Top 8 # Yêu Tiếng Hán Việt Nghĩa Là Gì Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Tvzoneplus.com

Từ Hán Việt Là Gì? Những Từ Hán Việt Hay Và Ý Nghĩa

Từ Hán Việt là gì?

Từ Hán Việt là từ ngữ trong tiếng Việt vay mượn, có nghĩa gốc từ tiếng Hán (Trung Quốc). Các từ Hán Việt được ghi bằng chữ cái La tinh, phát âm phù hợp với mặt ngữ âm tiếng Việt. Tuy nhiên, khi phát âm từ Hán Việt, có thể thấy âm thanh gần giống với tiếng Trung Quốc.

Sự vay mượn của tiếng Việt giúp ngôn ngữ Việt Nam thêm phần phong phú, đồng thời vẫn giữ gìn được sự trong sáng của tiếng Việt.

Trong kho tằng từ Hán Việt, người ta đã nghiên cứu và phân loại thành 3 nhóm đó là từ Hán Việt cổ, từ Hán Việt và từ Hán Việt Việt Hoá.

Từ Hán Việt cổ

Từ Hán Việt cổ là những từ có nguồn gốc khá lâu đời. Những từ này bắt nguồn từ tiếng Hán trước thời Nhà Đường. Những từ này có phát âm gần như giống hoàn toàn với tiếng Trung.

Từ Hán Việt

Những từ Hán Việt này ra đời sau giai đoạn mà từ Hán Việt cổ xuất hiện và được dùng. Những từ này có nguồn gốc từ giai đoạn thời nhà Đường cho tới đầu thế kỷ 10.

Từ Hán Việt Việt hoá

Các từ Hán Việt không nằm trong 2 trường hợp trên được xem là từ Hán Việt Việt Hoá. Những từ này có quy luật biến đổi ngữ âm rất khác, nhưng vẫn dựa trên cơ sở âm điệu và ý nghĩa chữ Hán.

THIÊN: Trời; ĐỊA: Đất; CỬ: Cất; TỒN: Còn; TỬ: Con; TÔN: Cháu; LỤC: Sáu; TAM: Ba; GIA: Nhà; QUỐC: Nước; TIỀN: Trước; HẬU: Sau; NGƯU: Trâu; MÃ: Ngựa; CỰ: Cựa; NHA: Răng; VÔ: Chăng; HỮU: Có; KHUYỂN: Chó; DƯƠNG: Dê; QUY: Về; TẨU: Chạy; BÁI: Lạy; QUỴ: Quỳ; KHỨ: Đi; LAI: Lại; NỮ: Gái; NAM: Trai; QUAN: Mũ; TÚC: Đủ; ĐA: Nhiều; ÁI: Yêu; TĂNG: Ghét; THỨC: Biết; TRI: Hay; MỘC: Cây; CĂN: Rễ; DỊ: Dễ; NAN: Khôn (khó); CHỈ: Ngon; CAM: Ngọt; TRỤ: Cột; LƯƠNG: Rường; SÀNG: Giường; TỊCH: Chiếu; KHIẾM: Thiếu; DƯ: Thừa; CÚC: Cuốc; CHÚC: Đuốc; ĐĂNG: Đèn; THĂNG: Lên; GIÁNG: Xuống; ĐIỀN: Ruộng; TRẠCH: Nhà; LÃO: Già; ĐỒNG: Trẻ; TƯỚC: Sẻ (chim Sẻ) ; KÊ: Gà

Outsource là gì? Ưu nhược điểm của Outsource ? Có nên… Tôn trọng (respect) là gì? Ý nghĩa và vai trò của… Chân lý (Truth) là gì? Ý nghĩa của chân lý trong…

Từ Hán Việt Là Gì? Các Từ Hán Việt Thường Gặp &Amp; Giải Nghĩa

Bài học hôm này các em sẽ làm quen với khái niệm từ Hán Việt là gì? các từ Hán Việt thường gặp và một số thông tin quan trọng về vai trò, cách nhận viết và ví dụ của từ Hán Việt. Kiến thức này nằm trong chương trinh ngữ văn lớp 7 trung học cơ sở. Hãy đọc kiến thức bên dưới để hiểu hơn về bài học ngày hôm nay.

Khái niệm từ Hán Việt

Từ Hán Việt là gì?

Từ Hán Việt là các từ ngữ trong tiếng Việt vay mượn, có nghĩa gốc từ tiếng Hán (Trung Quốc) nhưng được ghi bằng chữ cái La tinh. Về mặt âm thanh từ Hán Việt khi phát âm gần giống với tiếng Trung Quốc.Trong từ vựng tiếng Việt từ Hán Việt chiếm tỷ lệ cao.

Do lịch sử và văn hóa lâu đời mà tiếng Việt sử dụng rất nhiều từ Hán Việt cổ. Đồng thời, khi vay mượn còn giúp cho từ vựng tiếng Việt trở nên phong phú hơn rất nhiều.

Các nhà khoa học nghiên cứu đã chia từ, âm Hán Việt thành 3 loại như sau đó là: từ Hán Việt cổ, từ Hán Việt và từ Hán Việt Việt hoá.

