Xem Nhiều 4/2023 #️ Vai Trò, Vị Trí Của Doanh Nhân Trong Xã Hội # Top 9 Trend | Tvzoneplus.com

Xem Nhiều 4/2023 # Vai Trò, Vị Trí Của Doanh Nhân Trong Xã Hội # Top 9 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Vai Trò, Vị Trí Của Doanh Nhân Trong Xã Hội mới nhất trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Trong lịch sử phát triển xã hội của loài người, có thể nhận ra một tầng lớp người mà có lúc bị gọi là con buôn, lúc lại là thương nhân, và nay gọi là doanh nhân. Đó là một tầng lớp có một vai trò, vị trí quan trọng, không thể thiếu trong mọi xã hội. Mặc cho có lúc, do nhận thức chưa chuẩn người ta đã phủ nhận vai trò của họ, nhưng vị trí đó vẫn tồn tại một cách khách để duy trì nhu cầu cuộc sống của con người, duy trì sự tồn tại của nền kinh tế.

Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật hiện đại và tổ chức xã hội hiện nay, nhu cầu cuộc sống vật chất cũng như tinh thần của từng cá nhân và của cả cộng đồng xã hội đã cao hơn nhiều so với trước đây. Ngay cả cuộc sống của một người dân bình thường trong một quốc gia phát triển trung bình cũng có thể cao hơn những gì mà giới quý tộc, thậm chí vua chúa ngày xưa thụ hưởng. Do đó đặc tính, khả năng của doanh nhân so với thương nhân hay con buôn trước đây cũng rất khác.

Nếu trước kia, thương nhân chỉ là người có khả năng nhận dạng ra của cải hàng hóa ở nơi thừa để làm nhiệm vụ đáp ứng cho nơi thiếu thì doanh nhân ngày nay là người tạo ra những sản phẩm hàng hóa mới, tạo nên những nhu cầu mới cho xã hội. Họ còn hướng dẫn xã hội dùng hàng hóa đó không những ở khía cạnh công năng, mà còn thụ hưởng cả về cái đẹp cùng những nét văn hóa của sản phẩm. Đôi lúc, trị giá văn hóa (tính ra bằng tiền) của sản phẩm còn lớn hơn nhiều lần so với trị giá của công năng. Những sản phẩm thời trang, sản phẩm tiêu dùng cao cấp là một minh chứng.

Bên cạnh những nhận dạng về doanh nhân thời nay như nêu trên, cần biết làm cách nào để có một tầng lớp doanh nhân đúng tầm vóc. Kinh tế học là môn học cung cấp cho ta những kiến thức về kinh tế, không chỉ cho ta kiến thức về sử dụng tài nguyên, lao động một cách tối ưu, mà còn cung cấp các kiến thức sản xuất – kinh doanh, cách thức sử dụng của cải vật chất, đồng vốn của nhà đầu tư, của xã hội một cách có hiệu quả nhất. Đó là những kiến thức mà doanh nhân nên được trang bị trong nền kinh tế hôm nay.

Để trở thành một doanh nhân thực sự, không phải chỉ học Kinh tế học là đủ, mà còn phải hội đủ nhiều yếu tố quan trọng khác nhau. Theo sự trưởng thành của doanh nghiệp, doanh nhân càng phải thể hiện đầy đủ năng lực và phẩm giá để đủ tầm dẫn dắt doanh nghiệp lớn mạnh.

Trong xã hội chúng ta ngày nay, sự nhìn nhận về người làm nghề kinh doanh còn nhiều điều chưa đúng. Luật lệ quản lý kinh tế cũng còn nhiều hạn chế. Để trở thành doanh nhân thành đạt, vừa làm giàu cho bản thân, vừa góp phần phát triển kinh tế quốc gia thì doanh nhân phải biết kinh doanh đúng pháp luật, đúng đạo đức xã hội. Thế nên lượng doanh nhân giỏi, có tầm cỡ của Việt Nam chưa nhiều. Sự thành đạt ở đẳng cấp như thế không phải chỉ cần sự nỗ lực của bản thân doanh nhân, mà còn phải có yếu tố môi trường xã hội, trong đó luật lệ của Nhà nước có tạo được môi trường kinh doanh lành mạnh hay không là một yếu tố có tính chất quyết định.

Trong tình hình thế giới hiện nay, xây dựng được một đội ngũ doanh nhân yêu nghề, có kiến thức, có tấm lòng với xã hội, có hoài bão với đất nước là một điều mong mỏi của xã hội. Vì đó là lực lượng quan trọng nhất trong công cuộc hội nhập với thế giới để rút ngắn thời gian đưa nước ta vào hàng ngũ những nước phát triển. Đội ngũ này phải được rèn luyện trong môi trường cạnh tranh công bằng (mọi doanh nghiệp đều được đối xử bình đẳng trong nền kinh tế về quyền tự chủ kinh doanh, được hưởng sự công bằng trong sử dụng vốn xã hội, tài nguyên thiên nhiên…). Có như thế, tài năng của doanh nhân mới có dịp thăng hoa, từ đó họ mới có đủ khả năng cạnh tranh thành công trên thương trường quốc tế, góp phần bảo vệ quyền lợi của đất nước.

Nếu vẫn còn duy trì tình trạng dành đặc quyền đặc lợi cho một loại hình doanh nghiệp nào đó thì không những làm cho vốn, tài nguyên quốc gia không được sử dụng hiệu quả, mà còn làm hư hỏng một bộ phận trong đội ngũ doanh nhân. Cơ chế quản lý kinh tế xã hội không thể là “xin – cho”, buộc doanh nhân phải đáp lại bằng phương thức đút lót để cùng tham gia chia chác cái bánh đặc quyền đặc lợi. Hậu quả của cơ chế “xin – cho” nếu tiếp tục kéo dài sẽ là một thảm họa cho đất nước.

Trong điều kiện toàn cầu hóa như hiện nay, sự cạnh tranh trên thương trường ngày càng phức tạp. Doanh nhân không thể dựa vào sự bảo hộ của Nhà nước và càng không thể thông qua mối quan hệ với các quan chức để có những đặc quyền đặc lợi. Nguồn lợi nhuận của một doanh nhân chân chính chỉ có thể khai thác bền vững từ những phương châm, biện pháp sau:

– Đầu tư sáng tạo ra sản phẩm mới nhằm đáp ứng được nhu cầu cuộc sống ngày càng cao của con người. Hình thành ra những nhu cầu mới, thị trường mới trong xã hội. Tạo ra sản phẩm mới, khai thác thị trường mới luôn là mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp. Lợi ích của doanh nghiệp có được từ sự sáng tạo để phục vụ và nâng cao đời sống cho cộng đồng mới là đỉnh cao nghề nghiệp của một doanh nhân.

– Phát hiện, khai thác ra thị trường mới đối với những sản phẩm truyền thống, thông qua các kỹ thuật gia tăng chức năng sản phẩm, tăng sức hấp dẫn về mặt thị hiếu, tăng cường công tác tiếp thị…

– Xem xét sản phẩm của mình đang ở công đoạn nào của chuỗi giá trị của sản phẩm để điều chỉnh phương thức kinh doanh, chọn chuỗi phân khúc giá trị phù hợp và có lợi nhất cho doanh nghiệp. Đồng thời đánh giá các đối tượng canh tranh, nhằm có sách lược liên kết với các đối tượng khác nhau để tìm vị thế có lợi nhất cho sản phẩm của mình.

– Tăng cường lợi ích cho khách hàng bằng các kỹ thuật kinh doanh như chính sách hậu mãi, khuyến mãi…

– Loại bỏ các yếu tố lãng phí, hợp lý hóa sử dụng lao động, tinh gọn hiệu quả bộ máy điều hành… để giảm giá thành sản phẩm, tạo sức cạnh tranh bằng giá hợp lý, đem lại lợi ích cho người tiêu dùng và cho chính doanh nghiệp.

– Xem xét đề xuất với Nhà nước hợp lý hóa các công cụ luật pháp, các thủ tục hành chính, khả năng tiếp cận với nguồn tín dụng trong xã hội, chính sách thuế…, để tăng sức cạnh tranh cho doanh nghiệp.

