Xem Nhiều 3/2023 #️ Từ Không Nhân Nhượng Đến Hợp Tác Bình Đẳng. # Top 10 Trend | Tvzoneplus.com

Xem Nhiều 3/2023 # Từ Không Nhân Nhượng Đến Hợp Tác Bình Đẳng. # Top 10 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Từ Không Nhân Nhượng Đến Hợp Tác Bình Đẳng. mới nhất trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Tờ báo điện tử Vietnamnet lấy tin từ tờ báo Dilomat của Hoa Kỳ, bản tin về việc Trung Quốc đẩy nhanh tốc độ xây dựng căn cứ trên biển Đông, khu vực thuộc quần đảo Hoàng Sa chủ quyền của Việt Nam.

Đối chiếu theo nghĩa đen của từ điển Việt Nam về hành động quân sự của Trung Quốc trên quần đảo Hoàng Sa ;

“Xâm lược là hành động quân sự của quân đội (hoặc lực lượng vũ trang” Hai bên đều mong muốn mở rộng các lĩnh vực hợp tác về công tác đảng, công tác chính trị, thông tin, truyền thông, văn học, nghệ thuật… trong đó coi trọng giáo dục truyền thống đoàn kết, hữu nghị, hợp tác Việt-Trung cho cán bộ, chiến sỹ và nhân dân mỗi nước.” ” Vấn đề biên giới lãnh thổ nói chung là vấn đề phức tạp do lịch sử để lại, nhưng nếu hai bên có quyết tâm và thiện chí, kiên trì đàm phán, dựa trên luật pháp quốc tế, trên tình đồng chí thì hoàn toàn có thể giải quyết được.” ) một nước hay liên minh các nước vào một vị trí địa lý chính trị trọng yếu của nước khác. Mục đích của xâm lược là mở rộng phạm vi trong thời gian dài nên cần một lược lực lượng có quy mô lớn để giữ đất đai, lãnh thổ và bảo vệ quyền lợi trên lãnh thổ xâm chiếm.”

Một cách quá rõ ràng hành động quân sự trên của Trung Quốc là hành động xâm lược.

Thế nhưng trong 20 năm gần lại đây, chưa một lần nào chế độ Việt Nam do ĐCSVN lãnh đạo sử dụng từ này một lần khi nêu đến vấn đề trên. Thậm chí nhiều người dân bức xúc đã phải trả giá tù đầy khi gọi chính xác hành động của TQ là xâm lược. Bắt đầu từ người được gọi là đầu tiên trong phong trào phản kháng hành vi xâm lược của Trung Quốc là luật sư Lê Chí Quang với bài Hãy Cảnh Giác Với Bắc Triều tiếp đến nhóm nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa với bài thơ Tổ Quốc Tôi Như Miếng Da Lừa hay cô công nhân Phạm Thanh Nghiên với bài Uất Ức Biển Ta Ơi đến phong trào phản kháng của nhóm Dân Báo do cựu chiến binh Nguyễn Văn Hải, tức Hải điếu cày… Cù Huy Hà Vũ với bài Liên Minh Với Mỹ Là Mênh Lệnh Thời Đại rồi đến các cuộc biểu tình có những gương mặt như Nguyễn Văn Dũng, Paul Nguyễn Văn Sơn, Lê Quốc Quân, Bùi Thị Minh Hằng… hàng vô số người phản kháng Trung Quốc xâm lược đều vì lý do này hay lý do khác phải vào nhà tù.

Trong khi chế độ Việt Nam dùng nhiều lý do khác nhau để đưa những người dân yêu nước, có tinh thần cảnh giác cao độ trước hành vi xâm lược của Trung Quốc vào trong nhà tù. Đàn áp, bắt giam, phạt hành chính, đánh đập, khủng bố tinh thần những người biểu tình phản đối Trung Quốc. Mặt khác chế độ Việt Nam sử dụng nhiều cụm từ, lý luận để đánh tráo khái niệm xâm lược bằng một khái niệm khác có cái tên rất nhẹ nhàng là ” mẫu thuẫn bất đồng trong quan điểm về biển Đông ” hoặc ” tranh chấp chủ quyền giữa hai bên “

Có lẽ Việt Nam là nước đầu tiên và duy nhất trên thế giới này đã nhìn nhận từ ” xâm lược ” theo một nghĩa khác hẳn.

Thậm chí để xoá mờ nguồn gốc xâm lược của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Thoái thác trách nhiệm làm mất biển đảo của mình. Các nhà lý luận Việt Nam đổ vấy cho việc đó là do ” lịch sử để lại “.

Trong những lý luận nhập nhèm này, Tổng Cục Chính Trị Quân Đội Việt Nam là cơ quan đi đầu và hăng hái nhất để biện minh cho những gái gọi là mẫu thuẫn bất đồng, tranh chấp chủ quyền hay lịch sử để lại.

Thứ trưởng bộ quốc phòng, tổng cục trưởng tổng cục chính trị, uỷ viên trung ương đảng, uỷ viên Ban Bí Thư trung ương Đảng, uỷ viên thường vụ thường trưc quân uỷ trug ương, thượng tướng Ngô Xuân Lịch phát biểu trong chuyến đi Trung Quốc.

Để làm cho nhân dân, chiến sĩ Việt Nam coi trọng tình hữu nghị, đoàn kết Việt – Trung. Tổng Cục CCQDNDVN đã mở mục ” chống diễn biến hoà bình ” trên báo quân đội nhân dân, tuyển mộ những cây viết mang hàm giáo sư, phó tiến sĩ để viết những bài doạ nạt ai có tinh thần phản đối TQ xâm lược, đồng thời lung lạc mê hoặc chiến sĩ quân đội Việt Nam hiểu sai bản chất xâm lược của TQ thành mâu thuẫn nhỏ giữa hai nước. Trên mặt truyền thông công khai như truyền hình, báo chí chưa đủ, Tổng cục CTQĐND Việt Nam còn lập ngân sách để đãi ngộ Dư luận viên đi rao giảng xuyên tạc như đại tá Trần Đăng Thanh, thiếu tướng Bùi Sỹ Kỷ, trung tá Nguyễn Văn Minh và nhiều kẻ khác. Dường như cảm thấy chỉ dùng các phương tiện, vị trí quân đội chưa đủ đáp ứng với yêu cầu ” giáo dục nhân dân, chiến sĩ coi trọng hữu nghị Việt – Trung “. Tổng cục chính trị quân đội Việt Nam còn câu kết với thành uỷ Hà Nội, trung ương Đoàn TNCSHM, Hội nhà văn Việt Nam. Ban tư tưởng văn hoá Việt Nam để tạo thành một ma trận thông tin, khủng bố tinh thần những người yêu nước.

Nhưng thế vẫn chưa đủ làm hài lòng những người bạn hữu nghị Việt – Trung. Tổng cục CTQQDVN mới đây đã mở hội thảo và ép tổng cục chính trị công an nhân dân phải tham gia cùng, nhằm buộc công an phải đứng cùng chương trình giáo dục lệ thuộc phương Bắc này, qua đó mượn bàn tay công an , đẩy phe công an ra tuyến đầu trấn áp biểu tình.

Thiếu tướng quân đội Bùi Sỹ Kỷ đã có bài trên báo QĐND chê trách biến cố ở Đông Âu quân đội đã ngập ngừng không dám bắn vào dân, bởi những người chỉ huy mất phương hướng. Chắc ông Kỷ nói rằng chỉ huy Đông Âu không có sự giáo dục, định hướng nên bây giờ TCCTQDNDVN cần phải định hướng vững vàng để các cấp chỉ huy biết ra lệnh bắn vào dân khi có biểu tình như Đông Âu.

Mới đây sau chuyến thăm của TBT Trung Quốc Tập Cận Bình với TB Việt Nam ông Nguyễn Phú Trọng. Ông Trọng nhận lời mời với tư cách hai đảng với nhau, nhưng ông Trọng lại dẫn theo các cốt cán trong việc giáo dục nhân dân là Trưởng ban tuyên giáo Đinh Thế Huynh, bộ trưởng công an Phùng Quang Thanh, bộ trưởng công an Trần Đại Quang, phó chủ tịch quốc hội Nguyễn Kim Ngân., bí thư trung ương đoàn Nguyễn Đắc Vinh. Những người này đi thăm TQ với tư cách gì, tư cách là uỷ viên BCT, uỷ viên trung ương Đảng chăng?

Báo chí chỉ nói ông Tập mời ông Trọng thăm theo danh nghĩa đảng, thế mà ông Trọng dẫn những người chắc chắn còn giữ vị trí quan trọng ở nhiệm kỳ 2016 đi để ký kết những chuyện thuộc về nhà nước, chính phủ. Một chuyến thăm lại thành làm việc, một chuyến danh nghĩa đảng với nhau nhưng lại ký kết trên phương diện nhà nước, chính phủ. Thử hỏi chuyến đi như thế có trong sáng, khách quan hay không.? Người dân hoàn toàn có quyền nghi vấn, nhất là chuyến đi ngắn ngủi ấy có hằng hà vô số hiệp ước được ký kết, đều là những vấn đề quan trong, sinh tử của quốc gia.

Nghi vấn ấy xuất phát từ chính nghĩa, từ lòng yêu nước và hơn hết nghi vấn hay chỉ trích chuyến đi thăm và ký kết ấy của ĐCSVN với TQ là hoàn toàn chính đáng, có cơ sở.

Thế nhưng, một lần nữa, tờ báo QĐND thuộc TCCTQĐNDVN lại ngậm máu phun người, xuyên tạc tinh thần yêu nước của người dân Việt Nam, đánh tráo khái niệm bằng bài viết của một kẻ không dám ký tên thật.

Trong nội dung của bài, sự xuyên tạc , đe doạ là điều thương thấy, không có gì đáng nói. Nhưng ở sự nham hiểm nhất và nguy hiểm nhất đối với dân tộc, đất nước nằm ngay ở tiêu đề bài báo.

Chúng ta sẽ thấy một âm mưu cố tình diễn biến từ cạm bẫy gác tranh chấp cùng khai thác đã bị lên án, nay đã khéo léo chuyển thành hợp tác bình đẳng cùng có lợi, hợp tác kiểm soát bất đồng, cầu đồng tồn dị…một loạtj khái niệm bị tráo đổi ra đời ngay sau chuyến đi của 5 uỷ viên bộ chính trị VN sang TQ mới đây.

Điều này cho thấy, việc TCCTQĐVN, Ban bí thư ĐCS VN mở mục ” chống diễn biến hoà bình ” là cách vừa ăn cướp vừa la làng, vừa bán nước vừa vu khống người yêu nước. Chính họ, những người thực hiện chuyên mục này đang cố tình , rắp tâm, chủ ý làm người dân bị diễn biến, hiểu sai bản chất xâm lược của Trung Quốc thành những tranh chấp bất đồng, mâu thuẫn chung.

Âm mưu diễn biến này nhằm loại bỏ quốc tế quan tâm đến khu vực biển Đông. Thế giới chỉ lên án chuyện xâm lược, có biện pháp trừng phạt xâm lược như trường hợp bán đảo Crima của Ukraina bị Nga thôn tính. Thế giới không thể lên án Hoàng Sa, Gạc Ma của Việt Nam bị Trung Quốc xâm lược, vì đó là mâu thuẫn nhỏ giữa hai nước, bất đồng quan điểm trong nhìn nhận chủ quyền, những vấn đề rắc rối do lịch sử để lại. Chế độ Viêtj Nam, người dân Việt Nam không gọi là xâm lược, quốc tế cớ gì lên tiếng.?