– Từ Hán Việt cổ: các từ tiếng Hán được sử dụng trong tiếng Việt trước thời Nhà Đường.

Ví dụ như Tươi: âm Hán Việt là “tiên”. Bố với âm Hán Việt là “phụ”. Xưa: âm Hán Việt cổ là “sơ”. Búa với âm Hán Việt là “phủ”. Buồn với âm Hán Việt là “phiền”. Kén trong âm Hán Việt là “giản”. Chè trong âm Hán Việt là “trà”.

– Từ Hán Việt: các từ tiếng Hán được sử dụng trong tiếng Việt giai đoạn thời nhà Đường cho đến đất nước Việt Nam trong thời gian đầu thế kỷ 10.

+ Từ Hán Việt cổ bắt nguồn tiếng Hán trước Nhà Đường. + Từ Hán Việt nguồn gốc từ tiếng Hán thời Nhà Đường.

Ví dụ như gia đình, lịch sử, tự nhiên.

– Từ Hán Việt Việt hoá: các từ Hán Việt không nằm trong 2 trường hợp trên khi có quy luật biến đổi ngữ âm rất khác và các nhà khoa học vẫn đang nghiên cứu sâu hơn về trường hợp này.

Ví dụ như Gương âm Hán Việt là “kính”. Goá âm Hán Việt là “quả”. Cầu trong “cầu đường” với âm Hán Việt là “kiều”. Vợ với âm Hán Việt là “phụ”. Cướp với âm Hán Việt là “kiếp”. Trồng, giồng: âm Hán Việt của “chúng”. Thuê với âm Hán Việt là “thuế”.

Phân biệt từ Hán Việt với từ mượn khác

Từ mượn phần lớn được lấy từ tiếng nước ngoài như Nga, Anh, Pháp có thể nhận ra dễ dàng qua cách đọc, nói và theo thời gian đã thích nghi với chuẩn mực của tiếng Việt. Khi sử dụng các từ mượn trong cuộc sống hàng ngày người dùng không cảm thấy quá xa lạ hay khác biệt quá nhiều.

Ví dụ:

Góa phụ (từ Hán Việt)

Rocket (từ mượn có nghĩa tên lửa).

Đặc điểm từ Hán Việt

Ngôn ngữ tiếng Việt có nhiều từ Hán Việt và mang nhiều sắc thái khác nhau như sắc thái ý nghĩa, sắc thái biểu cảm, sắc thái phong cách.

– Sắc thái ý nghĩa: từ Hán Việt sắc thái ý nghĩa trừu tượng, khái quát;

Ví dụ: thảo mộc = cây cỏ, viêm = loét, thổ huyết = hộc máu…

– Sắc thái biểu cảm: từ Hán Việt thể hiện cảm xúc.

Ví dụ: phu nhân = vợ, chết = băng hà…

– Sắc thái phong cách: từ Hán Việt riêng biệt được dùng trong các lĩnh vực khoa học, chính luận, hành chính. Còn từ tiếng Việt có sắc thái đơn giản và đời thường hơn.

Ví dụ: bằng hữu = bạn bè, huynh đệ = anh em, thiên thu = ngàn năm,..

Chú ý khi dùng từ Hán Việt

Từ Hán Việt có một số quy tắc riêng mà người sử dụng cần nắm để tránh bị sai nghĩa hoặc không phù hợp với hoàn cảnh. Đồng thời người dùng không nên lạm dụng nhiều từ Hán Việt trong khi nói hoặc viết.

Nói hoặc viết đúng các từ giữa Hán Việt và thuần Việt nhằm tránh sai nghĩa. Ví dụ: “tham quan” thành “thăm quan” có 2 nghĩa hoàn toàn khác nhau.

Hiểu bản chất nghĩa của từ Hán Việt. Ví dụ “yếu điểm” khác với “điểm yếu”.

Dùng đúng sắc thái biểu cảm , tình huốn giao tiếp. Ví dụ: “chết” và “hi sinh”, “ăn” và “xơi”.

Tránh lạm dụng từ Hán Việt trong văn chương và đời sống hàng ngày.

Tại sao dùng sai từ Hán Việt?

Có nhiều trường hợp dùng sai từ Hán Việt nên nghĩa bị thay đổi hoặc dùng không đúng với sắc thái biểu cảm, tình huống giao tiếp. Dưới đây là một số nguyên nhân cơ bản:

– Dùng sai do không hiểu nghĩa gốc của từ Hán Việt. Ví dụ như Hôn lễ (lễ cưới), hôn phối (lấy nhau). Còn hôn phu, hôn quân lại mang nghĩa hoàn toàn khác đó là chỉ người chồng, vua tệ bạc.

– Không phân biệt tiếng Hán Việt và tiếng thuần Việt.

– Lạm dụng từ Hán Việt. Ví dụ “tặc” chỉ ăn cướp nhưng nếu dùng “cát tặc”, “vàng tặc” về mặt ngữ pháp là SAI.

– Hiểu sai nghĩa thành ra viết sai. Ví dụ như “tham quan” viết thành “thăm quan” => 2 nghĩa hoàn toàn khác nhau. “Hằng ngày” viết thành “hàng ngày”.