Để có thể hỗ trợ doanh nhân thực hiện các biện pháp trên, phải có những tổ chức hiệp hội theo những ngành nghề khác nhau. Đồng thời Nhà nước phải tổ chức các cơ quan xúc tiến kinh doanh “bán dân lập” như tổ chức Kotra của Hàn Quốc, Cetra của Đài Loan… để hỗ trợ các nhà sản xuất, các doanh nghiệp tiếp cận thị trường thế giới dễ dàng hơn, giúp họ cải tiến sản phẩm, xây dựng kênh thông tin kịp thời về giá cả hàng hóa trên thế giới, tổ chức đào tạo đội ngũ chuyên môn phục vụ cho công tác kinh doanh. Có như vậy, đội ngũ doanh nhân nước ta mới có điều kiện trưởng thành. Những tổ chức nêu trên đã là những lực lượng nòng cốt hỗ trợ tích cực cho đội ngũ doanh nghiệp của bốn con rồng châu Á (Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore) trong 50 năm qua mà chúng ta cần học tập.

Vai trò của Doanh nhân: Cần phải nhìn thẳng

Ông Phạm Nhật Vượng – Chủ tịch HĐQT Vingroup

Gần đây, có một vài cuộc hội thảo đánh giá về tình trạng của đội ngũ doanh nhân Việt Nam. Tuy nhiên những nghiên cứu về giới Doanh nhân Việt Nam, xét về mặt khoa học, còn chưa rõ ràng và chưa nhất quán. Ví dụ, hiện nay, xã hội chưa nhất trí rằng các Giám đốc doanh nghiệp nhà nước cũng là doanh nhân khi định nghĩa doanh nhân là người bỏ tiền ra để kinh doanh và mục tiêu là vì lợi nhuận. Tuy vậy, theo tôi, khi nền kinh tế Việt Nam đã hội nhập đến mức như hiện nay thì không thể định nghĩa doanh nhân theo quy mô vốn mà họ bỏ ra bởi trên thế giới có rất nhiều doanh nhân không bỏ tiền ra nhưng vẫn tham gia hiệu quả vào nền kinh tế dựa trên việc huy động tiền của xã hội.

Doanh nhân Việt – Anh là ai?

Sở dĩ có tình trạng như vậy là do chúng ta mới có nền kinh tế thị trường khoảng 10 năm nay. Tuy nhiên, xét về mặt hiện tượng thì chúng ta phải kết luận rằng, trên thực tế chúng ta đã có một giới doanh nhân và họ đang tạo ra những hoạt động kinh tế có thật, tạo ra những thành tích, những mối quan hệ thương mại được phát triển rộng khắp thế giới. Vậy doanh nhân Việt Nam gồm những đối tượng nào? Theo tôi, có 3 nhóm doanh nhân đã, đang hình thành và làm nên diện mạo của doanh nhân Việt Nam.

Thứ nhất là những người điều hành, quản lý hoặc sở hữu các doanh nghiệp nhỏ và vừa, một đối tượng có tốc độ phát triển nhanh về số lượng. Xét theo tiêu chuẩn của những nhà kinh doanh hiện đại thì đây chưa phải là đội ngũ chuyên nghiệp nhưng rõ ràng họ đã có những hoạt động kinh doanh thực thụ. Gần đây, do tình trạng lạm phát mà đối tượng này đang rơi vào một số khó khăn. Số lượng những doanh nhân này bớt đi do phá sản, song lại tăng lên theo sự vận động, phát triển của nền kinh tế.

Thứ hai là đội ngũ khá đông đảo những người đang điều hành các doanh nghiệp nhà nước. Mặc dù còn có những tranh cãi về việc họ có phải là doanh nhân không nhưng tôi cho rằng, phải xem họ là doanh nhân vì họ phải chịu trách nhiệm xã hội về đồng vốn mà mình sử dụng, về khối tư liệu sản xuất mà trên thực tế, nó vẫn đang chiếm một tỷ trọng rất lớn trong đời sống kinh tế Việt Nam.

Thứ ba là các nhà kinh doanh chuyên nghiệp hoặc bắt đầu có chất lượng chuyên nghiệp theo tiêu chuẩn quốc tế, làm việc cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thậm chí có những người đã vươn tới vị trí điều hành tại các doanh nghiệp lớn. Đây là lực lượng có năng lực chuyên nghiệp tốt nhất nếu xét theo tiêu chuẩn hội nhập ở Việt Nam hiện nay. Đặc biệt trong đội ngũ này là những người kinh doanh tài chính dưới hình thức là các nhà môi giới, các nhà tư vấn tài chính, những người buôn bán các sản phẩm của nền kinh tế trong lĩnh vực tài chính và ngân hàng. Đối tượng này một vài năm trở lại đây phát triển rất nhanh và rất đông. Họ đang trở thành một lực lượng chiếm giữ địa vị rất quan trọng trong việc làm tốt lên hoặc làm xấu đi nền kinh tế Việt Nam.

Cần có cái nhìn công bằng và thiện cảm

Phải khẳng định rằng, trong điều kiện mới mở cửa mà có được đội ngũ doanh nhân đa dạng như vậy là điều rất đáng ngạc nhiên, và là một trong những cố gắng rất lớn của Việt Nam. Cho nên, đánh giá đội ngũ này theo khía cạnh tiêu cực hay tích cực dựa theo một số tiêu chuẩn cứng nhắc là không công bằng. Trong xã hội, tâm lý kinh doanh đã bắt đầu nở rộ và tâm lý không trọng thương của nền văn hoá Việt Nam cũng đã được khắc phục. Giờ đây, các chức danh của doanh nhân như giám đốc hay trưởng đại diện bán hàng… đã có giá trị xã hội và trong cấu trúc của đời sống xã hội, kể cả trong đời sống gia đình, đội ngũ này đã bắt đầu giữ một địa vị rất đáng kể. Đây là một bước chuyển về nhận thức.

Vấn đề cơ bản là chất lượng của kiến thức kinh doanh, của các thói quen kinh doanh, của nền văn hoá kinh doanh đang còn nhiều vấn đề; hệ thống pháp luật kinh doanh cũng có nhưng chưa đủ chuyên nghiệp để có thể điều chỉnh và hỗ trợ việc hình thành các thói quen kinh doanh hiện đại. Và điều này hình thành trong xã hội một sự ngờ vực nhất định về phẩm hạnh của các nhà kinh doanh Việt Nam. Vì vậy, xét về quy mô phát triển, tốc độ xuất hiện các năng lực của đội ngũ doanh nhân Việt Nam thì chúng ta rất đáng tự hào nhưng xét về chất lượng, do những điều kiện mới, do hệ thống đào tạo còn hạn chế nên tính chuyên nghiệp của đội ngũ này chưa cao, sự tôn trọng các quan hệ có tính chất hợp đồng chưa đạt được chuẩn.

Tuy nhiên, chúng ta không thể sốt ruột mà cần có thời gian để biến đổi quy mô về lượng thành quy mô về chất. Do đó, chúng ta phải thận trọng khi khen và công bằng khi chê đối với đội ngũ này. Điều đáng khen là sức sống và sức phát triển của đội ngũ này mặc dù quy mô phát triển mới chỉ là sự nở rộ một cách bản năng trên những khía cạnh kinh doanh thông thường, và chưa chuyên nghiệp. Nhưng những khía cạnh này thể hiện sự mới mẻ của nền văn hóa kinh doanh Việt Nam và sự mới mẻ này cần được trân trọng, tạo điều kiện để trở thành một trong những động lực phát triển của nền kinh tế.

Chung sức, đồng lòng

Vietnam Airlines – Vingroup ký thỏa thuận hợp tác

Để có đội ngũ doanh nhân phát triển thực sự vững mạnh, có một số việc mà Nhà nước và xã hội cần quan tâm.

Thứ nhất, chúng ta phải tiếp tục tạo ra một môi trường vĩ mô ổn định, thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, từ đó tạo động lực cho sự phát triển của đội ngũ doanh nhân. Phải xây dựng một hệ thống pháp lý bền vững nhưng đủ chi tiết để điều chỉnh hành vi kinh doanh từ khu vực căn bản nhất của nền kinh tế là lĩnh vực ngân hàng, tài chính đến mũi nhọn của nền kinh tế như công nghiệp và đến sức sống của nền kinh tế là kinh doanh. Muốn vậy, Nhà nước phải hình thành những cơ sở nghiên cứu để hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô một cách chuyên nghiệp. Tình trạng những chính sách thay đổi nhiều khi mâu thuẫn khiến các doanh nhân rất khó để trở nên chuyên nghiệp, sự ứng phó một cách “tháo vát” của họ với sự thay đổi của chính sách tạo ra sự phát triển của một đặc tính là cơ hội trong kinh doanh.

