Xem Nhiều 6/2023 #️ Vài Giả Thuyết Về Sự Sống # Top 11 Trend | Tvzoneplus.com

Xem Nhiều 6/2023 # Vài Giả Thuyết Về Sự Sống # Top 11 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Vài Giả Thuyết Về Sự Sống mới nhất trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Lời mở đầu

Tôi cũng coi những tư tưởng nầy là “lối sống” của mình vì chúng có ảnh hưởng đáng kể đến cách hành xử của tôi trong đời sống hàng ngày. Ở đây tôi không cố ý chỉ trích phê bình một chủ thuyết nào, và nhất là không có ý định khuyến dụ bất cứ ai.  

Sinh lực (Life force)

Tất cả mọi vật đều có thể được coi là tập hợp của năng lượng và có thể được phân tích hay giải thích theo ý nghĩa của năng lượng.

Mỗi người chúng ta đều có một cơ thể vật chất và một cơ thể phi vật chất. Ý niệm về cơ thể phi vật chất nầy cũng tương tự, nhưng có thể không hoàn toàn giống, với ý niệm “linh hồn” thông thường trong dân gian. Cả hai cơ thể vật chất và phi vật chất nầy là sự biểu hiện của một “sinh lực” trong mỗi cá thể. Trong bài nầy, từ “sinh lực” nên được hiểu trong nghĩa là “lực mang lại và chứa đựng sự sống”. Sinh lực nầy hiện hữu trong mỗi người, riêng biệt và có tính cá thể. Sinh lực của mỗi người biến đổi không ngừng từ hình dạng, cường độ đến tính chất, nhưng không thể được tạo thành từ sự trống rỗng và không thể bị tiêu hủy hoàn toàn. Theo định luật bảo toàn năng lượng, “năng lượng chỉ có thể bị biến cải từ dạng nầy sang dạng khác chứ không bao giờ bị tiêu hủy”.

Sinh lực hiện diện trong tất cả sinh vật. Nói chung, sinh lực của một con người mạnh hơn sinh lực của một con thú, và sinh lực của một con thú mạnh hơn nhiều so với sinh lực của thực vật. Cơ thể phi vật chất trong một con người được hình thành bởi phần sinh lực lớn hơn nhiều so với phần sinh lực cơ thể vật chất. Có nghĩa là về phương diện năng lượng thì phần cơ thể phi vật chất của một người quan trọng gấp nhiều lần so với phần cơ thể vật chất. Phần cơ thể phi vật chất của thú vật cũng quan trọng hơn phần cơ thể vật chất, tuy nhiên tỉ lệ khác biệt giữa hai thành phần nầy không lớn bằng trường hợp trong con người. Hầu hết sinh lực của thực vật nằm trong phần cơ thể vật chất của chúng. Phần cơ thể phi vật chất của thực vật có thể được coi là không đáng kể.

Phần lượng sinh lực trong cơ thể phi vật chất của mỗi người đều khác nhau. Một người càng tiến bộ về phương diện tâm linh thì phần sinh lực trong cơ thể phi vật chất của người nầy càng lớn. Trong thú vật, phần sinh lực của cơ thể phi vật chất cũng khác nhau tùy theo loài thú. Đây là do sự khác nhau ở trình độ phát triển tiến hóa tâm linh nói chung của mỗi loài thú.

Vật vô sinh (thí dụ như đất đá) có những dạng năng lượng khác nhau (thí dụ như từ trường) với phẩm chất thấp kém hơn nhiều so với trong sinh vật nên không được coi là có sinh lực.

Sinh thể có thể được định nghĩa là mỗi đơn vị nguyên vẹn với đầy đủ cá tính của sự sống. Trong thế giới nầy, thí dụ như mỗi con người, mỗi con thú, mỗi cây cỏ là một sinh thể.

Sinh dạng (life form)

Tôi cho rằng sự sống hiện hữu trong nhiều dạng. Có bao nhiêu dạng khác ngoài cái dạng thể mà chúng ta cảm nhận được thì ta không biết. Nhưng tôi nghĩ rằng có vô số dạng thể khác nhau của sự sống mà ở đây tôi xin gọi là “sinh dạng”. Những sinh dạng nầy, đối với loài người chúng ta, được chia làm hai nhóm: sinh dạng trong những thế giới vật chất và sinh dạng trong những thế giới phi vật chất.

Sinh dạng trong thế giới vật chất gồm có sự sống ở trên địa cầu cũng như tất cả các sự sống khác ở trên những thái dương hệ hay thiên hà khác trong vũ trụ. Những thế giới nầy là “thế giới vật chất” vì chúng ta có thể cảm nhận được chúng bằng ngũ quan. Sinh dạng trong thế giới vật chất chịu ảnh hưởng bởi những quy luật vật lý hoặc quen thuộc hoặc không quen thuộc với loài người. Cho đến nay chúng ta chưa có đủ bằng chứng chắc chắn về sự hiện hữu của những sự sống khác trong vũ trụ; tuy nhiên xác xuất nầy rất lớn. Những ai nhìn lên bầu trời đầy sao ban đêm và nghĩ rằng giữa tỉ tỉ thiên thể trong vũ trụ chỉ có một hạt bụi nhỏ bé gọi là địa cầu nầy mới có sự sống thì người ấy vừa ngây thơ vừa kiêu ngạo. Đó là chưa kể đến việc vũ trụ nầy có thể chỉ là một trong vô số những vũ trụ khác đang hiện hữu.

Dạng vật thể mà chúng ta cảm nhận được hàng ngày trong thế giới của chúng ta có thể được giải thích bằng những hạt cơ bản vô cùng bé mệnh danh là điện tử, hạt nhân hay các hạt hạ nguyên tử (subatomic). Tuy nhiên vật thể cũng hiện diện dưới nhiều dạng khác nữa. Những dạng vật thể khác nầy tạo thành những thế giới mà tôi xin gọi là thế giới phi vật chất. Các cấu trúc cơ bản của những loại vật thể nầy khác hẳn với loại vật thể trong thế giới chúng ta. Ở trạng thái thông thường các loại vật thể nầy và loại vật thể trong thế giới của chúng ta không cảm nhận sự hiện diện lẫn nhau được. Nói cách khác, trong điều kiện bình thường thì những thế giới phi vật chất nầy hoàn toàn không hiện hữu đối với chúng ta, và ngược lại.

Con người không thể dùng ngũ quan để cảm nhận những vật thể trong những thế giới phi vật chất nầy. Tuy vậy cần nhớ rằng con người cũng không thể cảm nhận được từ trường của trái đất, tia cực tím của mặt trời, vi khuẩn, vi sinh vật v.v. nhưng tất cả chúng ta đều công nhận rằng chúng hiện hữu. Khoa học kỹ thuật ngày nay đã sáng chế ra những dụng cụ để cho phép con người xác định và đo lường được những hiện tượng nầy. Vài trăm năm trước khi những dụng cụ nầy chưa được phát minh thì những hiện tượng nói trên vẫn đã hiện hữu bất kể con người biết đến chúng hay không.

Sự sống hiện diện trong những thế giới phi vật chất nầy cũng tương tự như sự sống hiện diện ở trong những thế giới vật chất. Ta hãy gọi những dạng thể khác nhau của sự sống trong những thế giới phi vật chất là “sinh dạng phi vật chất”, cũng như những dạng thể khác nhau của sự sống trong những thế giới vật chất là “sinh dạng vật chất”. Mỗi thế giới vật chất hay phi vật chất đều có thể có liên hệ bằng cách nầy hay cách khác với những thế giới vật chất hay phi vật chất khác.  

Những sinh dạng trong không gian

Như đã nói ở trên, vô số những sinh dạng vật chất tương tự như sinh dạng trên địa cầu có thể hiện hữu trong hay ngoài thái dương hệ của chúng ta. Một trong những giả định về những sinh dạng trong không gian là những sinh thể được gọi là “người không gian” hay “người hành tinh” mà nhiều người tin rằng thỉnh thoảng đến thăm viếng địa cầu.

Có nhiều cách giải thích tại sao cho đến nay chúng ta vẫn chưa có bằng chứng vững chắc hay xác nhận được bằng khoa học về những sinh dạng trong không gian nầy.

Cách giải thích thứ nhất là lịch sử của nhân loại chỉ bao trùm một khoảng thời gian vài chục ngàn năm gần đây. Khoảng thời gian nầy chỉ là một cái chớp mắt so với các diễn biến khác trong vũ trụ. Ngay cả lịch sử chính thức của loài người cũng rất chủ quan và thiếu chính xác đến đỗi những nhà khảo cứu ngày nay chỉ có thể ước đoán một cách mơ hồ về nhiều sự kiện xảy ra trước công nguyên. Nhiều sự kiện quan trọng chắc chắn đã xảy ra mà không hề được ghi chép lại. Nếu lần cuối cùng mà những sinh dạng từ không gian đến thăm viếng địa cầu đã xảy ra khoảng hai mươi ngàn năm về trước thì sao? Như đã nói, hai mươi ngàn năm cũng chỉ là một khoảnh khắc rất ngắn trong vũ trụ. Loài người ở thời điểm đó chưa hề có khái niệm gì về “lịch sử” cả thì làm sao các cuộc thăm viếng nầy, nếu đã xảy ra, có thể được ghi nhận và thông tin lại cho thế hệ tương lai?

 

Cách giải thích thứ hai là khoa học kỹ thuật ngày nay của loài người có thể vẫn còn rất thô sơ và kém hiệu quả để phát hiện và xác định những chuyến thăm viếng địa cầu của người không gian. Điều có thể xảy ra là tuy vẫn đến thăm viếng thường xuyên nhưng vì lý do nào đó mà họ không muốn liên lạc trực tiếp hay ra mặt công khai với người địa cầu.

Một cách giải thích khác là ngay cả hiện nay, loài người cũng chưa thám hiểm, kiểm soát hay quan sát được hết tất cả nơi chốn trên trái đất nầy. Nếu những cuộc thăm viếng của người không gian chỉ xảy ra một cách lặng lẽ và ngắn ngủi trong những khu vực chưa biết đến nầy thì làm sao chúng ta có thể ghi nhận được?

Một điểm khả dĩ khác nữa là có thể hiện tượng người không gian đến trên địa cầu đã được xác định bởi một số tổ chức nào đó trên thế giới, tuy nhiên có thể là mọi dữ kiện đều được giữ kín vì lý do bí mật quân sự hay an ninh quốc phòng?

Những sinh dạng phi vật chất

Xác định sự hiện diện của những sinh dạng vật chất khác trong vũ trụ đã phức tạp, nhưng xác định sự hiện hữu của những thế giới phi vật chất còn khó khăn hơn nữa.

Một số tập hợp, thí dụ như nhóm “Kỷ nguyên mới” (New Age), gọi những thế giới nầy bằng những từ như “mặt phẳng” (plans) hay “kích thước” (dimensions) khác. Vài tôn giáo tin rằng thế giới vật chất của chúng ta nối liền đến hai thế giới phi vật chất mà họ gọi bằng một số tên tuy khác nhau nhưng cụ thể là “thiên đàng” và “địa ngục”.

Nếu đã chấp nhận khái niệm “thiên đàng, địa ngục” nầy rồi thì chúng ta chỉ cần bước thêm một bước ngắn nữa là sẽ đến với quan niệm là có vô số các thế giới phi vật chất khác, chúng cũng có liên hệ phần nào đến thế giới chúng ta. Như vậy thì cũng có thể là sự sống trong những thế giới nầy cũng có tương tác phần nào đến sự sống trên địa cầu? Phải chăng có nhiều sự sống (hay sinh dạng) từ nhiều thế giới khác nhau, chúng cũng chia sẻ một khoảng không gian và thời gian chung với nhau, hiện hữu chồng chất lên nhau, nhưng trong điều kiện bình thường thì những sinh dạng nầy không hề cảm nhận được nhau.

Nơi đây người ta dễ liên tưởng đến quan niệm về cái “chết”. Ta có thể xem cái chết là điểm chấm dứt của sự sống trong thế giới vật chất nầy. Nhiều người tin rằng khi chết thì phần cơ thể phi vật chất (thường được gọi là “linh hồn”) của cá thể sẽ hoặc tự nguyện hoặc bị bắt buộc thoát ra khỏi cái vỏ, tức là cái cơ thể vật chất của cá thể đó. Đồng ý là cho đến nay chưa hề có bằng chứng khoa học nào thừa nhận điều này, nhưng nếu chấp nhận nguyên lý bảo toàn năng lượng thì chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng sau khi cơ thể của một người mất sự sống và lần hồi tan rã đi thì cái thể tính đã tạo ra sự khác biệt giữa một người sống và một xác chết phải được biến đổi ra một cái gì khác. Tất cả những năng lượng trong tình cảm của một con người không thể chỉ tiêu tan mà không biến đổi ra thành một dạng năng lượng khác. Những thứ khác trong một con người như khả năng và mức độ cảm nhận, kiến thức, suy luận, thông minh, v.v. cũng có thể như vậy.

Có những tôn giáo quan niệm về tiền kiếp, hậu kiếp, sự tái sinh, sự sống trường cửu, v.v. Có thể là sau khi một cá nhân chết đi, cơ thể phi vật chất của người ấy vẫn còn giữ được tương đối nguyên vẹn trong khi biến đổi qua thành một hay nhiều những sinh dạng khác hiện hữu trong một hay nhiều những thế giới phi vật chất. Cái cơ thể phi vật chất nầy có thể vẫn chứa đựng một phần những cá tính đặc thù của cá nhân đó mặc dù nó đã chuyển hoán qua một hay nhiều dạng khác trong thế giới khác. Một cách nói khác là mỗi người có thể đều có một “linh hồn”, và linh hồn nầy có cùng một bản thể cá biệt trong đời sống nầy cũng như những đời sống khác. Dĩ nhiên liệu nó có nhận biết hoàn toàn được cái bản thể nầy hay không là một chuyện khác.

Những hiện tượng siêu nhiên

Tâm trí (the mind) của con người có thể là một trong những dụng cụ tinh vi nhất mà chúng ta có thể có. Ngay cả ngày nay, khoa học chỉ có thể hiểu được một phần rất nhỏ về khả năng của tâm trí. Một trong những điều mà có người tin là tâm trí có thể cho phép con người “liên lạc” được với những thế giới phi vật chất. Nó hơi giống như một loại radio, nếu vặn đúng băng tần thì sẽ cho phép chủ nhân nghe hay thấy những thứ mà trong điều kiện bình thường người nầy sẽ không bao giờ nghe thấy được. Ta có thể giải thích sự hiện tượng “gặp ma” bằng cách tương tự.

 

Tâm trí có thể được so sánh với một cánh “cổng” nối liền thế giới nầy với những thế giới phi vật chất. Cánh cổng nầy có thể mở ra được trong một số trường hợp nhất định.

Trường hợp thứ nhất là khi tâm thần, tình cảm bị chấn động dữ dội. Thí dụ như khi một cá nhân vừa mới mất người thân thường xúc động và thương tiếc mãnh liệt và điều này có thể sinh ra khả năng cảm nhận được linh hồn của người thân vừa chết. Hiện tượng nầy, nếu xảy ra, thường nằm ngoài chủ ý hay sự điều khiển của cá nhân.

Trường hợp thứ hai là bằng một sự cố gắng có chủ ý, như qua một quá trình tập trung tư tưởng cao độ của các thiền giả (trong một số phương pháp thiền) hay của đồng cốt. Đây là điều gây ra rất nhiều nghi vấn. Liệu những người nầy có thật sự liên lạc được với thế giới khác hay không; và nếu có thật thì chính họ có thể điều khiển được bao nhiêu phần trong những thứ mà họ có thể nghe hay thấy?

Có khi cánh cổng đó được mở ra bởi ngoại lực. Đây là khi có một số điều kiện thiên nhiên mạnh mẽ nào đó dự phần vào. Thí dụ như ở những địa điểm trên mặt đất mà địa từ trường (hay có thể những loại “trường năng lượng” khác) tập trung hay dao động một cách khác thường. Đây có thể là lý do mà ở một số địa điểm người ta thường có thể cảm nhận hay chứng kiến những hiện tượng “ma quỷ”, “vong hồn”, v.v. hiện ra. Những môi trường năng lượng đặc biệt nầy không cố định; cường độ, tính chất của chúng có thể thay đổi theo thời gian. Những loại trường năng lượng nầy cũng tác động lên mỗi người một cách khác nhau; vì thế có người có thể cảm nhận được những hiện tượng “ma quỷ” dễ dàng hơn những người khác cũng cùng đang hiện diện.

Có khi cánh cổng của một người có thể bị mở ra bởi một sinh dạng từ thế giới khác. Sinh thể từ một thế giới khác có thể vô tình hay cố ý mở khóa được cái cổng của một người và làm cho người nầy cảm nhận được sự hiện diện của nó. Một thí dụ trong trường hợp nầy có thể thường được gọi là “quỷ nhập”.

Như đã nói ở trên, sinh thể trong thế giới nầy, người và thú, thường không cảm nhận được sự hiện diện của những sinh thể trong những thế giới khác. Trong điều kiện bình thường, chúng không giao thoa, không gặp gỡ. Ta không rõ sinh thể, sinh dạng ở những thế giới khác hiểu biết bao nhiêu về sự hiện diện của chúng ta trong thế giới nầy. Tuy nhiên, không thể loại bỏ khả năng trong đó một số thế giới có thể rất tiến bộ so với những thế giới khác kể cả của chúng ta, và do đó có nhiều kiến thức rất sâu rộng hơn chúng ta về sự liên hệ giữa những thế giới với nhau.

Luật nhân quả hay Nghiệp lực (Karma)

Hãy thử liên tưởng đến qui luật “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Một sinh lực mang thiện tính có khuynh hướng thu hút cùng một thứ năng lượng cũng có thiện tính. Hạnh phúc, yêu thương, hòa đồng, v.v. là vài thí dụ của loại diễn biến thiện tính nầy. Ngược lại, một người gây ra nhiều diễn biến mang ác tính sẽ cho làm sinh lực của mình mang nhiều ác tính và từ đó sẽ thu hút nhiều diễn biến có ác tính xảy ra cho mình.

Bất cứ một biến cố xảy ra ở bất cứ thời điểm nào cũng đều có thể được coi là hậu quả của một hay nhiều diễn biến xảy ra ở một hay nhiều thời điểm khác. Nếu mở rộng lối lý luận vừa rồi thêm thì mỗi biến cố xảy ra ở bất cứ thời điểm nào cũng có ảnh hưởng đến một hay nhiều diễn biến xảy ra ở một hay nhiều thời điểm khác. Lý thuyết nầy chính là thuyết “Nhân quả” và là một nguyên lý nền tảng trong Phật giáo.

Xin lưu ý là trong những đoạn văn trên, tôi đã cố ý không dùng những từ như “quá khứ”, “hiện tại” hay “tương lai”. Trong thế giới của chúng ta, thời gian được coi là có một chiều và một hướng nhất định; có nghĩa là chúng ta chỉ thấy là thời gian luôn luôn đi tới theo đường thẳng. Đối với chúng ta, quá khứ xảy ra trước hiện tại và hiện tại xảy ra trước tương lai. Có thể là trong những thế giới khác, thời gian có nhiều chiều hướng hơn. Có nghĩa là thời gian không “chạy” theo một đường thẳng nữa mà có thể đi theo nhiều đường cong khác nhau. Diễn biến xảy ra trong quá khứ, hiện tại và tương lai không nhất thiết xảy ra theo một thứ tự nào cả. Sự áp dụng của khái niệm nầy vào thế giới của loài người sẽ trở thành cực kỳ phức tạp và vượt xa hẳn khỏi tầm hiểu biết của phần lớn chúng ta.

Như vừa nói, khi một người làm bất cứ một điều gì ở một thời điểm thì điều đó sẽ có ảnh hưởng ít nhiều đến tương lai của người ấy. Điều gì xảy ra đến một người ngày hôm nay có thể được coi là bị ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp bởi một hay nhiều diễn biến liên can đến cũng người đó trong kiếp sống nầy hay kiếp sống khác, trong thế giới nầy hay trong thế giới khác. “Gieo hạt nào thì hái quả ấy”. Tuy nhiên, vấn đề không phải thô sơ như là khi bạn hãm hại một người hôm nay thì bạn sẽ bị người ấy, hay ai khác, hãm hại lại giống như vậy trong tương lai. Sự vận hành của những thiện tính hay ác tính trong hành động và ý nghĩ của chúng ta luôn luôn tuân theo nguyên lý bảo toàn năng lượng, nghĩa là một diễn biến ác tính chỉ có thể được hóa giải bởi những diễn biến thiện tính bằng hay lớn hơn, và ngược lại. Đây là một cách giải thích về khái niệm “âm đức” trong dân gian Việt Nam; “đức lành” tương ứng với năng lượng thiện tính gây ra hay tích lũy trong sinh lực của một người, “nghiệp dữ” tương ứng với năng lượng ác tính. Tuy vậy, chi tiết chính xác về phương cách và công thức để ứng dụng sự vận hành nầy có thể quá phức tạp cho tư duy con người chúng ta.

Vận mạng

Rất có thể là mỗi người chúng ta sinh vào cõi đời nầy với một số lượng “đức lành” hay “nghiệp dữ”. Những nghiệp lực (năng lượng lành hay dữ) nầy là kết quả của những diễn biến trong quá khứ ở những kiếp (hay thế giới) khác. Tương lai suốt cuộc đời của người nầy có thể được tiên đoán khá chính xác dựa lên những nghiệp lực nầy, nếu không có diễn biến nào khác xảy ra. Tuy nhiên, vì hầu như luôn luôn là sẽ có nhiều sự việc, hành động, ý nghĩ, quyết định, v.v. xảy ra trong cuộc đời mỗi người từ giây phút được sinh ra, tương lai của người nầy sẽ tiếp tục biến hóa và thay đổi không ngừng. Tương lai, hay vận mạng, tuy thay đổi vô tận nhưng luôn luôn chịu ảnh hưởng bởi ý nghĩ và hành động của người đó. Do đó, ta có thể nói rằng tương lai hay vận mạng của một người nằm trong tay của chính người đó.

Tuy vậy, một người không thể nào điều khiển hoàn toàn được vận mạng của mình. Những nghiệp lực lành hay dữ trong cuộc đời của một người cũng chịu ảnh hưởng bởi nghiệp lực của những sinh thể đã từng có liên hệ trực tiếp hay gián tiếp với người nầy ở kiếp nầy hay những kiếp khác. Khái niệm nầy thường được gọi là “cộng nghiệp”, để phân biệt với “biệt nghiệp” của mỗi cá nhân. Bởi vì cuộc đời của mỗi sinh thể luôn luôn đã, đang và sẽ dính dáng đến vô số cuộc đời của vô số những sinh thể khác, một người không thể nào hoàn toàn tách rời vận mạng của mình ra khỏi vận mạng của toàn khối của vô số những sinh dạng khác. Tuy vậy như đã nói ở trên, một người thường có thể quyết định một phần lớn vận mạng của mình.

Mỗi người chúng ta phải tự làm việc để tăng trưởng trên bậc thang tâm linh. Nói chung là không có ngoại lực gì, dù cao cả đến mấy, có thể thay đổi vận mạng toàn diện của một người. Nhiều tôn giáo truyền giảng rằng nếu người ta cầu nguyện và tôn thờ một đấng thiêng liêng hay vị thần thánh nào đó thì sẽ được cứu rỗi. Lối rao truyền nầy rất hấp dẫn đối với nhiều người vì theo đó thì cá nhân không còn cần phải gánh vác trách nhiệm đối với tâm linh mình nữa.

Đầu thai, tái sinh

Như đã nói ở trên, có hằng hà sa số sinh dạng trong hằng hà vô số thế giới, vật chất và phi vật chất. Mỗi sinh dạng có hằng hà sa số sinh thể (hay sinh lực cá nhân). Thí dụ, mỗi giống loại sinh vật trên địa cầu nầy có thể được coi là một sinh dạng, và mỗi cá thể, người ta hay thú vật, có thể được coi là một sinh thể (hay sinh lực riêng biệt).

Mỗi sinh dạng nầy (nghĩa là tất cả các sinh thể vật chất sống trên hành tinh nầy hay trên bất cứ tinh tú nào khác, cũng như tất cả sinh thể trong tất cả những thế giới phi vật chất) có thể được coi là có một trình độ phát triển khác nhau trong quá trình tiến hóa. Mỗi cá nhân của loài người có một trình độ tiến hóa tuy tương tự nhưng khác nhau ít nhiều so với những cá nhân khác. Cũng có trường hợp một cá nhân trong loài người có thể mang trình độ tiến hóa thấp hơn trình độ tiến hóa của một con vật nhất định.

Xin chú ý là từ “trình độ phát triển khác nhau trong quá trình tiến hóa” ở đây không những nói về lãnh vực vật chất mà quan trọng hơn là lãnh vực phi vật chất của một cá thể. Trong trường hợp của một con người, đây là sự tiến triển về phương diện tâm linh cũng như toàn bộ những năng lượng tích trữ trong sinh lực của họ. Vì vậy, từ “sự phát triển tâm linh” và từ “sự phát triển qua quá trình tiến hóa” ở đây có khi được dùng tương đương nhau.

Khi một người trên địa cầu vừa chết đi, tùy vào tình trạng tiến hóa tâm linh của họ ở thời điểm đó mà phần phi vật chất, hay “linh hồn”, của họ có thể được hoán đổi thành một trong nhóm loại những sinh dạng nào đó. Nhóm loại những sinh dạng nầy có trình độ tiến hóa tương đương với trình độ tiến hóa của người nầy trước khi họ chết. Chỉ có những người đã đạt được sự tiến hóa tâm linh cao mới có thể hoán chuyển thành những sinh dạng hay di nhập vào những thế giới có trình độ tiến hóa cao. Những người có trình độ tiến hóa thấp chỉ có thể hoán chuyển thành những sinh dạng thấp tương tự.

Một sinh thể tuy không thể nào hoán chuyển thành một sinh dạng tiến bộ hơn, có thể vì lý do gì đó, lựa chọn để hoán chuyển thành một sinh dạng hơi thấp hơn trình độ tiến hóa của mình. Có thể đây là cách giải thích tại sao một vài cá thể có vẻ được sinh ra với những đặc tính (vật chất cũng như tâm linh) ưu việt so với những cá thể cùng loại khác.

Tôi thiết nghĩ rằng sau khi chết, hầu hết linh hồn con người đang sở hữu một trình độ tiến hóa tương đương với trình độ của một con người bình thường sẽ có khuynh hướng lựa chọn được hoán chuyển trở lại thành loài người.

Trong khi xem luật Nhân quả là lực tác động chính trong quá trình nầy, Phật giáo cho rằng lý do để con người luôn muốn hoán chuyển trở lại thành sinh dạng cũ là vì lòng lưu luyến của họ đến những cám dỗ vật chất và tình cảm trong cái thế giới không hoàn hảo nầy. Sự phát triển tâm linh đưa đến giác ngộ có thể giải thoát một cá nhân ra khỏi cái vòng khổ lụy vô tận nầy. Một người đã giác ngộ là một người đã đạt được trình độ tiến hóa tâm linh cao và không còn mong muốn trở lại sinh dạng kém hoàn hảo nầy nữa.

Một nhận xét lý thú là trong truyền thống Á Đông, ý niệm rất phổ thông gọi là “tiền duyên” chẳng qua là một chuyển biến tình cảm của luật Nhân quả. Người ta tin rằng những người yêu nhau khi đã nhất tâm chung sống với nhau nhưng vì lý do gì đó mà không thực hiện được ước vọng trong kiếp sống nầy sẽ có thể tái sinh lại trong những kiếp sống trong tương lai để gặp gỡ lại và cố gắng thực hiện điều họ đã mơ ước.

Nguồn gốc của thần linh

Đại đa số người ta trong thế giới nầy sinh ra với một “tôn giáo”. Từ giây phút mới sinh ra, họ thường đã theo gia đình hay xã hội sống trong một tôn giáo nhất định. Nhiều người lớn lên, sống hết cuộc đời họ và sau cùng chết đi cũng với cái tôn giáo nầy. Nhiều người hết lòng bảo vệ tôn giáo và có khi sẵn sàng hy sinh mạng mình để chiến đấu cho nó nhưng có thể chưa hề tự hỏi là mình có thật sự hiểu biết về nó. Nhiều người tự cho mình theo quan niệm “bất khả tri” vì không muốn bị lôi kéo vào một thứ mà họ không hiểu rõ. Nhiều người tự mình họ là “vô thần” vì họ không thể chấp nhận cách trả lời quá đơn giản về nguồn gốc sự sống của nhiều giáo phái đang lan tràn trên thế giới.

Khác với loài vật, chỉ có con người mới có tôn giáo. Khi phải đối diện với những hiện tượng “siêu nhiên” đáng sợ không thể giải thích được, chỉ có loài người mới có tư duy sáng tạo ra những câu trả lời nhằm trấn an chính mình. Có thể con người cần thấy họ phải có một thủ lãnh để bảo vệ họ và để cho họ tuân phục. Đây là nguyên cớ và lý do hình thành vị thần linh đầu tiên và dần dần tôn giáo phát sinh. Rồi càng lúc càng nhiều thần linh và tôn giáo khác được phát minh ra thêm để cung ứng những giải đáp thỏa đáng hơn cho những câu hỏi càng ngày càng phức tạp khi con người càng lúc càng phát triển hơn.

Đến nay, chưa hề có một tôn giáo nào có thể đáp ứng được cho tất cả mọi người trên hành tinh nầy. Lý do chính là vì chưa hề có một giáo điều của bất cứ tôn giáo nào có thể được chấp nhận và minh chứng bằng phương cách khoa học.

Tiến hóa hay Sinh tạo?

Người theo thuyết Tiến hóa quan sát những sinh vật hiện tại trên địa cầu và cho rằng tập hợp vĩ đại của vô số những giống loài nầy hẳn phải là kết quả của một quá trình tuyển chọn và tiến hóa trong thiên nhiên. Người theo thuyết Sinh tạo tin rằng nếu sự sống của mọi vật kỳ diệu như thế nầy thì chúng chắc phải được sinh tạo ra bởi một siêu thể toàn trí.

 

Khoảng 30 năm về trước xuất hiện tác phẩm “Mã xa của Thượng đế” (Chariots of the Gods) của Erich Von Däniken. Tác giả nầy đưa ra giả thuyết rằng người không gian đã đến thăm viếng địa cầu trong quá khứ, và rất có thể là loài người chúng ta xuất xứ từ những người không gian nầy. Tác phẩm này chứa đầy những “bằng chứng khoa học” cùng với nhiều cách lý luận có vẻ khá đáng tin để hỗ trợ giả thuyết của tác giả. Sau đó Von Däniken còn viết thêm nhiều cuốn nữa. Nhiều “dữ kiện” và “bằng chứng khoa học” nữa được đưa ra. Tất cả đều có vẻ khá đáng tin và vững chắc. Sau đó lại xuất hiện tác phẩm “Quá khứ là từ Con người” (The Past is Human) của Peter White, người chống đối kịch liệt lại giả thuyết cho rằng nhân loại xuất xứ từ người không gian. Những tác phẩm loại này, cũng với đầy đủ những “bằng chứng khoa học” đáng tin không kém, đều lý luận và kết luận ngược hẳn lại chiều hướng của Von Däniken. Điều lý thú nhất mà ta nhận thấy là cả Von Däniken và những tác giả chống đối ông nhiều khi sử dụng cùng những dữ kiện và quan sát giống nhau nhưng lại đi đến những cách diễn giải hoàn toàn đối nghịch nhau.

Bài học mà ta gặt hái được từ kinh nghiệm trên là bất cứ một sự khảo sát nào cũng có thể được diễn giải, và hỗ trợ bởi một số những “bằng chứng khoa học”, theo phương hướng hoàn toàn khác nhau. Những cách diễn giải nầy tuy có thể thành tâm, nhưng chúng ta phải nhớ rằng con người lúc nào cũng có khuynh hướng chỉ có thể thấy được những gì mình muốn thấy.

Thuyết Tiến hóa có thể vẫn còn có nhiều lỗ hổng và hiện nay vẫn chưa được tất cả mọi người chấp nhận. Địa tầng học và tài liệu về vật hóa thạch ngày nay vẫn chưa cung cấp đầy đủ bằng cớ để chứng minh rõ ràng những gì Darwin giả định. Một số khoen xích vẫn còn đang thất lạc và có thể đây là nhược điểm lớn nhất của giả thuyết nầy. Tuy vậy, thuyết Sinh tạo đang ở một vị thế yếu kém hơn nhiều vì những người theo chủ thuyết nầy chỉ có thể đưa ra những câu trả lời quá đơn giản đến độ ngây ngô dựa trên những tiền đề chưa hề được minh chứng, được gọi là “đức tin”.

Kết luận

Tôi tự cho mình là một “Phật tử vô thần”. “Phật tử” vì cách suy nghĩ của tôi chịu nhiều ảnh hưởng bởi một vài trường phái trong Phật giáo, và “vô thần” vì tôi không tin ở một Thượng đế có nhân tính.

Tôi tin rằng tất cả mọi vật đều có liên hệ tương quan lẫn nhau. Tôi tin rằng không có gì có thể tồn tại hay hiện hữu mà không chịu ảnh hưởng hay liên hệ cách nầy hay cách khác với những sự vật khác. Mỗi diễn biến, mỗi vật thể đều ảnh hưởng đến sự hiện hữu và tiến hóa của các diễn biến và vật thể khác. Mối liên hệ tương quan nầy tuân theo những định luật vũ trụ, và chi tiết về đặc tính của những định luật nầy thật ra quá phức tạp để khả năng kiến thức hiện tại của loài người có thể hiểu được.

Tôi tin ở sự “luân hồi” trong vạn vật. Nghĩa là mỗi diễn biến, mỗi vật thể đều thành hình, phát triển, hoại diệt hoặc là thành một thể dạng khác (mà thể dạng mới nầy cũng phát triển, hoại diệt một cách tương tự), hoặc là thành tạo trở lại dưới cùng thể dạng cũ và bắt đầu lại lần nữa. Trong mỗi chu kỳ nầy, sự vật luôn luôn thay đổi không ngừng từ giây phút thành hình cho đến giây phút tan rã. Chúng ta có thể thấy điều nầy xảy ra trong sự sống của một con người từ sinh đến tử. Chúng ta có thể thấy được điều nầy ở vạn vật trên trái đất trong khoảng thời gian 24 giờ của một ngày. Chúng ta có thể thấy được điều nầy ở những nền văn minh, những đế quốc từ lúc lập thành cho đến khi sụp đổ. Tôi tin rằng ngay cả tình cảm và mối liên hệ giữa con người với nhau cũng tuân theo định luật nầy.

Tôi lớn lên trong một gia đình đạo Phật “bình thường”. Trong gia đình tôi, Phật Thích-ca được tôn thờ như là một vị Thượng đế có nhân tính, thấu hiểu mọi điều, bảo vệ, ban bố lợi lộc cho tín đồ thành tâm cúng bái, thắp nhang, tụng kinh. Đây là cách tôn thờ Phật Thích-ca phổ biến rất rộng rãi ở Châu Á xưa và nay. Bây giờ nhìn lại, tôi thấy đây không gì khác hơn là một sự kết hợp giữa những ngộ nhận về lời dạy của Thích-ca Mâu-ni và những hình thái mê tín dị đoan. Tôi đã trải qua một thời gian dài trước khi tự giải thoát ra khỏi loại Phật giáo nầy. Đây là một quá trình diễn tiến chậm chạp qua nhiều giai đoạn. Tôi nghĩ tôi thật sự cắt đứt mình hẳn ra khỏi lối tín ngưỡng nầy khi tôi tình cờ gặp một tăng sĩ người Anh. Nguyên tắc tu hành của ông là “hãy tự kiểm nghiệm cho chính mình chớ đừng bao giờ tin lời của ai khác hết”. Từ đó tôi ứng dụng nguyên tắc nầy vào mọi phương diện sống của tôi. Cái sức mạnh trong niềm tin rằng vận mạng của mỗi người hầu hết nằm trong tay người đó đem đến nguồn giải thoát tâm linh lẫn mầm hy vọng đối trị được nỗi sợ hãi của sự chết.

Sự kiện tôi tin vào luật Nhân quả không làm cho tôi luôn luôn chọn con đường nhiều thiện tính nhất trong đời sống của mình. Tuy thế, mỗi khi tôi quyết định một việc gì thì tôi biết rằng chính tôi và chỉ có tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm tâm linh về quyết định đó. Niềm tin nầy an ủi tôi khi phải đương đầu với nghịch cảnh và đem đến sức mạnh khi tôi biết rằng vận mạng của tôi hầu hết tùy thuộc ở chính mình. Tôi không thể tin rằng một người dù đang ở trong một trạng thái tâm linh bần cùng cách mấy, nếu đem lòng yêu thương và tôn thờ một vị thần linh nào đó thì sẽ có thể được ban bố phước lành lập tức. Nếu thật sự là có một đấng Chí tôn muốn nhân loại cần phải “bán thân” trong phương diện tâm linh như thế, thì tôi thà xin làm một con thú hoang đứng tách rời ra càng xa khỏi đàn cừu của ông ta càng tốt.

Theo tôi, khăng khăng bảo thủ và nhất định không tìm hiểu về những quan điểm khác là dấu hiệu của sự ngạo mạn và ngu dốt. Tôi chủ trương cởi mở trong con đường tìm hiểu để đi đến một câu trả lời có thể chấp nhận được về ý nghĩa của sự sống. Tôn giáo như chúng ta biết chỉ là một cách giải thích gượng ép để cố gắng trả lời những câu hỏi hoàn toàn nằm ngoài tầm hiểu biết của nền văn minh con người. Nếu sự sống trên hành tinh nầy không gì khác hơn là một dĩa cấy vi khuẩn mà một vài siêu thể nào đó đang làm thí nghiệm thì sao? Nếu, bất kể các điều gì tôi vừa nói ở trên, sự sống của tất cả chúng ta chỉ là sự ngẫu nhiên trong vũ trụ và chúng ta chỉ được tạo thành một cách vô tình và rồi sẽ từ từ tiêu tan đi vĩnh viễn thì sao?

Cho đến ngày chúng ta biết rõ ràng về Sự thật, tôi nghĩ là một chút kính trọng và yêu thương lẫn nhau giữa mọi sinh vật, con người cũng như tất cả động vật thực vật khác, sẽ có nhiều ý nghĩa hơn bất cứ lễ nghi tôn giáo hay niềm tín ngưỡng nhiệt tình nào.

     

 Talawas  http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10645&rb=0306 

Chú Thích:

Đây là một trong những bài tôi viết đầu tiên của tôi về tôn giáo tín ngưỡng (khoảng năm 2000). Một vài ý tưởng trong bài nầy có thể hơi khác một chút (tuy vẫn không mâu thuẩn) với cái nhìn hiện nay của tôi  (2015)

Sự Thật Về Thuyết Tiến Hóa: Hình Vẽ Phôi Thai Giả Của Haeckel, Vụ Lừa Đảo Xuyên Thế Kỷ

Ernst Haeckel là một nhà sinh học người Đức sống cùng thời với Darwin, và là tác giả của nhiều thuật ngữ sinh học nổi tiếng. Trong phần lớn sự nghiệp của mình, Haeckel giữ vị trí giáo sư ngành Giải phẫu so sánh tại trường Đại học Jena, Đức. “Học thuyết về sự lặp lại hình thái” (còn gọi là “Định luật phát sinh sinh vật”) được xây dựng dựa trên các hình vẽ phôi của Haeckel có ý nghĩa rất quan trọng đối với thuyết tiến hóa của Darwin. Haeckel là người đã giúp Darwin và các tác phẩm của ông trở nên nổi tiếng trên khắp nước Đức.

 Quý độc giả lưu ý:

Loạt bài về thuyết tiến hóa trên Đại Kỷ Nguyên được phân thành 2 mục chính sau:

Sự thật về thuyết tiến hóa (trình bày các luận cứ chất vấn học thuyết Darwin)

Hệ lụy của thuyết tiến hóa (trình bày các ảnh hưởng có hại đối với xã hội của học thuyết Darwin)

Từ những hình vẽ phôi giả…

Năm 1868, Ernst Haeckel xuất bản cuốn Lịch sử sáng tạo tự nhiên (Natürliche Schöpfungsgeschichte), trong đó tuyên bố rằng ông đã tiến hành so sánh phôi người, phôi khỉ và phôi chó. Trong các hình do ông vẽ, các phôi gần như giống hệt nhau. Trên cơ sở các hình vẽ đó, Haeckel tuyên bố rằng các giống loài có một nguồn gốc (tổ tiên) chung.

Nhưng sự thực hoàn toàn khác hẳn. Ernst Haeckel thực ra chỉ vẽ hình của một phôi thai duy nhất, rồi dựa vào đó làm ra hình phôi người, phôi khỉ, và phôi chó. Ông đã thêm vào mỗi hình một chút thay đổi. Nói cách khác, đây là một vụ lừa đảo.

Trên thực tế, vụ bê bối này đã bị không ít người phát giác, ngay cả trước khi Darwin viết cuốn “Nguồn gốc loài người” (The Descent of Man), tức là trước năm 1871.

“Trò lừa đảo của Haeckel đã quá rõ ràng và quá lớn đến nỗi ông đã bị cáo buộc bởi 5 vị giáo sư khác nhau và bị phán có tội bởi tòa án trường Đại học Jena.”

– Hank Hanegraaff, trong “Điều mà những người theo trường phái tiến hóa không muốn bạn biết”, nhà xuất bản W Publishing Group, 2003, trang 70

“Sau lời thú tội ‘giả mạo’ đáng hổ thẹn này, tôi tự thấy bản thân đáng bị kết tội và tiêu hủy, nếu tôi không có được sự an ủi khi nhìn thấy bên cạnh hàng trăm đồng bị cáo cùng đứng trước vành móng ngựa, trong đó có nhiều nhà quan sát đáng tin cậy nhất và nhiều nhà sinh vật học được kính trọng nhất. Hầu hết các biểu đồ trong sách giáo khoa sinh học, luận án và tạp chí tốt nhất sẽ phải gánh chịu cùng một tội danh ‘giả mạo’ với mức độ tương đương, bởi tất cả chúng đều không chính xác, và không ít thì nhiều đã bị làm giả, giản lược và ngụy tạo” (Theo cuốn sách “Cái cổ của con hươu cao cổ: Chỗ sai của Darwin”, của Francis Hitching, nhà xuất bản Ticknor and Fields, New York, năm 1982, trang 204)

“Lời thú tội của Haeckel đã biến mất sau khi những hình vẽ của ông được sử dụng trong một cuốn sách in năm 1901 có tựa đề: “Darwin và hậu Darwin” và đã được phát hành rộng rãi trong tuyển tập các tư liệu sinh học bằng tiếng Anh” (Elizabeth Pennisi, bài viết “Những cái phôi của Haeckel: Tái phát hiện trò gian lận” trên tạp chí Science, ngày 5/9/1997)

… Cho đến “Định luật phát sinh sinh vật” bịa đặt

Ông ta vẽ sát cạnh nhau hình phôi của cá, kỳ giông, rùa, gà, thỏ và phôi người. Các phôi đó được vẽ hết sức giống nhau và chỉ dần dần cho thấy sự khác biệt trong các giai đoạn sau của quá trình phát triển. Đặc biệt, sự tương đồng giữa phôi người và phôi cá quả là rất ấn tượng, đến mức người ta có thể nhìn thấy cái “mang” trong hình vẽ phôi người, giống như ở hình vẽ phôi cá. Từ đó, Haeckel đưa ra “thuyết về sự lặp lại hình thái” (còn gọi là “định luật phát sinh sinh vật”), với nội dung cơ bản là: trong quá trình phát triển của phôi, tất cả các giống loài đều lặp đi lặp lại “lịch sử tiến hóa”. Lấy ví dụ, ông ta nói phôi thai con người trong tử cung của người mẹ, đầu tiên có khe mang giống như cá, và trong những tuần tiếp theo sẽ giống như bò sát, rồi giống thú, rồi cuối cùng mới “tiến hóa” thành người.

Bây giờ người ta đã biết rằng “những cái mang” xuất hiện trong giai đoạn đầu của phôi thai người, trên thực tế là ống tai giữa, tuyến cận giáp, và tuyến ức đang hình thành. Phần phôi thai trông giống “túi lòng đỏ trứng” là nơi sản xuất máu cho trẻ sơ sinh. Cái “đuôi” trên thực tế là xương sống, và nó trông giống như một cái đuôi chỉ vì nó được hình thành trước khi đôi chân xuất hiện.

Giáo sư bác sỹ Erich Blechschmidt là Giám đốc Viện Giải phẫu học trường Đại học Göttingen, Đức. Ông từng đưa ra kết luận thẳng thắn:

“Cái gọi là khe mang ở phôi người không có liên hệ gì đến mang, và phôi người không hề trải qua một giai đoạn sinh trưởng giống cá hay bất kỳ giai đoạn tiến hóa nào khác. Sự phát triển của phôi người cho thấy một tiến trình vững chắc hướng về một cơ thể người hoàn chỉnh với đầy đủ chức năng. Trong quá trình phát triển này phôi người sẽ không hấp thụ khí oxy từ nước giống như cá thông qua mang (bởi vì phôi người đã được cung cấp đầy đủ oxy thông qua dây rốn). Trên thực tế, những cái “khe mang” đó thậm chí không phải là khe [mà là các nếp gấp]”.  (Bác sỹ Tommy Mitchell và bác sỹ Elizabeth Mitchell)

Ngay cả các nhà khoa học thuộc phái tiến hóa cũng phải thừa nhận rằng Haeckel đã lừa đảo. Năm 1976, nhà phôi học, sinh học và giải phẫu học người Anh, tiến sỹ William W. Ballard đã viết rằng “chỉ có nhờ các thủ đoạn ngữ nghĩa và cách chọn lọc bằng chứng mang đầy tính chủ quan”, bằng cách “bẻ cong những thực tế của tự nhiên”, thì người ta mới có thể lý luận rằng những giai đoạn đầu tiên của các động vật có xương sống là “tương đồng hơn so với các cá thể trưởng thành”.

Thực ra, giới khoa học đã biết Haeckel lừa đảo từ lâu, ngay cả những người theo phái tiến hóa cũng phải công nhận điều đó.

“Đây là một trong những vụ lừa đảo khoa học tồi tệ nhất. Thật sửng sốt khi phát hiện ra rằng một nhân vật từng được coi là một nhà khoa học vĩ đại lại chủ động lừa đảo. Điều đó làm tôi cảm thấy bức xúc… Điều ông ta [Haeckel] đã làm là lấy một cái phôi người rồi sao chép nó, giả vờ như kỳ giông, lợn và tất cả những loài động vật khác đều trông giống nhau ở cùng một giai đoạn sinh trưởng. Chúng không hề tương đồng… Những hình vẽ đó là ngụy tạo’. (Nigel Hawkes, The Times (London), ngày 11/8/1997, trang 14)

Giáo sư nổi tiếng Keith S. Thomson bày tỏ sự vui mừng khi thấy vụ lừa đảo của Haeckel được phơi bày:

Thế nhưng có vẻ Thomson đã quá lạc quan. Thực tế là, nhiều hình vẽ giả của Haeckel vẫn được giảng dạy trong các trường học, và được người ta xem như một “chân lý khoa học”…

Vụ lừa đảo xuyên thế kỷ: 150 năm

Vào tháng 3/2000, một người theo trường phái tiến hóa kiêm nhà cổ sinh vật học Stephen Jay Gould từ Đại học Harvard tuyên bố rằng từ lâu ông đã biết đây là trò gian lận. TS Gould nói rằng đây là một thảm họa trong khoa học khi các hình vẽ của Haeckel vẫn tiếp tục được sử dụng:

“Tôi nghĩ chúng ta có quyền cảm thấy kinh ngạc và xấu hổ vì hành vi tái sử dụng cái lý thuyết này một cách mất lý trí trong suốt cả thế kỷ, dẫn đến tình trạng các hình vẽ đó vẫn tồn tại dai dẳng trong một số lượng lớn, nếu không phải là đại đa số, các sách giáo khoa hiện đại”. (Stephen Jay Gould, “Thật tồi tệ!”, Natural History, tháng 3/2000, trang 42)

Giáo sư Gavin de Beer, Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Vương quốc Anh, đã miêu tả cảm nghĩ của mình như sau:

“Hiếm khi có một sự quả quyết nào tương tự như cái ‘thuyết lặp lại hình thái’ của Haeckel: nông cạn, gọn gàng, hợp lý, được chấp nhận một cách rộng rãi mà không bị kiểm chứng kỹ càng. Nó đã gây rất nhiều tác hại cho khoa học”. (Hank Hanegraaff, “Điều mà những người theo trường phái tiến hóa không muốn bạn biết”. Nhà xuất bản W Publishing Group, năm 2003, trang 70)

Nhà sinh học phân tử thuộc Đại học California, tiến sỹ Jonathan Wells nhận xét:

Tại sao những hình vẽ giả mạo của Haeckel vẫn có thể tiếp tục lừa dối rất nhiều người, dù đã được phơi bày ra công chúng từ gần 150 năm trước? Thế giới khoa học đã xác nhận vụ bê bối của Haeckel, nhưng rất nhiều người vẫn giữ thái độ im lặng một cách kỳ lạ, đặc biệt là những người theo phái tiến hóa? Họ rủ nhau im lặng suốt 150 năm như vậy vì mục đích gì? Đây là những câu hỏi khiến chúng ta phải suy ngẫm.

Mặc dù “thuyết lặp lại hình thái” của Haeckel đã chính thức bị loại bỏ khỏi các sách giáo khoa, nhưng một lượng nhỏ các sách giáo khoa trên thế giới vẫn rao giảng nó. Các hình vẽ phôi bịa đặt của Haeckel – vốn là nền tảng của học thuyết đó – thì thậm chí vẫn tiếp tục được xuất bản đại trà.

“Ngày nay bổn phận của chúng ta là tiêu diệt sự hoang đường của thuyết tiến hóa, vốn bị xem như là một hiện tượng đơn giản, đã được hiểu thấu, đã được giải thích xong rồi… Sự lừa dối đôi lúc là vô tình, nhưng không phải luôn như vậy, vì một số người, do khuynh hướng bè phái của bản thân, đã chủ động phớt lờ thực tế và từ chối thừa nhận những thiếu sót và sai lầm trong các quan điểm của họ”. – Tiến sĩ Pierre-Paul Grasse, “Sự tiến hóa của các sinh vật sống”, Academic Press, New York, 1977, trang 8

Ngày càng có nhiều tiến sỹ khoa học, các nhà bác học, các viện sỹ viện hàn lâm khoa học và các nhà khoa học đạt giải Nobel… không còn tin vào thuyết tiến hóa. Đây là điều tất yếu, bởi tri thức khoa học của thế kỷ 21 đã phơi bày những sai lầm trong các quan điểm khoa học sơ khai của thời Darwin thế kỷ 19.

“Ngày càng có nhiều nhà khoa học đáng kính đang rời bỏ phái tiến hóa… hơn nữa, trong đa số các trường hợp, những chuyên gia này từ bỏ thuyết tiến hóa, không phải do niềm tin tôn giáo hay niềm tin vào kinh Thánh, mà dựa trên các nền tảng khoa học nghiêm túc. Trong một số trường hợp, họ đã từ bỏ phái tiến hóa trong tâm trạng đầy ân hận”. – TS Wolfgang Smith, nhà vật lý và toán học, trong “Teilhardism và Tôn giáo mới: Phân tích cẩn thận những lời dạy của Pierre Teilhard de Chardin”, Tan Books & Pub. Inc (Mỹ), 1988, trang 1

Bạch Vân tổng hợp

Giả Thuyết Planck Về Lượng Tử Năng Lượng – Bách Khoa Toàn Thư Việt Nam

Giả thuyết Planck về lượng tử năng lượng là giả thuyết hiện đại về tính chất gián đoạn (lượng tử) của năng lượng bức xạ.

Nhà Vật lý M. Planck (Đức) đưa ra năm 1900.

Khủng hoảng tử ngoại: vào cuối thế kỷ XIX, các nhà Vật lý gặp khó khăn lớn trong việc giải thích dạng của đồ thị biểu diễn sự phụ thuộc của năng suất phát xạ đơn sắc của vật đen tuyệt đối vào bước sóng ánh sáng.

Dựa vào lý thuyết phát xạ cổ điển, người ta thấy rằng năng suất phát xạ đơn sắc của vật đen tuyệt đối phải tỷ lệ với bình phương của tần số (tức là tỷ lệ nghịch với bình phương của bước sóng). Như vậy, khi

λ → 0

{displaystyle lambda rightarrow 0}

thì năng suất phát xạ đơn sắc

ρ ( λ , T ) → ∞

{displaystyle rho (lambda ,T)rightarrow infty }

. Điều này hoàn toàn mâu thuẫn với kết quả thực nghiệm. Người ta gọi sự bất lực của lý thuyết phát xạ cổ điển trong trường hợp này là sự khủng hoảng tử ngoại.

Giả thuyết (định luật) Planck: Planck cho rằng nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự thất bại của lý thuyết phát xạ cổ điển trong sự giải thích các kết quả thực nghiệm về sự bức xạ của vật đen tuyệt đối, là quan niệm sai lầm về độ lớn của năng lượng mà một nguyên tử hoặc phân tử có thể trao đổi với bên ngoài, mỗi lần phát xạ hay hấp thụ bức xạ.

Theo Giả thuyết Planck về lượng tử năng lượng, lượng năng lượng mà một nguyên tử hay phân tử trao đổi mỗi lần phát xạ hay hấp thụ bức xạ có giá trị hoàn toàn xác định, bằng

ε = h f ,

{displaystyle varepsilon =hf,}

(1)

ε

{displaystyle varepsilon }

gọi là lượng tử năng lượng,

f

{displaystyle f}

là tần số của bức xạ được phát ra hay bị hấp thụ và ℎ là một hằng số. Sau này người ta đặt tên hằng số đó là hằng số Planck và đã xác định được chính xác giá trị của nó:

h = 6 ,

625.10

− 34

J . s

{displaystyle h=6,625.10^{-34}J.s}

(2)

Công thức Planck về bức xạ nhiệt: xuất phát từ Giả thuyết Planck về lượng tử năng lượng nói trên, Planck đã thiết lập được công thức biểu diễn sự phụ thuộc của năng suất phát xạ đơn sắc của vật đen tuyệt đối vào tần số

f

{displaystyle f}

và nhiệt độ

ρ ( f , T )

{displaystyle rho (f,T)}

(hoặc vào bước sóng và nhiệt độ

ρ ( λ , T )

{displaystyle rho (lambda ,T)}

. Công thức này được gọi là công thức Planck về bức xạ nhiệt, hay còn gọi là định luật bức xạ Planck, có dạng sau:

ρ ( f , T ) =

(

2 π

f

2

c

2

)

h f

( e x p { h f

/

k T } − 1 )

,

{displaystyle rho (f,T)=left({frac {2pi f^{2}}{c^{2}}}right){frac {hf}{(exp{hf/kT}-1)}},}

(3)

hay

ρ ( λ , T ) =

2 π h

c

2

λ

5

1

( e x p { h c

/

λ k T } − 1 )

,

{displaystyle rho (lambda ,T)={frac {2pi hc^{2}}{lambda ^{5}}}{frac {1}{(exp{hc/lambda kT}-1)}},}

(4)

Hệ quả của công thức Planck về bức xạ nhiệt: từ công thức (3) và (4), ta có thể suy ra các định luật về bức xạ nhiệt của vật đen tuyệt đối. Độ trưng năng lượng toàn phần RT của vật đen tuyệt đối là

R

T

=

0

ρ ( f , T ) d f = σ

T

4

{displaystyle R_{T}=int limits _{0}^{infty }rho (f,T)df=sigma T^{4}}

(5)

trong đó

σ = 5 ,

67.10

− 8

W

/

m

2

.

K

4

{displaystyle sigma =5,67.10^{-8}W/m^{2}.K^{4}}

. Đó là định luật Stefan-Boltzmann.

Tính đạo hàm của

ρ ( λ , T )

{displaystyle rho (lambda ,T)}

theo

λ

{displaystyle lambda }

, ta thấy đạo hàm này triệt tiêu khi

λ =

λ

m a x

{displaystyle lambda =lambda _{max}}

, ứng với giá trị cực đại của năng suất phát xạ đơn sắc của vật đen tuyệt đối:

λ =

b T

,

{displaystyle lambda ={frac {b}{T}},}

(6)

với

b = 2 ,

898.10

− 3

m . K

{displaystyle b=2,898.10^{-3}m.K}

. Đó chính là định luật dịch chuyển Wien.

Tài liệu tham khảo

[

sửa

]

J.P. Pérez, Thermodynamique, Fondements et applications, Masson, Paris, 1997.

Oxford Dictionary of Physics, Alan Isaacs (Ed), Oxford University Press, New York, 2000.

D. Haliday, R. Resnick, J. Walker, Fundamentals of Physics, John Wiley Inc., New York, 2014.

Sự Thật Về Chuyện Thây Ma Sống Lại

Sự thật về chuyện thây ma sống lại

Ngày nay, hình ảnh của những xác ướp sống lại (các zombie) xuất hiện thường xuyên trên truyền hình, phim ảnh, và thậm chí trong các tin tức. Dĩ nhiên, xác ướp không phải là “sản phẩm” của thời đại kĩ thuật số – chúng xuất hiện từ nhiều thập kỉ trước nhờ nền văn hóa đại chúng, đặc biệt là nhờ bộ phim kinh điển Night of the Living Dead năm 1968 của George Romero.    

Nguồn gốc câu chuyện về zombie

Trên thực tế, Blake Smith tiết lộ rằng: “Nhiều người nghĩ rằng Night of the Living Dead nói về xác ướp, nhưng Romero không bao giờ gọi những nhân vật đó là xác ướp, ông gọi chúng là quỷ. Chính công chúng mới là người đưa ra cái tên zombie, và sau đó tên gọi này trở nên phổ biến.”

Một phụ nữ ăn mặc như một zombie ở Sydney, Úc. Ảnh: Getty

.

Mặc dù vậy, có nhiều người không coi câu chuyện về xác ướp sống lại như một câu chuyện đùa vui. Họ tin rằng điều này là có thật. Trong nền văn hóa Haiti, cũng như nhiều nền văn hóa châu Phi – nơi tràn ngập niềm tin vào ma thuật và phù thủy, niềm tin vào chuyện xác ướp có thể sống lại đã phổ biến nhiều thập kỉ. Nhiều người không mảy may nghi ngờ gì về chuyện này, kể cả khi họ chưa bị “tiêm nhiễm” vào đầu những hình ảnh thây ma hết sức đáng sợ trong những bộ phim Hollywood giật gân.

Không giống như hình ảnh độc ác về các zombie được phim ảnh tô vẽ ngày nay, các xác ướp sống lại trong văn hóa Haiti ban đầu không phải là các nhân vật phản diện mà là các nạn nhân. Họ bị điều khiển bởi các trò phù thủy nhằm thực hiện một số mục đích cụ thể (thường là lao động).

Trong lịch sử, việc sợ hãi các xác ướp sống dậy đã được sử dụng như một phương pháp kiểm soát chính trị và xã hội ở Haiti. Những người có được khả năng này – chủ yếu là các phù thủy, được gọi là bokors – được cộng đồng tôn trọng và e sợ.

Cách tiêu diệt zombie

Trong tiểu thuyết, các nhà văn cũng đề cập tới một số cách để tiêu diệt zombie (phổ biến nhất là chặt đầu hoặc bắn súng vào đầu của xác ướp). Viêc này được coi là để giải phóng người chết khỏi tình trạng bị sai khiến, không được coi là giết người (giết một người đã chết?).

Có một số cách khác như cho zombie ăn muối, hoặc cho các zombie nhìn thấy biển. Có quan niệm cho rằng, nếu làm như vậy, tâm trí của các xác ướp sẽ được thức tỉnh, và nó sẽ cố gắng trở về an nghỉ trong ngôi mộ của mình.

Vậy, trong lịch sử, liệu đã có những thây ma sống dậy không?

Nhiều người tin là có, nhưng bằng chứng cho chuyện này lại rất ít. Hiện người ta còn lưu lại một vài trường hợp, trong đó, có một người đàn ông bị tâm thần tên là Clairvius Narcisse. Ông này, vào năm 1980, tuyên bố rằng bản thân đã “chết” vào năm 1962, và sau đó trở thành một zombie và bắt phải làm việc như một nô lệ trong một đồn điền mía tại Haiti. Đáng tiếc là Clairvius Narcisse không đưa ra được bằng chứng cho tuyên bố này của mình.

Bằng chứng khoa học cho zombie?

Ngoài Haiti (và một số nơi tin rằng Zombie thực sự tồn tại), câu chuyện về những xác ướp sống lại mặc nhiên được coi là sản phẩm của trí tưởng tượng, không khác gì so với huyền thoại về người sói hay ma cà rồng.

Tuy nhiên, điều này đã thay đổi trong những năm 1980, khi Wade Davis, một nhà dân tộc học tại Harvard, tuyên bố đã phát hiện ra một bí mật về “bột zombie” trong khi làm việc ở  Haiti. Các thành phần chính của chất bột này được cho là một chất độc thần kinh có thể được sử dụng để đầu độc nạn nhân vào một trạng thái giống như xác ướp sống dậy.

Họ cho rằng ông đã phóng đại sức ảnh hưởng và số lượng của chất độc thần kinh trong các mẫu bột mà ông tìm thấy ở Haiti. Về mặt lí thuyết, sai khiến các thây ma để họ làm việc theo ý mình là một việc nghe có vẻ lí tưởng, nhưng trong thế giới thực, rất khó có thể thực hiện điều này vì rất khó xác định lượng độc tố cần thiết để sai khiến các thây ma: quá ít độc tố sẽ chỉ đem lại tác dụng tạm thời, trong khi quá nhiều độc tố sẽ giết chết nạn nhân của nó.

Kể cả khi gạt nghi ngờ về dược lý sang một bên, vẫn còn tồn tại nhiều lí do khác để nghi ngờ chuyện zombie là có thực. Quá trình biến người thành zombie sẽ khiến cho não bị hư hỏng, thiếu sự phối hợp và chậm có phản ứng – nói các khác, sử dụng sai khiến những zombie chậm chạp và vụng về như vậy hẳn là một chuyện không dễ chịu gì.

Hơn nữa, xét về mặt kinh tế, việc sử dụng zombie không có ý nghĩa kinh tế ở Haiti. Đây là quốc gia nghèo nhất ở Tây bán cầu, lúc nào cũng có nguồn lao động rẻ/rất rẻ để làm việc trong các trang trại và đồn điền. Ở một đất nước mà thu nhập bình quân hằng năm là ít hơn 2000$, có rất nhiều người sẵn sàng làm việc mà chẳng cần huy động tới các thây ma.

Ngoài ra, dù không phải trả lương cho các zombie, những lao động từ địa ngục này vẫn cần được mặc quần áo, lo chỗ ở và cho ăn. Điều này đã phá vỡ hầu hết các tiềm năng lợi nhuận từ việc sử dụng chúng. Và dĩ nhiên, các đồn điền và trang trại đầy các công nhân zombie chẳng bao giờ được tìm thấy.

Ngay cả khi có nhiều lí do chính đáng để tạo ra một zombie, câu hỏi vẫn còn – ngay cả khi thuốc bột zombie của Davis là có thực, vậy tại sao mọi người chẳng mảy may bận tâm tạo ra một zombie. Sẽ mất nhiều thời gian và nỗ lực để bắt cóc một người nào đó, đẩy họ vào tình trạng “chết giả”, có được một lượng vừa phải các độc tố, hồi sinh họ và bắt họ làm việc. Tóm lại, zombie thực sự vẫn là một huyền thoại chưa được chứng minh.

Hà Nguyễn – Theo VietNamNet.Vn

Các Tin khác:

{loadposition relateditemsload}

Bạn đang xem bài viết Vài Giả Thuyết Về Sự Sống trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!