Các từ Hán Việt thường gặp và giải nghĩa

Một số từ Hán Việt thường gặp nhất và giải nghĩa các từ trên.

1. GIA ĐÌNH

GIA ĐÌNH : nơi mà những người thân thiết, ruột thịt trong nhà đoàn tụ với nhau.

PHỤ MẪU: Cha mẹ.

NGHIÊM QUÂN: Cha.

TỪ MẪU: Mẹ.

KẾ MẪU: mẹ kế.

TRƯỞNG NAM: Con trai đầu lòng.

TRUNG NAM: Con trai giữa.

QUÝ NAM: Con trai út.

THIẾU NỮ: Con gái nhỏ

GIAI NHI GIAI PHỤ: Con tốt

3.TỔ – TÔN

TIÊN TỔ: Ông tổ trước (lâu đời).

VIỄN TỔ: Ông tổ xa (lâu đời).

GIA CÔNG: Ông nội.

ĐÍCH TÔN: Cháu đầu.

HUYỀN TÔN: Chít, cháu của cháu.

3. PHU PHỤ (VỢ CHỒNG)

NỘI TỬ: Chồng kêu vợ là Nội tử.

PHU QUÂN: Vợ kêu chồng.

QUẢ PHỤ: Đàn bà goá (chồng chết)

NỘI TRỢ: giúp việc trong nhà.

BẠCH NIÊN GIA LÃO: vợ chồng bên nhau đến già.

PHU PHỤ HOÀ: Vợ chồng hoà thuận.

4.HUYNH ĐỆ (Anh em).

TRƯỞNG HUYNH: Anh cả.

CHƯ HUYNH: Các anh.

QUÝ ĐỆ: Em út.

TRƯỞNG TỸ: Chị gái.

TIỂU MUỘI: Em gái.

HUYNH HỮU ĐỆ CUNG: Anh thuận em kính.

Như vậy chúng tôi cung cấp nhiều thông tin quan trọng về từ Hán Việt là gì? đặc điểm, phân loại và một số từ Hán Việt thường gặp & giải nghĩa. Kiến thức quan trọng dành cho học sinh lớp 7 tham khảo giá trị.

Từ Hán Việt Trong Ngôn Ngữ Tiếng Việt

Từ Hán Việt trong ngôn ngữ tiếng Việt

Như chúng ta đã biết, Việt Nam chịu ảnh hưởng rất lớn từ văn hóa Trung Hoa nên có rất nhiều từ vựng của tiếng Hán cổ đã được du nhập vào trong ngôn ngữ của người Việt Nam, trở thành một bộ phận quan trọng không thể thiếu trong hệ thống từ vựng tiếng Việt. Theo một số thống kê, chiếm hơn 60% trong vốn từ vựng tiếng Việt. Ða số từ Hán – Việt là từ đa âm tiết: từ hai âm tiết trở lên.

1. Từ Hán Việt là gì

Từ Hán Việt là từ vựng sử dụng trong tiếng Việt có gốc từ tiếng Trung Quốc nhưng đọc theo âm Việt. Cùng với sự ra đời của chữ quốc ngữ, từ Hán-Việt ngày nay được ghi bằng ký tự Latinh. (Wiki)

2. Nghĩa của từ Hán Việt và những lưu ý khi sử dụng

Từ Hán Việt thường mang sắc thái trang trọng, được sử dụng nhiều trong các lĩnh vực chính trị, triết học, Phật giáo, kĩ thuật, giáo dục, pháp luật, …

Ví dụ: Quốc gia: 国家 /guójiā/,học giả: 学者 /xuézhě/, phu nhân: 夫人 /fūrén/, tổ tiên: 祖先 /zǔxiān/, quốc hoa: 国花 /guóhuā/,。。。

Các từ Hán Việt được hình thành do sự tiếp xúc ngôn ngữ Hán và Việt. Tuy nhiên, theo thời gian, cùng với sự phát triển của ngôn ngữ, những từ ngữ Hán Việt đã khác xa so với ngôn ngữ Trung Hoa hiện đại. Vì vậy những người học tiếng Trung như chúng ta khi sử dụng từ âm Hán Việt cần thận trọng lưu ý, bởi tuy sự đối ứng giữa từ Hán Việt và ý nghĩa của chữ Hán tương ứng là một lợi thế rất lớn đối với người Việt Nam chúng ta khi học tiếng Trung, nó giúp chúng ta không cần mất quá nhiều thời gian cho việc tra từ mới, mà dựa vào âm Hán Việt chúng ta có thể đoán ra được chữ Hán tương ứng với nó là gì. Song, âm Hán Việt đôi khi cũng có những ảnh hưởng tiêu cực nhất định đối với người học, bởi không phải lúc nào cũng có sự đối ứng hoặc có nhiều trường hợp quá lạm dụng âm Hán Việt gây ra những sai sót hoặc hiểu lầm.