Thứ hai, phải phát triển các cơ sở đào tạo, cung cấp cho xã hội kiến thức kinh doanh nói chung và cung cấp cho các nhà kinh doanh những kiến thức kinh doanh chuyên nghiệp. Để cung cấp kiến thức, kỹ năng kinh doanh cho đội ngũ doanh nhân thì việc du học là hoàn toàn không đủ. Và nếu có đủ thì cũng không hoàn toàn phù hợp với điều kiện cụ thể của một nước như Việt Nam. Cho nên, việc phát triển các cơ sở đào tạo những nhà kinh doanh, những nhà quản lý kinh tế chuyên nghiệp là một việc cấp bách cần phải làm ngay.

Thiết nghĩ, trong giai đoạn hiện nay, Chính phủ làm hai việc đó là đủ. Phải thẳng thắn thừa nhận rằng, kinh doanh chưa chuyên nghiệp phản ánh trình độ của nền kinh tế, đồng thời phản ánh cả tình trạng chưa chuyên nghiệp của điều hành môi trường vĩ mô. Cho nên, để có đội ngũ kinh doanh chuyên nghiệp, trước tiên chúng ta phải xây dựng một đội ngũ điều hành môi trường vĩ mô chuyên nghiệp. Như vậy, chúng ta không thể sốt ruột để mong có đội ngũ doanh nhân chuyên nghiệp trong một sớm một chiều được. Chất lượng của đội ngũ doanh nhân sẽ tăng lên cùng với chất lượng của hệ thống chính sách vĩ mô, của hệ thống pháp luật, cũng như chất lượng của người tiêu dùng. Nếu không có đội ngũ tiêu dùng thông thái thì chúng ta cũng không thể đòi hỏi được một hệ thống sản xuất, phân phối chuyên nghiệp.

Mặc dù hiện nay đội ngũ doanh nhân đang có vị trí quan trọng song chưa hẳn đã được trọng vọng trong xã hội. Nhìn nhận vai trò của doanh nhân là quan trọng và trọng vọng doanh nhân là hai thái độ khác nhau của xã hội. Một nhà kinh doanh bản năng và một nhà kinh doanh có học vấn, hai người đó có địa vị giống nhau trong đời sống kinh tế nhưng có địa vị rất khác nhau trong đời sống tinh thần. Làm thế nào để biến sự quan trọng đơn giản thành một sự quan trọng có chất lượng văn hóa là một quá trình phấn đấu lâu dài. Vì vậy, mỗi doanh nhân phải phấn đấu trở thành một người quan trọng và từ một người quan trọng trở thành một người được kính trọng. Đó chính là chất lượng văn hóa, chất lượng giáo dục của người đó và đồng thời là năng lực của xã hội trong việc nhận ra giá trị và kính trọng họ.

Phan Chánh Dưỡng

Bài 2: Vị Trí, Địa Vị Và Vai Trò Xã Hội

Khi bàn về quá trình xã hội chúng ta thường cho rằng, quá trình xã hội hóa là quá trình trong đó cá nhân tham gia học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm để đóng các vai trò xã hội khi cá nhân cần và xã hội đòi hỏi. Như vậy, về bản chất xã hội hóa là quá trình tương tác giữa các cá nhân với nhau và với xã hội. Để thực hiện được những tương tác này, các cá nhân cần trải mình qua các vị trí, vai trò và địa vị xã hội khác nhau, chỉ có như thể cá nhân mới thể hiện được mình và xã hội cũng dễ dàng nhận ra anh ta.

1. Vị trí xã hội

Vị trí xã hội là sự định vị của một cá nhân trong một đơn vị xã hội, tức là trong đơn vị hay tổ chức xã hội nào đó, anh là ai? Là nhân viên, là thư ký hay thủ trưởng hoặc là giám đốc… Tuy nhiên, vị trí xã hội của cá nhân chỉ mang tính tương đối trong cấu trúc xã hội hay trong hệ thống xã hội. Bởi vị trí đó chỉ được xác định qua sự đối chiếu cũng như so sánh với vị trí xã hội khác.

Các vị trí xã hội mà cá nhân có được là do cá nhân dã có sự hiện diện hay nói cách khác là đã tham gia vào trong các đơn vị xã hội với tư cách là một thành viên, đó có thể là người chồng, người cha, người anh… trong gia đình. Như vậy, nếu một cá nhân nêu trên tham gia vào nhiều quan hệ xã hội, hay dựa vào những đặc điểm vốn có của cá nhân như giới tính, chủng tộc, nguồn gốc xuất cư… hoặc dựa vào nghề nghiệp, học vấn… thì cá nhân đó sẽ có nhiều vị trí xã hội.

Những vị trí xã hội đó chỉ tồn tại khi nó được đặt trong mổi quan hệ tương ứng như một người đàn ông là thầy giáo nếu so với học trò của anh ta chứ không phải là một bác nông dân hay với con anh ta thì anh ta lại là một người cha…

Chúng ta cần lưu ý rằng, nói đến vị trí xã hội là nói đến một sự lượng giá, nghĩa là cao hay thấp hay trung bình nó phụ thuộc vào sự so sánh trong nội bộ một thang. Ví dụ: Trong gia đình thì người cha có quyền nhắc con cái về mặt thời gian khi đi chơi nhưng chỉ là trong gia đình anh ta, còn gia đình khác lại không được hoặc anh không thể nói giờ giấc với bệnh nhân nếu anh không phải là bác sĩ người phụ trách ở đó. Như vậy, hai vị trí này ở hai môi trường khác nhau. Cũng có nghĩa rằng không thể so sánh sự cao hay thấp hay trung bình giữa người cha trong gia đình và bác sĩ ở bệnh viện.

2. Địa vị xã hội và vị thế xã hội

Hiện nay vẫn không ít người nhầm lẫn khi cho rằng, địa vị xã hội và vị trí xã hội là một. Nhưng, như đã phân tích ở trên, vị trí xã hội là để xác định chỗ đứng của một cá nhân trong một đơn vị xã hội. Ví dụ: Anh A là giảng viên (giảng viên là một vị trí xã hội). Vậy chỗ đứng của anh ta sẽ xác định ở đãu? Là ở trường đại học, cao đẳng nơi anh ta đang công tác hoặc chí ít thì anh ta cũng là thỉnh giảng cho một trường nào đó, chứ không thể gọi anh ta là giảng viên khi anh ta chi là một người làm nông hoặc một nhân viên văn phòng.

Vậy địa vị xã hội là gì? Địa vị xã hội chính là vị trí xã hội của cá nhân khi vị trí xã hội đó được gắn với những trách nhiệm và quyền lợi. Như thế, vị trí xã hội của cá nhân chỉ là cơ sở để xác định địa vị xã hội (vị thế xã hội) của họ mà thôi.

Từ phân tích trên cho thấy, địa vị xã hội là một khái niệm rộng nó bao hàm cả vị trí xã hội cùng những quyền lợi và nghĩa vụ tương ứng với vị trí đó. Nếu một người có các quyền và nghĩa vụ cao thì nghĩa là người đó có địa vị xã hội cao, dĩ nhiên quyền và nghĩa vụ cao hay thấp, nhiều hay ít nó không có sự đánh giá giống nhau giữa các nhóm xã hội, nền văn hóa hoặc giữa các thể chế chính trị…

Tuy nhiên, khi bàn về địa vị xã hội chúng ta không nên chỉ xem xét hay dựa trên những tiêu chí khách quan trên, mà địa vị xã hội có hay không, cao hay thấp còn phụ thuộc vào sự đánh giá của một nhóm hay cộng đồng xã hội về tọa độ cúa cá nhân trong uy tín xã hội. Nghĩa là, trong đó cá nhân có hay không có uy tín, uy tín cao hay thấp và nói đến uy tín cá nhân có được trong xã hội nhiều hay ít, cao hay thấp nó không hoàn toàn phụ thuộc vào việc cá nhân có quyền lực, nghĩa vụ ít hay nhiều mà phụ thuộc vào những yếu tố như thâm niên nghề nghiệp, tuổi tác, trình độ học vấn, đạo đức, sự cống hiến cho xã hội…

Tóm lại, địa vị xã hội và vị trí xã hội là hai khái niệm khác nhau cả về mặt thuật ngữ và nội hàm. Vị trí xã hội xác định nơi (gia đình, trường học, công ty…) cá nhân hoạt động và tồn tại, nơi đó cá nhân là người cha, mẹ hoặc chồng, vợ hoặc giáo viên, nhân viên… Địa vị xã hội là nói đến một chồ đứng nào đó trong xã hội với những lợi ích kèm theo cũng như trách nhiệm. Khi chúng ta ở một vị trí xã hội, kèm theo đó chúng ta có được uy tín xã hội, quyền và nghĩa vụ cao hơn uy tín, quyền và nghĩa vụ của người khác ở vị trí xã hội khác, thì điều đó có nghĩa là chúng ta đang có được địa vị xã hội cao hơn người khác (chủ thể nằm trong sự so sánh).

Như vậy, khi nghiên cứu về địa vị xã hội thì cần xem xét ở hai phương diện sau: Địa vị xã hội chính thức và địa vị xã hội không chính thức.

Thứ nhất, địa vị xã hội chính thức: Là loại địa vị xã hội mà cá nhân có được do thể chế hóa một cách rõ ràng dựa trên những qui định của một cơ quan, của một chính phủ và cùng đó sẽ có luôn tính chế tài chỉ mang tính tương đối. Ví dụ: Trưởng khoa được bầu dựa trên những qui chuẩn mang tính tổ chức.

Thử hai, địa vị không chính thức hay còn gọi là uy tín xã hội: Là loại địa vị xã hội mà cá nhân có được là do sự đánh giá và thừa nhận của nhóm hay tổ chức xã hội nào đó. Dựa trên sự cống hiến, tuổi tác, nghề nghiệp, học vấn… Nghĩa là địa vị này không nam trong một qui định mang tính chính thức nào cả và một điều dễ nhận thấy ở đây, đó là không có quyền lực nhưng lợi ích có thể có, tùy vào cách nhìn nhận, cách tiếp cận của cả chủ thể và xã hội.

Các loại địa vị xã hội: có hai loại

Địa vị gán hay xuất thân: Dựa vào những yếu tố như giới tính, chủng tộc, nơi sinh… mà cá nhân có được địa vị xã hội. Nghĩa là không thuộc vào chủ ý của cá nhân hay nói cách khác, địa vị mà cá nhân có không phải do nỗ lực của bản thân, sinh ra ngay lập tức họ có địa vị ấy.

Ví dụ: Con vua sinh ra ngay lập tức được thần dân gọi là hoàng tử.

Địa vị dành được: Là địa vị mà cá nhân có được nhờ vào sự nỗ lực của bản thân như học vấn, tài năng, đạo đức hoặc cả những yếu tố như sự may mắn, thủ đoạn và mánh khóe.

Ví dụ: Nhờ năng lực nên giáo viên A được bầu làm hiệu trưởng.

3. Vai trò xã hội

“Vai trò xã hội” là một thuật ngữ của kịch học, nơi nghiên cứu các vai diễn của những diễn viên đóng vai và diễn trò trên sân khấu. Xã hội học đã mượn và nó trở thành thuật ngữ khoa học trong xã hội học, được chúng tôi nhà xã hội học người Mỹ đưa vào những năm 30 của thế kỷ XX.

Con người với tư cách là những cá nhân riêng lẻ, cùng những thuộc tính tâm lý riêng và tạo ra vô số hành vi mang nét riêng của từng cá nhân, nhưng sống và hoạt động trong xã luôn có tính cộng đồng. Cho nên, thường thì các hành vi ấy vẫn bị giới hạn bới sự qui chiếu của những địa vị, vai trò xã hội mà cá nhân có. Điều này có nghĩa là chúng ta sẽ cố gắng kiểm soát và điều chỉnh hành vi theo sự mong đợi của mọi người xung quanh.

Như vậy, vai trò xã hội là mô hình hành vi mà cá nhân thực hiện nằm trong sự mong đợi của xã hội. Những mong đợi này không hẳn dựa trên sự giống nhau giữa các cá nhân về mặt sinh học, mà chủ yếu dựa trên địa vị xã hội cá nhân có. Tức là, ứng với từng địa vị xã hội sẽ có một mô hình hành vi xã hội tương ứng với nó. Ví dụ: Giảng viên lên bục giảng phải trang phục chỉnh tề (quần tây, áo sỞ mi đóng thùng hoặc áo vét, đi giày tây hoặc chí ít cũng là san đan), trong khi sinh viên cũng vào lớp học đó có thề mặc áo pull quần jean, đi dép lê. Song, điều này không hề có sự giống nhau giữa các tổ chức xã hội, các nền văn hóa, v.v… bởi mỗi một nhóm hay tổ chức xã hội lại có những qui chuẩn riêng. Ngay trong một xã hội có nhiều tiểu văn hóa và mỗi tiểu văn hóa cũng lại có những giá trị, chuẩn mực của riêng mình.

Tóm lại, có thể hiểu “vai trò xã hội” là một khái niệm dùng để chỉ sự mong đợi của xã hội đối với hành vi diễn xuất của một cá nhân trong một tình huống xã hội cụ thể và trong một khung cảnh xã hội nhất định.

Cá nhân ngoài xã hội cũng giống như các diễn viên diễn vai trên sân khẩu, nghĩa là họ cũng phải diễn, song khác ở chỗ, diễn viên diễn trên sân khấu phải tuân theo một kịch bản đã được định sẵn, còn ngoài đời các cá nhân diễn xuất theo một tình huống xã hội tự nhiên. Dĩ nhiên phái xem xét ở tính phù hợp giữa địa vị xã hội với mô hình mong đợi, tức là vai diễn. Một người đàn ông trong xã hội sẽ có rất nhiều vai trò xã hội khác nhau, ở trường với sinh viên anh ta là thầy – người giảng bài, về nhà chơi với con anh ta đóng vai cha, là chồng đối với vợ,… Ngay trong một không gian hẹp và thời gian ngắn anh ta cũng có thể diễn rất nhiều vai. Ví dụ ở gia đình khi trò chuyện với con là cha, với vợ là chồng với ông bà là cháu…. Như vậy, vai trò là cơ sở để mỗi cá nhân thực hiện sự giao tiếp hay nói cách khác chỉ thông qua các vai trò xã hội các cá nhân mới thực hiện dược cái gọi là tương tác xã hội. Jean Stoetzel nhà tâm lý xã hội học người Pháp đã viết: “Vai trò như là tập hợp những ứng xử của mỗi cá nhân mà mọi người khác chờ đợi”.

Qua đó, nếu cá nhân muốn diễn tốt vai trò xã hội của mình, nghĩa là nằm trong sự mong đợi của xã hội thì buộc lòng cá nhân phải hòa nhập vào xã hội, ở trong đó cá nhân luôn cố gắng tìm tòi, học hỏi (quá trình xã hội hóa), cần lưu ý, không phải mọi thứ chúng ta học và hiểu được đều nằm trong sự mong đợi của tất cả các xã hội.

Một cá nhân có thể có nhiều địa vị xã hội, nhất là trong xã hội ngày càng phát triển và năng động như hiện nay, do đó cá nhân cũng sẽ có nhiều vai trò xã hội kèm theo. Đồng thời cá nhân luôn đặt mình trong sự suy nghĩ, làm sao tránh khỏi những nhầm lẫn để thực hiện vai trò cho phù hợp và như thế các cá nhân thường rơi vào cái gọi là “xung đột vai trò”. Ví dụ: Người vợ là giám đốc của một công ty và ở đó người chồng là nhân viên, chị ta có thể đập bàn trong cuộc họp (dễ được chấp nhận hơn) nhưng không thể đập bàn khi nói chuyện với chồng con ở nhà.

Sự xung đột vai trò nó là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến căn bệnh của thời đại – sự căng thẳng, mà chúng ta gọi “Stress”.

Như đã phân tích ở trên, cá nhân có nhiều mối quan hệ xã hội, từ đó cá nhân cũng có nhiều địa vị xã hội và mỗi một địa vị xã hội đó cá nhân lại có những vai trò xã hội tương ứng. Tuy trong cuộc sống cá nhân đóng nhiều vai trò xã hội, nhưng chúng ta tìm hiểu một vài loại vai trò cơ bản sau:

Vai trò thường nhật. Là loại vai trò mà mỗi cá nhân chúng ta tham gia đóng thường xuyên và thay đổi liên tục tùy thuộc vào mối quan hệ tương tác. Nó chiếm đại đa số trong tổng số các vai mà cá nhân đóng hàng ngày. Ví dụ: Vai trò là khách hàng, là vai anh đối với em trong gia đình, vai là một người bạn, người hàng xóm… Đây là vai trò mà mỗi cá nhân chỉ cần học hỏi, bắt chước một cách đơn giản là có thể đóng được.

