Top 3 # Yêu Mến Nghĩa Là Gì Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Tvzoneplus.com

Sự Yêu Mến Đức Chúa Trời Có Nghĩa Gì?

“Nầy là sự yêu-mến Đức Chúa Trời, tức là chúng ta vâng-giữ điều-răn Ngài” ( I GIĂNG 5:3).

1. Chúng ta nên bày tỏ sự yêu mến thế nào đối với Đức Chúa Trời và với kết quả nào?

VỀ VIỆC nhân loại có bổn phận thờ phượng Đức Chúa Trời, Giê-su nói: “Ngươi hãy hết lòng, hết linh-hồn, hết ý mà yêu-mến Chúa [Đức Giê-hô-va], là Đức Chúa Trời ngươi” ( Ma-thi-ơ 22:37). Chúng ta nên bày tỏ sự yêu mến này thế nào? Kinh-thánh trả lời: “Vì nầy là sự yêu-mến Đức Chúa Trời, tức là chúng ta vâng-giữ điều-răn Ngài” ( I Giăng 5:3). Những người làm thế có được kết quả tốt nào? Giăng nói: “Ai ở trong sự yêu-thương, là ở trong Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời ở trong người ấy” ( I Giăng 4:16b).

2. Chúng ta nên thờ phượng một mình ai?

2 Nếu chúng ta yêu mến Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ không thờ phượng bất cứ tạo vật nào dù còn sống hay đã chết, nhưng chỉ thờ một mình Đức Chúa Trời mà thôi ( Lu-ca 4:7, 8). Sứ đồ Phi-e-rơ, và cả một thiên sứ, cũng đã từ khước chấp nhận sự thờ phượng của loài người ( Công-vụ các Sứ-đồ 10:25, 26; Khải-huyền 22:8, 9). Cũng thế, Giê-su cho thấy mẹ ngài là bà Ma-ri cũng không nên được bất cứ sự tôn thờ nào, vì chỉ Đức Chúa Trời mới nên được tôn thờ nào, vì chỉ Đức Chúa Trời mới nên được tôn thờ mà thôi ( Lu-ca 11:27, 28; Giăng 2:3, 4; Khải-huyền 4:11). Sự thờ phượng hướng sai chỗ của một người sẽ đưa đến kết quả là làm trái ngược điều răn của Đức Chúa Trời là “chẳng ai được làm tôi hai chủ” ( Ma-thi-ơ 6:24).

Xử dụng thập tự giá trong tôn giáo

3. Quan điểm của các tôn giáo tự xưng theo đấng Christ là thế nào đối với việc xử dụng thập tự giá?

3 Cũng có những vật vô tri vô giác mà nếu tôn kính có thể đưa đến việc phạm điều răn Đức Chúa Trời. Trong số đó thông dụng nhất là thập tự giá. Hằng bao thế kỷ người ta đã dùng thập tự giá trong các tôn giáo tự xưng theo đấng Christ như một phần trong sự thờ phượng của họ. Cuốn “Tân Bách khoa Tự điển Anh-quốc” ( The New Encyclopoedia Britannica) gọi thập tự giá là “biểu tượng chính yếu của đạo Gia-tô”. Trong một phiên xử của tòa án Hy-lạp, Giáo hội Chính thống Hy-lạp đã quả quyết rằng những ai chống báng cây “Thánh Giá” không phải là tín đồ đấng Christ. Nhưng thập tự giá có thật là biểu tượng của đạo đấng Christ không? Thập tự giá bắt nguồn từ đâu?

4, 5. a) Một tự điển nói gì về chữ stau.ros’ được dịch là “thập tự giá” trong một số bản dịch Kinh-thánh? b) Việc dùng thập tự giá phát nguồn từ đâu?

4 Vật dùng để giết Giê-su được ghi trong những đoạn Kinh-thánh như Ma-thi-ơ 27:32 và 40. Nơi đây chữ Hy-lạp stau.ros’ được dịch là “thập tự giá” trong nhiều bản Kinh-thánh. Nhưng chữ stau.ros’ có nghĩa là gì trong thế kỷ thứ nhất khi Kinh-thánh phần tiếng Hy-lạp được viết ra? Ông W. E. Vine nói trong cuốn An Expository Dictionary of New Testament Words: ” Stau.ros’… trước hết có nghĩa là một cây cọc hay trụ thẳng đứng. Trên trụ ấy người ta đóng đinh những kẻ có tội bị xử tử. Danh từ [ stau.ros’] và động từ stau.roõ (đóng trên cây cọc hay trụ), mới đầu cả hai đều được phân biệt khác với hình thức thập tự giá theo giáo hội là gồm hai cây tréo nhau. Hình dạng thập tự giá bắt nguồn từ xứ Canh-đê xưa và đã được dùng làm biểu tượng cho thần Tham-mu (có dạng chữ Tau huyền bí viết tắt tên thần này) trong xứ đó và những vùng phụ cận gồm cả Ai-cập”.

5 Ông Vine nói tiếp: “Đến giữa thế kỷ thứ 3 tây lịch Giáo hội đã tách khỏi hay làm ngụy dạng một số giáo lý của đạo đấng Christ. Để làm tăng thêm uy tín của hệ thống tôn giáo bội đạo, dân ngoại được thâu nhận vào giáo hội mà không cần đổi mới trong đức tin và đa số được phép giữ những dấu hiệu và biểu tượng tà giáo của họ. Vì thế, chữ Tau hay T dưới hình thức thông dụng nhất với dấu ngang hạ thấp xuống được chấp nhận làm thập tự giá đấng Christ”.

6, 7. a) Chữ “thập tự giá” đến từ đâu, và tại sao chữ này dùng trong các bản dịch Kinh-thánh là không đúng? b) Kinh-thánh dùng chữ xy’lon thế nào để xác định stau.ros’ là một cây cọc thẳng đứng?

6 Cuốn The Companion Bible dưới tiểu đề “Thập tự giá và đóng đinh trên thập tự giá” ghi: “Trong tiếng Anh chữ “thập tự giá” (cross) được dịch từ chữ la-tinh crux; nhưng chữ Hy-lạp stau.ros’ không có nghĩa là thập tự giá ( crux) cũng giống như cây “gậy” (stick) không có nghĩa là cái “nạng” (crutch). Homer dùng chữ stauros để chỉ cây trụ hay cây cọc, hoặc một miếng gỗ đơn độc. Và đó là ý nghĩa và cách dùng chữ trong cả văn chương cổ điển Hy-lạp. Nó không bao giờ có nghĩa hai miếng gỗ đặt tréo nhau… Không có chữ nào trong tiếng Hy-lạp của phần Tân-ước mà lại ám chỉ đến hai miếng gỗ cả”.

8. Các sách khác nói gì về thập tự giá và nguồn gốc của nó?

8 Cuốn “Bách khoa Tự điển Quốc tế” bằng tiếng Pháp ( Dictionnaire Encyclopédique Universel) viết: “Chúng ta đã tin từ lâu rồi rằng thập tự giá được coi là một biểu tượng tôn giáo đặc biệt cho tín đồ đấng Christ. Điều này là sai”. Cuốn Dual Heritage-The Bible and the British Museum nói: “Nhiều người có thể rất kinh ngạc khi biết rằng không có chữ nào nói về “thập tự giá” trong tiếng Hy-lạp của phần Tân-ước. Chữ được dịch là “thập tự giá” luôn luôn là chữ Hy-lạp [ stau.ros’] có nghĩa là “cây cọc” hay “cây cột thẳng đúng”. Thập tự giá lúc đầu không phải là dấu hiệu của đạo đấng Christ. Nó phát nguồn từ Ai-cập và Constantine”. Cuốn “Tân Bách khoa Tự điển Công giáo” ( New Catholic Encyclopedia) nói: “Vật tượng trưng cho sự chết làm giá chuộc của đấng Ky-tô tại Đồi Sọ (Golgotha) không xuất hiện trong nghệ thuật tượng trưng trong các thế kỷ đầu của đạo Gia-tô. Tín đồ đấng Ky-tô thời ban đầu, chịu ảnh hưởng của Cựu-ước cấm làm tượng chạm, đã ngần ngại miêu tả ngay cả đến vật [làm chết] Chúa… Thập tự giá bắt đầu được dùng làm biểu hiệu dưới thời Constantine”.

Thập tự giá của Constantine

9. Hoàng đế Constantine liên can thế nào đến thập tự giá?

9 Constantine là [tên của] hoàng đế La-mã đã triệu tập Hội đồng tôn giáo tại Nicaea năm 325 tây lịch và đã ảnh hưởng hội đồng đó để nhìn nhận giáo lý trái với Kinh-thánh cho đấng Christ là Đức Chúa Trời. Ông ta làm thế để củng cố đế quốc của ông gồm người tà giáo và tín đồ đấng Christ bội đạo. Cuốn “Tân Bách khoa Tự điển Anh-quốc” ( The New Encyclopoedia Britannica) nói: “Trong đêm trước trận Constantine đánh thắng Maxentius năm 312, ông nằm mơ nhận được một “dấu hiệu từ trời” cho thấy có hình một thập tự giá hiện ra, mà ông tin đó là lời cam kết từ trời về cuộc chiến thắng của ông”. Cuốn này cũng nói rằng sau đó Constantine đã cổ động việc tôn sùng thập tự giá.

10. Tại sao tin rằng Đức Chúa Trời hay là đấng Christ đã ban cho Constantine một “dấu hiệu” liên hệ đến thập tự giá là không hợp lý và trái với Kinh-thánh?

10 Tuy nhiên Đức Chúa Trời làm sao lại cho một người lãnh đạo theo tà giáo không làm theo ý định của Ngài một dấu hiệu, mà lại còn một dấu hiệu tà giáo nữa chứ? Giê-su đã trách những người cùng xứ với ngài vì họ muốn có dấu hiệu ( Ma-thi-ơ 12:38-40). Hơn nữa, nhà lãnh đạo theo tà giáo này là người đã dùng vũ khí làm đổ máu vô tội với mục đích thắng lợi chính trị, trong mưu đồ chính trị, và đã chủ mưu sắp đặt giết những người thân thuộc và những người cộng tác khác. Trái lại, Giê-su đã nói: “Nước của ta chẳng phải thuộc về thế-gian nầy. Ví bằng nước ta thuộc về thế-gian nầy, thì tôi-tớ của ta sẽ đánh trận” ( Giăng 18:36). Chính bởi thế ngài quở trách Phi-e-rơ: “Hãy nạp gươm vào vỏ; vì hễ ai cầm gươm thì sẽ bị chết về gươm” ( Ma-thi-ơ 26:52).

11. Điều gì đã khiến Constantine đẩy mạnh việc xử dụng thập tự giá?

11 Sách “Sống sót kỳ lạ” ( Strange Survivals) nói về Constantine và thập tự giá của ông: “Chúng ta khó thể nghi ngờ ông có một sự khôn khéo trong chính sách; dấu hiệu mà ông dựng lên một mặt làm hài lòng tín đồ đấng Christ trong hàng ngũ quân đội của ông và mặt kia làm hài lòng dân Gauls [theo tà giáo]… Đối với dân Gauls thì [thập tự giá] là biểu hiệu lòng tôn trọng đối với thần mặt trời”, thần mà họ thờ phượng. Không, “dấu hiệu từ trời” của Constantine không liên can gì đến Đức Chúa Trời hay đấng Christ nhưng sặc mùi tà giáo.

Tôn thờ vật giết ngài sao?

12, 13. Có các lý do nào khác để không nên tôn sùng thập tự giá?

12 Dù cho chúng ta có nhắm mắt bỏ qua bằng chứng hiển nhiên và cứ muốn cho là Giê-su bị giết trên thập tự giá đi nữa, thì vật ấy có đáng được tôn thờ không? Không, vì Giê-su bị hành quyết như một người phạm tội trọng giống như những người bị xử tử bên cạnh ngài, và cách mà ngài chết là cách xấu nhất vì bóp méo sự thật về ngài. Các tín đồ đấng Christ trong thế kỷ thứ nhất chắc hẳn không xem vật dùng trong việc hành quyết ngài là thánh bởi vì tôn thờ vật ấy có nghĩa là tôn vinh hành động sai lầm đã phạm là việc sát hại Giê-su.

13 Nếu người bạn thân nhất của bạn bị xử tử vì bị kết án sai lầm, bạn có làm hình tượng của vật dùng để hành quyết người bạn đó (thí dụ dây thắt cổ hay ghế điện hoặc súng của tiểu đội hành quyết) và rồi hôn vật đó, đốt nến trước vật đó hay đeo nó nơi cổ như đồ trang sức thánh không? Điều đó hẳn không thể có được. Vậy, với sự tôn thờ thập tự giá cũng thế. Sự kiện thập tự giá có nguồn gốc tà giáo lại làm cho chuyện đó tệ hại hơn nữa.

14. Chúng ta phải có kết luận nào về thập tự giá sau khi xem xét các bằng chứng thế tục và Kinh-thánh?

14 Sự tôn thờ thập tự giá không phải cho tín đồ đấng Christ. Điều đó không chứng tỏ sự yêu mến đối với Đức Chúa Trời hay đấng Christ nhưng mà là khinh dể địa vị của họ. Điều đó vi phạm điều răn của Đức Chúa Trời cấm thờ hình tượng. Thờ thập tự giá là tôn thờ biểu tượng của tà giáo đội lốt đạo đấng Christ ( Xuất Ê-díp-tô Ký 20:4, 5; Thi-thiên 115:4-8; I Cô-rinh-tô 10:14). Xem một biểu tượng tà giáo là thánh tức là vi phạm điều răn của Đức Chúa Trời: “Chớ mang ách chung với kẻ chẳng tin. Bởi vì công-bình với gian-ác có hội-hiệp nhau được chăng?… Đừng đá-động đến đồ ô-uế” ( II Cô-rinh-tô 6:14, 17).

Giữ theo Lời được soi dẫn

15. Tại sao chúng ta nên từ bỏ những truyền thống mâu thuẫn với Lời Đức Chúa Trời?

15 Các nhà thờ nói rằng những thực hành như tôn thờ thập tự giá là một phần của “truyền thống thánh”. Nhưng khi truyền thống mâu thuẫn với Lời Đức Chúa Trời, những người yêu mến Đức Chúa Trời sẽ từ bỏ các truyền thống đó. Tất cả những điều chúng ta thật sự cần trong sự thờ phượng thật đã được ghi rõ trong Lời Đức Chúa Trời rồi. Sứ đồ Phao-lô viết cho Ti-mô-thê: “Từ khi con còn thơ-ấu đã biết Kinh-thánh vốn có thể khiến con khôn-ngoan để được cứu bởi đức-tin trong Chúa Giê-su Christ. Cả Kinh-thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi-dẫn, có ích cho sự dạy-dỗ, bẻ-trách, sửa-trị, dạy người trong sự công-bình, hầu cho người thuộc về Đức Chúa Trời được trọn-vẹn và sắm sẵn để làm mọi việc lành” ( II Ti-mô-thê 3:15-17). Không nơi nào trong Kinh-thánh nói rằng những truyền thống đi ngược lại Lời Đức Chúa Trời là cần thiết cho sự cứu rỗi.

16. Giê-su đã nói gì với những nhà lãnh đạo tôn giáo Do-thái về các truyền thống của họ?

16 Sự mâu thuẫn giữa Kinh-thánh và truyền thống loài người không phải là mới mẻ. Trong thời kỳ kể từ lúc hoàn tất phần Kinh-thánh tiếng Hê-bơ-rơ cho tới khi Giê-su đến, giới lãnh đạo tôn giáo Do-thái đã đặt thêm nhiều lời truyền khẩu, sau đó họ viết ra những gì Đức Chúa Trời không soi dẫn. Các truyền thống đó nhiều khi đi ngược lại Kinh-thánh. Vì vậy, Giê-su đã nói với những nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó: “Còn các ngươi sao cũng vì cớ lời truyền-khẩu mình mà phạm điều-răn của Đức Chúa Trời?… Các ngươi đã vì lời truyền-khẩu mình mà bỏ lời Đức Chúa Trời”. Ngài đã áp dụng lời Đức Chúa Trời chỉ về họ khi nói: “Sự chúng nó thờ-lạy ta là vô-ích, vì chúng nó dạy theo những điều-răn mà chỉ bởi người ta đặt ra” ( Ma-thi-ơ 15:1-6, 9). Trong sự dạy dỗ của ngài, Giê-su không bao giờ trích dẫn các lời truyền khẩu như vậy. Ngài hướng đến Lời được soi dẫn của Đức Chúa Trời ( Ma-thi-ơ 4:4-10; Mác 12:10; Lu-ca 10:26).

17. Tại sao chúng ta có thể tin tưởng nơi Kinh-thánh như là nền tảng vững vàng cho hy vọng của chúng ta?

17 Đức Chúa Trời không giao việc bảo tồn “lời sự sống” cho những bàn tay bất ổn của những kẻ giữ truyền thống tôn giáo ( Phi-líp 2:16). Thay vì thế, qua thánh linh mạnh mẽ của Ngài, Ngài soi dẫn việc viết Kinh-thánh để mà “bởi sự nhịn-nhục và sự yên-ủi của Kinh-thánh dạy mà chúng ta được sự trông-cậy [hy vọng]” ( Rô-ma 15:4). Nói rằng Kinh-thánh không trọn vẹn và chúng ta cần dựa vào những sự suy tưởng bấp bênh của loài người bất toàn và không được soi dẫn tức là chối bỏ quyền lực của Đức Chúa Trời. Chắc chắn, Đấng Tạo hóa Toàn năng, đáng sợ của vũ trụ có thể làm tác giả của một cuốn sách. Và Ngài đã làm thế để chúng ta có thể có nền tảng vững vàng để hy vọng và không lệ thuộc nơi truyền thống của loài người dẫn đến việc phạm điều răn của Đức Chúa Trời. Vì vậy, Lời Đức Chúa Trời nói: “Chớ vượt qua lời [đi quá những điều] đã chép” ( I Cô-rinh-tô 4:6). Những người thật sự yêu mến Đức Chúa Trời sẽ giữ lời khuyên này. (Cũng xem Châm-ngôn 30:5, 6).

“Vâng-giữ điều-răn Ngài”

18. Nếu chúng ta thật sự yêu thương Đức Chúa Trời, chúng ta phải vâng giữ điều răn nào?

18 I Giăng 5:3 nói: “Vì nầy là sự yêu-mến Đức Chúa Trời, tức là chúng ta vâng-giữ điều-răn Ngài”. Khi những nhà lãnh đạo tôn giáo pha loãng hay lờ đi các điều răn đó, hoặc thay thế bằng những truyền thống trái ngược của loài người, thật ra họ dẫn dắt những người theo họ đi ngược lại ý định Đức Chúa Trời. Để thí dụ, hãy xem xét nguyên tắc nòng cốt của đạo đấng Christ: sự yêu thương. Đây là phần thiết thực của sự dạy dỗ của Giê-su. Ngài nói: “Ngươi phải yêu kẻ lân-cận như mình” ( Ma-thi-ơ 22:39).

19. a) Sự kiện tín đồ thật của đấng Christ yêu thương nhau là quan trọng thế nào? b) “Điều-răn mới” mà Giê-su ban về sự yêu thương khác thế nào với điều răn cũ?

19 Yêu thương người lân cận quan trọng thế nào? Giê-su dạy rằng người ta có thể nhận ra tín đồ thật của ngài qua sự yêu thương ở giữa họ. Ngài nói: “Ta ban cho các ngươi một điều-răn mới, nghĩa là các ngươi phải yêu nhau; như ta đã yêu các ngươi thể nào thì các ngươi cũng hãy yêu nhau thể ấy. Nếu các ngươi yêu nhau, thì ấy là tại điều đó mà thiên-hạ sẽ nhận biết các ngươi là môn-đồ ta” ( Giăng 13:34, 35). Thật ra thì luật pháp của Y-sơ-ra-ên xưa có bao gồm điều răn “hãy yêu-thương kẻ lân-cận như mình” ( Lê-vi Ký 19:18). Nhưng có điểm mới trong điều răn của Giê-su là qua lời của ngài “như ta đã yêu các ngươi”. Điều này làm gia tăng sức mạnh cho sự yêu thương của tín đồ đấng Christ, vì tín đồ đấng Christ phải sẵn sàng bỏ ngay cả sự sống mình vì các anh em cùng đức tin như Giê-su đã làm vậy.

20. Quá trình lịch sử trong thế kỷ này chứng tỏ ai là những người vâng giữ điều răn về sự yêu thương lẫn nhau?

20 Vì thế, có thể nhận biết tôi tớ thật của Đức Chúa Trời ngày nay qua sự yêu thương không gì phá nổi, hợp nhất trên bình diện quốc tế. Thời nay ai bày tỏ việc vâng giữ điều răn của Đức Chúa Trời về sự yêu thương như thế ấy? Ai đã bị bắt bớ, bị bỏ tù, bị đẩy vào các trại tập trung hay bị xử tử vì họ không muốn dùng vũ khí chống lại các anh em cùng đức tin-hay cả đến người không tin-thuộc các nước khác? Quá trình lịch sử trong thế kỷ này trả lời: chỉ có Nhân-chứng Giê-hô-va!

21 Ngược lại, các tôn giáo tự xưng theo đấng Christ đã đều đặn phạm điều răn của Đức Chúa Trời về phương diện bày tỏ sự yêu thương. Trong tất cả các cuộc chiến tranh trong thế kỷ này giới tu sĩ của các tôn giáo tự xưng theo đấng Christ đã đưa dân họ vào sự đụng độ với đối phương nơi chiến trường và giết chóc lẫn nhau đến hằng triệu người chết. Người Tin lành giết người Tin lành, người Công giáo giết người Công giáo, thế mà tất cả đều tự xưng là tín đồ đấng Christ. Nhưng Lời Đức Chúa Trời tuyên bố: “Ví có ai nói rằng: Ta yêu Đức Chúa Trời, mà lại ghét anh em mình, thì là kẻ nói dối; vì kẻ nào chẳng yêu anh em mình thấy, thì không thể yêu Đức Chúa Trời mình chẳng thấy được. Chúng ta đã nhận nơi Ngài điều-răn nầy: Ai yêu Đức Chúa Trời thì cũng phải yêu anh em” ( I Giăng 4:20, 21).

22. Theo sự định nghĩa nơi I Giăng 3:10-12, các nhà thờ tôn giáo tự xưng theo đấng Christ chứng tỏ là con cái của ai, và tại sao?

22 Lời Đức Chúa Trời cũng nói: “Bởi đó, người ta nhận biết con-cái Đức Chúa Trời và con-cái ma-quỉ: ai chẳng làm điều công-bình là không thuộc về Đức Chúa Trời, kẻ chẳng yêu anh em mình cũng vậy… Chúng ta phải yêu-thương lẫn nhau. Chớ làm như Ca-in, là kẻ thuộc về ma-quỉ, đã giết em mình” ( I Giăng 3:10-12). Các nhà thờ của tôn giáo tự xưng theo đấng Christ cho họ là con cái Đức Chúa Trời nhưng họ không thể là con cái Ngài được vì đã trắng trợn bất tuân điều răn của Đức Chúa Trời về sự yêu thương và “giết anh em mình”. Họ chỉ có thể là con cái của “ma-quỉ”. Vì thế, Lời Đức Chúa Trời khuyên giục những người thành thật trong các tôn giáo đó: “Hỡi dân ta, hãy ra khỏi Ba-by-lôn, kẻo các ngươi dự phần tội-lỗi với nó, cũng chịu những tai-họa nó nữa chăng” ( Khải-huyền 18:4). Đức Chúa Trời sắp sửa thi hành sự đoán xét chống lại tất cả các tôn giáo giả. Những kẻ bám theo các tôn giáo ấy sẽ chịu chung số phận ( Khải-huyền 17:16). Mặt khác, “ai làm theo ý-muốn của Đức Chúa Trời thì còn lại đời đời” ( I Giăng 2:17).

Bạn trả lời thế nào?

□ Tại sao dịch chữ Hy-lạp chúng tôi thành “thập tự giá” là sai?

□ Sự tôn sùng thập tự giá bắt nguồn từ đâu, và tại sao chúng ta nên từ bỏ sự tôn sùng đó?

□ Bằng chứng cụ thể nào giúp nhận biết những người vâng giữ điều răn về sự yêu thương giữa anh em?

[Khung/Các hinh nơi trang 17]NGUỒN GỐC CỦA THẬP TỰ GIÁ

Từ lâu trước thời kỳ đấng Christ, người ta đã dùng nhiều hình thức của thập tự giá như những dấu hiệu tôn giáo trong hầu hết mọi nơi trên đất

“Crux Ansata” được dân Ai-cập xưa dùng làm biểu hiệu cho sự sống tương lai

“Crux Quadrata” tượng trưng 4 nguyên tố mà người ta tin là căn bản để tạo ra vạn vật

“Crux Gammata” (chữ vạn) được xem là biểu hiệu của lừa hay mặt trời, do đó là của sự sống

Thập tự giá La-tinh rất phổ thông trong các tôn giáo tự xưng theo đấng Christ

Thập tự giá này là hai chữ cái đứng đầu trong chữ “Christ” bằng tiếng Hy-lạp viết chồng lên nhau

[Hình nơi trang 16]

Đấng Christ chết trên một cây cọc thẳng đứng, không phải trên một thập tự giá

[Các hình nơi trang 18, 19]

“Họ xưng mình biết Đức Chúa Trời, nhưng theo những việc làm thì đều từ-chối Ngài” ( Tít 1:16).

Triết Học Là Yêu Mến Sự Khôn Ngoan

I. Dẫn nhập

Đã có rất nhiều định nghĩa về triết học như: “Triết học là tri thức về mọi sự thông qua những căn nguyên tối hậu của chúng, tri thức này được thủ đắc nhờ việc sử dụng lý trí”[1]. Hay theo Aristotle, “Triết học là là khoa học lý thuyết về các nguyên lý đệ nhất và các nguyên nhân đệ nhất”[2]. Mỗi định nghĩa được diễn tả cách khác nhau tuỳ thuộc vào nhãn quan của mỗi triết gia hay đối tượng mà họ đang nghiên cứu. Chúng ta khó lòng đưa ra một định nghĩa rõ ràng, súc tích, bao quát và chính xác hoàn toàn được. Nhưng định nghĩa “Triết học là yêu mến sự khôn ngoan” phần nào thể hiện được nguyên nghĩa của hạn từ “triết học” và giúp con người có cái nhìn khái quát nhất về triết học. Vậy định nghĩa này có nguồn gốc từ đâu? Khôn ngoan là gì? Và như thế nào là “yêu mến sự khôn ngoan”?

II. Nguồn gốc của thuật ngữ “triết học” đến từ đâu?

“Theo một truyền thống lên đến Eraclide Pontico, đồ đệ của Platone, và được trưng dẫn bởi Diogene Laerzio và bởi Cicerone, người đầu tiên sử dụng hạn từ “filosofia” có lẽ là Pitagoras để chỉ về những thần minh thông thái và về chính triết gia. Những người thuộc trường phái Pitagoras cũng bàn về filosofia theo nghĩa là sự khao khát biết về mọi sự, nhất là sự mở rộng tầm nhìn đến các tinh tú trong trật tự vũ trụ”[3].

Pitagoras là người người đã sáng tạo ra thuật ngữ này. Và ông đã không dám tự xưng là bậc khôn ngoan, nhà hiền triết. Theo ông, chỉ có một mình Thượng Đế mới đáng gọi là sophos, còn bản thân ông chỉ đáng là người bạn của khôn ngoan, người mộ mến sự khôn ngoan mà thôi. Về sau thuật ngữ này được dùng để chỉ chính sự khôn ngoan đó, mà người ta gọi là “triết học”. Theo nghĩa này, con người đi tìm sự khôn ngoan vì khôn ngoan (hay sự khôn ngoan tinh ròng), chứ không phải yêu mến sự khôn ngoan vì bất cứ lý do nào khác cả. Vậy sự khôn ngoan tinh ròng đó là gì?

Theo xu hướng tự nhiên, con người luôn có lòng khao khát tri thức, hạnh phúc đích thực. Và muốn tìm kiếm hạnh phúc, con người luôn cần phải gắn chặt đời mình với khôn ngoan. Vậy khôn ngoan là gì? Nó có ý nghĩa như thế nào đối với đời sống mỗi người?

Trong ngôn ngữ Hy lạp, chữ φιλοσοφία (philosophia, triết học) được kết hợp từ φίλος (philos, người yêu mến, bạn hữu) và σοφία (sophia, sự khôn ngoan/ hiểu biết). “Sophia có ba ý chi tiết có liên hệ với nhau: sự khéo tay; sự hiểu biết, nhận thức, tri thức; sự khôn ngoan thực tiễn.

1. Khôn ngoan tri thức

Sự khôn ngoan này cũng gọi là một sự vượt qua. “Vượt qua các hiện tượng để đi sâu vào bản tính sự vật. Vượt qua các sự kiện để truy tầm chính các căn nguyên. Vượt qua con người trình diễn để tìm hiểu con người chính tông. Vượt qua thực tại hữu hình để tìm vào thế giới vô hình. Vượt qua mọi giả dối và phức tạp để tìm cho ra sự thực sau cùng. Đi sâu vào sự hiểu biết như thế, đó là khôn ngoan”[5].

Mỗi hiện tượng trong thế giới này đều phát xuất từ nhiều nguyên nhân khác nhau và được mọi người xem xét theo nhiều chiều kích khác nhau tùy vào thái độ, sự hiểu biết của từng người. Do đó, việc đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng và cố gắng khám phá bản chất của nó là cách để nhìn nhận vấn đề một cách thấu đáo và sáng suốt. Và để có được sự minh triết trước các vấn đề của cuộc sống, con người cần biết lắng nghe, khiêm tốn trau dồi cho mình những kiến thức từ sách vở, các bậc tiền bối và biết học hỏi từ những người xung quanh, từ những điều bình dị, đơn giản trong cuộc sống hằng ngày.

2. Khôn ngoan thực tiễn

Người khôn ngoan thực tiễn là người sống “vượt trên đời và xa đời”. Vượt trên đời nghĩa là “vượt trên định luật vật chất, trên dư luận, trên sức thúc đẩy mù quáng của đam mê”. Xa đời là “không dính líu để có thể bình tâm xét đoán, không bị ràng buộc để có thể vô tư”[6]. Tóm lại, đó là một thái độ dè dặt nhưng sáng suốt, thận trọng nhưng bình thản. Để làm được điều này, cần phải nỗ lực thực hành không ngừng trong cuộc sống hằng ngày. Chúng ta cần “biết phán đoán một sự vật trong tình huống để rồi biết cách đối phó hoặc xử trí sao cho đạt kết quả tốt nhất. Ở mức độ này, khôn ngoan gần với lương tri (bon sens) mà mọi người bình thường đều có”[7]. Trong cuộc sống, con người có thể tìm được trăm ngàn cách để đạt được sự khôn ngoan. Và cũng có trăm ngàn thầy dạy có thể hướng dẫn con người truy tìm khôn ngoan. Nhưng “Không ai khôn ngoan thay người khác được. Muốn khôn thì chính mình phải học khôn”. Do đó, trước tiên, cần có sự nỗ lực, lòng quyết tâm can đảm và có một mục đích, phương pháp phù hợp mới có thể đạt được khôn ngoan.

Như vậy, có thể nói, khôn ngoan là sự kết hợp giữa tri thức, kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn. Kinh nghiệm đó được tích lũy qua quá trình thực hành. Chính vì thế, sự khôn ngoan phải đi từ khối óc (trí) đến đôi tay (hành). Và người khôn ngoan đích thực là người luôn tìm tòi, không bao giờ dừng lại, không bao giờ thỏa mãn với sự hiểu biết đã có của mình và luôn biết đón nhận chân lý một cách khiêm tốn và sáng suốt.

IV. Như thế nào là “yêu mến sự khôn ngoan”?

Người ta có thể truy tìm sự khôn ngoan mà không yêu mến nhưng không thể yêu mến sự khôn ngoan mà không truy tìm. Để yêu mến sự khôn ngoan, phải hiểu được nguồn suối phát sinh sự triết lý (sự khôn ngoan). Biết xác định cho mình nguồn suối tự nhiên ấy, con người sẽ hiểu thấu và yêu mến sự khôn ngoan.

1. Các nguồn suối phái sinh triết lý (sự khôn ngoan)

Thông thường, con người chỉ cảm thấy kinh ngạc trước những biến cố, sự việc xảy đến lần đầu tiên hay có một sự gì đó đặc biệt, khác thường. Theo thời gian, nếu một hành động hay sự việc xảy ra lặp đi lặp lại nhiều lần thì sẽ trở nên bình thường hay nhàm chán. Hay có những điều ngay từ khi sinh ra, con người đã thấy như là một lẽ tự nhiên, theo định luật phải có như: việc có ngày đêm, việc mặt trời mọc, nắng mưa, gió bão… Thế nên, “Chúng ta đánh mất sự sửng sốt và kinh ngạc về một ngày mới. […] Chúng ta không nhận biết rằng một ngày mới là một ân huệ quý giá, một ân huệ của đời sống vốn mang lại phúc lành cho chúng ta”[8]. Sự hời hợt, thoáng qua diễn tiến lâu ngày khiến con người mất đi sự kinh ngạc trước vẻ đẹp kỳ diệu của thiên nhiên và những quy luật mầu nhiệm của Đấng Tạo Hóa. Theo Plato, “nguồn suối phát sinh triết lý là biết ngạc nhiên”. Khi nhìn cảnh tượng huy hoàng của vũ trụ, tự nhiên, con người có ước muốn thám hiểm, khám phá nó không? ‘Aristotle cũng nói: “Chính sự ngạc nhiên thúc đẩy con người triết lý. Thoạt tiên, họ bỡ ngỡ trước những sự vật kỳ lạ họ bắt gặp, dần dà tiến xa hơn, họ đặt những câu hỏi về biến tượng của mặt trăng, về sự vận chuyển của mặt trời và các tinh tú, sau cùng về sự sinh thành của vũ trụ”‘[9].

Ngạc nhiên là con đường đưa tới tri thức vì ngạc nhiên thúc đẩy con người đam mê khám phá. “Sự ngạc nhiên trước tiên mang hương vị của niềm vui tràn trề khao khát và kế tiếp mang lấy trong mình bóng tối huyền ảo của cái hư vô đang đến”[10]. Sự ngạc nhiên là động lực mạnh mẽ để con người khao khát khám phá những điều bình thường, đơn giản xảy đến xung quanh mình và đón nhận chúng như một đứa trẻ đón nhận món quà với niềm say mê bất tận.

Trong cuộc sống, có nhiều điều tưởng chừng như ta có thể thấu suốt, nắm rõ nhưng thực sự không có gì xác đáng cả. “Bởi chúng ta sinh ra như trẻ con và thường phê phán các sự vật nhờ giác quan trước khi ta sử dụng được lý trí, cho nên ta thường bị các định kiến làm ta xa cách sự thật của lý tính”[11]. Chúng ta thường bị giác quan lừa dối nhưng chúng ta lại thường tin vào giác quan mà thiếu đi sự suy xét của lý trí. Chúng ta thường tin vào những kinh nghiệm cố hữu đã được lập trình sẵn trong quá khứ hay những tri thức tưởng chừng rất chắc chắn của người xưa để lại. Càng sống lâu, chúng ta càng tin tưởng chắc chắn những kinh nghiệm đã trải qua mà quên đi việc hoài nghi. Cuộc sống luôn biến chuyển, thay đổi theo thời gian, điều có thể đúng hôm nay nhưng lại sai hoàn toàn vào ngày mai. Vì thế, hoài nghi sẽ giúp chúng ta bình tâm nhìn nhận lại vấn đề cách cẩn thận để suy xét kỹ lưỡng tất cả các khía cạnh của vấn đề.

“Muốn tìm kiếm sự khôn ngoan hay đạt tới triết lý, ta phải biết hoài nghi và phải hoài nghi đến cùng. Hoài nghi theo Descartes nghĩa là hoài nghi tất cả để phê bình lại, chớ không phải hoài nghi để phản đối và bỏ qua. Một tư tưởng được gọi là thật khi nó đã chịu đựng nổi sự thử thách của hoài nghi và toàn thắng”[12]. Tóm lại, hoài nghi có phương pháp sẽ giúp ta phát triển óc phê bình vì nếu không hoài nghi triệt để, ta không bao giờ có được triết lý thực thụ.

Cuộc sống này luôn có những giới hạn tất yếu. Chúng ta cảm thấy bất lực trước những quy luật tất định của kiếp người. Có những giới hạn chúng ta không thể vượt qua như: tôi không được tự mình chọn sinh ra trong một gia đình giàu có; tôi không tự định cho mình thời gian sống ở đời này; tôi không thể tự né tránh những bất trắc, tai nạn, rủi ro xảy đến trong đời thường… Chính những hoàn cảnh về sự giới hạn tất yếu này sẽ giúp chúng ta ý thức hơn về triết lý. Đó là những câu hỏi phát xuất từ thẳm sâu trong lòng mỗi người.

Qua mỗi giai đoạn của cuộc đời, con người sẽ có những câu trả lời khác nhau cho những câu hỏi khôn cùng về mục đích hay sự hiện hữu của mình. Đối diện với những biến cố, những khoảnh khắc khủng hoảng về đời mình, con người luôn tự vấn lương tâm mình về những gì xảy đến với họ để xác định cho mình một lý tưởng, mục đích. Chính sự lung lạc, lo âu, sợ hãi khi đối diện với những thử thách, những điều lớn lao sẽ khiến con người biết tự tìm câu trả lời cho vấn đề họ đang tìm kiếm.

Truy tìm sự khôn ngoan mà không yêu mến là đang lạc đường. Yêu mến sự khôn ngoan mà không truy tìm là yêu mến giả dối. Vì thế, yêu mến là điều kiện tiên quyết để giúp tìm kiếm được sự khôn ngoan đích thực (tinh ròng). Vậy như thế nào là yêu mến?

Trong tác phẩm siêu hình học của Aristotle, ông phát biểu rằng: “Mọi người tự bản chất đều muốn hiểu biết”. “Theo ông, ước muốn bẩm sinh này không chỉ là ước muốn hiểu biết để làm một cái gì. Ngoài những động cơ thực dụng này, ở con người ta con có một ước muốn hiểu biết những loại sự vật chỉ vì sự hiểu biết thuần túy mà thôi”[13]. Có thể nói, ước muốn hiểu biết này chính là lòng yêu mến, sự khát khao nơi thẳm sâu mỗi con người.

“Yêu mến tự nó đã là một ý hướng. Yêu mến là nghiêng chiều, là hướng về sự khôn ngoan. Ý hướng đó không phải là những chữ nằm chết trên sách vở nhưng phải sống động trong người triết. Người triết phải thực sự có ý hướng đó trong tâm hồn. Có yêu mến người ta mới hứng thú đi tìm. Có tha thiết, người ta mới dễ vượt qua được những trở ngại khó khăn trên đường dẫn tới khôn ngoan”[14]. Sự khao khát, lòng yêu mến ấy thúc đẩy con người tìm kiếm cho mình một phương pháp phù hợp. Vì như Descartes đã nói: “Phương pháp cần thiết cho việc tìm kiếm chân lý, và thà chẳng bao giờ đi tìm chân lý về cái gì cả còn hơn tìm kiếm mà không có phương pháp”[15]. “Phương pháp là điều rất quan trọng. Nếu chính xác, có thể tiết kiệm sức lực và thời giờ mà đưa đến mục đích một cách chắc chắn. Nếu sai lầm, có thể phí mất công phu mà không đưa đến mục đích”[16].

Yêu mến là động lực để con người tìm kiếm sự khôn ngoan. Yêu mến cũng là ánh sáng dẫn đưa con người bước vào con đường của sự khôn ngoan. Nhưng có nhiều lúc con người tìm kiếm sự khôn ngoan mà không ý thức vì lòng khao khát, yêu mến nảy sinh trong lòng họ một cách tự nhiên mà không hề hay biết. Trong mỗi người luôn có hai mặt đối chọi nhau: lòng khao khát, ý chí mạnh mẽ muốn vươn lên và một thể xác nặng nề kìm nén, lôi kéo con người đi xuống. Như C. S. Lewis nói rằng: “Chúng ta là những tạo vật “lưỡng cư” tinh thần. Chúng ta cư ngụ trong hai thế giới khác biệt (mặc dù chúng chồng chéo lên nhau). Chúng ta là những tạo vật có thể xác, chân của chúng ta bám chặt vào đất, nhưng chúng ta cũng là những tạo vật tinh thần những người khao khát nhảy lên Thiên đàng”[17]. Chính vì thế, con người luôn khao khát đi tìm ý nghĩa của cuộc sống, tìm kiếm những giá trị đích thực hay truy tìm chân lý. Và trong đời sống thường ngày, con người vẫn sử dụng những khái niệm cơ bản như: “tự do”, “hạnh phúc” hay “sự sống”… Khi họ trao đổi, tranh luận để tìm cho mình một câu trả lời nhất định nào đó, ánh sáng của sự yêu mến đang dần soi sáng và hướng dẫn họ tìm đến con đường của sự khôn ngoan.

“Triết học do con người, của con người và về con người mà con người không ai giống ai nên sẽ có có nhiều định nghĩa triết học khác nhau”[18]. Thế nên, người ta đưa ra nhiều định nghĩa về triết học và chẳng có mấy khi có hai triết gia cùng đồng ý với nhau về một định nghĩa. Vì thế, qua suốt thời gian dài của lịch sử tư tưởng nhân loại, thuật ngữ triết học được hiểu theo nhiều phương diện và mang nhiều sắc thái, ý nghĩa khác nhau. Mỗi triết gia chỉ sống trong một giai đoạn nhất định của cuộc đời nhưng con đường triết học thì dài vô tận nên những định nghĩa về triết học của họ cũng có những giới hạn nhất định. Thế nên, qua định nghĩa: “Triết học là yêu mến sự khôn ngoan”, ý nghĩa nguyên thủy của thuật ngữ này vẫn còn giữ được sự nguyên vẹn của nó và được rất nhiều triết gia cũng như mọi người chấp nhận.

Định Nghĩa Yêu Là Gì? Tình Yêu Là Gì? Yêu Có Ăn Được Không?

Định nghĩa yêu là gì? Tình yêu là gì?

+ Yêu là một trạng thái hay cảm xúc của con người hoàn toàn tự do. Bạn không thể mua được, cũng như không thể bán hay trao đổi được tình yêu. Cũng như khiến ai đó yêu hay ngừng yêu bạn được, cho dù bạn có tốn bao nhiêu tiền.

+ Tình yêu thường là một cảm xúc thu hút mạnh mẽ và nhu cầu muốn được ràng buộc gắn bó. Nó cũng có thể là một đức tính đại diện cho lòng tốt của con người, sự nhân từ, và sự thông cảm – “mối quan tâm trung thành và vị tha hướng tới người khác”. Nó cũng có thể mô tả các hành động nhân văn và thông cảm đối với người khác, chính bản thân mình hoặc các con vật.

Đối với người thân: Tôi yêu mẹ tôi, yêu anh/chị, ông, bà,…

Đối với động vật: Tôi yêu con mèo này lắm

Đối với thiên nhiên: Tôi yêu con đường này, yêu cái cây xanh ngoài kia,…

Tuy nhiên, khi nói về tình yêu thì người ta thường liên tưởng đến tình yêu nam nữ, đây là loại tình cảm gắn bó đặc biệt giữa 2 người khác giới với nhau.

Yêu có ăn được không?

+ Tình yêu không ăn được nhưng nó mang lại cho chúng ta những cung bậc cảm xúc khác nhau, biết hy sinh và chia sẻ với nhau những niềm vui nỗi buồn trong cuộc sống.

+ Suy cho cùng “yêu một người” là chấp nhận, tình nguyện, dành mọi thứ tốt nhất cho người ấy. Là có những ước muốn tươi đẹp cùng người ấy trong hiện tại và tương lai.

Bạn định nghĩa tình yêu như thế nào?

+ Yêu là để sống, sống là để yêu, tình yêu tuyệt nhiên không phải là vế đối phải trả giá bằng mạng sống để chứng minh điều gì cả. Sau cái chết sẽ kết thúc tất cả, bạn đừng mong thiên hạ sẽ đời đời ghi nhớ câu chuyện tình đẫm lệ của bạn khi bạn lìa đời.

+ Yêu là đặt nghị lực của mình vào tay kẻ khác

+ Tình yêu, vốn là một thứ tình cảm muôn hình vạn trạng. Chưa từng bị bỏ rơi, chưa từng bị tổn thương, liệu có thể hiểu được người yêu không? Tình yêu, vốn là một sự trải nghiệm, nhưng mong ước bền lâu

+ Tình yêu là sự rung cảm của một tâm hồn khi gặp một tâm hồn đồng điệu, là sự hòa nhịp của hai trái tim, làm người ta nhìn thấy mọi vật tươi đẹp hơn

Tổng kết

+ Ở mỗi trường hợp khác nhau thì yêu sẽ được định nghĩa khác nhau.

+ Yêu không ăn được nhưng mang lại cho chúng ta những cung bậc cảm xúc khác nhau.

Hy vọng những thông tin mà chúng tôi vừa chia sẻ có thể giúp bạn định nghĩa được yêu là gì? Hãy theo dõi chúng tôi thường xuyên để được cập nhật những tin tức mới nhất

Tình Yêu Là Gì? Những Ý Nghĩa Của Tình Yêu

Blog chúng tôi giải đáp ý nghĩa Tình yêu là gì

Định nghĩa Tình yêu là gì?

Nếu tôi cho bạn một câu hỏi đòi “Tình yêu là gì” đòi bạn phải trả lời, bạn sẽ nói sao? Tôi chắc chắn rằng bạn sẽ nói: tình yêu là khi được ở bên nhau, chia sẻ quan tâm lẫn nhau, nấu cho nhau những món ăn ngon, cùng xem phim với nhau…và sẽ có rất nhiều câu trả lời na ná nhau như vậy. Mỗi người tự cảm nhận vị ngọt của tình yêu khác nhau, nó thật đơn giản nhưng sâu sắc.

Ai cũng tìm thấy cho mình một nửa của riêng mình, nếu họ khát khao yêu và được yêu. Phải tìm đúng cho mình 3 con người xứng đáng để được gọi là yêu. Người đó trước hết là người bạn yêu nhất, thứ 2 đó là người yêu bạn nhất và người thứ 3 chính là bạn đồng hành của bạn trong suốt cuộc đời, người đó sẽ là người đầu gối tay ấp với bạn.

Vậy nên trước khi bạn gặp được người yêu bạn nhất, bạn phải gặp người đem lại cảm giác yêu cho bạn, đó chính là việc để bạn hiểu được yêu là như thế nào. Sau khi trải qua hai trạng thái khác nhau yêu và được yêu, bạn mới thực sự có những kinh nghiệm, những xác định chin chắn trong việc chọn bạn đời của mình sau này.

Tuy nhiên, bạn biết không trong cuộc sống không thể 3 có chuyện 3 người này chính là một người được. Bạn có gặp tình trạng này không? Người bạn yêu lại không yêu bạn, người yêu bạn nhất không phải là người bạn yêu. Vậy nên người mà thực sự đến và gắn bó khăng khít với cuộc đời của bạn chính là người đến bên bạn, xuất hiện vào lúc thích hợp nhất.

Vậy câu hỏi đặt ra là: bạn sẽ là người thứ bao nhiêu trong cuộc đời của tôi.

Đó chính là việc bạn phải và đang kiếm tìm. Tình yêu sét đánh hay “cái duyên cái số nó vồ lấy nhau”.

Yêu hay không yêu cũng sẽ dễ dàng thay đổi. Vì thế việc tìm cho mình một người thật sự quan tâm, săn sóc và hiểu bạn và nhất là xuất phát từ cả hai phía là điều rất khó nhưng không phải là không thể xảy ra.

Người đó yêu bạn chính là lúc người đó thực sự yêu bạn, nếu người đó không yêu thì cũng không thể giả vờ rằng đang yêu bạn. Vậy nên đó là điều không thể gượng ép được.

Thế nào là một tình yêu đích thực?

Tôi vẫn thường vẩn vơ tự vấn “tình yêu thế nào mới gọi là tình yêu đích thực? Romeo và Juliet chết vì nhau, thiên tình sử mà nhân loại ấy ca ngợi liệu có thể gọi đó là tình yêu đích thực hay không?

Lương Sơn Bá Chúc Anh Đài nằm chung một huyệt mộ liệu có phải là tình yêu đích thực? Bỏ qua những yếu tố lịch sử chi phối khiến con người hạn chế về mặt nhận thức, gây tác động lớn để bi kịch tình yêu của hai đôi trẻ trên, ta chỉ ngẫm cách yêu của họ, cách mà họ hết lòng vì nhau, lấy cái chết để mãi mãi ở bên nhau, sống trọn vẹn một chữ tình, dù xúc động thật nhưng thú thực tôi vẫn thấy sợ hãi…

Thời xưa những cặp đôi “lú tình” đã đi vào sử sách, thời nay cũng không ít những cặp đôi vì những lý do rất “trời ơi” cũng buộc tay nhau vào nhảy xuống cầu cùng tự vẫn, giết nhau trong nhà nghỉ rồi tự vẫn…đủ kiểu cùng chết để chứng minh tình yêu. Tự dưng thấy việc nam nữ yêu nhau gặp cấm cản là lấy cái chết ra để chứng minh tình yêu trọn đời, tôi thấy tội nghiệp cho tình yêu quá…

Có thật những con người “không sinh cùng năm cùng tháng cùng ngày nhưng nguyện chết cùng ngày cùng tháng cùng năm” họ yêu nhau đến độ muốn bên nhau trọn đời? Tôi cứ hồ nghi dăm ba cái chuyện nếu họ không bị yếu tố khách quan cấm cản, họ đến với nhau nên vợ nên chồng thì sao nhỉ? Liệu cái tình yêu mà họ tưởng mãi mãi ấy nó có bị biến thể đi hoặc nhạt bớt đi khi mà hai con người trải qua giai đoạn hết mơ mộng và thổn thức về nhau? Tôi không nghi ngờ và đổ vấy mọi thứ tội lỗi cho tình yêu, bản chất của tình yêu luôn đẹp và hướng thiện, nếu như cái chết có thể chứng minh là nó đẹp, nó thiện và không khiến cho những người ở lại cảm thấy đau lòng và day dứt khôn nguôi thì được, còn nếu như cặp đôi chết trùm kia lấy cái chết ngoài việc chứng mình họ yêu nhau còn để dằn mặt hai họ và những người cấm cản họ phải đau khổ, phải sáng mắt ra thì bản chất trong câu chuyện này đã vơi đi ít nhiều sự thánh thiện mà tình yêu vốn có.

Có câu chuyện trên mạng, hai vợ chồng đi trên một con tàu, con tàu chẳng may bị đắm, hai vợ chồng chỉ một người được cứu, và người chồng đã bỏ lại vợ mình trên tàu, câu nói cuối cùng mà người vợ nói với người chồng là gì? Mọi người cùng đoán, mọi người cùng dè bỉu người chồng ham sống sợ chết, bỏ lại vợ mình để chọn thoát thân, mọi người lại lấy chàng Jack và nàng Rose trong thiên tình sử Titanic ra để so sánh và miệt thị người đàn ông kia, rồi oán thán “trên đời chỉ có người dám hi sinh cả mạng sống vì ta mới là người yêu ta hết lòng!”.

Sự thật sau câu chuyện ấy là, người vợ biết mình mắc bệnh nan y không thể sống được nên đã bảo người chồng phải sống để còn chăm sóc những đứa con, là kết tinh tình yêu của họ. Yêu không phải là hi sinh mạng sống của mình để chứng minh nó là thứ tình cảm tuyệt đích, mà yêu nghĩa là mong cho người mình yêu luôn sống an nhiên tự tại, hạnh phúc mãi mãi, ấy mới là yêu.

Yêu là để sống, sống là để yêu, tình yêu tuyệt nhiên không phải là vế đối phải trả giá bằng mạng sống để chứng minh điều gì cả. Sau cái chết sẽ kết thúc tất cả, bạn đừng mong thiên hạ sẽ đời đời ghi nhớ câu chuyện tình đẫm lệ của bạn khi bạn lìa đời. Đời chỉ một lần được sống, cách mà các bạn tự khước từ đi cuộc sống để chạy trốn thực tại chẳng phải là thứ tình yêu cao đẹp gì mà chỉ là sự hèn nhát, không dám đương đầu, không dám đấu tranh để có được thứ mình muốn, rủ nhau kết liễu cuộc đời để lại cho những người thân sự đau khổ, dằn vặt, những con người trẻ người non dạ ấy, một ngàn lần không xứng được nhắc tên và nhắc về cách họ yêu…

Đừng ví mình với Lương Sơn Bá Chúc Anh Đài hay Romeo và Juliet, cuộc đời chẳng bao giờ là tiểu thuyết cả, đằng sau câu chuyện mà tiểu thuyết muốn nói, ấy là sự tha thứ, sự hóa giải hận thù, và sự tiếc nuối cho đôi trẻ ở thời xưa, tuyệt nhiên không thể áp dụng nó vào thời đại này!

Một tình yêu đích thực được thể hiện thông qua hành động và tình cảm. Chưa bao giờ chết vì nhau là cách chứng minh một tình yêu đích thực. Sống tốt vì nhau, hướng đến những ngày tươi sáng, bình yên phía trước, cùng vượt qua những gập ghềnh trên đường đời, nắm chặt tay nhau cùng bước và thấy mình luôn trong mắt nhau, ấy là yêu…

Tình yêu là điều đẹp nhất trong cuộc sống

Tình yêu là một tình cảm thiêng liêng và cao quý. Hay nói cách khác tình yêu là một sự kết nối, được hình thành bởi dòng chảy cảm xúc tích cực mà bạn muốn chia sẻ với bất cứ ai. Vì thế khi người yêu bạn muốn rời xa bạn, thì bạn hãy tự hỏi bản thân mình xem bạn có thật sự yêu người đó không. Đôi khi chính sự hờ hững, lạnh nhạt của bạn làm cho đối phương cảm thấy mất hi vọng và quyết định ra đi, đôi khi họ cảm thấy rằng chính họ đang xen giữa vào quan hệ của bạn với một ai đó, họ sẽ tự trách và dằn vặt mình nhiều lắm. Bạn hãy trả lời câu hỏi của chính bản thân bạn đi, giải thoát họ hay nói kéo họ.

Tình yêu không để đôi co, giành giật vì thế nếu khi không thật sự không còn cảm giác yêu đương mà người kia đã tìm thấy nửa hoàn hảo của mình, bạn hãy rộng lượng mở đường cho họ. Nếu bạn quyết tâm dành lại cho bằng được những thứ không thuộc về mình, bạn càng thảm hại hơn, và bị khinh thường hơn.

Khi bạn thực sự yêu một người, bạn phải biết chấp nhận những cái thuộc về người đó bao gồm cả khuyết điểm. Không có người nào là tuyệt đối, không có người nào hoàn hảo cả. Chính việc bù trừa lẫn nhau, cái thiếu của người này bù cho cái thiếu của người kia mới làm nên cặp đôi toàn diện.

Có bao giờ bạn trả lời được vì sao bạn lại yêu người này? Thật khó để trả lời, vì nó nằm trong cảm nhận của bạn, cái thiếu mà bạn cảm thấy phải bù đắp. Những lúc tâm trạng bạn xuống dốc, nhưng lúc bạn gặp phải vấn đề gì, những lúc bạn muốn chia sẻ niềm vui, những lúc bạn cần người tâm sự…bạn luôn nghĩ về người ấy, nghĩ về việc họ sẽ xuất hiện một cách bất ngờ làm điều này điều nọ cho bạn, chỉ thế thôi.

Yêu là phải trải qua thử thách, thử thách với thời gian để chứng tỏ niềm tin của người đó vào tình yêu. Đi xa, người nơi này người nơi khác mà vẫn hẹn thề, vẫn nói chuyện với nhau trong 2 năm, 3 năm mà không hề oán than, hai nửa mong muốn ngày đoàn tụ với nhau. Đó mới thực sự là tình yêu chân chính. Thời nay việc chờ đợi nhau một thời gian dài quả là rất hiếm, bởi nói là một đường, làm một nẻo. Những đôi yêu nhau thực sự, họ sẽ đơn giản và chấp nhận việc xa nhau bởi chính đó là sự tin tưởng mãnh liệt vào tình yêu, bởi sự nồng nhiệt hay là đó chính là tình cảm dành cho nhau quá lớn.

Tình yêu là gì? Đến đây bạn đã thực sự có câu trả lời của mình chưa? Ai rồi cũng muốn tìm thấy nửa đích thực của mình, quan trọng là ở bạn, niềm tin vào tình yêu chân chính, vào vẻ đẹp của tình yêu. Nhưng quan trọng hơn là phải thực sự hiểu nhau, biết chấp nhận và bù đắp cho nhau.

Những yếu tố chính tạo nên tình yêu đích thực.