– Ví dụ một số từ Hán Việt có nghĩa tương đồng, đối xứng với nghĩa trong tiếng Hán: 科学 /Kēxué /: khoa học, 政治 /zhèngzhì /; chính trị, 教育 /jiàoyù /: giáo dục, 历史 /lìshǐ /: lịch sử,家庭 /jiātíng /: gia đình,技术 /jìshù/: kĩ thuật

文学 /wénxué/: văn học ,作品 /zuòpǐn/: tác phẩm,英雄 /yīngxióng/” anh hùng,人民 /rénmín/: nhân dân,国防 /guófáng/: quốc phòng,经济 /jīngjì/: kinh tế, 法律 /fǎlǜ/: pháp luật

– Từ 困难 /Kùnnán/ âm Hán Việt là KHỐN NẠN nhưng nó không phải mang nghĩa xấu xa như từ “thằng khốn nạn, đồ khốn nạn” trong tiếng Việt mà 困难 có nghĩa là khó khăn.

– Từ 利用 /Lìyòng /âm Hán Việt là LỢI DỤNG, mà từ lợi dụng trong tiếng Việt chỉ mang nghĩa xấu, nhưng trong tiếng Trung 利用 không hoàn toàn chỉ mang nghĩa xấu mà nó còn mang nghĩa tận dụng.

– Từ 博士 /bóshì/có âm Hán Việt là Bác Sĩ nhưng trong Tiếng Trung 博士 lại là từ dùng để chỉ học vị “tiến sĩ”, còn bác sĩ thì lại là 医生 /Yīshēng /(âm Hán Việt: Y Sinh) hoặc 大夫 /dài fu/ (âm Hán Việt; Đại Phu)

– Từ “Dân Số” trong tiếng Việt: ở tiếng Trung, “Dân” có Hán tự là 民 /Mín/, “Số” có Hán tự là 数 /shù/, nhưng trong Tiếng Trung từ “dân số” lại không phải là 民数 mà là 人口 /Rénkǒu/ (âm Hán Việt là “nhân khẩu”- trong tiếng Việt cũng có dùng).

– Từ “Kĩ Sư”: “Kĩ” có Hán tự là 技 /Jì /, “Sư” có Hán tự là 师 /shī / nhưng trong tiếng Trung “Kĩ sư” lại không phải là 技师 /Jìshī /Mà là 工程师 /gōngchéngshī/

– Từ “Bệnh Viện”: “Bệnh” có Hán tự là 病 /Bìng/, “Viện” có Hán tự là 院 /yuàn/, nhưng trong tiếng Trung “bệnh viện” không phải là 病院 mà là 医院 /Yīyuàn/

Một số từ Hán Việt hiện đã không còn được sử dụng trong tiếng Hán, ví dụ như từ “Lý Thuyết” -理说 /lǐ shuō /mà thay vào đó là từ 理论 /lǐlùn/. Hay nước Mĩ còn có tên gọi là “Hoa Kỳ”- 花旗 /Huāqí/nhưng trong tiếng Hán hiện đại 花旗 rất ít được sử dụng mà chỉ được coi là một tên gọi cũ của nước Mỹ, đa số sử dụng 美国/měiguó/

Trong từ Hán Việt cũng có rất nhiều từ đồng âm nhưng khác nghĩa dễ dẫn đến việc viết sai chữ Hán:

Ví dụ: + Cùng là một âm Hán Việt là “Hồng” nhưng lại có các cách viết khác nhau và nghĩa cũng hoàn toàn khác nhau như 红 /hóng/: màu đỏ và 鸿 /hóng/: con chim nhạn + Cùng là một âm Hán Việt là “Ngộ” nhưng lại có các cách viết khác nhau và nghĩa cũng hoàn toàn khác nhau như 遇 /yù/: gặp nhau và 悟 /wù/: hiểu ra, ngộ ra + Cùng là một âm Hán Việt là “Minh” nhưng lại có các cách viết khác nhau và nghĩa cũng hoàn toàn khác nhau như “明” /míng/: sáng, rõ ràng và “冥” /míng/: tối tăm, u tối

Thuật Ngữ Từ Hán Việt Là Gì

1. Quá trình tiếp xúc giữa tiếng Việt và tiếng Hán:

Các nhà nghiên cứu tiếng Việt ngày nay ai cũng nhắc đến những từ Việt gốc Hán, nhưng những định nghĩa và giới thuyết về lớp từ này vẫn chưa phải đã hoàn toàn được thống nhất. Lúc đầu nhiều người cho rằng từ Việt gốc Hán chỉ bao gồm các từ Hán-Việt.