Trong cuộc gặp với Nguyễn Phú Trọng, ông Tập Cận Bình có nói đến việc các trang mạng trong và ngoài Việt Nam ( bao gồm các trang website, bloger, facebook….) có những bài viết làm cản trở tình hữu nghị Việt Trung. Ngay khi ông Trọng trở về nước, thì bài báo có tên Hợp Tác Bình Đẳng Cùng Có Lợi số ra ngày 13.4.1025 của tác giả Vân Khánh đã chỉ trích những người lên án chuyện ký kết gấp gáp của Nguyễn Phú Trọng. Sau khi ca ngợi chuyến đi, ca ngợi tình hữu nghị TQ, phần cuối tác giả Vân Khánh còn gán gép dùng hình ảnh.

‘ ‘Còn rất nhiều dẫn chứng cụ thể, sinh động từ thực tiễn đời sống của nhân dân; từ sự đánh giá của bạn bè quốc tế về vị thế của Việt Nam, về tính đúng đắn trong thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, bình đẳng, cùng có lợi mà chúng tôi không thể liệt kê hết trong bài viết này.”

Xin hỏi tác giả Vân Khánh, cũng như Ban bí thư, TCCQĐND, báo QĐND, có dẫn chứng nào cụ thể hơn máu của người dân và chiến sĩ. Có gì sinh động hơn những bà mẹ, người vợ, con của 64 chiến sĩ Bắc Việt hy sinh ở Gạc Ma năm 1988, 74 chiến sĩ Nam Việt hy sinh ở Hoàng Sa. Có gì thực tiễn hơn nhưng ban thờ người lính hải quân, người ngư dân leo lét khói nhang .? Một bài viết có nội dung như vậy ngay sau lời nhắc nhở của tổng bí thư TQ về các trang mạng Việt Nam, liệu có thể gọi tác giả là tay sai, bồi bút, thực hiện ý chỉ của thiên triều hay không. Đất nước này có có độc lập, tự chỉ hay không.?

Xin lấy đoạn mở đầu bài thơ Tổ Quốc Tôi Như Miếng Da Lừa của tù nhân lương tâm , nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, người vừa được tư do và đoạt giải văn học ở Na Uy mới đây. Để thay cho cái kết của bài viết này.

Viết để nhớ ngày 29/4/2008

Luận Văn: Bình Đẳng Giới Trong Pháp Luật Hôn Nhân

Published on

Do đó, việc nghiên cứu đề tài: “Bình đẳng giới trong pháp luật hôn nhân – gia đình Việt Nam” là cần thiết và có ý nghĩa lý luận, thực tiễn quan trọng trong thời điểm hiện nay.

1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ HOÀNG GIANG BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG PHÁP LUẬT HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH VIỆT NAM Chuyên ngành: Pháp luật về Quyền con người Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN DUY SƠN HÀ NỘI – 2014

2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn bảo đảm tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Hoàng Giang

4. Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG PHÁP LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM …………..28 2.1. Quá trình phát triển pháp luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam từ lăng kính bình đẳng giới……………………………………………..28 2.2. Thực trạng bảo đảm bình đẳng giới trong pháp luật HN&GĐ Việt Nam…………………………………………………………………………………30 2.2.1. Bình đẳng giới thể hiện trong các nguyên tắc cơ bản của chế độ Hôn nhân và gia đình Việt Nam………………………………………………….30 2.2.2. Bình đẳng giới trong kết hôn ……………………………………………………..35 2.2.3. Bình đẳng giới trong quan hệ giữa vợ và chồng……………………………43 2.2.4. Bình đẳng giới trong quan hệ giữa cha mẹ và con…………………………60 2.2.5. Bình đẳng giới trong việc xác định cha, mẹ, con…………………………..67 2.2.6. Bình đẳng giới trong chế định ly hôn ………………………………………….77 2.3. Những giá trị tiến bộ và những vấn đề chưa được giải quyết (bỏ ngỏ) trong pháp luật Hôn nhân và gia đình hiện hành………..85 2.3.1. Về những giá trị tiến bộ …………………………………………………………….85 2.3.2. Một số hạn chế trong pháp luật về Hôn nhân và gia đình ………………87 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU LỰC THI HÀNH PHÁP LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM…………………………………………………………………..92 3.1. Giải pháp về hoàn thiện pháp luật về Hôn nhân và gia đình trong thời gian tiếp theo ………………………………………………………….92 3.1.1. Về quyền kết hôn của cộng đồng LGBT ……………………………………..93 3.1.2. Về độ tuổi kết hôn…………………………………………………………………….93 3.1.3. Về chế độ tài sản của vợ chồng…………………………………………………..94 3.1.4. Quy định về quyền giám hộ, đại diện của vợ chồng………………………95 3.1.5. Về vấn đề ly thân………………………………………………………………………96

5. 3.1.6. Các quy định về cấp dưỡng………………………………………………………..98 3.2. Đề xuất, kiến nghị về bảo đảm thi hành pháp luật Hôn nhân và gia đình…………………………………………………………………………….101 3.2.1. Tăng cường công tác tuyên truyền pháp luật, trợ giúp pháp lý về hôn nhân và gia đình đến các tầng lớp nhân dân trong xã hội……….101 3.2.2. Nâng cao nhận thức của các cấp chính quyền địa phương trong việc bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em trong các quan hệ HN&GĐ ………………………………………………………………………………..102 3.2.3. Bảo đảm sự tham gia của các tổ chức, cá nhân trong các phiên tòa giải quyết, xét xử các việc, các vụ án về hôn nhân và gia đình……..103 3.2.4. Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước quản lý nhà nước về bình đẳng giới và gia đình……………………………………..104 3.2.5. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm về bình đẳng giới trong lĩnh vực Hôn nhân và gia đình …………………………..104 3.2.6. Tăng cường các dịch vụ, tư vấn, hỗ trợ cho nạn nhân của bạo lực gia đình………………………………………………………………………………….105 KẾT LUẬN……………………………………………………………………………………..107 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………109

6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLDS : Bộ luật Dân sự CEDAW : Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ CRC : Công ước quốc tế về quyền trẻ em HN&GĐ : Hôn nhân và gia đình ICCPR : Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị ICESCR : Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa LGBT : Nhóm những người đồng tính, song tính và chuyển giới UDHR : Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền

7. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 1.1. Phân biệt giữa Giới và Giới tính 8 Bảng 2.1: Người đứng tên giấy tờ sở hữu/quyền sử dụng một số tài sản phân theo thành thị – nông thôn 58 Bảng 3.1. Kết quả hoạt động của “Ngôi nhà bình yên” từ năm 2007 đến 15/8/2014 106

9. 2 và hội nhập quốc tế, như độ tuổi kết hôn giữa nam và nữ; quyền trong hôn nhân của nhóm những người đồng tính, song tính và chuyển giới (LGBT) – một trong những cộng đồng đang thu hút sự quan tâm, chú ý lớn của cộng đồng quốc tế; vấn đề mang thai hộ; quan hệ tài sản giữa vợ và chồng; vấn đề lựa chọn giới tính trước khi sinh… Xuất phát từ những yêu cầu nêu trên của thực tiễn xã hội, ngày 19/6/2014, Quốc hội đã thông qua Luật HN&GĐ 2014 thay thế Luật HN&GĐ năm 2000. Đây là dịp quan trọng để đánh giá những giá trị tiến bộ trong Luật HN&GĐ năm 2014 so với Luật HN&GĐ năm 2000 và những vấn đề chưa được giải quyết trong Luật này nhằm định hướng tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật HN&GĐ ở Việt Nam trong thời gian tiếp theo cũng như kiến nghị, đề xuất trong việc quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật HN&GĐ năm 2014. Do đó, việc nghiên cứu đề tài: “Bình đẳng giới trong pháp luật hôn nhân – gia đình Việt Nam” là cần thiết và có ý nghĩa lý luận, thực tiễn quan trọng trong thời điểm hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu Vấn đề hoàn thiện pháp luật HN&GĐ để bảo vệ quyền của những chủ thể tham gia quan hệ HN&GĐ đã có không ít những công trình nghiên cứu dưới dạng đề tài khoa học, bài viết, tham luận về vấn đề này, cụ thể như: – Xác định cha, mẹ, con dưới góc độ BĐG – Ths. Nguyễn Thị Lan đăng trên địa chỉ: http://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2008/01/06/8353-2/ – Bài viết: Về quyền và nghĩa vụ giữa các thành viên trong gia đình – tác giả Hoa Hữu Vân đăng trên tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề sửa đổi, bổ sung Luật HN&GĐ năm 2000; – Bài viết: Sửa đổi Luật Hôn nhân và gia đình, một số vấn đề cần giải quyết của tác giả Nguyễn Mạnh Hà, trường Đại học Luật Hà Nội đăng trên trang web: http://www.moj.gov.vn/ct/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=5929;

11. 4 luật về HN&GĐ trong mối quan hệ với bảo vệ và thúc đẩy quyền con người từ góc độ BĐG, thông qua đó đánh giá những giá trị tiến bộ đạt được trong Luật HN&GĐ năm 2014 so với Luật HN&GĐ (năm 2000) và những vấn đề chưa được giải quyết trong Luật này nhằm định hướng tiếp tục hoàn thiện pháp luật HN&GĐ ở Việt Nam, đặc biệt là kiến nghị, đề xuất trong việc quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật HN&GĐ năm 2014. Về phạm vi, Luận văn tập trung phân tích các quy định của pháp luật HN&GĐ Việt Nam từ góc độ BĐG, trong đó tập trung chủ yếu vào Luật HN&GĐ năm 2014 với những vấn đề cơ bản gồm: các nguyên tắc cơ bản của chế độ HN&GĐ; kết hôn; quan hệ giữa vợ và chồng; quan hệ giữa cha mẹ và con; xác định cha, mẹ, con và về ly hôn. 4. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở áp dụng các phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước Việt Nam về pháp luật và xây dựng pháp luật. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Phân tích và tổng hợp, thống kê, so sánh để làm sáng tỏ những vấn đề đặt ra trong nhiệm vụ của Luận văn. 5. Những đóng góp mới của luận văn Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên một các toàn diện về những giá trị tiến bộ đạt được của Pháp luật HN&GĐ hiện hành mà trực tiếp là Luật HN&GĐ năm 2014 so với các quy định của pháp luật HN&GĐ trước đó trong mối quan hệ với bảo vệ nhân quyền, bảo đảm quyền bình đẳng thực chất giữa nam giới và nữ giới trong quan hệ HN&GĐ. Bên cạnh việc phân tích, chỉ ra những giá trị tiến bộ trong bảo vệ quyền con người, quyền bình đẳng không phân biệt đối xử về giới tính, Luận

