Xem Nhiều 6/2023 #️ Từ Và Chữ Trong Tiếng Việt – Phân Biệt Và Quy Ước Trong Nghề # Top 13 Trend | Tvzoneplus.com

Xem Nhiều 6/2023 # Từ Và Chữ Trong Tiếng Việt – Phân Biệt Và Quy Ước Trong Nghề # Top 13 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Từ Và Chữ Trong Tiếng Việt – Phân Biệt Và Quy Ước Trong Nghề mới nhất trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Rate this post

Hiện nay, trong tiếng Việt, cách sử dụng các khái niệm như “Chữ”, “Từ”, “Âm tiết” có sự khác biệt khi dùng thuật ngữ và cách nói trong giao tiếp thông thường. Theo nghĩa chuyên môn ngôn ngữ học:

– “Chữ” được dùng để chỉ: Hệ thống ký hiệu bằng đường nét đặt ra để ghi tiếng nói – Đó là hệ thống mẫu tự riêng biệt cho mỗi ngôn ngữ.

– “Từ” là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có nghĩa hoàn chỉnh, dùng để đặt câu. Chẳng hạn “Công nhân”, “Xây”, “Nhà hộ sinh” là 3 từ (ghép lại thành một câu trọn vẹn). Trong 3 từ trên, có từ 1 âm tiết, có từ 2 và 3 âm tiết.

– Âm tiết là đơn vị phát âm nhỏ nhất trong ngôn ngữ. Trong tiếng Việt, rất nhiều từ đơn có ranh giới trùng với ranh giới âm tiết (còn được gọi là “Tiếng”.

Trong những trường hợp phải nói chính xác, tốt nhất không dùng “Chữ” để người đọc khỏi bị nhầm lẫn với “Chữ cái” hay “Chữ viết” – Vốn thuộc phạm vi văn tự mà nên dùng là “Âm tiết” (hoặc có thể giải thích thêm: Chữ = âm tiết). Trong viết bài nhiều người cũng hay nhầm lẫn giữa văn nói và văn viết (Vấn đề này mình sẽ đề cập ở bài sau).

Nhiều từ tiếng Việt có cấu trúc lớn hơn một âm tiết, ví dụ: Trường phổ thông, chủ nghĩa xã hội dân chủ, phép biện chứng duy vật lịch sử… Nếu lấy “Từ” là đơn vị tính trong một văn bản đôi khi sẽ rắc rối đối với Tiếng Việt.

Tuy nhiên khi viết bài chúng ta hay được giao bài viết 1000 từ hay 1500 từ. Lúc này chúng ta có thể tự quy ước với nhau rằng “Từ” trong bài được tính là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất. 1 “Từ phức” cũng được cấu tạo từ những “Từ đơn”. Trong word, exel cũng được quy ước như vậy (Không tính đến ngôn ngữ và ngữ pháp Tiếng Việt).

—————————————————————–

Nguồn: Tổng hợp

Phân Biệt Loại Trợ Từ Và Phó Từ Trong Tiếng Việt

Trong thực tế, sự chuyển loại giữa trợ từ với phó từ là rất khó phát hiện. Trong bài viết này, chúng tôi tập trung miêu tả sự khác biệt về đặc trưng ngữ pháp giữa hai từ loại này và nêu một số trường hợp cụ thể nhằm đưa ra khả năng phân biệt tính chất từ loại trong những trường hợp ấy.

2. Trợ từ được chia thành hai loại sau:

(1) Những từ “thường đứng ở cuối phát ngôn và thôm vào cho nội đung chính của phát ngôn một hoặc một số ý nghĩa tình thái nhất định” [11, tr. 11]. Chẳng hạn, à, ư, hả trong câu nghi vấn; đi, thôi, mà trong câu mệnh lệnh; mà đấy trong câu trần thuật.