Một thực tế mà ai cũng phải thừa nhận là giữa người Việt và người Hán đã có sự tiếp xúc về văn hóa và ngôn ngữ từ lâu đời, từ khoảng hai ngàn năm trước.Do đó, nhìn chung, từ Việt gốc Hán là một hiện tượng đa dạng và phức tạp. Có thể phân các giai đoạn tiếp nhận ấy ra làm hai thời kì lớn:

a/- Giai đoạn trước đời Ðường:

Ngay từ đầu công nguyên, từ khi có sự đô hộ phương bắc, tiếng Hán đã được sử dụng ở Giao Châu với tư cách một sinh ngữ. Người Hán muốn đồng hóa tiếng nói của dân tộc Việt, nhưng tiếng Việt đã có một cơ sở vững vàng từ trước, đến giai đoạn này nó vẫn tiếp tục được kế thừa và tồn tại. Vì vậy, tuy trải qua hàng ngàn năm, người Việt chỉ tiếp nhận lẻ tẻ một số từ Hán thường dùng để lấp đầy vào chỗ thiếu hụt trong tiếng Việt như: buồng, buồn, muộn, mây, muỗi, đục, đuốc…Những từ được tiếp nhận giai đoạn này được gọi là những từ tiền Hán- Việt hay từ Hán cổ.

b/-Giai đoạn từ đời Ðường trở về sau:

Vào khoảng đời Ðường, người Hán đã mở nhiều trường học ở Giao Châu, các thư tịch Hán thuộc đủ các loại được truyền bá rộng rãi. Trước đó, một số thiền sư ấn Ðộ và người Hán cũng truyền giáo ở Giao Châu, một số kinh phật đã được dịch sang chữ Hán cũng được truyền sang Giao Châu.Qua thư tịch, lớp từ văn hóa biểu thị những khái niệm trưù tượng của các phái Nho, Phật, Lão trong tiếng Hán đã được được người Việt vay mượn có tính chất đồng loạt, hệ thống kèm theo sự cải biến về mặt ngữ âm và ý nghĩa để lấp đầy vào khoảng thiếu hụt trong ngôn ngữ của mình.Những từ tiếp nhận ở giai đoạn này được gọi là từ Hán-Việt .

Sau khi âm Hán-Việt đã được hình thành, trong tiếng Việt vẫn diễn ra sự biến đổi ngữ âm. Những biến đổi này có thể tác động vào một bộ phận từ Hán-Việt, nhất là những từ thuộc phạm vi sinh hoạt hằng ngày, làm cho những từ này mang những nét mới về ngữ âm, ngữ nghĩa, phong cách, khác với những từ Hán-Việt trước đây. Những từ này được gọi là từ Hán-Việt Việt hoá.

Như vậy kết hợp tiêu chí thời gian hình thành với tiêu chí hình thức ngữ âm và phong cách có thể phân những từ gốc Hán ra làm ba loại: Từ tiền Hán-Việt, từ Hán-Việt, từ Hán-Việt Việt hóa.

3.2.Tình hình vay mượn từ tiền Hán-Việt.

Từ tiền Hán-Việt là những từ gốc Hán được dân tộc ta tiếp nhận từ trước đời Ðường.

Từ đời Hán cho đến đời Ðường, tiếng Hán đã trải qua hai giai đoạn lớn (Thời kì âm Hán thượng cổ và thời kì âm Hán trung cổ), do đó ngữ âm của tiếng Hán biến đổi và phát triển khá nhiều. Sự biến đổi này có tác động lớn lao đến hệ thống ngữ âm từ gốc Hán trong tiếng Việt, bởi vì những từ Hán – Việt cổ đọc theo âm Hán Thượng cổ, những từ Hán – Việt lại dựa vào âm Hán trung cổ. Dựa vào thành quả nghiên cứu về âm Hán Thượng cổ, đối chiếu với những từ gốc Hán ở Việt Nam, những người có vốn Hán ngữ có thể xác định được những từ nào thuộc về lớp từ Hán-Việt cổ.

Về mặt ngữ âm, có thể hình dung lại quá trình biến đổi từ âm Hán Thượng cổ sang âm Hán-Việt cổ như sau: Trước thế kỉ thứ X trong hệ thống âm đầu tiếng Việt còn chưa có âm hữu thanh, vì vậy âm Hán-Việt cổ lúc đầu cũng mang âm đầu vô thanh, về sau chúng mới hữu thanh hóa. Như vậy những từ có âm đầu hữu thanh trong tiếng Việt ở thời kì ban đầu này chính là những từ gốc Hán.

Xét về mặt nội dung và phong cách, các từ Hán-Việt cổ do du nhập vào tiếng Việt từ rất sớm, tuyệt đại là những từ đơn âm tiết có đầy đủ hai mặt hình ảnh âm thanh và ý nghĩa, nên đã được Việt hoá rất sâu, có khả năng vận hành độc lập trong tiếng Việt và có một vị trí không khác gì những từ gốc Môn-Khme và gốc Tày-Thái trong tiếng Việt, vì vậy cho nên trong thực tế lâu nay nó vẫn được coi là những từ Việt. Theo quan điểm đồng đại, dựa vào chức năng và giá trị sử dụng, nhiều tác giả xem chúng là từ thuần Việt.