12. 5 văn cũng đã mạnh dạn đưa ra những ý kiến, quan điểm mang tính cá nhân về những hạn chế, những điểm cần tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện pháp luật về HN&GĐ, bảo đảm tính tương thích với các chuẩn mực quốc tế về nhân quyền và đặc biệt là bảo vệ ngày càng tốt hơn quyền con người trong lĩnh vực HN&GĐ ở Việt Nam – một lĩnh vực vốn chịu sự chi phối nặng nề bởi những tư tưởng, định kiến giới. Trên cơ sở đánh giá những điểm còn hạn chế trong pháp luật HN&GĐ, Luận văn đã đề ra những giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật về HN&GĐ trong thời gian tiếp theo; những đề xuất, kiến nghị mang tính giải pháp nhằm đưa các quy định của pháp luật HN&GĐ vào thực tiễn cuộc sống; bảo đảm một cách thực chất quyền con người, quyền bình đẳng không bị phân biệt đối xử vì bất cứ lý do nào trong đó có lý do khác biệt về giới tính trong các quan hệ HN&GĐ. 6. Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn Luận văn đã nghiên cứu toàn diện các chế định về HN&GĐ trong pháp luật HN&GĐ Việt Nam, mà trực tiếp là Luật HN&GĐ năm 2014 từ góc độ BĐG, đánh giá những tiến bộ đạt được, những tác động tích cực đến bảo vệ quyền và lợi ích của phụ nữ và trẻ em – những đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội. Cùng với đó Luận văn đã phân tích và chỉ ra những hạn chế của pháp luật HN&GĐ trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, quyền BĐG của các cá nhân trong quan hệ HN&GĐ, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp nhằm bảo vệ và thúc đẩy tốt hơn quyền con người, quyền bình đẳng thực chất giữa nam giới và nữ giới trong các quan hệ HN&GĐ ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp phần bổ sung và phát triển những vấn đề mang tính lý luận trong khoa học pháp lý BĐG trong HN&GĐ – một trong những vấn đề hết sức được quan tâm hiện nay. Luận văn không chỉ là tài liệu có giá trị tham khảo cho công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa

13. 6 học mà còn là tài liệu tham khảo hữu ích cho các cơ quan hoạch định chính sách về pháp luật HN&GĐ ở Việt Nam, thông qua đó góp phần hoàn thiện pháp luật HN&GĐ – công cụ hữu hiệu trong bảo đảm BĐG trong các quan hệ HN&GĐ ở Việt Nam. Luận văn cũng là tài liệu tham khảo có giá trị cho các cá nhân có quan tâm. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung chính của Luận văn bao gồm 3 chương sau: – Chương 1. Khái quát chung pháp luật quốc tế về bình đẳng giới trong Hôn nhân và gia đình. – Chương 2. Bình đẳng giới trong pháp luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam. – Chương 3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam.

17. 10 giới và cũng không có thời gian cho các hoạt động xã hội và học tập trao đổi kinh nghiệm [27]. 1.1.1.3. Về sức khỏe Phụ nữ phải cáng đáng gánh nặng công việc vượt xa nam giới với thời gian làm việc dài, ít có thời gian nghỉ ngơi dẫn đến hậu quả tiêu cực là họ thường phải làm việc quá sức, điều này có nhiều tác động lên sức khỏe và thể chất, đặc biệt là phụ nữ nông thôn khu vực có tỷ lệ phụ nữ ốm đau cao hơn nhiều so với nam giới. Một khía cạnh khác về sức khỏe là phụ nữ không được chăm sóc dinh dưỡng tốt bằng nam giới, khác biệt giới về tình trạng dinh dưỡng của những người trưởng thành là lớn nhất ở khu vực nông thôn. Điều này cho thấy khả năng tiếp cận của phụ nữ với các nguồn lực tương đối ít hơn so với nam giới [27]. Sự khác biệt sức khỏe giữa nam giới và phụ nữ không chỉ do môi trường, nuôi dưỡng và tập quán xã hội, mà còn do bẩm sinh, di truyền như: nam giới có hệ xương lớn thích hợp cho những cộng việc nặng nhọc, nhiệm vụ tái sản xuất xã hội bao gồm trách nhiệm sinh đẻ và chăm sóc con trẻ là của phụ nữ. 1.1.1.4. Về tâm sinh lý Lý thuyết cho rằng nam giới và phụ nữ có sự tiến hóa khác nhau về tác phong và tư duy đã được chấp nhận rộng rãi [4]. Ví dụ: Nam giới có tâm lý cứng cỏi, mạnh mẽ, hành động dựa vào lý trí… Phụ nữ thì dịu dàng, tình cảm… 1.1.1.5. Về Quan niệm xã hội Khi sinh ra, con người không mang những đặc tính giới. Những đặc tính giới chỉ được hình thành trong quá trình hoạt động ở gia đình và ngoài xã hội. Bắt đầu từ khi sinh ra đứa trẻ đã được đối xử tùy theo trai hay gái. Mọi người vẫn quen rằng, với trẻ gái thì cho chơi búp bê, dụng cụ nấu ăn. Cũng bởi con người thường có suy nghĩ mang tính áp đặt về những gì mà nam và

19. 12 quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR), công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội (ICESCR) và công ước loại bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ (CEDAW). Ở Việt Nam, Luật Bình đẳng giới được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2006 tại điều 5 quy định: Giới chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã hội [35, Điều 5]. Giới tính chỉ các đặc điểm sinh học của nam, nữ [35, Điều 5]. Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó [35, Điều 5] Như vậy, về mặt pháp lý, định nghĩa về giới, giới tính được hiểu thống nhất với nghĩa khoa học xã hội của nó, theo đó, giới tính là chỉ sự khác biệt về mặt sinh học và giới là chỉ sự khác biệt về vị trí, vai trò và quan niệm của xã hội về vị trí, vai trò của các giới trong xã hội. 1.1.2. Bình đẳng giới Đây là khái niệm quan trọng, việc nhận thức đúng và đầy đủ về khái niệm này là cơ sở đánh giá, xem xét một cách khách quan và đúng đắn về mức độ BĐG trong pháp luật HN&GĐ, trên cơ sở đó có những đề xuất, kiến nghị cụ thể về những giải pháp nhằm bảo đảm BĐG thực chất trong pháp luật HN&GĐ Việt Nam hiện nay. Vậy, khái niệm BĐG là gì? Hiện nay, công ước CEDAW sử dụng khái niệm “bình đẳng giới” trong mối quan hệ chặt chẽ với nghĩa vụ quốc gia, cụ thể như điểm a Điều 2 công ước CEDAW quy định các quốc gia thành viên cần tiến hành: “Đưa nguyên tắc bình đẳng nam nữ vào Hiến pháp quốc gia hoặc các văn bản pháp luật thích hợp khác nếu vấn đề này chưa được đề cập

20. 13 tới và bảo đảm việc thực thi nguyên tắc này trong thực tế bằng pháp luật và các biện pháp thích hợp khác” [20, Điều 2]. Thực chất khái niệm “bình đẳng nam nữ” trong công ước CEDAW cũng có nghĩa là “bình đẳng giới” vì thực chất xã hội chỉ có hai giới tính nam và nữ [29]. Tuy nhiên, công ước này không đưa ra định nghĩa về “bình đẳng nam nữ” (bình đẳng giới) là gì? thay vào đó, thuật ngữ “phân biệt đối xử với phụ nữ” được định nghĩa chi tiết ngay tại Điều 1, theo đó: Phân biệt đối xử đối với phụ nữ có nghĩa là bất kỳ sự phân biệt, loại trừ hay hạn chế nào dựa trên cơ sở giới tính làm ảnh hưởng hoặc nhằm mục đích làm tổn hại hoặc vô hiệu hóa việc phụ nữ được công nhận, thụ hưởng, hay thực hiện các quyền con người và những tự do cơ bản trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, dân sự và các lĩnh vực khác trên cơ sở bình đẳng nam nữ bất kể tình trạng hôn nhân của họ như thế nào [20, Điều 1]. Như vậy, có thể thấy, công ước CEDAW đã đề cập đến nguyên nhân gây ra sự bất bình đẳng đối với phụ nữ và sự bất bình đẳng ở đây là tình trạng mà ở đó các quyền con người của phụ nữ bị ảnh hưởng, tổn hại hoặc vô hiệu hóa trong cả 03 cấp độ công nhận, thụ hưởng và thực hiện các quyền con người trên thực tế. Từ khái niệm nêu trên về bất bình đẳng đối với phụ nữ có thể hiểu bình đẳng nam nữ là sự bình đẳng về quyền được công nhận, thụ hưởng và thực hiện các quyền con người trên thực tế. Ở Việt Nam, khái niệm bình đẳng giới được Luật Bình đẳng giới định nghĩa: “là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó” [35, Điều 5]. Theo định nghĩa này, nội hàm của BĐG bao gồm: (1) nam và nữ có vị trí, vai trò ngang nhau; (2) nam và nữ được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực

21. 14 của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và (3) thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó. Như vậy, BĐG thực chất là bình đẳng về vị trí, vai trò và bình đẳng về cơ hội cống hiến, cơ hội phát triển và cơ hội thụ hưởng giữa nam giới và nữ giới trong gia đình cũng như trong xã hội. Trên thực tế, vẫn còn tồn tại quan niệm phổ biến về vai trò của người phụ nữ gắn với công việc chăm sóc gia đình và con cái. Đây được xác định là trách nhiệm đương nhiên dựa vào yếu tố giới tính nam và giới tính nữ. Và điều này đã tạo nên sự bất bình đẳng giữa nam giới và nữ giới, khi người vợ vì gắn với chức năng chăm sóc gia đình và con cái, không ít trường hợp trong số họ phải nghỉ làm, hệ quả tất yếu trở thành người sống phụ thuộc vào kinh tế của người chồng; hoặc thậm chí có điều kiện đi làm thì họ vẫn không thoát khỏi trách nhiệm đương nhiên là chăm sóc gia đình và con cái và không nhận được sự chia sẻ, cảm thông từ phía người chồng. Điều này tạo nên sự bất bình đẳng giữa nam và nữ vì lý do quan niệm phân biệt đối xử về vị trí, vai trò của nam giới và nữ giới trong gia đình và trong xã hội. Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra đó là khái niệm BĐG chỉ hàm ý đến sự bình đẳng giữa nam giới và nữ giới đã toàn diện hay chưa? Trước tiên chúng ta không thể phủ nhận quan niệm BĐG là bình đẳng giữa nam và nữ rất phổ biến hiện nay. Tuy nhiên, ngay trong chính giới nam hoặc giới nữ lại có những bất bình đẳng nhất định mà pháp luật Việt Nam còn đang bỏ ngỏ. Ví dụ, với một người đàn ông dị tính (là người “bị hấp dẫn về mặt tình cảm và tình dục với người khác giới tính, không bao giờ mong muốn mình có giới tính khác với giới tính khi được sinh ra” [29] và một người đàn ông đồng tính (là người “bị hấp dẫn với người cùng giới tính, không bao giờ mong muốn mình có giới tính khác với giới tính khi được sinh ra” [29]) thực sự còn khác nhau rất nhiều ở sự kỳ thị, phân biệt đối xử. Hiến pháp và pháp luật hiện hành không cấm nhưng cũng không thừa nhận những người đồng tính kết hôn. Và như vậy, rõ ràng, ngay

22. 15 trong chính một giới tính nam, người dị tính và người đồng tính đã có sự phân biệt đối xử về quyền. Vì vậy, “Bình đẳng giới cần đề cập đến sự bình đẳng ngay trong một giới (giữa các bản dạng giới, xu hướng tính dục” [29]. Hiện nay, ở các nước tiến bộ thường có sự ghi nhận về bình đẳng giữa các xu hướng tính dục, bản dạng giới (ví dụ như cấm sự kỳ thị đồng tính), nghĩa là hướng đến sự bình đẳng ngay trong cùng một giới. Như vậy, quan niệm về BĐG phải rộng hơn, không chỉ bó hẹp trong mối quan hệ bình đẳng giữa nam và nữ. Các nước cũng thể hiện thái độ khác nhau đối với bình đẳng về xu hướng tính dục, ví dụ như có nước cấm sự kỳ thị nhưng có nước lại cấm hiện tượng đồng tính (44 quốc gia trên thế giới) [29], cấm tuyên truyền về đồng tính (ví dụ như Thành phố Xanhpetecbua của Nga)… Việc ghi nhận nguyên tắc cấm sự kỳ thị về xu hướng tính dục, bản dạng giới là điều hoàn toàn phù hợp với xu hướng nhân quyền hiện nay. Chính điều đó sẽ làm cho quan niệm về BĐG được toàn diện hơn nữa. Như vậy, BĐG cần được hiểu với một nghĩa rộng hơn và toàn diện hơn là việc chỉ hiểu là sự bình đẳng giữa giới nam và giới nữ hiện nay. Và trong luận văn này, tác giả xem xét, đánh giá BĐG trong pháp luật HN&GĐ Việt Nam ở nghĩa rộng mà nhiều quốc gia hiện nay đang ghi nhận và phù hợp với thực tiễn xã hội hiện nay. 1.1.3. Khái niệm Hôn nhân và gia đình HN&GĐ là hai khái niệm độc lập, thường đi liền với nhau và có mối quan hệ mật thiết với nhau. Tìm hiểu về từng khái niệm thực chất là tìm hiểu về đối tượng mà pháp luật HN&GĐ điều chỉnh – đối tượng nghiên cứu của Luận văn này. Về khái niệm hôn nhân, theo Từ điển Tiếng Việt, “Hôn nhân là việc nam nữ chính thức lấy nhau làm vợ chồng” [24]. Ở các nước theo hệ thống pháp luật Anh – Mỹ (Common law), phổ biến một khái niệm cổ điển mang

23. 16 quan niệm truyền thống về hôn nhân của Cơ đốc giáo, do Lord Penzance đưa ra trong phán quyết về vụ án Hyde v Hyde (1866): “Hôn nhân là sự liên kết tự nguyện suốt đời giữa một người đàn ông và một người đàn bà, mà không vì mục đích nào khác” [52]. Ngoài khái niệm trên, hiện nay, một số luật gia ở Châu âu và Mỹ quan niệm: “Hôn nhân là sự liên kết pháp lý giữa một người nam và một người nữ với tư cách là vợ chồng” [51], hoặc: “Hôn nhân là hành vi hoặc tình trạng chung sống giữa một người nam và một người nữ với tư cách là vợ chồng” [53]. Ở Việt Nam, các giáo trình Dân luật dưới chế độ Sài gòn cũ chưa đưa ra khái niệm cụ thể về hôn nhân mà phần nhiều mới đưa ra khái niệm “giá thú”: “giá thú (hay hôn thú) là sự phối hợp của một người đàn ông và một người đàn bà theo thể thức luật định” [28] hoặc “giá thú” cũng được hiểu: “sự trai gái lấy nhau trước mặt viên hộ lại và phát sinh ra những nghĩa vụ tương hỗ cho hai bên về phương diện đồng cư, trung thành và tương trợ” [5]. Theo một số luật gia Sài gòn, khái niệm “giá thú” bao gồm có hai nghĩa: theo nghĩa thứ nhất giá thú là hành vi phối hợp vợ chồng (kết hôn). Theo nghĩa thứ hai là tình trạng của hai người đã chính thức lấy nhau làm vợ chồng và thời gian hai người ăn ở với nhau [5]. Điều 3 Sắc luật 15/64 ngày 23/7/1964, Điều 99 Bộ dân luật 1972 ngày 20/12/1972 của Chính quyền Sài gòn cũ qui định: “Không ai được phép tái hôn nếu giá thú trước chưa đoạn tiêu” [12]. Theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 quy định hôn nhân là “quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn” [36, Điều 3]. Như vậy, dù có nhiều cách diễn đạt khác nhau, dưới góc độ xã hội hay khoa học pháp lý, thì hôn nhân vẫn được hiểu theo một nghĩa chung nhất đó là sự liên kết tự nguyện, theo qui định pháp luật giữa một người đàn ông và một người đàn bà, nhằm chung sống suốt đời với tư cách là vợ chồng, và vì mục đích xây dựng một gia đình. Với quan niệm chung đó, chúng ta thấy xuất

24. 17 hiện yếu tố giới và giới tính trong quan hệ hôn nhân, đó chính là quan hệ giữa hai cá thể ở hai giới tính khác nhau trong một quan hệ hôn nhân. Về khái niệm gia đình, theo Từ điển Tiếng Việt, gia đình được hiểu là: “Tập hợp người cùng sống chung thành một đơn vị nhỏ nhất trong xã hội, gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn nhân và dòng máu, thường gồm có vợ chồng, cha mẹ và con cái” [24]. Theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2014, “Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau theo quy định của Luật này” [36, Điều 3]. Qua một số định nghĩa nêu trên về gia đình, có thể thấy gia đình là một tế bào của xã hội, trong đó tập hợp ít nhất là hai người trở lên và các thành viên trong một gia đình gắn bó với với nhau bằng quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng. Và mỗi cá nhân con người trong xã hội không ai không có quan hệ gia đình và đây là mối quan hệ mang tính phổ biến. Gia đình chứa đựng trong đó những sự khác biệt về giới giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ với con trai, con gái, giữa thành viên gia đình là nữ giới và nam giới… Như vậy, HN&GĐ là những quan hệ tất yếu trong đời sống xã hội của loài người ở mọi thời kỳ và ở bất cứ thời kỳ nào, yếu tố khác biệt về giới luôn tồn tại trong các quan hệ HN&GĐ. 1.2. Pháp luật quốc tế về bình đẳng giới trong hôn nhân và gia đình 1.2.1. Vai trò pháp luật trong việc thúc đẩy bình đẳng giới HN&GĐ là những quan hệ phát sinh, tồn tại và phát triển gắn liền với quan hệ giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con, giữa ông bà với các cháu và giữa các thành viên trong một gia đình với nhau. Mỗi thành viên trong xã hội từ khi sinh ra, lớn lên và trưởng thành đều gắn liền với những quan hệ hôn nhân, gia đình. Đây là những quan hệ chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi những phong tục, tập quán, văn hóa của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, mỗi vùng, mỗi

25. 18 địa phương và nhỏ nhất đó là văn hóa, truyền thống của mỗi gia đình. Và thực tế cho thấy quan hệ HN&GĐ là những quan hệ thể hiện rõ nét nhất sự bình đẳng hoặc bất bình đẳng về giới. Để đạt được mục tiêu BĐG, pháp luật là một trong những công cụ quan trọng được các quốc gia sử dụng nhằm tác động lên các quan hệ HN&GĐ, bảo đảm cho các quan hệ này phát sinh, tồn tại và phát triển theo trật tự phù hợp với ý chí của Nhà nước, trong đó có mục tiêu BĐG trong HN&GĐ mà hầu hết các quốc gia đều hướng tới. Ở góc độ quốc tế, pháp luật quốc tế là những thỏa thuận đa phương, song phương thể hiện cam kết của các quốc gia trong việc bảo đảm BĐG trong HN&GĐ. Thực chất đây là sự tự nguyện của các Nhà nước trong việc cam kết thực hiện các nghĩa vụ nhằm bảo đảm BĐG trong HN&GĐ. Ở góc độ mỗi quốc gia, các Nhà nước ban hành pháp luật về HN&GĐ để quy định trách nhiệm của Nhà nước, của các tổ chức, cá nhân, công dân và của mỗi thành viên trong gia đình trong việc thiết lập trật tự các quan hệ HN&GĐ. Như vậy, dù ở góc độ quốc tế hay quốc gia, pháp luật luôn là một công cụ quan trọng để các quốc gia thiết lập trật tự quan hệ HN&GĐ phù hợp với ý chí của Nhà nước, của xã hội và là công cụ quan trọng để bảo đảm mục tiêu BĐG và vì sự tiến bộ phụ nữ. Vai trò nêu trên của pháp luật được thể hiện qua những khía cạnh sau: – Là cơ sở pháp lý để xác định trách nhiệm của các quốc gia trong việc bảo đảm BĐG trong lĩnh vực HN&GĐ. Trách nhiệm quốc gia được chính các quốc gia tự nguyện cam kết thông qua việc ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế hoặc khu vực; – Là cơ sở pháp lý quy định quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực HN&GĐ, khía cạnh này được thực hiện chủ yếu qua hệ thống pháp luật quốc gia và hệ thống các quy định này được Nhà nước bảo đảm thực hiện.

26. 19 Ở Việt Nam, Hiến pháp năm 2013, Bộ luật dân sự, Luật BĐG, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình và Luật HN&GĐ năm 2014 là những văn bản pháp lý quan trọng định hướng cho các quan hệ HN&GĐ phát triển theo trật tự thiết lập của Nhà nước trong đó có bảo đảm mục tiêu BĐG trong lĩnh vực HN&GĐ. 1.2.2. Khái quát các quy định của pháp luật quốc tế về bình đẳng giới Pháp luật quốc tế (điều ước quốc tế, công ước quốc tế, ….) xác định nghĩa vụ của các quốc gia thành viên trong việc bảo đảm BĐG trên các lĩnh vực của đời sống nói chung trong đó có lĩnh vực HN&GĐ. Một số văn bản pháp lý quốc tế có thể dẫn chứng cụ thể như sau: 1.2.2.1. Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền, tại khoản 1 Điều 16 quy định rõ: “Đến tuổi thành hôn, thanh niên nam nữ có quyền kết hôn và lập gia đình mà không bị ngăn cấm vì lý do chủng tộc, quốc tịch hay tôn giáo. Họ có quyền bình đẳng khi kết hôn, trong thời gian hôn thú cũng như khi ly hôn” [18, Điều 16].. Đây được xác định là một trong những quyền tự do cơ bản của con người được ghi nhận trong Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền và các quốc gia cam kết bằng những hành động riêng rẽ hay phối hợp, sẽ cộng tác với Liên Hợp Quốc trong việc tôn trọng và thực thi trên toàn cầu những nhân quyền và những quyền tự do căn bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hay tôn giáo. 1.2.2.2. Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (International Convention on Economic, cultural, social rights – ICESCR) tại Điều 10 quy định: Các quốc gia thành viên Công ước thừa nhận rằng: 1. Cần dành sự giúp đỡ và bảo hộ tới mức tối đa có thể được cho gia đình – tế bào cơ bản và tự nhiên của xã hội – nhất là đối với việc tạo lập gia đình và trong khi gia đình chịu trách nhiệm chăm

28. 21 f. Quyền và trách nhiệm như nhau trong việc trông nom, giám hộ, bảo trợ, nhận uỷ thác và nhận con nuôi hoặc có những quy định tương tự về vấn đề này được thể hiện trong luật pháp quốc gia; trong mọi trường hợp lợi ích của con cái phải được đặt lên trên hết; g. Vợ chồng có quyền như nhau trong việc lựa chọn tên họ, chuyên môn và nghề nghiệp của mình; h. Vợ chồng có quyền như nhau trong việc sở hữu, mua sắm, kiểm soát, quản lý, hưởng thụ và sử dụng tài sản, dù đó là tài sản không phải bỏ tiền ra mua hay có giá trị lớn. 2. Việc hứa hôn và kết hôn của trẻ em phải bị coi là không có hiệu lực pháp lý và phải tiến hành mọi hành động cần thiết, kể cả về mặt pháp luật nhằm quy định độ tuổi tối thiểu có thể kết hôn và bắt buộc phải làm thủ tục đăng ký kết hôn chính thức [20, Điều 16]. Quy định trên có thể thấy nghĩa vụ quốc gia trong việc bảo đảm BĐG trong lĩnh vực HN&GĐ mang tính toàn diện từ nghĩa vụ bảo đảm BĐG trong việc kết hôn, trong quan hệ hôn nhân, khi quan hệ hôn nhân kết thúc, trong quan hệ giữa cha, mẹ với con cái, trong quan hệ sở hữu, học tập, lựa chọn nghề nghiệp, trong thực hiện các quyền nhân thân của vợ và chồng… Và để thực hiện nghĩa vụ của mình, công ước CEDAW cũng quy định rõ các biện pháp mà các quốc gia cần áp dụng đó là: a. Đưa nguyên tắc bình đẳng nam nữ vào Hiến pháp quốc gia hoặc các văn bản pháp luật thích hợp khác nếu vấn đề này chưa được đề cập tới và bảo đảm việc thực thi nguyên tắc này trong thực tế bằng pháp luật và các biện pháp thích hợp khác; b. Xây dựng các điều khoản pháp luật và thông qua các biện pháp thích hợp khác, kể cả việc trừng phạt trong những trường hợp cần thiết, nhằm ngăn cấm mọi sự phân biệt đối xử với phụ nữ;

29. 22 c. Thiết lập cơ chế bảo vệ mang tính pháp lý các quyền của phụ nữ trên cơ sở bình đẳng với nam giới và thông qua các toà án quốc gia có thẩm quyền và các cơ quan nhà nước khác để bảo vệ phụ nữ một cách có hiệu quả chống lại mọi hành động phân biệt đối xử; d. Không tiến hành bất kỳ hành động hoặc hoạt động nào có tính chất phân biệt đối xử với phụ nữ và bảo đảm rằng các cấp chính quyền và cơ quan nhà nước sẽ hành động phù hợp với nghĩa vụ này; e. Áp dụng mọi biện pháp thích hợp nhằm xoá bỏ sự phân biệt đối xử với phụ nữ do bất kỳ cá nhân, tổ chức hoặc doanh nghiệp nào tiến hành; f. Áp dụng mọi biện pháp thích hợp, kể cả những biện pháp pháp luật, nhằm sửa đổi hoặc xóa bỏ mọi điều khoản, quy định, tập quán và thực tiễn hiện đang tồn tại mang tính chất phân biệt đối xử với phụ nữ; g. Huỷ bỏ mọi điều khoản hình sự có phân biệt đối xử với phụ nữ [20, Điều 2]. Như vậy, theo quy định nêu trên, các quốc gia thành viên công uớc CEDAW có trách nhiệm áp dụng mọi biện pháp thích hợp và không chậm trễ nhằm bảo đảm xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… trong đó có lĩnh vực HN&GĐ. Bên cạnh các biện pháp thích hợp và không chậm trễ, các quốc gia thành viên có nghĩa vụ áp dụng những biện pháp đặc biệt tạm thời. Những biện pháp đặc biệt tạm thời được các quốc gia thông qua nhằm thúc đẩy nhanh bình đẳng trên thực tế giữa nam giới và phụ nữ sẽ không bị coi là phân biệt đối xử theo định nghĩa được nêu ra trong Công ước CEDAW, nhưng cũng không hoàn toàn vì thế mà duy trì những chuẩn mực không bình đẳng hoặc tách biệt. Những biện pháp này sẽ chấm dứt khi các mục tiêu bình đẳng về cơ hội và đối xử đạt được.

32. 25 biện pháp, kể cả dân sự và hình sự, để chống lại nạn bạo hành phụ nữ trong gia đình, bao gồm việc thiết lập các trung tâm phụ hồi và các nhà tạm lánh cho những phụ nữ là nạn nhân của tệ nạn này. Tóm lại, quy định về quyền bình đẳng của phụ nữ trong quan hệ HN&GĐ một lần nữa khẳng định rõ hơn nghĩa vụ của các quốc gia trong việc bảo đảm quyền bình đẳng thực chất của phụ nữ với nam giới trong các vấn đề về quốc tịch, về kinh tế, việc làm, tài sản đã được quy định trong các điều khoản trước của công ước CEDAW, tuy nhiên, nhấn mạnh các quyền này trong các quan hệ HN&GĐ – những quan hệ thường chịu ảnh hưởng nặng nề bởi những tư tưởng, định kiến về vị trí, vai trò giữa nam giới và nữ giới dẫn đến phân biệt đối xử đối với phụ nữ. 1.3. Một số yếu tố tác động, ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật HN&GĐ ở Việt Nam Một hệ thống pháp luật HN&GĐ đầy đủ, toàn diện và tương thích với pháp luật quốc tế về quyền con người là một trong những điều kiện đặc biệt quan trọng để bảo đảm quyền bình đẳng thực chất của phụ nữ trong hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, việc thực thi các quy định của pháp luật HN&GĐ trên thực tế ở Việt Nam chịu tác động, ảnh hưởng nhiều bởi các yếu tố về khách quan, chủ quan, tích cực và tiêu cực. Một số yếu tố tác động, ảnh hưởng có thể chỉ ra như sau: 1.3.1. Những yếu tố tích cực gồm: (1) Hệ thống pháp luật Việt Nam từ lâu đời đã bảo vệ người phụ nữ; (2) Tác động của hội nhập quốc tế và các phong trào của cộng đồng quốc tế đã và đang tác động khá tích cực đến tư tưởng của chính các bên nam và nữ trong quan hệ HN&GĐ; (3) Trình độ kinh tế quốc gia ngày càng được cải thiện, thông qua đó vị thế, vai trò và đời sống của bản thân người phụ nữ trong gia đình cũng như ngoài xã hội ngày càng được nâng lên.

33. 26 1.3.2 Những yếu tố gây cản trở đến việc thực thi pháp luật HN&GĐ ở Việt Nam gồm: (1) Các yếu tố về truyền thống, phong tục, tập quán của người Việt Nam hình thành từ xa xưa và vẫn mang dấu ấn đậm nét trong tư duy của một bộ phận không nhỏ người dân đó là những tư tưởng trọng nam khinh nữ… (2) Bất bình đẳng giới lặp đi lặp lại qua các thế hệ gia đình ở Việt Nam, điều này trở nên đặc biệt khi ở nhiều vùng, miền nông thôn, miền núi ở Việt Nam mô hình gia đình cùng chung sống giữa nhiều thế hệ vẫn đang tồn tại phổ biến; (3) Điều kiện kinh tế ở Việt Nam mặc dù đã có những bước cải thiện nhất định, song về cơ bản vẫn là một nước có nền kinh tế chậm phát triển, theo đó vị trí, vai trò của phụ nữ trong gia đình nói riêng và trong xã hội nói chung chưa được cải thiện trong mối quan hệ với nam giới. Những yếu tố ảnh hưởng, tác động tích cực cũng như cản trở đến việc thực thi pháp luật HN&GĐ nêu trên cần được tính đến và xem xét cụ thể trong quá trình xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực thi pháp luật HN&GĐ ở Việt Nam. 1.4. Các điều kiện cơ bản bảo đảm thực thi pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam Để bảo đảm thực thi pháp luật HN&GĐ trên thực tế cuộc sống, từ góc độ của Nhà nước với tư cách là cơ quan ban hành và tổ chức thực thi pháp luật phải bảo đảm các điều kiện như sau: 1.4.1. Điều kiện về thể chế: Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật HN&GĐ phải được ban hành đầy đủ và toàn diện, bảo đảm tính cụ thể, chi tiết để việc áp dụng pháp luật được thống nhất và đầy đủ. Đây là điều kiện trọng tâm trong bối cảnh Quốc hội Việt Nam vừa thông qua Luật HN&GĐ năm 2014 ngày 19/6/2014 và Luật này có hiệu lực từ ngày 01/01/2015.

35. 28 Chương 2 THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG PHÁP LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM 2.1. Quá trình phát triển pháp luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam từ lăng kính bình đẳng giới Pháp luật HN&GĐ là hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực HN&GĐ, đây là công cụ quan trọng mà thông qua đó, trật tự xã hội trong lĩnh vực HN&GĐ được thiết lập và cũng trên cơ sở những quy định này, mục tiêu về BĐG mà mỗi Nhà nước, quốc gia mong muốn đạt được thể hiện khá rõ nét. Có thể thấy rằng, pháp luật HN&GĐ ở Việt Nam có lịch sử ra đời và phát triển cùng với quá trình ra đời, phát triển của Nhà nước Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. Nghiên cứu lịch sử pháp luật HN&GĐ Việt Nam từ lăng kính BĐG, có thể khẳng định, ngay từ thời kỳ phong kiến – thời kỳ mà BĐG về HN&GĐ được xác định theo các nguyên lý của Nho giáo, với tư tưởng “Phụ quyền” và “Gia trưởng”. Đây là những tư tưởng chủ đạo trong các quan hệ HN&GĐ, tục ngữ truyền lại có câu: “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”. Song, trong những quy định pháp luật về HN&GĐ thời kỳ đó cũng đã thể hiện tư duy pháp lý hướng đến các giá trị nhân văn và quyền con người mà đỉnh cao là những quy định tại Bộ luật Hồng Đức thời vua Lê Thánh Tông (1470-1497). Trong Bộ luật này có dành một nội dung lớn bênh vực và bảo vệ quyền lợi cho cho người phụ nữ từ việc kết hôn, “Những nhà quyền thế mà ức hiếp để lấy con gái kẻ lương dân, thì xử tội phạt, biếm hay đồ”[49] đến việc ly hôn trong đó Điều 308 Bộ luật Hồng Đức chỉ rõ: Phàm chồng bỏ lững vợ 5 tháng không đi lại (vợ được trình quan sở tại, quan xã làm chứng) thì chồng đó mất vợ. Nếu đã có con thì gia hạn 1 năm. Nếu đã thôi vợ mà cản trở người khác cưới vợ cũ thì xử “biếm”. Bên cạnh đó, tất cả những hành vi gian dâm đều bị

36. 29 nghiêm trị với khung hình phạt rất nặng. Ngoài ra, Bộ luật cũng quy định rõ, Chồng không được bỏ vợ trong ba trường hợp (Vợ đã để tang nhà chồng 3 năm; Khi lấy nhau nghèo mà sau giàu có; Khi lấy nhau vợ có bà con mà khi bỏ lại không có bà con để trở về). Khi ly hôn, con cái thường thuộc về chồng nhưng nếu muốn giữ con, người vợ có quyền đòi chia một nửa số con. Quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng sau khi ly hôn hoàn toàn chấm dứt, hai bên đều có quyền kết hôn với người khác mà không bị pháp luật ngăn cấm. Trong quan hệ tài sản, Bộ luật Hồng Đức cũng đã quy định chế độ tài sản chung của vợ và chồng với 03 nguồn: Tài sản của chồng thừa kế từ gia đình nhà chồng; tài sản của người vợ thừa kế từ gia đình nhà vợ và tài sản do hai vợ chồng tạo dựng trong quá trình hôn nhân. Khi gia đình tồn tại, tất cả tài sản được coi là của chung. Khi ly hôn, tài sản của ai, người đó được nhận riêng và chia đôi tài sản chung của hai người. Còn khi chồng chết trước (hay vợ chết trước) tài sản có do cha mẹ dành cho được chia làm hai phần bằng nhau, một phần dành cho gia đình bên chồng/vợ để lo việc tế lễ. Một phần dành cho vợ/chồng để phụng dưỡng một đời. Đặc biệt trong quyền thừa kế tài sản của cha mẹ để lại, pháp luật nhà Lê không phân biệt con trai – con gái. Nếu cha mẹ mất cả thì lấy 1/20 số ruộng đất làm phần hương hỏa, giao cho người con trưởng giữ, còn lại chia đều cho các con; “người giữ hương hỏa có con trai trưởng thì dùng con trai trưởng, không có con trai trưởng thì dùng con gái trưởng” [49]. Từ Cách mạng tháng 8/1945 đến nay, Việt Nam có 04 đạo luật trong lĩnh vực HN&GĐ, Luật HN&GĐ năm 1959 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Luật HN&GĐ năm 1986, Luật HN&GĐ năm 2000 và gần đây nhất Luật HN&GĐ năm 2014 đã được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 19/6/2014 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015. Các đạo luật này cũng đã thể hiện rõ nét sự tiến bộ trong việc bảo vệ quyền lợi của phụ nữ, trẻ em trong quan hệ HN&GĐ. Điểm

37. 30 chung của cả 04 đạo Luật này đó là Nhà nước Việt Nam xây dựng nhất quán chế độ hôn nhân tự do, tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng, nam nữ bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và con cái, nhằm xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc, các thành viên trong gia đình có nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; không phân biệt đối xử giữa các con. Trên cơ sở những nguyên tắc chung, BĐG trong từng đạo luật được thể hiện qua các chế định cụ thể về kết hôn, về quan hệ giữa các thành viên trong gia đình với nhau, quan hệ tài sản giữa vợ và chồng, quan hệ khi ly hôn… Luật HN&GĐ năm 2014 được Quốc hội thông qua trên cơ sở sự kế thừa các đạo luật HN&GĐ trước đó, đặt trong mối quan hệ thống nhất với Luật Bình đẳng giới – đạo luật thể hiện tập trung quan điểm của Nhà nước về vấn đề BĐG và kịp thời bổ sung các quy định mới, sửa đổi các quy định cũ nhằm giải quyết các vấn đề phát sinh trên thực tiễn trong lĩnh vực HN&GĐ. Có thể thấy rằng, BĐG là nguyên tắc xuyên suốt trong đạo luật này và ở đó pháp luật HN&GĐ thể hiện tính nhân văn sâu sắc. 2.2. Thực trạng bảo đảm bình đẳng giới trong pháp luật HN&GĐ Việt Nam 2.2.1. Bình đẳng giới thể hiện trong các nguyên tắc cơ bản của chế độ Hôn nhân và gia đình Việt Nam Nguyên tắc cơ bản của chế độ HN&GĐ được hiểu là những tư tưởng chủ đạo, xuyên suốt trong quá trình xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện chế độ HN&GĐ Việt Nam. Hiện nay, Điều 2 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định 05 nguyên tắc/nhóm nguyên tắc cơ bản của chế độ HN&GĐ. Từ góc độ BĐG, có thể thấy những nguyên tắc này thể hiện rõ nét tư tưởng bảo vệ nhân quyền, bảo vệ quyền lợi của những nhóm người dễ bị tổn thương là phụ nữ, trẻ em trong quan hệ HN&GĐ. Cụ thể:

38. 31 2.2.1.1. Nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng Đây là nguyên tắc kế thừa, phát huy trong suốt chiều dài lịch sử pháp luật HN&GĐ Việt Nam, từ Bộ luật Hồng Đức đã có quy định hình phạt áp dụng cho hành vi cưỡng ép hôn nhân “Những nhà quyền thế mà ức hiếp để lấy con gái kẻ lương dân, thì xử tội phạt, biếm hay đồ”[49]. Nguyên tắc tự nguyện thể hiện rõ nét bản chất quan hệ dân sự trong lĩnh vực HN&GĐ “Việc dân sự cốt ở hai bên”. Theo đó, nam, nữ có quyền tự quyết định chuyện hôn nhân của mình, điều này thể hiện rõ nét quan điểm Nhà nước bảo vệ quyền bình đẳng thực chất giữa nam giới và nữ giới trong việc quyết định hôn nhân, Nhà nước cấm các hành vi “Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn” [36, Điều 5] – đây là nhóm hành vi ảnh hưởng đến nguyên tắc tự nguyện trong hôn nhân mà Nhà nước đã quy định. Hôn nhân tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng là nguyên tắc trái ngược với triết lý vốn ảnh hưởng sâu sắc trong thời kỳ phong kiến ở Việt Nam đó là “Trai thời năm thê bảy thiếp. Gái chính chuyên chỉ lấy một chồng”. Nguyên tắc này bảo đảm xây dựng gia đình tiến bộ, hạnh phúc, bình đẳng, xóa đi cảnh “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung, kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng” đã đi vào thơ của Hồ Xuân Hương trong tác phẩm “Làm lẽ”, qua đó, bảo vệ quyền bình đẳng của phụ nữ so với nam giới trong quyền kết hôn và vợ chồng có quyền bình đẳng trong mọi quan hệ từ trong hôn nhân, trong quan hệ về nhân thân, tài sản, quan hệ cha mẹ với con, trong quan hệ cấp dưỡng, trong ly hôn… 2.2.1.2. Nguyên tắc hôn nhân giữa các công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, tôn giáo, giữa người theo tôn giáo với người không tôn giáo, giữa người có tín ngưỡng với người không có tín ngưỡng, giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.

39. 32 Nguyên tắc này thể hiện quan điểm của Nhà nước Việt Nam trong việc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi cá nhân trong HN&GĐ mà không bị phụ thuộc vào các yếu tố về dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng và quốc tịch. Điều này phù hợp với tính phổ quát của quyền con người được pháp luật nhân quyền quốc tế ghi nhận. Và dưới góc độ BĐG, nó chính là cơ sở pháp lý để bảo đảm quyền bình đẳng và tôn trọng giữa vợ và chồng, giữa nam và nữ không phụ thuộc vào người vợ/người chồng thuộc về dân tộc nào, theo hay không theo tôn giáo, tín ngưỡng nào và mang quốc tịch Việt Nam hay không mang quốc tịch Việt Nam. Cụ thể hóa nguyên tắc này, các quy định về quan hệ nhân thân giữa vợ chồng tại mục 1 Chương III Luật HN&GĐ năm 2014 và Chương VII về Quan hệ HN&GĐ có yếu tố nước ngoài thể hiện đậm nét nguyên tắc này. 2.2.1.3. Nguyên tắc xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; các thành viên gia đình có nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; không phân biệt đối xử giữa các con. Nguyên tắc này thể hiện rõ mục tiêu hướng tới trong xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc. Trong gia đình đó các thành viên gia đình, không phân biệt vợ hay chồng, cha, mẹ hay con, ông, bà hay cháu, con trai hay con gái đều có nghĩa vụ chung là tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau. Đây được coi là trách nhiệm bình đẳng của mỗi cá nhân trong gia đình. Nguyên tắc này cũng thể hiện rõ quan điểm BĐG của Nhà nước trong HN&GĐ đó là không phân biệt đối xử giữa các con. Sự không phân biệt đối xử giữa các con bao gồm không phân biệt đối xử giữa con trưởng, con thứ, con nuôi, con đẻ và đặc biệt là không phân biệt đối xử giữa con trai và con gái… Nguyên tắc này chi phối toàn bộ các quy định của pháp luật HN&GĐ Việt Nam từ quan hệ cha mẹ và con, quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, quan hệ tài sản, thừa kế tài sản, quan hệ cấp dưỡng…

40. 33 2.2.1.4. Nguyên tắc Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, hỗ trợ trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật thực hiện các quyền HN&GĐ; giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ; thực hiện kế hoạch hóa gia đình. Phụ nữ, trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật vốn là những nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội, sự bảo vệ đối với các nhóm đối tượng này trong thực hiện các quyền HN&GĐ được quy định thành một nguyên tắc trong chế độ HN&GĐ Việt Nam là sự bảo đảm bình đẳng trên cơ sở tôn trọng sự khác biệt – một trong những nguyên tắc được ghi nhận trong pháp luật nhân quyền quốc tế. Điều này hoàn toàn phù hợp với hệ thống pháp luật nhân quyền quốc tế, bên cạnh các văn kiện pháp lý quốc tế quy định quyền con người cho mọi cá nhân như UDHR, ICCPR, ICESCR, Pháp luật nhân quyền quốc tế còn có các Công ước riêng bảo vệ và thúc đẩy quyền con người của những nhóm người cụ thể như Công ước CEDAW, Công ước về quyền của trẻ em (CRC), Công ước về quyền của người khuyết tật (ICRPD)… 2.2.1.5. Nguyên tắc kế thừa, phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam về HN&GĐ Truyền thống được hiểu là “Thói quen hình thành đã lâu đời trong lối sống, nếp nghĩa, được truyền lại từ thế hệ này, sang thế hệ khác” [24]. Đạo đức được hiểu là những “Tiêu chuẩn, nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội” [24]. Như vậy, có thể thấy truyền thống văn hóa, đạo đức là những thói quen, chuẩn mực được hình thành chính trong đời sống quan hệ giữa các cá nhân với nhau, được thừa nhận chung và nó thường “ăn sâu, bám dễ” vào tư duy của mỗi con người. Tính bền vững và bảo thủ là những đặc trưng trong truyền thống và đạo đức. Và hơn bất cứ lĩnh vực nào, HN&GĐ là lĩnh vực hình thành và được điều chỉnh bởi khá nhiều các truyền thống, đạo đức của

41. 34 dân tộc, của vùng, miền và của mỗi gia đình. Những truyền thống văn hóa, đạo đức của dân tộc, của vùng, miền, của gia đình có thể góp phần xây dựng gia đình bình đẳng, tiến bộ, ấm no, hạnh phúc nhưng nó cũng có thể có tác động tiêu cực, phá vỡ đi mục tiêu gia đình bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng bởi những phong tục, tập quán, chuẩn mực đạo đức lạc hậu. Việc ghi nhận nguyên tắc kế thừa, phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam về HN&GĐ, một mặt thể hiện sự tôn trọng, phát huy và bảo vệ của Nhà nước đối với những truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc trong HN&GĐ, coi đây là nguồn để xây dựng pháp luật, là cánh tay nối dài của pháp luật HN&GĐ trong thiết lập trật tự HN&GĐ trong đó có những giá trị về nhân quyền. Mặt khác, với tiêu chí truyền thống văn hóa và đạo đức tốt đẹp, nguyên tắc này là bảo đảm đảm pháp lý loại bỏ những tập quán lạc hậu đã và đang tồn tại trong các vùng, miền, trong mỗi gia đình Việt Nam với những tư tưởng không dễ để xóa bỏ và đang là bức “trần kính” cản trở việc thực hiện các mục tiêu BĐG như tư tưởng “trọng nam, khinh nữ”. Thông qua đó bảo vệ, bảo đảm và thúc đẩy tốt hơn quyền con người, quyền BĐG thực chất trong quan hệ HN&GĐ Việt Nam. Qua một số phân tích nêu trên cho thấy, những nguyên tắc cơ bản trong chế độ HN&GĐ Việt Nam nhìn từ góc độ giới đã thể hiện rõ nét quản điểm của Đảng và Nhà nước ta trong việc xây dựng và bảo vệ chế độ HN&GĐ Việt Nam ấm no, tiến bộ, hạnh phúc và một trong những tiêu chí quan trọng của chế độ HN&GĐ đó chính là bảo đảm sự bình đẳng thực chất giữa nam giới và nữ giới. Đây không chỉ là một tiêu chí đánh giá mà còn là điều kiện cần để bảo đảm cho một gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc như mục tiêu mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phấn đấu.

43. 36 hôn cũng không khuyến khích việc kết hôn sớm của công dân, vì Báo cáo tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 cho thấy, tuổi kết hôn trung bình của nam, nữ đều cao hơn khá nhiều so với tuổi kết hôn được quy định trong Luật; (3) việc quy định nam, nữ đủ 18 tuổi trở lên được kết hôn là để bảo đảm sự tương thích của pháp luật Việt Nam với cam kết quốc tế của Việt Nam về BĐG; (4) Các nước trên thế giới khi quy định về tuổi kết hôn đã có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, cách tiếp cận được áp dụng ở hầu hết các nước là người đã thành niên đương nhiên được quyền kết hôn và tuổi kết hôn được tính theo nguyên tắc tròn đủ [3]. Quan điểm thứ hai là quan điểm được quy định trong Luật HN&GĐ năm 2014 hiện nay, theo đó nâng độ tuổi kết hôn của nam từ 20 tuổi trở lên sang đủ 20 tuổi trở lên và của nữ từ 18 tuổi trở lên sang đủ 18 tuổi trở lên. Vấn đề đặt ra đối với quy định này đó là Luật HN&GĐ năm 2014 đã bảo đảm BĐG trong độ tuổi kết hôn hay chưa? Và tính tương thích của điều kiện độ tuổi kết hôn so với pháp luật quốc tế về nhân quyền. Hiện nay, các văn kiện pháp lý quốc tế chưa có một quy định nào quy định rằng độ tuổi kết hôn của nam và nữ phải bằng nhau và bằng một số tuổi nhất định, mà chỉ quy định quyền của nam và nữ như nhau trong việc kết hôn và yêu cầu các quốc gia cần quy định độ tuổi tối thiểu khi kết hôn. Cụ thể như: – Điều 16, Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948 quy định: “Nam và nữ khi đủ tuổi đều có quyền kết hôn và xây dựng gia đình mà không có bất kỳ sự hạn chế nào về chủng tộc, quốc tịch hay tôn giáo. Nam và nữ có quyền bình đẳng trong việc kết hôn, trong thời gian chung sống và khi ly hôn” [18, Điều 16]; – Điều 2 Công ước về kết hôn tự nguyện, tuổi kết hôn tối thiểu và việc đăng ký kết hôn quy định:

45. 38 Quan điểm của tác giả luận văn cho rằng, để bảo đảm quyền BĐG giữa nam và nữ về quyền kết hôn, độ tuổi tối thiểu mà pháp luật công nhận cho quyền kết hôn của nam giới và nữ giới nên bằng nhau và bằng đủ 18 tuổi trở lên. Vì đây là độ tuổi được xác định là mỗi cá nhân đã đủ năng lực hành vi dân sự để nhận thức, thực hiện hành vi và chịu trách nhiệm về hành vi của bản thân mình theo quy định của Bộ luật Dân sự. Ngoài ra, đây cũng là độ tuổi chín về tâm sinh lý, sức khỏe sinh sản. Việc quy định độ tuổi kết hôn tối thiểu của nam giới cao hơn nữ giới 02 tuổi vô hình chung tạo nên sự bất bình đẳng giữa nam và nữ khi mà nam giới kết hôn ở độ tuổi từ đủ 18 tuổi trở lên đến dưới 20 tuổi bị coi là bất hợp pháp trong khi đó với nữ giới thì lại được coi là hợp pháp. 2.2.2.2. Điều kiện về sự tự nguyện: Điểm b khoản 1 Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định” [36, Điều 8], quy định này hoàn toàn phù hợp với các chuẩn mực quốc tế về BĐG trong lĩnh vực HN&GĐ. Trực tiếp là điểm b khoản 1, Điều 16 công ước CEDAW quy định các quốc gia thành viên phải bảo đảm: “b. Quyền tự do như nhau trong việc lựa chọn bạn đời và chỉ kết hôn khi cả hai hoàn toàn tự do và tự nguyện” [20, Điều 16]. Điều kiện về kết hôn tự nguyện bảo đảm hạn chế và loại trừ các trường hợp cưỡng ép hôn nhân trên thực tế vẫn xảy ra vì những lý do như phong tục tập quán hoặc vì lý do kinh tế. Trên thực tế, ở Việt Nam vẫn tồn tại những phong tục, tập quán như tục “cướp vợ” (hoặc kéo vợ) của người H’Mông, tục xem tuổi ở nhiều vùng miền, dân tộc… những phong tục, tập quán này đã trực tiếp ảnh hưởng đến quyền tự quyết định, định đoạt hôn nhân của mỗi bên, vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc hôn nhân tự nguyện. Vì lý do kinh tế cũng là một trong những nguyên nhân mà không ít cô gái ở Việt Nam đã kết hôn với người nước ngoài là người Đài Loan, Hàn Quốc… trong khi bản thân họ không hề có hiểu biết về văn hóa,

46. 39 phong tục, tập quán và đặc biệt là ngôn ngữ bất đồng với gia đình nhà chồng, điều này dẫn đến không ít những vụ việc đáng tiếng đã xảy ra với những cô dâu Việt ở nước ngoài. Việc quy định điều kiện kết hôn tự nguyện là cơ sở pháp lý quan trọng để các cơ quan quản lý có những giải pháp trong việc hạn chế các trường hợp kết hôn không tự nguyện, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền con người của mỗi bên trong quan hệ hôn nhân. 2.2.2.3. Điều kiện về năng lực hành vi dân sự, theo đó, nam, nữ kết hôn với nhau cần bảo đảm không bị mất năng lực hành vi dân sự, đây thực chất là một trong những điều kiện nhằm bảo đảm tính tự nguyện trong quan hệ hôn nhân đã được Luật HN&GĐ quy định như đã nêu trên. 2.2.2.4. Không thuộc các trường hợp cấm kết hôn quy định tại điểm a, b, c, d khoản 2 Điều 5 Luật HN&GĐ năm 2014. Khoản 2 Điều 5 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định các trường hợp này gồm: a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo; b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn; c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ; d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng [36, Điều 5]. Một trong những điểm mới của Luật HN&GĐ năm 2014 so với Luật HN&GĐ năm 2000 về điều kiện kết hôn đó là Luật HN&GĐ năm 2014 không quy định cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính. Tuy nhiên Nhà

Bình Đẳng Giới Là Gì Và Tại Sao Chúng Ta Cần Bình Đẳng Giới

Tại Mỹ, các tổ chức xã hội phải mất hơn 70 năm (từ năm 1848 cho đến năm 1920) để đấu tranh và tạo cho phụ nữ một vài quyền cơ bản như: Quyền được bảo hộ; quyền bình đẳng cho phụ nữ da màu nói riêng và phụ nữ nói chung; cải thiện điều kiện sống, mức lương làm việc và quyền bầu cử tại Mỹ. Một số nhà hoạt động nhân quyền còn hy sinh tính mạng của mình để đấu tranh cho các quyền này. Thế nhưng, ở nhiều nước khác, những bất bình đẳng giới vẫn còn tiếp diễn.

Theo thống kê, có 77% đàn ông trong giữ vai trò là lực lượng lao động chính. Trong khi đó phụ nữ chỉ chiếm khoảng 50% hoặc chưa tới số đó (ở một số nước, số lượng phụ nữ có mặt trong lực lượng lao động chính còn ít hơn rất nhiều). Thu nhập mà phụ nữ nhận được trung bình chỉ bằng khoảng 77% nam giới; tức là vẫn thấp hơn 23%. Với mỗi 1 đô-la một người đàn ông kiếm ra, phụ nữ tại Mỹ La-tin chỉ kiếm được 56 cents và phụ nữ Mỹ-Phi kiếm được khoảng 64 cents (tức là chỉ hơn một nửa). 62 triệu bé gái bị từ chối quyền học hành trên toàn thế giới (số liệu của Liên hợp quốc). Hàng năm, có tới 15 triệu trẻ em gái dưới 18 tuổi bị ép tảo hôn và hôn nhân sắp đặt sẵn của gia đình. Cứ 5 nạn nhân của nạn buôn người thì có tới 4 là nữ (Số liệu của quỹ Malala). Có tới 125 triệu phụ nữ và trẻ em gái là nạn nhân của tục cắt âm vật (Female genital mutilation) trên toàn thế giới. Có ít nhất 1000 vụ giết phụ nữ và bé gái vì danh dự gia đình xảy ra hằng năm ở Ấn Độ và Pakistan. Cứ 5 sinh viên nữ thì có 1 người là nạn nhân của tấn công tình dục tại trường học hay giảng đường. Tại Mỹ, cứ mỗi 15 giây trôi qua sẽ có một người phụ nữ bị chồng hoặc bạn trai đánh đập (domestic violence)

Còn tại việt Nam, phụ nữ và trẻ em gái vẫn thiệt thòi hơn nam giới và trẻ em trai trong một số lĩnh vực. Tỷ lệ phụ nữ làm công ăn lương chỉ bằng khoảng hơn một nửa so với nam giới. Mức lương của phụ nữ thấp hơn nam giới. Ví dụ: mức lương bình quân thực tế theo giờ công lao động của phụ nữ chỉ bằng khoảng 80% so với nam giới. Thời gian phụ nữ dành cho công việc nhà không được thù lao gấp đôi nam giới. Số giờ công lao động hưởng lương của nam giới và phụ nữ là tương đương nhau. Tuy nhiên thời gian phụ nữ dành cho việc nhà lại gấp đôi nam giới, đây là những công việc không được thù lao. Do đó, họ không có thời gian để tham gia vào các hoạt động vui chơi giải trí, văn hoá, xã hội và tiếp tục nâng cao trình độ học vấn. Chưa kể, điều kiện dinh dưỡng của phụ nữ kém hơn so với nam giới. Phụ nữ trưởng thành, đặc biệt là phụ nữ ở các vùng nông thôn, các gia đình nghèo và các dân tộc thiểu số, vẫn có nhiều khả năng bị suy yếu sức khỏe hơn nam giới. Ngoài ra, họ vẫn còn gặp nhiều trở ngại hơn đàn ông trong việc tiếp cận với các nguồn tín dụng, đặc biệt vì phụ nữ thường không có tài sản thế chấp như đất đai. Mặc dù luật đất đai ở Việt Nam không phân biệt đối xử với phụ nữ, song những tập quán phổ biến làm cho họ bị yếu thế hơn, bởi quyền sử dụng đất thường chỉ đứng tên người chồng. Ngoài những những thông tin trong báo cáo trên, rõ ràng trên thực tế người phụ nữ vẫn gặp nhiều trở ngại hơn so với nam giới trong việc tham gia vào các công việc cũng như các hoạt động xã hội. Đặc biệt tình trạng bạo lực gia đình, bạo lực giới vẫn đang tồn tại ở nhiều nơi (theo báo cáo của UNFP).

Bình đẳng giới không chỉ là để giải phóng phụ nữ, mà còn là giải phóng đàn ông. Khi quá đề cao nam giới và hạ thấp nữ giới thì không chỉ có nữ giới bị ảnh hưởng mà nam giới cũng bị ảnh hưởng theo. Chẳng hạn, quan niệm nam giới phải mạnh mẽ, không được khóc, không được thể hiện cảm xúc là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc tỉ lệ tự tử ở nam cao gấp 3 lần nữ giới, tuổi thọ cũng ngắn hơn. Rất nhiều nam giới bị rối loạn tâm lý nhưng không dám đi khám hay chữa hoặc tìm đến sự giúp đỡ vì họ sợ bị dị nghị là “yếu ớt” hay “thiếu nam tính”. Chưa kể, nếu họ có theo đuổi các ngành nghệ thuật thì sẽ bị miệt thị và nói là “yếu đuối”, “đàn bà”, “gay”…

Do đó, đấu tranh cho quyền phụ nữ (women’s rights) và bình đẳng giới là cần thiết và ý nghĩa trong mọi thời điểm.

Bình Đẳng Giới Là Gì? Pháp Luật Quy Định Thế Nào Là Bình Đẳng Giới?

Bình đẳng giới là gì? Bình đẳng giới được hiểu trên những phương diện nào? Pháp luật quy định vấn đề bình đẳng giới là như thế nào? Đặc điểm bình đẳng giới? Ý nghĩa của luật bình đẳng giới?

Một cách hiểu khác đầy đủ hơn và tương đối phổ biến thì bình đẳng giới là “sự thừa nhận và coi trọng như nhau các đặc điểm giống và khác nhau giữa nữ giới và nam giới.’ Nam giới và nữ giới đều có vị thế bình đẳng và được tôn trọng như nhau. Dưới góc độ pháp lý, theo quy định tại Điều 5 Luật bình đẳng giới năm 2006:

“Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó”.

Từ các định nghĩa trên có thể thấy đặc điểm của bình đẳng giới như sau:

– Nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau về mọi mặt, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.

– Nam và nữ đều được tạo điều kiện và cơ hội để phát huy năng lực của mình cho sự phát triển, tuy nhiên cần tính đến những đặc thù về giới tính giữa nam và nữ.

– Nam nữ đều bình đẳng với nhau trong việc tiếp cận và kiểm soát nguồn lực và các lợi ích.

– Nam, nữ đều bình đẳng với nhau trong việc thụ hưởng thành quả của sự phát triển.

– Nam, nữ bình đẳng trong tham gia quản lý nhà nước, tham gia hoạt động xã hội.

– Nam, nữ bình đẳng trong tham gia xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của cộng đồng hoặc quy định, quy chế của cơ quan, tổ chức.

– Nam, nữ bình đẳng trong việc tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử vào cơ quan lãnh đạo của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp.

– Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn chuyên môn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm vào cùng vị trí quản lý, lãnh đạo của cơ quan, tổ chức.

– Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị bao gồm:

+ Bảo đảm tỷ lệ thích đáng nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới;

+ Bảo đảm tỷ lệ nữ thích đáng trong bổ nhiệm các chức danh trong cơ quan nhà nước phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới.

Để thực hiện bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị, chúng ta phải bắt đầu từ chính sách, pháp luật. Các văn bản luật và văn bản dưới luật hiện nay quy định tương đối đồng bộ giúp hướng tới việc thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới cho thấy sự quan tâm của Quốc hội, cử tri cả nước tới công tác phụ nữ. Lần đầu tiên trong lịch sử, Việt Nam có Chủ tịch Quốc hội và cả 3 ủy viên Bộ chính trị đều là nữ giới, không những vậy trong mọi hoạt động lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội thì phụ nữ Việt Nam có những đóng góp vô cùng quan trọng.

– Nam, nữ bình đẳng trong việc thành lập doanh nghiệp, tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý doanh nghiệp, bình đẳng trong việc tiếp cận thông tin, nguồn vốn, thị trường và nguồn lao động.

– Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế bao gồm:

+ Doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ được ưu đãi về thuế và tài chính theo quy định của pháp luật;

+ Lao động nữ khu vực nông thôn được hỗ trợ tín dụng, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư theo quy định của pháp luật.

Việt Nam đã đạt được một số thành tựu to lớn trong công tác bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ, tuy vậy rào cản về bất bình đẳng đối với phụ nữ trong lĩnh vực kinh tế hiện nay vẫn còn rất lớn.

– Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi tuyển dụng, được đối xử bình đẳng tại nơi làm việc về việc làm, tiền công, tiền thưởng, bảo hiểm xã hội, điều kiện lao động và các điều kiện làm việc khác.

– Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm giữ các chức danh trong các ngành, nghề có tiêu chuẩn chức danh.

– Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động bao gồm:

+ Quy định tỷ lệ nam, nữ được tuyển dụng lao động;

+ Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho lao động nữ;

+ Người sử dụng lao động tạo điều kiện vệ sinh an toàn lao động cho lao động nữ làm việc trong một số ngành, nghề nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại.

Tuy nhiên, trong lĩnh vực lao động việc làm, dù Luật Bình đẳng giới năm 2006 và một số văn bản quy phạm pháp luật đã quy định rõ về bảo đảm việc làm, chống phân biệt đối xử, nhất là quyền được bảo vệ sức khỏe… nhưng trên thực tế, lao động nữ vẫn chưa được đối xử công bằng và chịu nhiều thiệt thòi. Những rào cản tạo ra sự bất bình đẳng giới tính thể hiện rất đa dạng như tỷ lệ lao động nữ thấp hơn lao động nam, nữ thanh niên thất nghiệp nhiều hơn nam, lao động nữ làm các công việc không ổn định dễ bị tổn thương hơn nhiều so với lao động nam, tiền lương bình quân tháng của lao động nữ thấp hơn lao động nam và nhiều sự bất bình đẳng trong lĩnh vực lao động việc làm.

– Nam, nữ bình đẳng về độ tuổi đi học, đào tạo, bồi dưỡng.

– Nam, nữ bình đẳng trong việc lựa chọn ngành, nghề học tập, đào tạo.

– Nam, nữ bình đẳng trong việc tiếp cận và hưởng thụ các chính sách về giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ.

– Nữ cán bộ, công chức, viên chức khi tham gia đào tạo, bồi dưỡng mang theo con dưới ba mươi sáu tháng tuổi được hỗ trợ theo quy định của Chính phủ.

– Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo bao gồm:

+ Quy định tỷ lệ nam, nữ tham gia học tập, đào tạo;

+ Lao động nữ khu vực nông thôn được hỗ trợ dạy nghề theo quy định của pháp luật.

– Nam, nữ bình đẳng trong việc tiếp cận, ứng dụng khoa học và công nghệ.

– Nam, nữ bình đẳng trong việc tiếp cận các khoá đào tạo về khoa học và công nghệ, phổ biến kết quả nghiên cứu khoa học, công nghệ và phát minh, sáng chế.

– Nam, nữ bình đẳng trong tham gia các hoạt động văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao.

– Nam, nữ bình đẳng trong hưởng thụ văn hoá, tiếp cận và sử dụng các nguồn thông tin.

– Nam, nữ bình đẳng trong tham gia các hoạt động giáo dục, truyền thông về chăm sóc sức khỏe, sức khoẻ sinh sản và sử dụng các dịch vụ y tế.

– Nam, nữ bình đẳng trong lựa chọn, quyết định sử dụng biện pháp tránh thai, biện pháp an toàn tình dục, phòng, chống lây nhiễm HIV/AIDS và các bệnh lây truyền qua đường tình dục.

– Phụ nữ nghèo cư trú ở vùng sâu, vùng xa, là đồng bào dân tộc thiểu số, trừ các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, khi sinh con đúng chính sách dân số được hỗ trợ theo quy định của Chính phủ.

– Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong sở hữu tài sản chung, bình đẳng trong sử dụng nguồn thu nhập chung của vợ chồng và quyết định các nguồn lực trong gia đình.

– Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong việc bàn bạc, quyết định lựa chọn và sử dụng biện pháp kế hoạch hoá gia đình phù hợp; sử dụng thời gian nghỉ chăm sóc con ốm theo quy định của pháp luật.

– Con trai, con gái được gia đình chăm sóc, giáo dục và tạo điều kiện như nhau để học tập, lao động, vui chơi, giải trí và phát triển.

– Các thành viên nam, nữ trong gia đình có trách nhiệm chia sẻ công việc gia đình.

Bạo lực gia đình là vấn nạn của xã hội, nó gây thiệt hại rất nghiêm trọng về tinh thần và thể chất đối với con người, đặc biệt là đối với phụ nữ. Ở nước ta trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm đến vấn đề phòng chống bạo lực gia đình. Chính vì vậy Nhà nước đã ban hành rất nhiều văn bản luật trực tiếp cũng như gián tiếp ví dụ như Hiến pháp, Luật hôn nhân gia đình và đặc biệt là Luật phòng chống bạo lực gia đình và Luật bình đẳng giới.

Việc triển khai các văn bản luật này đã góp phần tích cực trong việc phòng chống bạo lực gia đình. Tuy nhiên hiện nay có lúc, có nơi hành vi bạo lực gia đình vẫn còn diễn ra thường xuyên là thực trạng của bạo lực gia đình. Gần đây, trên mạng xã hội liên tục xuất hiện những đoạn phim ghi lại những cảnh phụ nữ bị bạo hành một cách thô bạo và tàn nhẫn, điều đáng buồn là người đánh đập phụ nữ lại chính là người chồng cho nên nạn bạo hành gia đình vẫn diễn ra khá phổ biến. Theo thống kê mới đây của Liên hợp quốc công bố giữa tháng 9 năm 2019 thì ở Việt Nam có trên 50% phụ nữ là nạn nhân của một trong các hành vi bạo lực gia đình.

Với quy định như vậy, quyền bình đẳng giới nhằm xóa bỏ phân biệt đối xử về giới; Tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế – xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ; đồng thời thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.

Pháp luật đã đưa ra những quy định nghiêm cấm những hành vi sau đây:

Cản trở nam, nữ thực hiện bình đẳng giới;

Phân biệt đối xử về giới dưới mọi hình thức;

Bạo lực trên cơ sở giới;

Các hành vi khác bị nghiêm cấm theo quy định của pháp luật

Bạn đang xem bài viết Từ Không Nhân Nhượng Đến Hợp Tác Bình Đẳng. trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!