(2) Những từ “chuyện được dùng để nhấn mạnh vào ý nghĩa của một bộ phận nào đó trong phát ngôn (bộ phận này có thể là một từ hay một cụm từ)”. Ví dụ: Chính tôi cũng không biết việc này. Bài toán đó đến học sinh giỏi nhất lớp cũng chịu. Chị ta may những ba chiếc áo một lúc. v.v… (Phạm Hùng Việt, 2003, tr. 11).

Loại trự từ thứ hai “chuyên dược dùng để nhấn mạnh” sự kiện, “biểu đạt những mối quan hệ có tính chất bộ phận giữa người nói với nội dung phát ngôn được xác lập với từng bộ phận của phát ngôn” (Đinh Văn Đức, 1986, tr. 190). Trợ từ cho biết thái dộ chủ quan của người nói dối với sự tình. Các trợ từ điển hình như: chính, đích, cả, những, ngay, quả nhiên, tất nhiên, đương nhiên, bất dắc dĩ, kì thực, hẳn là, chắc là, có lẽ, v.v… Loại trợ từ này được không ít tác giả coi là phó từ. Nguyễn Kim Thản gọi đây là ” phó từ phụ cho cả câu” [8, tr. 350]. Diệp Quang Ban gọi đây là “phó từ tình thái” và đối lập với phó từ thông thường (” phó từ phi tình thái“) (Diệp Quang Ban, 2004, tr. 540-546). Một số tác giả khác cũng nhận xét về đặc trưng tình thái của phó từ. Trong Từ diển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, 2003), những trợ từ này cũng được chú thích từ loại là “p.” (phụ từ). Ví dụ:

– Việc ấy quyết nhiên không thành (Viện Ngôn ngữ học, 2003, tr. 816)

– Anh ấy dễ thường chưa biết (Viộn Ngôn ngữ học, 2003, tr. 253)

3. Như trên đã trình bày, hiện nay trong giới Việt ngữ học, khuynh hướng quan niệm phó từ là những từ phụ cho vị từ được khá đông các nhà nghiên cứu hưởng ứng (Nguyễn Kim Thản, 1963; Ủy ban Khoa học xã hội, 1983; Diệp Quang Ban, 2004; Đào Thanh Lan, 2010; Nguyễn Hồng Cổn, 2003). Theo quan điểm này, phó từ không thể kết hợp dược với danh từ, đại từ mà chỉ có thể kết hợp với động từ, tính từ. Bên cạnh đó cũng có quan điểm cho rằng, phó từ có thể kết hợp với các đơn vị khác như chủ từ (danh từ, đại từ); kết hợp trực tiếp với đơn vị ở bậc mệnh đề, câu. Nguyễn Tài Cẩn đã nêu một số ví dụ về khả năng dùng ở trước danh từ của phó từ đã, cũng, đều:

Ông cho rằng, các phó từ trên “có thể đi kèm với bất kì từ loại nào (danh từ, danh ngữ cũng như động từ, động ngữ, tính từ, tính ngữ) để dạng thức hóa từ loại đó, giúp từ loại đó có khả năng giữ một chức vụ cú pháp nào đấy (Nguyễn Tài Cẩn, 1975, tr. 263) nhưng rất khó mà gọi tên cái chức vụ cú pháp mà đã, cũng, đều đảm nhiệm là gì, chủ tố, vị tố, bổ tố, trạng tố hay định tố? (Diệp Quang Ban (2008) gọi thành phần này là biệt ngữ, về thực chất cũng chính là trợ từ: bộ phận từ ngữ đặc biệt chêm xen vào câu nói).

Theo chúng tôi, trong các phát ngôn mà Nguyễn Tài Cẩn dẫn, các từ đã, cũng, đều không còn hoạt động với tư cách là phó từ mà đã chuyển loại thành trợ từ. Đây là hiện tượng một số phó từ chuyên dụng ( đã, cũng, đều, chỉ, vẫn, v.v.) lâm thời đảm nhiệm vai trò tình thái của trợ từ. Chúng như một thành phần biệt lập gán thêm vào, chêm xen vào phát ngôn. Việc loại bỏ các trợ từ này không làm ảnh hưởng đến nội dung thông báo của câu mà chỉ ảnh hưởng đến ý nghĩa tình thái của phát ngôn. Ý nghĩa của chúng là ý nghĩa tình thái: nhấn mạnh sự nhận định và thái độ của người nói.

Trong tất cả các phát ngôn trên, vị từ “là” đều đã bị tỉnh lược. Sở dĩ vị từ có thể tỉnh lược mà người nghe không cảm thấy thiếu chính bởi sự có mặt của các trợ từ có ý nghĩa tình thái này.

4. Một số phó từ hạn định về số lượng, đã hàm chứa sẵn sác thái đánh giá nhận định trong nội hàm ý nghĩa của từ nên trong quá trình sử dụng đã chuyển loại thành các trợ từ. Tuy nhiên, do từ không thay đổi về hình thái nên tính chất từ loại của từ ở đa số các trường hợp là khó xác định. Hư từ mỗi là một ví dụ điển hình. Mỗi vốn là phó từ “chỉ một phần tử bất kì của một tập hợp những cái cùng loại được xét riêng lẻ, nhưng nhằm để qua đó nói chung cho mọi phần tử của tập hợp” (Viện Ngôn ngữ học, 2003, tr. 640). Ví dụ:

– Làng nào cũng có nhiều cánh (danh từ tập hợp), mỗi cánh (danh từ phần tử) kết bè kết đảng chung quanh một nguời… (Nam Cao)

Nhưng khi biểu thị ý nghĩa đánh giá ít về số lượng, ý nghĩa duy nhất, không còn gì khác, mỗi lại đóng vai trò của trợ từ. Ở trong những trường hợp này, mỗi thường kết hợp với số từ một đi kèm ( mỗi một.. ) Ví dụ:

– Bà có mỗi một mống con thôi. Ai chả tưởng: quí hơn vàng. (Nam Cao)

Trong trường hợp này, mỗi không thể hiện ý nghĩa phần tử rút ra từ bộ phận (như “mỗi người trong chúng ta”), mà diễn đạt ý nghĩa hạn định về mặt số lượng, trong đó luôn bao hàm sắc thái biểu cảm. Mỗi có thể kết hợp với các số từ, hoặc các từ chỉ đơn vị, như: mỗi chiếc…, mỗi con…, mỗi cái…, v.v…

– … tôi thấy anh chui vào, một lát sau chui ra, thấy người khác hắn, trên người buộc đầy cành lá, mình mặc mỗi chiếc quần đùi. (Nguyễn Huy Thiệp)

Thậm chí, mỗi có thể đứng trước các số từ hoăc danh từ số nhiều. Lúc này, mỗi biểu thị sự đánh giá chủ quan của người nói về số lượng được đề cập đến là ít, là chỉ có vậy không hơn nữa, không còn gì khác nữa. Ví dụ:

– Hay các bác về nhà chúng tôi? Nhà chỉ có mỗi hai vợ chồng son, cũng rộng rãi. (Nguyễn Huy Thiệp)

– Ông Vỹ đông con, nhà nghèo, về mang theo mỗi chục quả tai chua với chai rượu trắng làm quà. (Nguyễn Huy Thiệp)

– … trong khu trại tăng gia của huyện đội 67 đã nhiều năm bị bỏ quên trên bờ thác nước ấy chỉ có mỗi ba cô gái… (Bảo Ninh)

Trong các ví dụ vừa dẫn, mỗi đóng vai trò là trợ từ, làm gia tăng săc thái biểu cảm, ý nghĩa đánh giá cho nội dung thông báo của câu. Ở đây, mỗi hoàn toàn có thể lược bỏ mà không ảnh hưởng đến cấu trúc ngữ pháp của câu.

5. Hiện tượng nhầm lẫn giữa trợ từ và phó từ cũng khá phổ biến trong các công trình nghiên cứu về ngữ pháp.

(a) Nhậm được thư ấy liền nói: quả nhiên Duệ (CN)//làm phản rồi (VN). (b) Ngươi (VN)/ oán hận ta, đương nhiên(VN). (c) Quân bên tả của Chúa (CN)/không chống nói cơ hồ muốn vỡ(VN).

Chúng tôi cho rằng, trong các câu trên (a), (b), (c), quả nhiên,đương nhiên, cơ hồ hoàn toàn biệt lập với các sự tình được đề cập đến. Các yếu tố này góp phần thể hiện mục đích phát ngôn chứ không phải thể hiện nội dung phát ngôn. Chúng bao hàm những nhận định, đánh giá mang tính chủ quan của chủ thể phát ngôn và chúng không nằm trong cấu trúc của ngữ vị từ. Chúng đều là trợ từ chứ không phải phó từ. Bởi vì chúng mang lại những ý nghĩa tình thái và những tiền giả định như sau:

(a) Duệ làm phản (như dự đoán của ta) (b) Ngươi oán hận ta (điều đó ta đã biết) (c) Quân bên tả của Chúa không chống nổi, muốn vỡ (đoán định)

Điều này hoàn toàn không phải khó hiểu vì có một số nhà nghiên cứu đã phát biểu về tính tình thái của phó từ. Đinh Văn Đức cho rằng: “các từ phụ của động từ và tính từ trong tiếng Việt đều đồng thời tham gia diễn đạt tính tình thái” (Đinh Văn Đức, 1986, tr. 189). Chính Diệp Quang Ban trong khi phân loại phó từ cũng đã chia thành hai loại: phó từ tình thái và phó từ phi tình thái (tr. 540). Vậy thì tại sao từ ” chỉ” trong các ví dụ trên không phải phó từ tình thái mà lại gọi nó là trợ từ? Đối với câu (d), (e) thì ý nghĩa hạn định về số lượng được làm rõ bởi: ” chừng ấy“, ” hai“. Nhưng đối với câu (f) mà phân tích rằng chỉ là trợ từ “nhấn mạnh sự hạn chế về số lượng” của hành động ” thích chơi bóng đá” thì không có cơ sở. Thật ra, trong cả 3 câu trên, chỉ có từ ” thôi” ở cuối câu (d) là trợ từ mà thôi.

Trong tiếng Việt còn có một số từ kiêm phó từ – trợ từ. Phải căn cứ vào ngữ cảnh mới xác định được tính chất từ loại của chúng. Chẳng hạn như các từ: chỉ, đã, v.v… trong các ví dụ sau đây:

6. Để phân biệt hai kiểu từ loại này, chúng tôi xác định những điểm khác biệt cơ bản giữa phó từ và trợ từ như sau:

Về mặt ngữ pháp:

– Phó từ luôn đi kèm với từ trung tâm, đứng trước hoặc sau liền kề với từ trung tâm; phó từ kết hợp trực tiếp với từ trung tâm.

– Vị trí của trợ từ khá tự do: đầu câu, giữa câu hoặc cuối câu. Ví dụ: Tất nhiên, tôi biết việc đó; Tôi tất nhiên biết việc đó; Tôi biết việc đó tất nhiên. Trợ từ không quan hệ trực tiếp với bất kì thành phần nào của câu, là thành phần có thể lược bỏ mà không ảnh hưởng tới kết cấu ngữ pháp của câu.

Về mặt ngữ nghĩa:

– Trợ từ mang lại sắc thái ý nghĩa cho toàn bộ câu. Trợ từ giúp biểu lộ thái độ, sự đánh giá, cảm xúc của người nói trước thực tại được phản ánh.

– Phó từ bổ sung các ý nghĩa về thời gian, mức độ, phạm vi, phủ định, v.v. cho từ trung tâm (đoản ngữ hay mệnh đề).

Giải quyết rạch ròi vấn đề chuyển loại giữa các hư từ sẽ giúp ích cho việc phân tích ngữ pháp vốn đã rất phức tạp của tiếng Việt. Trong những bài viết tiếp theo, chúng tôi sẽ tiếp tục tìm hiểu sự chuyển loại của phó từ thành liên từ cặp đôi trong các câu ghép có kết từ. Đây cũng là một vấn đề hết sức lí thú khi nghiên cứu về hư từ tiếng Việt.

Tài liệu tham khảo

Lê Biên (1996) Từ loại tiếng Việt hiện đại, Tnrờng Đại học Sư phạm Hà Nội.

Diệp Quang Ban (2004), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục Hà Nội.

Nguyền Tài Cẩn (1975), Ngữ pháp tiếng Việt (tiếng – từ ghép – đoản ngữ) Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

Đinh Văn Đức (1986), Ngữ pháp tiếng Việt (từ loại), Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

Đào Thanh Lan (2010), Về từ loại phó từ trong tiếng Việt. Đề tài NCKH cấp Đại học Quốc gia.

Hoàng Trọng Phiến (2008), Từ điển giải thích hư từ tiếng Việt, Nxb Tri thức.

Nguyễn Anh Quế (1988), Hư từ trong tiếng Việt hiện đại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

Nguyễn Kim Thản (1997), Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội

Uỷ ban Khoa học xã hội (1983), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học.

Phạm Hùng Việt (2003), Trợ từ trong tiếng Việt hiện đại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

Cách Dùng Và Phân Biệt Liên Từ While Và When Trong Tiếng Anh

Download Now: Tài liệu ngữ pháp tiếng Anh

Cách dùng và phân biệt liên từ While và When

Cấu trúc và cách chia when với các thì trong tiếng anh

Vị trí: Mệnh đề When có thể đứng ở đầu hoặc cuối câu

When you see it yourself, you’ll surely believe it.

When I just got out of the classroom, I knew that I had made some mistakes.

– When the rock concert given by Erick Clapton ended, we went

When we were playing football at 5.30p.m yesterday, there was a terrible explosion ( Vào lúc 5h30 chiều qua, khi đang chơi bóng thì bọn tôi chợi nghe thấy một tiếng nổ lớn )

When we came, he was taking a bath

When the opportunity had passed, i only knew that there was nothing could be done

When the opportunity passed, i know there’s nothing can be done.

Cách sử dụng when trong tiếng anh

* when: mệnh đề có chứa WHEN, chúng ta thường chia động từ không phải dạng tiếp diễn.

Khi nói về chuỗi các hành động xảy ra liên tiếp nhau:

When you called, he picked up his cell phone.

Khi một hành động đang diễn ta thì bị một hành động khác (diễn ra chỉ trong 1 khoảng thới gian ngắn) xen vào.

Cấu trúc và cách dùng while trong tiếng anh

While có nghĩa trong lúc, trong khi, trong khoảng thời gian, đang lúc,…

Mệnh đề When và While có thể đứng ở đầu hoặc cuối câu.

I was having breakfast when the telephone rang.

While they were cooking, somebody broke into their house.

Cấu trúc: While+ subject + verb

Cách dùng:

While: Mệnh đề có chứa WHILE, chúng ta thường chia động từ ở dạng tiếp diễn.

He was playing soccer while she was reading the newspaper.

Khi nói về một hành động đang diễn ra thì một hành động khác cắt ngang.

Khi đó thì hành động đang diễn ra sẽ dù thì quá khứ tiếp diễn và hành động cắt ngang sẽ dùng thì quá khứ.

Ex: While he was talking, his baby slept.

Bài tập phân biệt cách dùng when và while

Chọn when/while trong chỗ trống.

I first met my future husband (when/while) ………….. I was staying in Ho Chi Minh city.