Vai trò định chế. Là loại vai trò nếu cá nhân muốn đóng phải trải qua một quá trình đào tạo, huấn luyện theo một cách thức nhất định nào đó hoặc bởi những qui định do một tổ chức nào đó đã thiết kế sẵn. Đóng loại vai trò này được xem như là nhiệm vụ phải đảm trách và kèm theo đó là những áp lực. Ở đây, gần như cá nhân không nghĩ đến tính sáng tạo, vì tất cả các vai trò đã trở thành khuôn mẫu, chuẩn, nghĩa là đã được định sẵn, nhập vào những vai này cá nhân chỉ cứ thế mà đóng, không cần suy nghĩ. Lưu ý trong loại vai này luôn có tính chế tài đối với những cá nhân tham gia đóng.

Vai trò kỳ vọng. Là loại vai trò mà khi cá nhân tham gia đóng sẽ nhận được sự kỳ vọng, sự mong đợi của rất nhiều người trong nhóm, tổ chức hoặc cả xã hội rộng lớn. Ví dụ: Lớp trưởng của một lớp, chủ tịch hội chất độc da cam Việt Nam… Ai đóng vai trò kỳ vọng luôn phải ý thức và có trách nhiệm đáp lại sự mong đợi đó.

Vai trò gán. Là loại vai trò mà cá nhân có được xuất phát từ một yếu tố nào đó như tài năng, giới tính, yếu tố sinh học… được nhóm hoặc xã hội gán cho bởi sự tôn vinh hay thành kiến thông qua một cuộc bình bầu chính thức hoặc không chính thức.

Vai trò tự chọn. Đây là loại vai trò mà cá nhân đóng hay không đóng phụ thuộc vào ý chủ quan của cá nhân. Tuy nhiên, nó chỉ mang tính tương đối, vì trong một số trường hợp không phải cứ muốn là cá nhân đóng được ngay.

Ví dụ: anh A muốn đóng vai người cha, nhưng anh ta chưa có con thì anh ta không thể đóng được.

Qua đó, chúng ta thấy được một điều cơ bản là “vai trò xã hội” không bao giờ độc diễn và luôn có ít nhất hai chủ thể xã hội.

Doanh Nghiệp Xã Hội Là Gì? Vai Trò Của Doanh Nghiệp Xã Hội

1. Doanh nghiệp xã hội là gì?

Cùng tìm hiểu các quy định về DNXH và quyền và nghĩa vụ với loại hình doanh nghiệp này:

Theo quy định tại Điều 10 Luật Doanh nghiệp năm 2014, một doanh nghiệp được coi là doanh nghiệp xã hội cần đáp ứng các tiêu chí sau đây:

a) Là doanh nghiệp được đăng ký thành lập theo quy định của Luật này;

b) Mục tiêu hoạt động nhằm giải quyết vấn đề xã hội, môi trường vì lợi ích cộng đồng;

c) Sử dụng ít nhất 51% tổng lợi nhuận hằng năm của doanh nghiệp để tái đầu tư nhằm thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường như đã đăng ký.

Doanh nghiệp xã hội (có lợi nhuận và không có lợi nhuận) giống với các doanh nghiệp khác vì đều tổ chức và quản lý dưới hình thức doanh nghiệp. Tuy nhiên, điểm khác biệt ở chỗ DNXH được thành lập để giải quyết các vấn đề tồn tại của xã hội như đói nghèo, ô nhiễm môi trường, bảo vệ trẻ em…

2. Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp xã hội

Ngoài các quyền và nghĩa vụ giống như các doanh nghiệp thông thường khác, doanh nghiệp xã hội còn có các quyền và nghĩa vụ sau:

a) Duy trì mục tiêu và điều kiện quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều 10 Luật doanh nghiệp 2014 trong suốt quá trình hoạt động; trường hợp doanh nghiệp đang hoạt động muốn chuyển thành doanh nghiệp xã hội hoặc doanh nghiệp xã hội muốn từ bỏ mục tiêu xã hội, môi trường, không sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư thì doanh nghiệp phải thông báo với cơ quan có thẩm quyền để tiến hành các thủ tục theo quy định của pháp luật;

đ) Trường hợp được nhận các ưu đãi, hỗ trợ, doanh nghiệp xã hội phải định kỳ hằng năm báo cáo cơ quan có thẩm quyền về tình hình hoạt động của doanh nghiệp.

3. Vai trò của doanh nghiệp xã hội

– Cung cấp các sản phẩm, dịch vụ mang tính sáng tạo phù hợp với nhu cầu của cộng đồng có hoàn cảnh đặc biệt (người khuyết tật, người có HIV/AIDS…)

– Tạo cơ hội hòa nhập xã hội cho các cá nhân và cộng đồng yếu thế thông qua các chương trình đào tạo phù hợp, tạo cơ hội việc làm

– Đưa ra các giải pháp mới cho những vấn đề xã hội chưa được đầu tư rộng rãi như biến đổi khí hậu, năng lượng thay thế, tái chế…

4. Các loại doanh nghiệp xã hội

Các loại DNXH có thể được phân chia như sau:

– DNXH phi lợi nhuận

Các doanh nghiệp xã hội phi lợi nhuận thường hoạt động dưới các hình thức như: trung tâm, hội, quỹ, câu lạc bộ, tổ/nhóm tự nguyện của người khuyết tật, người chung sống với HIV/AIDS, phụ nữ bị bạo hành…Họ đưa ra những giải pháp có tính cạnh tranh cao để giải quyết những nhu cầu xã hội cụ thể, do đó có thể thu hút nguồn vốn đầu tư của những cá nhân và tổ chức đầu tư vì tác động xã hội. Các doanh nghiệp xã hội phi lợi nhuận làm tốt vai trò xúc tác để huy động nguồn lực từ cộng đồng để cải thiện đời sống cho những cộng động chịu thiệt thòi

– DNXH không vì lợi nhuận

Đa số các doanh nghiệp loại này do các doanh nhân xã hội sáng lập, với sứ mệnh xã hội được công bố rõ ràng. Ngay từ đầu, doanh nghiệp đã xác định rõ sự kết hợp bền vững giữa sứ mệnh xã hội với mục tiêu kinh tế, trong đó mục tiêu kinh tế là phương tiện để đạt mục tiêu tối cao là phát triển xã hội.

Lợi nhuận thu được chủ yếu để sử dụng tái đầu tư hoặc để mở rộng tác động xã hội của doanh nghiệp. Việc đưa ra các giải pháp sáng tạo và áp dụng đòn bẩy của thị trường để giải quyết vấn đề xã hội và các thách thức trong lĩnh vực môi trường là điểm khác biệt so với các tổ chức xã hội từ thiện hay các doanh nghiệp thông thường. Phần lớn các doanh nghiệp xã hội thuộc loại này có thể tự vững bằng nguồn thu từ hoạt động kinh doanh và dịch vụ của họ.

– Doanh nghiệp có định hướng xã hội, có lợi nhuận

Khác với mô hình doanh nghiệp phi lợi nhuận và không vì lợi nhuận, các doanh nghiệp xã hội ở loại hình thứ ba này ngay từ ban đầu đã nhìn thấy cơ hội và chủ trương xây dựng mình trở thành doanh nghiệp có lợi nhuận với sứ mệnh tạo động lực cho những biến đổi mạnh mẽ trong xã hội hoặc bảo vệ môi trường. Mặc dù có tạo ra lợi nhuận và cổ đông được chia lợi tức, nhưng các doanh nghiệp xã hội này không bị chi phối bởi lợi nhuận.

5. Chính sách phát triển đối với doanh nghiệp xã hội

– Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân thành lập DNXH có mục tiêu hoạt động nhằm giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường vì lợi ích cộng đồng.

– Doanh nghiệp xã hội được hưởng các ưu đãi và hỗ trợ đầu tư theo quy định của pháp luật.

– Doanh nghiệp xã hội thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tương ứng đối với từng loại hình doanh nghiệp và các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.

Phòng 1605 tầng 16 tòa B10B, Nguyễn Chánh, Cầu Giấy, Hà Nội

Điện thoại: (024) 665.65.366 Hotline: 0967.59.1128

Email: contact@lawkey.vn Facebook: LawKey

Nghị Luận Xã Hội Về Vai Trò Của Gia Đình Đối Với Mỗi Cá Nhân Trong Xã Hội

Dàn ý + 4 bài văn nghị luận xã hội lớp 12

Nghị luận xã hội về vai trò của gia đình đối với mỗi cá nhân trong xã hội

Nghị luận xã hội về vai trò của gia đình đối với mỗi cá nhân trong xã hội vừa được chúng tôi sưu tập và xin gửi tới bạn đọc cùng tham khảo. Bài viết gồm có dàn ý và bài văn mẫu nghị luận xã hội. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết và tải về.