3.3. Từ Hán-Việt.

Từ Hán-Việt là những từ gốc Hán đời Ðường-Tống được biến đổi theo quy luật ngữ âm tiếng Việt. Do thông qua con đường sách vở là chủ yếu, những từ Hán-Việt được hình thành một cách có hệ thống, biểu đạt những khái niệm cần thiết cho việc giao tế lúc đó, nhất là trong ngôn ngữ viết. Xét về mặt nội dung, có thể thấy từ Hán Việt được sử dụng để biểu đạt những khái niệm thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như chính trị, kinh tế, khoa học, tôn giáo, v.v… Ví dụ:

– Chính trị: hoàng thượng, thượng, thượng đế, chế độ, chiếm đoạt, xung đột, chính thống, triều đình, …

– Văn hóa: khoa cử, văn chương, giảng giải, hiền triết,…

– Giáo dục: tú tài, cử nhăn, tiến sĩ, trạng nguyên, thám hoa,…

– Tôn giáo: Phật, nát bàn, hòa thượng, giáng thế, thiên đường,…

– Quân sự: chiến trường, giáp trận, xung đột, chỉ huy, ác chiến,.

– Tư pháp: Nguyên cáo, bị cáo, xử lí, tố cáo, án sát, ân xá,…

– Y học: thương tích, thương hàn, chướng khí, tiêm nhiễm,…

– Kinh tế: thương mại, thương khách, công nghiệp, thương nghiệp,…

Về mặt ngữ âm, có thể miêu tả quá trình hình thành ra âm Hán-Việt thành mấy điểm sau:

Về mặt phụ âm đầu: Trong tiếng Hán Trung cổ ở các thế kỉ VIII, IX có tất cả 41 âm đầu, trong đó có nhiều âm hữu thanh và âm tắc-xát, trong khi đó ở tiếng Việt thế kỉ X chỉ có 20 âm đầu, lại không có âm hữu thanh và âm tắc-xát, do đó, ở bước đầu tiên, các âm hữu thanh trong tiếng Hán phải chuyển thành âm vô thanh trong Hán-Việt và các âm đầu tắc-xát Hán phải chuyển thành tắc hay xát trong Hán-Việt. Kết quả là 41 âm đầu trong tiếng Hán Trung cổ nhập lại thành 20 âm đầu trong cách đọc Hán-Việt buổi đầu. Ðể bù lại và giữ thế cân bằng sẽ có sự bổ sung về thanh điệu. Các âm đầu vô thanh Hán sang vô thanh Hán-Việt sẽ có các thanh điệu bổng. Các âm đầu hữu thanh Hán sang vô thanh Hán-Việt sẽ có các thanh điệu trầm. Ngoài ra, trong nội bộ tiếng Việt cũng diễn ra sự biến đổi ngữ âm. Một số âm đầu vô thanh lại hữu thanh hóa, một số âm đầu khác được xát hóa hoặc tắc hóa: p > b; t > đ; s > t ; kj.>gi. Cuối cùng là ta có diện mạo hệ thống âm đầu từ Hán-Việt như ngày nay.

Về phần vần, cũng có những biến đổi đều đặn từ âm Hán Trung cổ sang âm Hán-Việt.

Chọn hệ thống ngữ âm Hán -Việt làm trung điểm để khảo sát hệ thống ngữ âm của những từ vay mượn gốc Hán ở các thời kì, có thể thấy đặc điểm ngữ âm của những từ vay mượn ở hai thời kì này như sau:

THV HV THV HV

Thông qua cứ liệu thống kê trên, ta có thể rút ra một số đặc điểm ngữ âm của hai thời kì này:

-Có sự đối lập giữa âm hữu thanh và âm vô thanh giữa hai thời kì. Cụ thể:

+ Sự dối lập giữà / b / và / f /

Thí dụ: buồng – phòng; buông – phóng; bùa – phù.

+Sự đối lập giữa / m / và / v /.

Thí dụ: mùa -vụ; múa- vũ; muộn- vãn.

+Sự đối lập giữa / d/ và / tr /.

Thí dụ: đục -trọc , đuổi -truy ; đúng -trúng.

+Sự đối lập giữa / ia / và / i /.

Thí dụ: bia- bi ; lìa- li ; bìa- bì.

+ Sự đối lập giữa / ô / và / a / khi không đứng sau / / i / ngắn.

Thí dụ : nôm, nồm – nam, nộp- nạp, hộp – hạp.

+ Sự đối lập của /ă/ ngắn và /i/ khi đứng trước /ng/ và /k/ .

Thí dụ: tanh- tinh ; sanh – sinh.

+ Sự đối lập giữa / e / và / a / hay / ie /.

Thí dụ: kén- kiển ; quen- quán ; khoe- khoa ; phen- phiên; sen -liên.

+ Sự đối lập giữa / o / và / wo /.

Thí dụ: hòn- hoàn.

+ Sự đối lập giữa / ua / và / u /.

Thí dụ: chúa – chủ ; múa- vũ .

+ Sự đối lập giữa / ưa / và / ư /.

Thí dụ: lừa – lư ; chứa – trữ ; tựa – tự.

+ Sự đối lập giữa / ơ / , / ai / , / ơi / , / âi / và / i /.

Thí dụ: cờ- kì; thơ- thi ; mày- mi ; dời -di; vây – vi.

Vay mượn là một hiện tượng tất yếu trong quá trình giao lưu văn hóa, kinh tế giữa các dân tộc. Có một điều đáng nói là thái độ tích cực, chủ động của người Việt trong quá trình tiếp thu những từ ngữ của tiếng nước ngoài. Những từ ngữ gốc Hán khi đi vào tiếng Việt chẳng những biến đổi it nhiều về hình thức ngữ âm như vừa nêu mà còn có những cải biến về mặt ý nghĩa. ý nghĩa có thể được biến đổi theo nhiều hướng.