(when/while) ………….. I was talking to my uncle on phone, my mom came home.

We were playing card (when/while) …………. the lights went off.

(when/while) ………….. John was working, he often listened to music.

(when/while) ………….. I was in my hometown, power cuts were very frequent.

He called me (when/while) ………….. I was taking shower in the bathroom.

Crystal was very unhappy (when/while) ………….. things weren’t going well for her.

Đáp án

I first met my future husband while I was staying in Ho Chi Minh city.

While I was talking to my uncle on phone, my mom came home.

We were playing card when the lights went off.

While John was working, he often listened to music.

When I was in my hometown, power cuts were very frequent.

He called me while I was taking shower in the bathroom.

Crystal was very unhappy when things weren’t going well for her.

Từ Đồng Nghĩa Trong Tiếng Việt, Khái Niệm Và Cách Phân Loại

Từ đồng nghĩa trong tiếng Việt là những từ có nghĩa giống nhau hoặc gần giống nhau, trong một số trường hợp từ đồng nghĩa có thể thay thế hoàn toàn cho nhau, một số khác cần cân nhắc về sắc thái biểu cảm trong trường hợp cụ thể.

Ví dụ về từ đồng nghĩa:

bố-ba: đều chỉ người sinh thành ra mình

mẹ-má-mế: chỉ người mẹ, người sinh ra mình

chết-hy sinh: mất khả năng sống, không còn biểu hiện của sự sống

siêng năng-chăm chỉ-cần cù

lười biếng-lười nhác-biếng nhác

2. Phân loại từ đồng nghĩa

Từ đồng nghĩa được chia thành hai loại chính là:

Từ đồng nghĩa hoàn toàn (đồng nghĩa tuyệt đối): là những từ có nghĩa hoàn toàn giống nhau, có thể thay thế cho nhau 

Từ đồng nghĩa không hoàn toàn (đồng nghĩa tương đối): là những từ có nghĩa giống nhau nhưng khác nhau về sắc thái biểu cảm hoặc cách thức hành động nên cần cân nhắc kỹ lưỡng khi lựa chọn thay thế cho nhau.

Ví dụ:

Từ đồng nghĩa hoàn toàn: đất nước-non sông-non nước-tổ quốc, bố-ba, mẹ-má, xe lửa-tàu hỏa, con lợn-con heo

Từ đồng nghĩa không hoàn toàn: chết-hy sinh-quyên sinh, cuồn cuộn-lăn tăn-nhấp nhô

Phân tích sắc thái biểu cảm của những từ đồng nghĩa không hoàn toàn:

Chết-mất-hy sinh-quyên sinh: “Chết” là cách nói bình thường, “mất” là cách nói giảm nói tránh nỗi đau, “hy sinh” cách nói thiêng liêng, trang trọng hơn, “quyên sinh” là cái chết chủ động, có mục đích, tự tìm đến cái chết.

Cuồn cuộn-lăn tăn-nhấp nhô: đều chỉ trạng thái của sóng biển, nhưng “cuồn cuộn” thể hiện sự dồn dập, mạnh mẽ, hết lớp này đến lớp khác, “lăn tăn” là những gợn sóng nhỏ, trong khi “nhấp nhô” là những đợt sóng nhô lên cao hơn những đợt sóng xung quanh, hết lớp này đến lớp khác.

Hiền hòa-hiền lành-hiền từ-hiền hậu: “hiền hòa” thường dùng để chỉ tính chất của sự vật (ví dụ dòng sông hiền hòa), “hiền lành” chỉ tính cách của con người, hiền và tốt bụng, không có ý gây hại cho bất kì ai, “hiền từ” thể hiện lòng tốt và tính thương người, “hiền hậu” là hiền lành và nhân hậu.

3. Phân biệt từ đồng nghĩa, trái nghĩa

Từ trái nghĩa là những từ có ý nghĩa trái ngược nhau hoàn toàn.

Ví dụ:

Cao-thấp

Béo-gầy

Giàu-nghèo

Chăm chỉ-lười biếng

Mặn-nhạt

giỏi giang-kém cỏi

thuận lợi-Khó khăn

đoàn kết-chia rẽ

nhanh nhẹn-chậm chạp

sáng sủa-tối tăm

hiền lành-dữ tợn

nhỏ bé-to lớn

thật thà-dối trá

nông cạn-thâm sâu

cao thượng-hèn kém

vui vẻ-buồn bã

Từ trái nghĩa cũng được phân loại thành từ trái nghĩa hoàn toàn và từ trái nghĩa không hoàn toàn.

Từ trái nghĩa hoàn toàn là những từ luôn trái ngược với nhau trong mọi hoàn cảnh. Ví dụ: sống-chết, cao-thấp,..

Từ trái nghĩa không hoàn toàn là những từ sẽ trái với nhau trong những trường hợp nhất định chứ không phải lúc nào cũng có nghĩa trái ngược nhau. Ví dụ: cao chót vót-sâu thăm thẳm (“cao” không hẳn trái nghĩa với “sâu” nhưng trong trường hợp này “cao chót vót” được coi là trái nghĩa với “sâu thăm thẳm” )

4. Phân biệt từ đồng nghĩa, đồng âm

Từ đồng âm là những từ giống nhau về mặt âm thanh nhưng lại có nét nghĩa hoàn toàn khác nhau. Trong khi từ đồng nghĩa là những từ khác nhau về mặt âm thanh nhưng lại có nét nghĩa giống nhau hoặc tương đương nhau.

Ví dụ về từ đồng âm:

Ví dụ 1:

5. Phân biệt từ đồng nghĩa với từ nhiều nghĩa

Từ nhiều nghĩa trong tiếng Việt là từ có một nghĩa gốc và nhiều nghĩa chuyển, có mối liên hệ với nghĩa gốc. 

Ví dụ: Từ ăn

Ăn cơm: nghĩa gốc, hành động đưa thức ăn vào cơ thể để duy trì sự sống

Ăn cưới: đi tham dự lễ cưới và ăn uống nhân dịp lễ cưới

Ăn ảnh: vẻ đẹp được tôn lên đẹp hơn trong tấm ảnh

Ăn khách: “bộ phim ăn khách”, thể hiện sự thu hút, hấp dẫn của một tác phẩm nào đó.

6. Bài tập về từ đồng nghĩa

Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao (Nguyễn Khuyến)

Trăm năm còn có gì đâu

Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì 

(Cung oán ngâm khúc_Nguyễn Gia Thiều)

Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời

Bao cô thôn nữ hát trên đồi 

(Mùa xuân chín_Hàn Mặc Tử)

Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy

Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

( Chinh Phụ ngâm_Đặng Trần Côn)

Dường như chưa có buổi chiều nào

Xanh như buổi chiều nay, xanh ngút mắt

(Ở giữa cây với nền trời_Thi hoàng)

Màu xanh lại càng tươi càng mát

Màu xanh bình yên, màu xanh bát ngát

Ôi ! màu xanh thăm thẳm của hồn ta

Việt Nam ! Việt Nam, màu xanh hát ca…

( Màu tôi yêu_ Tố Hữu)

Tháng Tám mùa thu xanh thẳm (Tố Hữu)

Nhớ từ sóng Hạ Long xanh biếc (Chế Lan Viên)

Suối dài xanh mướt nương ngô (Tố Hữu)

Đáp án: 

Màu xanh trong những câu thơ trên như: xanh ngắt, xanh tươi, xanh rì, xanh xanh, xanh ngút mắt, xanh bát ngát, xanh thẳm, xanh biếc, xanh mướt, là những từ đồng nghĩa không hoàn toàn. Mỗi từ “xanh” trong mỗi câu thơ, lại có sắc thái biểu cảm khác nhau, cụ thể:

xanh ngắt: xanh thuần một màu trên diện rộng, màu đậm, dày hơn những màu xanh thông thường

xanh rì: màu xanh đậm và đều màu, thường dùng để miêu tả màu của cỏ cây rậm rạp

xanh tươi: màu xanh tươi tốt, tràn đầy sức sống

xanh xanh: màu xanh trải dài 

xanh ngút: màu xanh vươn lên cao

xanh bát ngát: màu xanh trải dài và trên diện rộng,

xanh thẳm: một màu xanh tươi đằm thắm

Xanh biếc: xanh lam đậm và tươi ánh lên

xanh mướt: màu xanh tươi mỡ màng

Bài tập 2: Tìm lỗi sai trong những câu sau và tìm từ thay thế phù hợp

Mấy cây phượng trên phố nở hoa đỏ ửng

Dòng sông quê em chảy rất hiền lành

Mùa xuân về, cây cối đều sinh thành nảy nở.

Đáp án:

Thay từ đỏ ửng = đỏ chói, đỏ rực. Tù “đỏ ửng” gợi sắc thái đỏ hồng lên, trông dịu nhẹ, gây cảm giác ưa nhìn, thường dùng để miêu tả đôi má hồng. Trong khi từ đỏ rực, đỏ chói, thể hiện sự rực lên, đỏ rực rỡ đến chói mắt.

Thay từ hiền lành = hiền hòa. Từ hiền lành thường được sử dụng để miêu tả tính cách con người trong khi từ hiền hòa thường dùng để chỉ sự vật, với con sông để diễn tả dòng chảy nhẹ nhàng.

sinh thành= sinh sôi. Sinh thành thường dùng cho con người. Sinh sôi nảy nở dùng cho cây cối, sự vật.

Bài tập 3: Chọn đáp án trắc nghiệm đúng

Câu 1. Từ nào sau đây đồng nghĩa với từ hạnh phúc:

A. Sung sướng

B. Toại nguyện

C. Phúc hậu

D. Giàu có

A. Cầm.

B. Nắm

C. Cõng.

D. Xách.

Câu 3. Dòng nào có từ mà tiếng nhân không cùng nghĩa với tiếng nhân trong các từ còn lại?

a. Nhân loại, nhân tài, nhân lực.

b. Nhân hậu, nhân nghĩa, nhân ái.

c. Nhân công, nhân chứng, chủ nhân.

d. Nhân dân, quân nhân, nhân vật.

A. phang

B. đấm

C. đá

D. vỗ

Câu 5: Dòng nào chỉ các từ đồng nghĩa:

A. Biểu đạt, diễn tả, lựa chọn, đông đúc

B. Diễn tả, tấp nập, nhộn nhịp, biểu thị.

C. Biểu đạt, bày tỏ, trình bày, giãi bày.

D. Chọn lọc, trình bày, sàng lọc, kén chọn.

Câu 6: Từ nào không đồng nghĩa với từ “quyền lực”?

A. quyền công dân

B. quyền hạn

C. quyền thế

D. quyền hành

A. ngăn nắp

B. lộn xộn

C. bừa bãi

D. cẩu thả

A. Cây bút trẻ

B. Trẻ con

C. Trẻ măng

D. trẻ trung

Câu 9: Nhóm từ nào đồng nghĩa với từ “hoà bình” ?

A. Thái bình, thanh thản, lặng yên.

B. Bình yên, thái bình, hiền hoà.

C. Thái bình, bình thản, yên tĩnh.

D. Bình yên, thái bình, thanh bình.

A. Leo – chạy

B. Chịu đựng – rèn luyện

C. Luyện tập – rèn luyện

D. Đứng – ngồi

Đáp án:

A

C

C

A

C

A

A

B

D

C

Bạn đang xem bài viết Từ Và Chữ Trong Tiếng Việt – Phân Biệt Và Quy Ước Trong Nghề trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!