác của toàn xã hội.

Cho nên đa dạng hóa các loại hình cung cấp dịch vụ và huy động, thu hút các tổ chức chính trị – xã hội, các ngành đoàn thể, các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân,… cùng tham gia vào sự nghiệp phát triển giáo dục dưới sự quản lý của Nhà nước để góp phần giáo dục cho trẻ em trong độ tuổi. Đó là bản chất của xã hội hóa công tác giáo dục.

2.2. Vai trò của xã hội hóa công tác giáo dục

Xã hội hoá công tác giáo dục góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.

Xã hội hoá công tác giáo dục huy động được các nguồn lực, tiềm năng của xã hội, khắc phục khó khăn trong quá trình phát triển giáo dục.

Xã hội hoá công tác giáo dục tạo sự công bằng, trách nhiệm, dân chủ trong hưởng thụ.

Xã hội hoá công tác giáo dục góp phần nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước về giáo dục…

2.3. Ý nghĩa của việc thực hiện xã hội hóa công tác giáo dục

Thực hiện xã hội hóa công tác giáo dục là tạo ra một “xã hội học tập” góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho cộng đồng. Mở rộng hình thức giáo dục thường xuyên, tăng cường quy mô, hình thức dạy học cho toàn dân phấn đấu thực hiện tốt giáo dục toàn diện: đức, trí, thể, mỹ, lao động.

Coi trọng giáo dục tư tưởng chính trị, chú ý hình thành tư duy sáng tạo và năng lực thực hành cho người học… xã hội hóa công tác giáo dục góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, tạo nên những điều kiện vật chất và tinh thần để nâng cao chất lượng giáo dục; làm cho giáo dục thực sự phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương, phục vụ trực tiếp lợi ích cho từng cá nhân; tạo điều kiện cho mục đích của giáo dục phù hợp với mục đích của từng cá nhân tham gia giáo dục.

Tạo điều kiện làm phong phú hơn cho nội dung và phương pháp giáo dục; thực hiện công bằng xã hội và dân chủ hoá giáo dục, nhờ dân chủ hóa mà mở rộng LLXH tham gia giáo dục, làm cho mọi người hiểu được giáo dục không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước mà còn là trách nhiệm của toàn xã hội, của mỗi gia đình, từng cá nhân người đi học.

Xã hội hoá giáo dục thực chất là nhằm xóa bỏ mọi hình thức áp đặt của cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, khơi dậy tiềm năng sáng tạo, năng động và nội lực to lớn trong mọi tầng lớp nhân dân để thúc đẩy sự phát triển của giáo dục và đào tạo phù hợp và đáp ứng sự phát triển của thời đại. Các điều kiện thực hiện Xã hội hoá công tác giáo dục:

Dân chủ, công khai quá trình tổ chức và quản lý

Nâng cao nhận thức và thực hiện các văn bản, Nghị quyết của Đảng và Nhà nước về xã hội hóa công tác giáo dục

Đa dạng hóa giáo dục và đào tạo

Xây dựng và phát triển các tổ chức khuyến học

Xây dựng và đẩy mạnh hoạt động phối hợp giữa xã hội với nhà trường và gia đình

Tổ chức Đại hội ban đại diện cha mẹ học sinh các cấp

Kant: Giáo Dục Là Gì?

Bùi Văn Nam Sơn  

Lập trường giáo dục của Kant dựa trên nhận định cơ bản sau đây: giáo dục là mệnh lệnh đối với sự phát triển của nhân loại. Chính vì con người có “xu hướng mạnh mẽ hướng đến tự do”, nên con người “cần phải làm quen ngay từ tuổi ấu thơ để chấp nhận mệnh lệnh của lý trí”.

Ta vừa biết qua bốn câu hỏi cốt lõi của triết học Kant: Tôi có thể biết gì? Tôi phải làm gì? Tôi được phép hy vọng gì? và, sau cùng, theo ông, cả ba câu hỏi quy về câu hỏi thứ tư: Con người là gì? Chưa đi sâu, ta có thể nhận ra rằng câu hỏi thứ tư không nhắm đến những câu trả lời trừu tượng, viển vông, trái lại, là câu hỏi năng động: “Con người chỉ có thể trở thành người thông qua giáo dục. Con người không gì khác hơn là những gì được giáo dục tạo nên.” (Về giáo dục, 1803). “Con người là gì hay vận mệnh của con người ra sao, theo nghĩa đạo đức là thiện hay ác, là do chính con người làm lấy, cả bây giờ và trong quá khứ.” (Tôn giáo trong ranh giới của lý tính đơn thuần, 1793). Vậy, có thể mạnh dạn nói rằng, theo nghĩa thâm sâu nhất, triết học Kant là một triết thuyết giáo dục!

Kant tiếp cận các vấn đề đặt ra trong các câu hỏi nói trên ở cả hai bình diện tư tưởng:

– Thứ nhất, trong tinh thần phê phán và khai minh, Kant cố làm rõ tiềm năng lẫn giới hạn của lý tính con người. Điều này giải thích sự “khiêm tốn” lạ thường khi Kant cho rằng ta nên vừa lòng với tiềm năng mà kinh nghiệm có thể mang lại cho ta (“những hiện tượng”). Trong tác phẩm trứ danh “Phê phán lý tính thuần túy”, ông biện minh cho điều ấy và chứng minh sự phi lý và bất khả của những “tín điều” xuất phát từ tham vọng muốn dùng “lý tính thuần túy” (vượt khỏi phạm vi kinh nghiệm) hòng xây dựng tri thức “khoa học” về “những vật tự thân” mà ta không tài nào đạt đến được.

– Nhưng, mặt khác, Kant không muốn trói buộc con người trong phạm vi chật hẹp của kinh nghiệm giác quan, cắt cụt đôi cánh hướng thượng trong tâm hồn phong phú của con người. Ông nhìn nhận những khả thể vô hạn của con người trong kích thước đạo lý và nhân sinh. Đó là kích thước của tự do nội tâm, của hành động luân lý, của đức tin vào cái siêu việt. Tuy nhiên, những đức tin có thể mang lại an vui, hạnh phúc cho con người này tuyệt nhiên không được phép biến thành những “học thuyết” giáo điều để rao giảng, nhồi sọ vì nhầm tưởng rằng có thể “chứng minh” được chúng. Kant cảnh báo rằng, nếu giả sử chúng được chứng minh theo kiểu khoa học thì tự do trí tuệ, tự do lương tâm ắt không còn có lý do tồn tại! Làm sao “chứng minh” được sự tự do khi ta hàng ngày hàng giờ ở trong vòng vây của những định luật tự nhiên tất yếu? Cũng thế, làm sao “chứng minh” được nhân phẩm nếu ta chỉ xem xét con người đơn thuần ở phương diện sinh vật? Thế nhưng hiếm có ai dám phủ nhận tự do và nhân phẩm! Vậy, giải quyết như thế nào? Kant cho rằng ta nên quan niệm con người đồng thời là “công dân” của cả hai thế giới: thế giới khả giác và thế giới siêu cảm giác. Ta không thể và không cần chứng minh, trái lại ta thể nghiệm và sống thật với hai thế giới ấy qua vô vàn ví dụ trong đời sống thường ngày. Không ai “bắt” ta phải cứu người bị nạn không quen biết ngoài sự tự do lương tâm của ta. Không ai có thể ngăn cản ta lên tiếng và phản kháng nếu ta cảm thấy nhân phẩm mình bị xúc phạm hay chà đạp. Quan niệm của Kant là một phiên bản mới của lý thuyết “hai thế giới” vốn quen thuộc trong lịch sử tư tưởng: hoặc mang tính thần học trong các nền tôn giáo lớn, hoặc mang tính huyền học trong nhiều triết thuyết (chẳng hạn nơi Platon và Plotius v.v…). Phiên bản của Kant là mới mẻ, bởi nó không phải là thần học lẫn huyền học mà là triết học, theo nghĩa thế tục, dựa hoàn toàn vào bản tính con người như một sinh vật có lý tính và tự do. Khi Kant viết: “Tôi thấy cần thiết phải dẹp bỏ tri thức để dành chỗ cho lòng tin”, ông không muốn nói gì khác hơn là cần phân định rạch ròi thẩm quyền và phạm vi của “biết” và “tin”, mở đường cho những điều xác tín về đạo lý trong không gian sinh hoạt nhân sinh vô cùng phong phú của con người. Có thể nói, học tập để biết cách làm người “công dân” xứng đáng của hai thế giới là mục tiêu của triết thuyết giáo dục khai minh của Kant.

KANT VÀ “CÁC BÀI GIẢNG VỀ GIÁO DỤC”

Tư tưởng giáo dục của Kant bàng bạc trong những tác phẩm chính yếu của ông (ba quyển Phê phán nổi tiếng) dù chúng không trực tiếp bàn về giáo dục. Những công trình khác cũng rất quan trọng gồm một số những bài viết ngắn mà tiêu biểu là: “Ý niệm về lịch sử phổ quát với mục đích làm công dân thế giới” (1784); “Phỏng đoán về khởi nguyên của lịch sử loài người” (1786); “Trả lời câu hỏi: Khai minh là gì?” (1784) và một số tác phẩm dài hơn: “Hướng đến nền hòa bình vĩnh cửu” (1795); “Nhân học dưới giác độ thực tiễn” (1798) và “Tôn giáo trong ranh giới của lý tính đơn thuần” (1793).

Là giáo sư triết học, ông thỉnh thoảng được yêu cầu phải giảng chuyên đề về triết học giáo dục. Kant đã giảng vào bốn lục cá nguyệt từ 1776/1777, 1780, đến 1783/1784 và 1786/1787. Như ta đã biết, các bài giảng này được môn đệ tập hợp lại, công bố năm 1803 với nhan đề “Về giáo dục học”. Trong khuôn khổ giới hạn, ta sẽ tìm hiểu tư tưởng giáo dục của Kant dựa trên các bài giảng này, xung quanh ba câu hỏi chủ yếu: giáo dục là gì? giáo dục cho ai? và giáo dục như thế nào? Ta sẽ không quên liên hệ ba câu hỏi này với các tác phẩm khác, nếu xét thấy cần thiết để hiểu ông hơn.

Ý NIỆM GIÁO DỤC

Lập trường giáo dục của Kant dựa trên nhận định cơ bản sau đây: giáo dục là mệnh lệnh đối với sự phát triển của nhân loại. Chính vì con người có “xu hướng mạnh mẽ hướng đến tự do”, nên con người “cần phải làm quen ngay từ tuổi ấu thơ để chấp nhận mệnh lệnh của lý trí”. Nếu con người (cá nhân cũng như giống loài) không gì khác hơn là sản phẩm của giáo dục, thì cần nhận rõ rằng “con người luôn được người khác dạy dỗ và bản thân những người này cũng từng được dạy dỗ trước đó”. Vậy, giáo dục có thể được xem như là sự kiện thường nghiệm, diễn ra trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, nhưng đồng thời, cần được xét theo bề sâu nhân học trong sự liên hệ mật thiết với một “Ý niệm” mang tính quy phạm. “Ý niệm” là thuật ngữ then chốt của triết học Kant, và không có nghĩa gì khác hơn là khái niệm về một sự hoàn hảo mà ta không bao giờ có thể trải nghiệm trọn vẹn được. Ý niệm là ngôi sao Bắc đẩu dẫn đường, đồng thời là đường chân trời chỉ có thể tiệm cận và càng đến gần càng lùi xa.

Do đó, Ý niệm về giáo dục là thước đo cho việc thực hành giáo dục. Chính nó mới là cơ sở cho phép ta tiến hành mọi sự phê bình, đánh giá đối với nền giáo dục nói chung cũng như đối với nhà trường cũng như việc dạy và học. Dù khó thực hiện hoặc chỉ có thể thực hiện từng bước, Ý niệm giáo dục, theo Kant, chính là “việc phát triển tối đa mọi tố chất và tiềm năng thiên phú của con người, vì sự thiện hảo”. 

Nền giáo dục thiện hảo là gì và nó nắm giữ chìa khóa bí mật nào cho sự thăng tiến của nhân loại nói chung và cho con người với tư cách “công dân thế giới”?  

(Nguồn: Người Đô Thị, Bộ mới, số 17, 22.05.2014)