– Mở rộng ý nghĩa của từ Hán. Thí dụ:

Từ khám trong tiếng Hán có một nghĩa xem xét, khi đi vào tiếng Việt nó thêm nhiều nghĩa mới như xét, lục, khám, soát.

Từ thủ trong tiếng Hán có 2 nghĩa: 1/. Phần trên cơ thể của người (thủ cấp). 2/. Ðứng trước hết (thủ khoa, thủ lĩnh). Sang tiếng Việt, ngoài hai nghĩa trên, phát sinh thêm một nghĩa mới là phần trên của cơ thể gia súc ( thủ lợn, thủ bò).

– Thu hẹp nghĩa của từ Hán. Việc thu hẹp nghĩa có thể diễn ra dưới nhiều hình thức.

a). Giảm bớt các nghĩa được sử dụng trong tiếng Hán. Thí dụ:

Trong tiếng Hán từ nhất có mười hai nghĩa, khi đi vào tiếng Việt nó chỉ được sử dụng có hai nghĩa : số thứ tự và đều hay cùng.

Từ phong trào trong tiếng Hán có ba nghĩa: 1- Hướng gió và cữ thủy triều. 2- Gió lốc, gió xoáy giữa biển khơi.3- Sự việc diễn ra sôi nổi trong một thời kì nhất định. Khi đi vào tiếng Việt , chỉ có nghĩa 3- được giữ lại.

b). Chỉ bảo lưu nghĩa của một trong hai thành tố của từ được sử dụng trong tiếng Hán. Thí dụ:

Ðột ngột trong tiếng Hán có nghĩa là cao chót vót, cao ngất một mình, trong đó đột có nghĩa là bất chợt, ngột có nghĩa là cao mà phẳng. Trong tiếng Việt, chỉ có nghĩa của đột được giữ lại để chỉ sự bất ngờ, không có dấu hiệu gì báo trước.

c). Chỉ sử dụng nghĩa của tiếng Hán theo nghĩa hẹp. Thí dụ:

Tiêu hóa trong tiếng Hán có nghĩa là tiêu tan vật chất hóa ra chất khác. Thí dụ như chất đặc nấu chảy ra chất lỏng…Nói chung, có thể dùng cho mọi quá trình biến đổi của vật chất. Trong tiếng Việt, tiêu hóa chỉ được sử dụng để chỉ quá trình biến thức ăn thành chất nuôi dưỡng cơ thể của người và động vật.

– Chuyển sang nghĩa hoàn toàn mới. Thí dụ:

Từ ngoại ô trong tiếng Hán có nghĩa là cái bờ thành nhỏ đắp bằng đất để ngăn trộm cướp. Trong tiếng Việt ngoại ô chỉ khu vực bên ngoài thành phố.

Phương phi trong tiếng Hán có nghĩa là hoa cỏ thơm tho; trong tiếng Việt có nghĩa là béo tốt.

Khôi ngô trong tiếng Hán có nghĩa là cao to; trong tiếngViệt có nghĩa là mặt mũi sáng sủa, dễ coi.

Bồi hồi trong tiếng Hán có nghĩa là đi đi lại lại; trong tiếng Việt có nghĩa là trạng thái tâm lí bồn chồn, xúc động.

Kĩ lưỡng trong tiếng Hán có nghĩa là khéo léo, trong tiếng Việt có nghĩa là cẩn thận.

Ðáo để trong tiếng Hán có nghĩa là đến đáy, trong tiếng Việt có nghĩa là quá quắt trong đối xử, không chịu ở thế kém đối với bất cứ ai.

– Thay đổi sắc thái biểu cảm. Thí dụ:

Trong tiếng Hán , từ thủ đoạn có nghĩa là tài lược, mưu cơ. Trong tiếng Việt thủ đoạn mang nghĩa xấu, tương đương với cách thức lừa bịp. Phụ nữ, nhi đồng trong tiếng Hán mang sắc thái trung tính, sang tiếng Việt nó diễn đạt khái niệm mang sắc thái dương tính .

Sự thay đổi sắc thái biểu cảm có thể gắn liền với sự thay đổi các nét nghĩa trong ý nghĩa biểu niệm. Thí dụ:

Tiểu tâm trong tiếng Hán có nghĩa là cẩn thận, chú ý ( sắc thái dương tính). Trong tiếng Việt có nghĩa là lòng dạ nhỏ mọn, hẹp hòi (sắc thái âm tính).