1. Dàn ý nghị luận xã hội về vai trò của gia đình đối với mỗi cá nhân trong xã hội

1. Mở bài

Giới thiệu vấn đề cần nghị luận.

2. Thân bài

Giải thích vấn đề: Gia đình là gì? Những quan điểm về gia đình:

Gia đình là nơi ta được che chở, đùm bọc

Là nơi ta được yêu thương, chăm sóc

Là nơi ta được thoải mái, không nợ nần, ân oán

Là nơi mà ta về mỗi khi mệt mỏi

Là nơi chưa đầy tình yêu thương

Vai trò và tầm quan trọng của gia đình

Là chỗ dựa vật chất và tinh thần vững chắc của mọi thành viên

Là nơi con cái tìm kiếm sự an ủi, chở che từ người lớn

Mang đến sự ấm áp và niềm vui đồng thời xoa dịu những nỗi đau

Là cái nôi giáo dục nên nhân phẩm và tính cách của con trẻ.

Là yếu tố tác động đến tâm lý và lối sống của các thành viên trong gia đình.

Gia đình có nhiều tranh chấp, bất hòa khiến các thành viên dễ bị tổn thương và mặc cảm.

Con trẻ nếu không được gia đình bảo bọc và dạy dỗ sẽ dễ gục ngã trước khó khăn, cám dỗ từ xã hội….

Biện pháp để có một mái ấm gia đình hạnh phúc

Xây dựng không khí gia đình đầm ấm, hạnh phúc và no đủ.

Mỗi gia đình biết cách giáo dục, quan tâm và chăm sóc con trẻ.

Không nên tách rời bản thân khỏi tình yêu thương và sự quan tâm từ phía gia đình….

Liên hệ gia đình em

3. Kết bài: Khẳng định vai trò của mái ấm và tình cảm gia đình.

2. Nghị luận xã hội về vai trò của gia đình đối với mỗi cá nhân trong xã hội mẫu 1

Trong những thời điểm quan trọng nhất của cuộc sống chúng ta đều tòm đến điểm tựa tin thần, những điểm tựa này sẽ vực chúng ta dậy khỏi những khó khăn, vấp váp của cuộc đời này. Một trong những điểm tựa vừng chắc chất, xoa dịu hết những nỗi đau của chúng ta đó chính là gia đình. Tình cảm gia đình có sức mạnh vô cùng to lớn mà không ai có thể phủ nhận được.

Gia đình hiểu theo nghĩa hẹp là sự gắn kết giữa những người có cùng máu mủ, huyết thống cùng một nhà. Đó chính là tình cảm đẹp đẽ thiêng liêng nhất ai cũng nâng nui trân trọng bằng cả trái tim. Hay nếu như chúng ta mở rộng ra thì nó chính là sự gắn kết giữa người với người trong người trong xã hội. Tình cảm gia đình là quan hệ giữa những người cùng huyết thống máu mủ mà không ai có thể phủ nhận được. Tình cảm gia đình chính là điểm tựa thiêng liên nhất giúp chúng ta vượt qua được mọi rào cản về không gian và thời gian để đem đến cho mỗi cá nhan sự sống tốt đẹp nhất. Tình cảm gia đình không bó hẹp trong phạm vị huyết thống và nó có thể hiểu rộng ra mà toàn xã hội, là tình cảm giữa con người với nhau.

Tình cảm gia đình trước hết là tìn cảm giữa những người trong ia đình với nhau, đó là tình cảm vợ chồng, anh em, cha mẹ và con cái… Mỗi mỗi quan hệ thì đều chứa những tình cảm vô cùng bền vững, có sâu nặng thì tình cảm gia đình mới thực sự mang ý nghĩa của nó. Tình cảm gia đình có rất nhiều cách thể hiện đôi khi những sự quan tâm rất lại làm nên những điều vô cùng to lớn.

Sự quan tâm mà con người dành cho cha mẹ có thể làm cho cha mẹ ấm lòng hơn biết bao nhiêu. Trong những lần cha mẹ đi làm vất vả không cần phải điều hòa mới làm dịu đi cơn mệt mỏi và chỉ cần một cốc nước của con cũng khiến cho người cha mẹ cảm thấy mát lòng. Đây là một hành động vô cùng nhỏ xua tan đi những vất vả trong cuộc sống.

Tình cảm gia đình có khiến cho con người luôn cảm thấy gần nhau hơn cho dù khoảng cách có bao xa đi nữa. Điều này có được vì chúng ta gửi gắm những tình cảm chân thành nhất, gắn bó với nhau bằng cả tấm lòng của mình luôn nghĩ đến nhau, đó chính là khi tình cảm gia đình được thể hiện một cách thầm kín nhất. Chính khoảng cách xa xôi, những khó khăn trong cuộc sống sẽ khiến cho con người chúng ta gần nhau hơn. Kể cả có cách nhau nửa vòng trái đất thì chúng ta vẫn vậy, vẫn luôn dành cho nhau những tình cảm quý báu nhất. Bức thư của người cha Đỗ Xuân Thảo gửi con Nguyễn Nhật Nam được đăng tải trên mạng internet là minh chứng rõ ràng về tình yêu thương vô bờ bến mà cha dành cho con. Nó không những là tình yêu mà còn là niềm tự hào của người cha đối với con.

Tình cảm gia đình là thứ tình cảm đẹp , tồn tại vĩnh hằng vì nó thuộc về thế giới tinh thần là những gì cao quý bền vững nhất. Cuộc sống luôn tiềm ẩn những giá trị tốt đẹp và nó không bao giờ mất đi. Tình cảm ấy sẽ là nơi chúng ta thấy được niềm tin trong cuộc sống. Tình cảm gia đình là tình cảm gắn kết diệu kỳ nhất mà cuộc sống đem lại cho mỗi con người giúp con người vượt qua được những khó khăn thử thách.

Trong xã hội hiện nay, vòng xoáy tranh đua tiền bạc ngày càng cuốn con người đi đến những mối quan hệ phong phú trong xã hội. Có những chúng ta quên mất đi tình cảm gia đình. Nhưng dù có là vậy thì nó chính là những thứ tình cảm vô giá nhất, quan trọng nhất không gì có thể thay thế được. Nó đặt cạnh những thứ tình cảm khác nhưng nó chính là điểm tựa tinh thần cho tất cả chúng ta. Nếu không có gia đình thì tâm hồn chúng ta sẽ trở nên khô cằn, đánh mất hẳn phần quan trọng nhất trong cuộc sống. cho nên để giữ vững được tình cảm này thì chúng ta cần nhận thức được tầm quan trọng của tình cảm gia đình. Tình cảm gia đình là thứ vô cùng cao quý, vô cùng bền vững nhưng nếu như không biết trân trọng thì chúng ta cũng đánh mất đi thứ tình cảm cao đẹp đó.

Để tình cảm gia đình luôn bền vững thì mỗi người cần ý thức trau bồi, bồi đắp từ những điều nhỏ nhặt nhất. Những sự quan tâm nhỏ nhất sẽ làm cho tình cảm gia đình tốt đẹp hơn nhân văn hơn. Nếu như tình cảm gia đình vượt qua tình cảm huyết thống thì nó là tình cảm cao đẹp nhất. Nếu như có lúc nào bạn cảm thất bấn mãn chán nản với gia đình của mình thì hãy nghĩ đến những đứa trẻ mồ côi không nơi nương tựa, họ muốn cất lên một tiếng gọi cha mẹ nhưng cũng không được, thèm khát tình yêu thương nhưng không có. Những người an hem những gia đình không phải quan hệ máu mủ mà biết quan tâm chia sẻ cho nhau là điều cần thiết nhất cho sự phát triển của xã hội. Bởi vì chỉ khi con người biết nghĩ về người khác thì con người ta mới có thể chân thành với nhau, xã hội mới có thể phát triển được.

Trong xã hội hiện đại, quan hệ xã hội được mở rộng nhiều thang đó các giá trị ngày càng bị đảo lộn hoặc bị thay thế bằng các thang đo khác thì tình cảm gắn kết giữa con người với con người trong xã hội là mắt xích quan trọng để hắn kết con người lại với nhau, xã hội này ngày càng tốt đẹp hơn.

3. Nghị luận xã hội về vai trò của gia đình đối với mỗi cá nhân trong xã hội mẫu 2

Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng mỗi con người. Nó có vai trò to lớn trong việc xây dựng và phát triển xã hội. Gia đình là nơi giúp con người hình thành nhân cách. Vai trò của gia đình là vô cùng thiêng liêng và cao cả, không ai có thể phủ nhận được điều này.

Gia đình là nơi chứa đựng những tình cảm thân thương và chân thành nhất của một đời người. Ở đó, ta nhận được tình yêu thương của ông bà, cha mẹ, của anh chị em và của những người thân yêu ruột thịt. Ngay từ khi sinh ra, ta đã được sống trong vòng tay yêu thương của cha mẹ. Mẹ dạy ta bi bô tập nói, cha dạy ta những bước chân chập chững đầu đời. Ta lớn lên bằng dòng sữa ngọt ngào của mẹ, trong sự che chở, bảo vệ của cha. Chẳng ở đâu trên thế gian này, ta nhận được tình yêu thương vô bờ bên như gia đình.

Cha mẹ không ngại vất vả, gian nan để nuôi ta khôn lớn. Những người anh, người chị sẵn sàng sẻ chia mọi chuyện trong cuộc sống hằng ngày. Họ luôn dang rộng vòng tay để che chở, để giúp đỡ mỗi khi ta cần. Những tình cảm ấy đều xuất phát từ chính trái tim và tấm lòng của họ, không tính toán thiệt hơn, không mong được đền đáp. Gia đình là nơi cho ta những tình cảm chân thành và ấm áp nhất.

Gia đình nuôi ta khôn lớn, giúp ta hình thành nhân cách. Sống trong một gia đình ấm êm, hạnh phúc, những đứa trẻ sẽ không ngừng phát triển cả về thể chất lẫn tâm hồn. Chúng sẽ có cái nhìn bao dung với mọi người xung quanh giống như sự bao dung mà chúng nhận được từ cha mẹ và những người thân trong gia đình. Sự ấm êm của gia đình là cái nôi nuôi dưỡng tâm hồn trong sáng của những đứa trẻ để chúng sống tốt hơn, nhân hậu hơn. Nếu sống trong một gia đình suốt ngày chỉ là cãi vã, tị nạnh nhau thì những đứa trẻ sẽ bị ảnh hưởng rất nghiêm trọng. Chúng nhìn cuộc sống bằng ánh mắt sợ sệt và chán ghét mọi thứ. Những đứa tẻ có thể bị tự kỉ, trầm cảm khi cha mẹ chẳng hề quan tâm đến chúng. Rồi sau này, tương lai của những đứa trẻ ấy sẽ ra sao? Thật sự là một nỗi bất hạnh đầy xót xa.

Vai trò của gia đình là trở thành chỗ dựa tinh thần vững chắc là là nơi mà ai cũng muốn được trở về. Những khi vui, khi buồn ta đều muốn sẻ chia với những người thân trong gia đình. Họ cười với niềm vui của ta và khi ta buồn họ rơi nước mắt. Những người thân luôn dành cho nhau tình cảm chân thành và tình yêu thương sâu sắc. Khi ta phạm sai lầm, xã hội trách móc ta, khi ta thất bại, xã hội cười nhạo ta.

Chỉ có gia đình là nơi luôn dang rộng vòng tay cho ta dựa vào. Họ dành cho ta ánh mặt trìu mến, một vòng tay ấm áp, họ nhìn lỗi lầm của ta bằng cái nhìn bao dung, nhân hậu và sẵn sàng tha thứ nếu ta biết sửa sai. Gia đình luôn cho ta những lời khuyên bổ ích nhất. Khi mà xã hội cố gắng bon chen để dìm ta xuống thì gia đình luôn nâng đỡ và vẽ cho ta một con đường bằng phẳng hơn.

Đặc biệt là khi ta trưởng thành, phải bận rộn với gánh nặng cơm áo gạo tiền ta mới cảm nhận được rõ ràng nhất vai trò to lớn của gia đình. Nhất là những khi ta mệt mỏi và áp lực với công việc, gai đình sẽ là lựa chọn đầu tiên mà ta muốn được trở về. Bởi vì khi ở trong vòng tay của bố mẹ, ta mãi chỉ là một đứa trẻ, chẳng cần phải lo lắng sự hơn thua trong cuộc sống.

Gia đình là tế bào của xã hội, nó có vai trò to lớn trong việc xây dựng một xã hội văn mình, giàu đẹp. Một gia đình hạnh phúc sẽ đem đến cho xã hội những người con có văn hóa, có đạo đức. Một gia đình tan vỡ chỉ đem lại những cá nhân đầy sự oán than, lầm lỗi. Nó không hoàn toàn là đúng nhưng đa phần là như thế. Việc xây dựng một gia đình hạnh phúc cũng chính là xây dựng một xã hội tốt đẹp, văn minh.

Gia đình có hạnh phúc thì những thành viên trong gia đình mới có động lực, có ý chí để vươn lên xây dựng và hoàn thiện ước mơ. Gia đình chắp cánh cho con người vững bước hơn trên con đường đi đến thành công. Chỉ khi họ không còn phải lo lắng hay bận lòng về những rắc rối trong gia đình thì họ mới có thê chuyên tâm để sống, để cống hiến cho xã hội. Gia đình có sức ảnh hưởng lớn lao đối với cá nhân từng người và toàn xã hội.

Sự quan tâm, chăm sóc của gia đình giúp ta phát triển nhân cách thành một người tốt đẹp. Từ đó ta có cái nhìn bao dung, biết yêu thương tất cả mọi người. Mọi người quan tâm nhau, sẵn sàng giúp đỡ nhau và cùng nhau xây dựng một xã hội tiên tiến. Khi có tình yêu thương, con người sẽ không còn ganh ghét hay đố kị nhau, họ sẽ sống và đối xử với nhau một cách công bằng, lịch sự. Khi mà tất cả các gia đình đều hạnh phúc thì xã hội cũng sẽ hạnh phúc. Gia đình là nền tảng của xã hội, là tế bào để xây dựng nên xã hội, cho nên muốn một xã hội phát triển văn minh thì bản thân mỗi gia đình phải thật sự hạnh phúc.

Chúng ta hãy biết trân trọng tình cảm gia đình và yêu thương, quan tâm đến những người xung quanh. Gia đình là tổ ấm không gì có thể thay thế được. Hãy làm tất cả những gì có thể để cho cha mẹ mãi nở nụ cười trên môi, khi đó ta sẽ cảm thấy cuộc sống này hạnh phúc và ấm áp biết nhường nào. Và vai trò của gia đình thật sư là quá cao cả và thiêng liêng.

4. Nghị luận xã hội về vai trò của gia đình đối với mỗi cá nhân trong xã hội mẫu 3

Trong cuộc đời của mỗi con người, người ta có thể đi đến nhiều nơi hay có nhiều nơi để đến nhưng duy nhất chỉ có một nơi để trở về đó chính là gia đình. Gia đình là duy nhất và thiêng liêng nhất với mỗi người, chỉ có tình cảm gia đình mới là thứ tình cảm vô điều kiện, giống như câu nói “Gia đình là nơi cuộc sống bắt đầu và tình yêu không bao giờ kết thúc”. Vai trò của gia đình đối với cuộc sống con người là vô cùng quan trọng, dù cuộc đời bạn có tốt đẹp đến đâu nhưng nếu không có gia đình thì đó vẫn chỉ là cuộc đời bất hạnh.

Vậy gia đình là gì và chúng ta hiểu như thế nào là gia đình? Theo định nghĩa khoa học, gia đình là một cộng đồng người cùng chung sống, gắn bó với nhau bằng các mối quan hệ huyết thống, hôn nhân và tình cảm, cũng có thể là quan hệ nuôi dưỡng hay giáo dục. Gia đình đã tồn tại từ rất sớm và trải qua quá trình phải triển lâu dài, có thể nói gia đình có ý nghĩa quan trọng không chỉ với con người mà còn tác động mạnh mẽ đến xã hội. Đối với xã hội, gia đình là một thiết chế xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình xã hội hóa con người. Đối với con người, gia đình mang nhiều vai trò quan trọng bậc nhất mà không có một tổ chức hay cộng đồng nào có thể thay thế được. Gia đình là nơi có cha và mẹ của ta, là nơi ta được sinh ra, là cội nguồn tồn tại của ta trên cõi đời này; mọi người trong gia đình đã cho ta được tồn tại, được yêu thương vô bờ bến. Cho ta một không gian sống để bước những bước đầu tiên trong cuộc đời, khi ta còn quá non nớt và bé bỏng, gia đình là nơi chăm sóc, nuôi dưỡng và che chở cho ta được an toàn lớn lên. Chỉ có tình cảm của những người trong gia đình mới là thứ tình cảm cho đi mà không cần nhận lại, nơi đó chan chứa bao nhiêu tình cảm thương yêu, đùm bọc và cao đẹp mà những người thân dành cho nhau. Đến khi chúng ta lớn lên và trưởng thành, bước ra ngoài cuộc sống để mưu sinh, ai cũng phải đối mặt với khó khăn và thử thách của cuộc đời, đứng trước khó khăn đó gia đình chính là điểm tựa vững chắc cho ta sức mạnh và niềm tin giúp đỡ ta vượt qua khó khăn. Dù có thất bại hay gục ngã trước sóng gió cuộc đời, chúng ta vẫn có một nơi bình yên nhất là mái ấm gia đình để trở về. Mãi cho đến khi cuối đời, chúng ta đã nếm trải đủ vị đắng cay ngọt bùi của cuộc sống, đã đến lúc nghỉ ngơi thì gia đình lại là một bến đỗ cho tất cả mọi người. Ai chẳng muốn những năm tháng còn lại của cuộc đời được sống bên người thân yêu, được sống trong tình cảm yêu thương, tránh xa mọi bộn bề và bon chen của cuộc sống, có gia đình để nương tựa lúc về già là hạnh phúc lớn lao. “Gia đình giống như một cái cây”, mỗi cá nhân chúng ta giống như cành cây, trưởng thành theo nhiều hướng khác nhau nhưng vẫn chung một cội rễ. Gia đình chính là nơi nuôi dưỡng tâm hồn, hình thành nhân cách con người cho chúng ta, mái ấm gia đình cũng là mái trường đầu tiên ta được học, học từ những thứ căn bản, đơn sơ nhất trong nếp sống, sinh hoạt đến cách đối nhân xử thế. Chính vì vậy, người ta thường nói gia đình phải có gia phong, lễ nghĩa, nề nếp và nếp sống của gia đình sẽ quyết định đến chiều hướng phát triển nhân cách của chúng ta. Một gia đình gia giáo, con cái được dạy dỗ đến nơi đến chốn sẽ trở thành những người có phẩm chất, nhân cách tốt đẹp, ngược lại nếu gia đình thường bất hòa, mâu thuẫn và chia rẽ sẽ khiến con cái lớn lên trong ác cảm, tự ti và thù hận. Nếu điều hạnh phúc nhất là có gia đình thì điều tồi tệ nhất chính là sự tan vỡ gia đình. Đối với người đã trưởng thành, đó là một mất mát to lớn, khiến họ mất đi chỗ dựa, chẳng còn bến đỗ bình yên để trở về, nhưng đã trưởng thành vẫn còn may mắn hơn là trẻ thơ, nếu trẻ thơ mất đi gia đình sẽ trở thành trẻ mồ côi, cơ nhỡ, không người chăm sóc, lang thang đầu đường xó chợ. Có thể nói, gia đình tan vỡ trẻ em sẽ là người chịu tổn thương và bất hạnh nhất. Đối với xã hội, khi gia đình tan vỡ giống như mất đi một tế bào có lợi, sản sinh ra thêm nhiều tế bào có hại, bởi không có gia đình con người ta khó được giáo dục nên người, khi ra ngoài xã hội chỉ gây ra những tệ nạn, thói hư tật xấu làm ảnh hưởng đến mọi người và bộ mặt xã hội.

Mỗi cá nhân chúng ta phải cảm thấy thật may mắn khi có được mái ấm gia đình bởi ngoài kia còn có biết bao nhiêu người bất hạnh không có gia đình. Nhìn vào họ, ta hãy cố gắng gìn giữ hạnh phúc gia đình, nâng cao trách nhiệm của bản thân với những người thân trong gia đình, không nên vì bất cứ lý do gì mà làm tổn hại đến chính mái nhà hạnh phúc và những người yêu thương mình.

5. Nghị luận xã hội về vai trò của gia đình đối với mỗi cá nhân trong xã hội mẫu 4

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Gia đình là tế bào của xã hội”. Thật vậy, đó là nơi nuôi dưỡng, chở che cho mỗi chúng ta từ khi còn bé cho đến lúc lớn, nó luôn ở bên cạnh ta, nâng niu che chở cho mỗi chúng ta. Gia đình là nơi nuôi dưỡng tâm hồn của mỗi người. Tất cả chúng ta ngồi đây ai cũng đã, đang và sẽ có một gia đình mà chắc rằng nó sẽ không bao giờ được như tôi mơ ước.

Trong quá khứ, tôi đã từng có một gia đình, nơi đã nuôi dưỡng, che chở cho tôi từ lúc mới lọt lòng. Tôi sống trong tình yêu thương, đùm bọc của bố mẹ. Tôi sống, sống trong sự quan tâm, sống trong sự chở che… Rồi dần dần, càng ngày tôi càng núp trong một cái bóng, cái bóng của chính tôi. Chẳng có gì tôi phải đụng tay đến, tôi chẳng được làm những gì mà mình thích. Tất cả phải theo ý bố mẹ…

Bố vẫn thường dạy tôi về cách sống, cách làm người… Nhưng thử hỏi đã bao giờ tôi được làm chính tôi… Tôi luôn tự tạo cho mình một cái vỏ bọc để che giấu đi con người thực sự của mình. Mọi người thấy tôi hay cười… nhưng có ai biết, đó chỉ là những nụ cười giả tạo mà tôi cố gắng để che giấu đi nỗi đau của chính bản thân mình… Tôi đã từng ghét chính cuộc sống đó. Nhiều lần, tôi đã cố gắng để thoát ra khỏi cái vỏ bọc ấy. Nhưng rồi, tôi lại càng tiến sâu hơn.

Một ngày nọ, tôi phát hiện ra, bố tôi, người mà luôn che chở, dạy bảo cho tôi lại là một người… một người mà tôi…khinh bỉ… Đúng là cha nào con ấy… Tôi tự tạo vỏ bọc cho mình để che giấu con người thật của tôi. Bố tôi cũng thế, ông đã tạo ra cho mình một cái vỏ bọc thật hoàn hảo để che giấu con người mình, lừa gạt tất cả, và cả tôi.

Tôi sống vì cái gì? Gia đình ư? Nhiều lúc tôi đã dẫm đạp lên nó… Tôi tự tách mình khỏi gia đình, và tách ra khỏi chính bản thân tôi. Tôi hoàn toàn là một con người khác…

Nhiều lúc chán cuộc sống giả tạo đó, tôi đã tìm, tìm đến một nơi, một nơi mà ở đó không có sự giả dối, và hơn cả, tôi được làm chính tôi: THẾ GIỚI ẢO. Dẫu biết rằng, tất cả chỉ là ảo, nhưng những gì tôi có thật gấp trăm nghìn lần cái thế giới mà tôi sống.

Ở đó, có người mà tôi yêu, có sự quan tâm, có tất cả những thứ mà thế giới thật đã có, hoặc không có… Tôi đã tìm lại được tiếng cười, cười một cách thật tự nhiên. Có những buổi offline làm tôi nhớ mãi…

Một phút xa nhau vạn phút nhớ

Một lần gặp gỡ vạn lần mơ.

Lạ thật, tôi đã từng mơ về một hạnh phúc được sống trong một gia đình thật, nhưng không ngờ đó chỉ là ẢO… Nhưng không sao, có lẽ đối với tôi đó cũng là một cái gì đó, một thứ gì đó thật khác biệt…

Thật lạ, hôm nay, ngày tôi viết bài văn này cũng là ngày kỉ niệm, ngày chúng tôi gặp nhau trong một gia đình (ẢO)… Nhưng tôi đang cố gắng gìn giữ một cái gì đó, dù biết nó chỉ là ẢO và lời nói có thể là giả tạo nhưng ít ra có còn hơn không. Hơn cả, tôi được làm chính tôi. Tương lai, một ngày nào đó tôi cũng sẽ có một gia đình. Gia đình đó sẽ như thế nào đây?

Gia đình… Không biết đối với các bạn, đó là gì? Nhưng đối với tôi, nó là một cái gì đó mà có lẽ cả đời này tôi cũng chẳng bao giờ với tới được.

Bạn đang xem bài viết Vai Trò, Vị Trí Của Doanh Nhân Trong Xã Hội trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!