Lợi dụng trong tiếng Hán có nghĩa là đồ vật tiện dùng hay sử dụng đồ vật sao cho có lợi (trung tính). Trong tiếng Việt có nghĩa là dựa vào điều kiện thuận lợi nào đó để mưu cầu quyền lợi riêng không chính đáng ( sắc thái âm tính)

Về mặt phong cách, từ tiền Hán-Việt do được du nhập sớm nên hầu hết có nội dung biểu đạt những khái niệm cụ thể và được Việt hoá rất sâu ( như: buồng, bình, đục, đuốc mây, mùa, mù, đúng,…). Từ Hán-Việt do được du nhập muộn hơn, khi tiếng Việt đã có những từ biểu thị các sự vật cụ thể thuộc nền văn minh vật chất, cho nên phần lớn chúng được sử dụng để biểu thị những khái niệm trừu tượng thuộc lớp từ văn hóa và được Việt hóa chưa sâu. Trong tiếng Việt chúng mất khả năng sử dụng độc lập, chỉ được sử dụng với tư cách như những yếu tố cấu tạo từ. So sánh từ cỏ và thảo, miệng và khẩu, mặt và nhan…có thể thấy rõ điều đó. Do đó, để hiểu được từ Hán-Việt , người Việt thường đặt nó vào trong các chùm quan hệ. Thí dụ:

Thảo > thảo mộc, thu thảo, thảo đường, thảo khấu, thảo dã,…

Hòa > hòa hiếu, hòa bình, bất hòa, hòa hoãn, hiền hoà,…

Về mặt cấu tạo, từ đa tiết Hán-Việt do phần lớn là mượn từ tiếng Hán nên được cấu tạo theo ngữ pháp Hán. Trong các kết cấu chính phụ, yếu tố phụ bao giờ cũng được đặt trước. Thí dụ:

+ Ðịnh tố + danh từ. Thí dụ : chính phủ, thủ pháp, thiên tử. thủy điện, ngoại quốc, độc giả, …

+ Bổ tố + động từ. Thí dụ: cưỡng đoạt, độc lập, độc tấu, bi quan, ngoại lai, lạm dụng, kí sinh,…

Một số lớn từ Hán-Việt cũng được cấu tạo theo kết cấu đẳng lập.Thí dụ:

+Danh từ +danh từ. Thí dụ: mô phạm, quy củ, nhân dân, phụ nữ, thư tịch, quốc gia,…

+Tính từ +tính từ. Thí dụ: hạnh phúc, phú quý, khổ sở, cơ hàn, phong phú, trang nghiêm thích hợp,…

+Ðộng từ +động từ . Thí dụ: tiếp nhận, tàn sát, chiến đấu, thương vong, đả phá, giáo dưỡng,…

Có điều cần chú ý là những từ Hán-Việt kiểu này ít có thể đảo vị trí giữa các yếu tố như những từ thuần Việt .

Ngoài ra trên cơ sở những yếu tố Hán-Việt này, hàng loạt những từ mới sau đó đã được tạo ra. Người Việt có thể kết hợp yếu tố Hán-Việt với yếu tố thuần Việt để tạo ra từ mới. Thí dụ: binh lính, cướp đoạt, đói khổ, súng trường, kẻ địch, tàu hoả,…

3.4. Từ Hán Việt hóa.

Từ Hán Việt Việt hóa là những từ được hình thành trên cơ sở sự biến đổi về mặt ngữ âm, ngữ nghĩa và phong cách của những từ Hán-Việt. So với những từ Hán-Việt, những từ Hán Việt Việt hóa mang ý nghĩa cụ thể hơn. So sánh: can và gan, đình và dừng , hoạvà vẽ.

Có thể nhận thấy sự biến đổi ngữ âm từ âm Hán-Việt sang âm Hán-Việt Việt hoá như sau:

Biến đổi k > g

Biến đổi đ > d.

Biến đổi b > v.

Biến đổi h, w > v .

Biến đổi s > th .

– Về phần vần.

Những nguyên âm hẹp có khuynh hướng chuyển sang các nguyên âm rộng. Cụ thể, âm /i/ > /e/ , /iê/ > /ê/ , /ê/ > /e/ ,…

Chú ý: Từ Hán-Việt cổ và từ Hán Việt Việt hóa được hình thành từ hai điểm xuất phát khác nhau và ở vào hai thời điểm khác nhau nên không thể có hiện tượng một từ Hán vừa có âm Hán-Việt cổ, lại vừa có âm Hán-Việt Việt hóa. Như vậy là ở Việt Nam, chỉ xảy ra hiện tượng song tồn giữa a/. Từ Hán-Việt cổ và từ Hán-Việt. b/. Từ Hán-Việt và Hán-Việt Việt hóa.

Các từ Hán-Việt cổ và từ Hán Việt Việt hóa có đặc điểm chung là đã được Việt hóa hoàn toàn về các mặt ngữ âm, ngữ nghĩa và phong cách, giống với từ gốc bản địa, chúng có thể hoạt động độc lập trong việc cấu tạo từ và câu. Chính vì vậy có tác giả xếp chúng vào cùng một loại từ gốc Hán không đọc theo âm Hán-Việt hay từ thuần Việt.

Tóm lại, những từ gốc Hán trong tiếng Việt chiếm số lượng rất lớn và giữ vai trò quan trọng trong việc biểu đạt tư tưởng, tình cảm của người Việt. Tuy nhiên cần chú ý sử dụng đúng chỗ, đúng lúc mới có thể phát huy được tác dụng to lớn của chúng.

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn