Cập nhật thông tin chi tiết về Vấn Đề Chân Lý :: Suy Ngẫm &Amp; Tự Vấn :: Chúngta.com mới nhất trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
1. Chân lý có tính tuyệt đối và khách quan.2. Chân lý có tính chủ quan, là vấn đề thuộc về ý kiến và nhận thức của cá nhân.3. Chân lý – thực thể bất khả đắc tư nghì.
Gorgias xứ Leontium phát triển quan điểm của Protagoras và hình thành nên một học thuyết mang tính hư vô (khẳng định rằng chân lý không tồn tại) và hoài nghi (khẳng định rằng không thể biết chắc được điều gì cả). Ông đưa ra tam đoạn luận như sau:
1. Không có gì thực hữu.2. Nếu có sự thực hữu, chúng ta không thể nào biết chắc về nó.3. Và nếu có ai đó tình cờ nhận thức được sự thực hữu, anh ta cũng không có khả năng truyền đạt lại điểu ấy cho người khác.
(1) Baruch de Spinoza (1632 – 1677): Triết gia Do Thái, sống tại Hà Lan, Tìm kiếm chân lý vượt khỏi khuôn khổ Kinh Thánh, chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng của Descartes, ông bị trục xuất ra khỏi cộng đồng giáo hữu Do Thái của mình. Spinoza quan niệm rằng Thượng Đế đồng nhất với toàn thể vũ trụ, chứ không phải cai quản vũ trụ, một quan niệm được xem là phiếm thần luận. Năm 1661, ông viết tác phẩm nổi tiếng “Đạo đức học” (Ethies), tác phẩm bị cấm lưu hành trong suốt thời gian ông còn sống. Ngoài ra, ông cũng là tác giả của quyển “Khái luận thuần học – chính trị”. Ông mất vào tuổi 44 vì bệnh lao. Triết học của ông có ảnh hưởng rất lớn đối với các triết gia Đức như Leibnitz, Fiche, Schelling và nhất là Hegel, thúc đẩy sự phát triển của chủ nghĩa vô thần, tự do tôn giáo và khoa học sau đó. (Theo “Sổ tay danh nhân thế giới” của nhà xuất bản Thanh niên, năm 1999) (ND)
Đối với Spinoza, thực tại tối hậu (Chân tính hay Thượng Đế) là một hệ thống lý tính, trong đó mỗi khía cạnh liên kết chặt chẽ với những khía cạnh còn lại.
Đối với Hegel, “chân lý toàn bích”, một hệ lý tính tổng thể, trong khi “sai lầm là sự phân mảng”, những phần bị phân cách khỏi hệ thống tổng thể, rời rã và manh mún. Vì thế, chân lý là thành quả nhận thức viên mãn.
Theo các triết gia thời đại mới của trường phái Hegel tại Anh như Blanshare, Bradley và Brightman, “chân lý là tuyệt đối”, xuyên suốt và bao trùm tất cả; trong khi sai lầm là những mảnh vụn phân cách khỏi tổng thể ấy,
Cuối cùng, Rudoft Carnap tạo nên đôi chút khác biệt khi cho rằng một nhận định là đúng nếu nó có thể gắn kết tư sản với một học thuyết (hay hệ biểu tượng) đã được nhìn nhận
(2)Meta-language: Ngôn ngữ hay tập hợp các biểu tượng được sử dụng khi nói về, hay mô tả một ngôn ngữ khác. (ND) (3)Trích từ tác phẩm ” Về bản chất của chân lý“ (On the Essence of Truth) của Martin Heidegger (bản dịch Anh ngữ của R. F. C. Hull và Alan Crick.) (TG) (4)Socrates (469-399): Triết gia Hy Lạp cổ đại. Mặc dù đôi lúc người ta vẫn xem ông là người sáng lập ra ngành triết học, ông không thể để lại một tác phẩm nào. Chúng ta biết được tư tưởng của ông thông qua các bài thoại của Plato, học trò của ông. Ông bị vu tội làm băng hoại giới trẻ bằng các bài giảng của mình và bị xử chết bằng thuộc độc. (ND)
Hạnh Phúc :: Suy Ngẫm &Amp; Tự Vấn :: Chúngta.com
Sách “Cội nguồn cảm hứng”, Chương 8
Hạnh phúc
Con người ở bất kỳ thời đại nào đều có chung một mục đích là theo đuổi cuộc sống hạnh phúc. Không ai trên đời này không mong cầu hạnh phúc. Mong cầu hạnh phúc và đi tìm hạnh phúc là dấu hiệu nhận biết sự lành mạnh của mỗi con người. Suy cho cùng, tất cả ý nghĩa, giá trị, niềm vui của cuộc sống mà chúng ta cảm thấy đều được gói gém trong khái niệm hạnh phúc. Đó là một khái niệm triết học rộng lớn phản ánh mục tiêu phát triển của toàn nhân loại. Nhưng trong quá trình đi tìm hạnh phúc, con người lại khoanh khái niệm này thành những mục tiêu rất hạn hẹp và cụ thể, ví dụ quy thành niềm vui, hay sự thỏa mãn…
Vậy, hạnh phúc có phải là một trạng thái tinh thần nhất thời của con người và có đơn giản chỉ là sự thỏa mãn các đòi hỏi hay không? Bản chất của hạnh phúc thật sự là gì? Trước những cuộc khủng bố liên tiếp xảy ra trên khắp thế giới vào những năm gần đây, chúng ta buộc phải đặt câu hỏi: loài người có thật hạnh phúc không? Vì thế, tôi muốn truy đuổi khái niệm hạnh phúc để tìm ra đâu là yếu tố cơ bản tạo nên hạnh phúc của con người.
I. Hạnh phúc là gì? 1. Hạnh phúc có phải là sự thỏa mãn?
Phải thừa nhận rằng, nếu không có cảm giác thỏa mãn thì con người không thể có cảm giác hạnh phúc. Nhưng cảm giác thỏa mãn có được bằng cách nào là yếu tố cần phải xem xét để từ đó có thể kết luận người đó có hạnh phúc thật hay không. Tất nhiên, sự thỏa mãn sẽ đến khi con người thấy những nhu cầu của mình được đáp ứng đầy đủ và cảm thấy hài lòng với cuộc sống. Song, tôi muốn nói đến khía cạnh nhầm lẫn của con người trong sự thỏa mãn, hay một trong những cách mà con người tìm thấy giá trị của mình, tìm thấy cảm giác thỏa mãn của mình là qua sự so sánh. So sánh có phải là cách để con người có được hạnh phúc thật sự không? So sánh là một động lực của cạnh tranh, của việc hoàn thiện các khả năng nhưng nếu con người đi tìm cảm giác hạnh phúc trong việc xác nhận mình có ưu thế với tất cả những đối tượng so sánh thì đấy chính là khuyết tật của con người khi nhận thức về hạnh phúc. Tại sao con người phải đi tìm một cách khổ sở như vậy sự hơn người của mình? Nhìn sâu hơn vào tâm hồn, chúng ta sẽ thấy mỗi người đều có những lúc như thế. Nếu chúng ta thua trong phép so sánh cụ thể này thì chúng ta đi tìm sự thắng ở trong phép so sánh cụ thể khác.
Rất nhiều nhà chính trị, nhà giáo dục, nhà đạo đức học nhầm lẫn rằng so sánh giúp con người hoàn thiện mình. Vì họ quan niệm, ở trong những phép so sánh, các phẩm chất có thể nâng lên được bằng cách con người tự cố gắng. Nhưng như thế, so sánh cũng chỉ là một động lực của việc hoàn thiện, còn con người có hoàn thiện hơn được hay không là do nhiều nhân tố khác. Nếu cứ tiếp diễn các phép so sánh để tìm thấy hạnh phúc thì chính quá trình đó sẽ trở thành một cuộc hành hương bất tận của con người đến sự bất hạnh. Bất hạnh vì mình thua trong các phép so sánh ấy, thậm chí, ngay cả khi người ta tìm thấy mình thắng trong mọi phép so sánh dọc quá trình hình thành nhân cách của mình, người đó sẽ trở thành một kẻ tự mãn, kiêu ngạo. Thắng lợi của những phép so sánh như vậy càng lớn bao nhiêu thì con người càng bị cô lập bấy nhiêu đối với những người xung quanh. Nhưng đó chưa phải là đỉnh cao nhất, chưa phải là giới hạn cao nhất của sự bất hạnh. Giới hạn cao nhất của bất hạnh chính là sự phá hoại những điều tốt đẹp. Bởi vì một kẻ nhìn thấy mình hơn thì sẽ tự cho mình quyền coi thường người khác. Khi con người có một cái quyền phổ biến là coi thường những người xung quanh, con người trở nên tha hóa về mặt phẩm chất và cô đơn về mặt tâm lý. Con người ấy còn tệ hơn nữa là xây dựng tất cả các tiềm lực để có thể lộng hành trong việc xây dựng các quan hệ. Liệu những người tham nhũng có hạnh phúc không? Liệu những kẻ buôn lậu, những kẻ buôn bán ma túy có sự thỏa mãn thật về tiền bạc nhưng có hạnh phúc hay không?
Hạnh phúc không phải là cảm giác thỏa mãn thuần túy và nhất thời. Thỏa mãn là một khái niệm bản năng. Nhưng hạnh phúc không phải là một khái niệm bản năng, hạnh phúc là một khái niệm văn hóa. Muốn biết mình hạnh phúc hay bất hạnh, con người phải có được các nền tảng văn hóa hay những kinh nghiệm về hạnh phúc. Đó chính là sự từng trải của con người trước các đối tượng có thể so sánh. Những giới hạn thấp làm cho con người thỏa mãn nhưng không làm cho con người hạnh phúc, bởi vì chỉ cần nhìn lên những giới hạn cao hơn, họ sẽ đau khổ. Vì thế, không vươn tới những sự thỏa mãn lớn hơn cũng có nghĩa là con người không phát triển các nhu cầu của mình, do đó con người không phát triển. Càng thỏa mãn một cách giản đơn bao nhiêu thì chỉ tiêu để xác lập sự chậm phát triển càng rõ rệt bấy nhiêu. Do vậy, chúng ta không nên hiểu sự thỏa mãn một cách đơn giản. Sự thỏa mãn cũng có các cấp độ của nó. Nếu để xác lập một mối liên hệ giữa hạnh phúc và sự thỏa mãn thì tôi cho rằng, hạnh phúc là năng lực biết thưởng thức và gìn giữ cho bền vững tất cả những gì tạo ra sự thỏa mãn. Và phát triển chính là phá vỡ mọi sự thoả mãn đơn giản.
2. Hạnh phúc như là lẽ phải tâm hồn
Quay trở lại ví dụ về sự thỏa mãn của những kẻ tham nhũng, buôn lậu, để biết sự thỏa mãn ấy có đem lại hạnh phúc thật sự hay không, chúng ta phải trả lời câu hỏi: sự thỏa mãn ấy có đúng đắn không? Bởi hạnh phúc không chỉ phản ánh sự tràn ngập cảm giác tốt đẹp hoặc vui vẻ của một con người, hạnh phúc còn là một trạng thái tinh thần thể hiện sự đúng đắn của con người về mặt nhận thức cũng như đạo đức. Con người không thể hạnh phúc khi xác lập cảm giác thỏa mãn của mình trên cơ sở sự hơn người. Hạnh phúc chỉ có được khi con đường đi đến hạnh phúc là đúng đắn và tâm hồn con người yên ổn. Bản chất sự yên ổn của con người chính là người ta tìm thấy sự tốt đẹp trong những người xung quanh. Tìm thấy niềm tin của mình đối với những người xung quanh không chỉ là một trong những nguyên lí căn bản để xây dựng cảm giác hạnh phúc của con người mà còn là nguyên lí căn bản để xây dựng thái độ đạo đức, các nguyên tắc về mặt đạo đức trong khi chung sống. Con người không tìm thấy sự thanh thản, không tìm thấy dấu hiệu hạnh phúc trong đời sống tinh thần, hay không gian tinh thần của con người không tràn ngập cảm giác hạnh phúc thì đó là một dấu hiệu báo động cho mỗi một người rằng anh ta đang sai. Cái sai đấy thể hiện một nguyên lý phổ biến về tính chính xác của năng lực hợp tác, phương pháp hợp tác giữa con người với cộng đồng. Vậy cơ sở của sự đúng đắn là gì? Đó chính là lẽ phải tâm hồn.
Lẽ phải tâm hồn làm cho hạnh phúc trở thành một cảm giác phổ biến. Suy ra cho cùng, đời sống con người là một tập hợp các cảm giác, trong đó, hạnh phúc có mặt và cần phải có ở trung tâm của mọi cảm giác còn lại. Bởi vậy, chúng ta phấn đấu để khả năng hạnh phúc là phổ quát trong mọi trường hợp tương tác giữa con người với con người, hay làm cho hạnh phúc là cảm giác phổ biến trong đời sống tinh thần mỗi người. Nếu có công cụ để tìm ra hạnh phúc trong mọi sự tương tác thì công nghệ ấy cần phải trở thành công nghệ phổ quát, vì chính sự phổ quát của hạnh phúc tạo ra sự khuyến khích con người tiếp tục tồn tại và phát triển. Một con người hạnh phúc là một con người mà cảm giác hạnh phúc phổ quát trong đời sống tinh thần. Do đó, tôi mới nói rằng hạnh phúc không phải là một khái niệm bản năng, hạnh phúc là một khái niệm văn hóa, nó phải trở thành tiêu chuẩn cho sự đúng đắn của con người trong đời sống. Điều đó có nghĩa là con người phải biết tạo dựng hạnh phúc từ lẽ phải tâm hồn của mình.
Lẽ phải của một con người là cảm giác hạnh phúc của chính người đó. Người ta hạnh phúc vì lẽ phải tràn ngập trong tâm hồn. Khi nào hạnh phúc của mỗi người được tạo dựng trên cơ sở lẽ phải tâm hồn thì khi đó, hạnh phúc của từng cá nhân sẽ bồi đắp nên hạnh phúc dân tộc. Tôi cho rằng, khi hạnh phúc trở thành yếu tố phổ quát trong miền tinh thần của một dân tộc thì đấy chính là hạnh phúc chung. Hạnh phúc chung không phải là một không gian có mặt đầy đủ trong từng con người nhưng là một không gian có thật trong hạnh phúc của từng người. Một dân tộc hạnh phúc là một dân tộc tất cả mọi con người đều hạnh phúc, tự tin vào tương lai của mình. Để có được hạnh phúc, điều đầu tiên mà mỗi con người cần làm chính là rèn cho mình năng lực đi tìm lẽ phải, tạo dựng hạnh phúc trên cơ sở lẽ phải tâm hồn.
II. Miền triển vọng và hạnh phúc bền vững
1. Thế nào là hạnh phúc bền vững?
Nếu con người không có năng lực để đánh giá sự đúng đắn hay xác lập sự đúng đắn trong khi tiến hành các hành vi của mình, con người không thể có hạnh phúc bền vững. Nhận thức được các tất yếu sẽ làm cho con người trở nên đúng đắn. Ví dụ, con người không thể tìm thấy hạnh phúc trong các phép so sánh kém, nhưng con người có thể hạnh phúc nếu tự tin vào những gì mình có. Khi nào con người tự tin đem so sánh với tất cả những người có địa vị như mình thì người ấy có cảm giác hạnh phúc bền vững. Còn nếu con người thấy lép vế trong bất kỳ tương quan cùng địa vị với mình thì người ta không thể đạt được trạng thái hạnh phúc. Người thành đạt hạnh phúc hơn người không thành đạt, nhưng cũng có thể so sánh giữa những người không thành đạt với nhau. Khi một người thấy rằng, có những người trên toàn thế giới có tương quan như mình và cũng có trạng thái như mình thì người đó sẽ không thắc mắc về sự hẩm hiu của mình nữa, không bi kịch hóa sự bất hạnh của mình. Con người cần phải yên tâm với các trạng thái vốn có của mình. Ví dụ, con người chạy đến sát bờ vực, cảm giác thỏa mãn lúc đầu có đến, nhưng khi rơi xuống vực, quá trình rơi từ mép vực xuống đáy cũng đủ thời gian để con người nhận ra rằng hạnh phúc không có được trong các cảm giác chủ quan, mà hạnh phúc có được bằng sự nhận thức cái tất yếu. Nếu con người biết rất rõ sau bờ vực là sự rơi tự do của mình, và nếu người ta chuẩn bị một cái dù để rơi thì con người được quyền hưởng thụ cảm giác hạnh phúc khi bay. Như vậy, con người cần nới rộng khả năng của mình ra khỏi các ranh giới để phát triển. Do đó, hạnh phúc bền vững chính là hạnh phúc được xác lập trên cơ sở con người có được bản lĩnh để duy trì cảm giác ấy trong bất kỳ điều kiện nào mà con người nhận thức đúng.
Sự đúng đắn của con người đem so sánh trong những không gian khác nhau, với những khoảng thời gian khác nhau và nếu như trong những tương quan ấy con người vẫn cảm thấy thỏa mãn thì đấy chính là một dấu hiệu hạnh phúc có chất lượng bền vững, và nếu nó không lạc hậu về mặt thời gian thì sự bền vững ấy còn lớn hơn. Như thế, hạnh phúc là một khái niệm cực kỳ tinh tế trong phân tâm học. Hạnh phúc là cảm giác có thực, cảm giác của lẽ phải và nó mô tả được tính triển vọng sau này. Bởi vì, nếu như hạnh phúc là giả thì nó chuyển sang tự mãn. Vậy làm thế nào để con người phân biệt được thước đo mà mình lựa chọn? Cái thước đo mà con người lựa chọn hoàn toàn lệ thuộc vào kinh nghiệm của mình. Nếu con người có lác đác một vài cảm giác hạnh phúc thì đó chưa phải là người hạnh phúc. Người hạnh phúc là người tìm thấy tính phổ biến của công nghệ tìm ra hạnh phúc, nếu có sự tương đồng giữa cảm giác hạnh phúc của mình và đối tượng mà mình tương tác thì người đó sẽ thấy hạnh phúc của mình là hạnh phúc chắc chắn. Vì, nếu không có sự tương đồng thì cảm giác hạnh phúc của người đó là chủ quan. Mà cảm giác chủ quan không phải là lẽ phải và do đó không phải là hạnh phúc thật.
Con người nhầm lẫn hạnh phúc là sự thỏa mãn, do vậy, khi không còn cảm giác thỏa mãn nữa thì con người thấy hạnh phúc mong manh. Có một bức tranh của một họa sĩ Nga vẽ một cái ghế bị cưa cụt một chân, trên đó đặt một quả táo. Người ta giải thích tác giả muốn ngụ ý rằng quả táo đó là tượng trưng cho hạnh phúc, có nghĩa là hạnh phúc luôn chênh vênh và mỏng manh. Thực ra, bền vững là một quá trình, mong manh là một trạng thái. Nhận thức về sự mong manh của những cái mình có chính là sự thức tỉnh vĩ đại để nói với con người rằng: hãy cảnh giác, hãy bớt một phần hưởng thụ cảm giác hạnh phúc để giữ gìn hạnh phúc. Bởi vì, nếu như người ta hưởng thụ hạnh phúc một cách tuyệt đối thì thành thỏa mãn và đó chính là nền tảng của tự mãn, nhưng nếu như người ta không hưởng thụ hết tất cả cái vốn liếng mà mỗi một cảm giác hạnh phúc mang lại, người ta cảnh giác để giữ gìn nó thì con người sẽ có được sự bền vững của hạnh phúc. Điều đó có nghĩa là, con người phải biết đổi từng mẩu hạnh phúc có hàng ngày lấy một sự cảnh giác để giữ gìn nó. Cho nên. mong manh và bền vững là hai thuộc tính của khái niệm hạnh phúc. Khi con người có lẽ phải và lẽ phải ấy là phù hợp với những không gian, thời gian khác nhau thì con người có hạnh phúc bền vững. Hạnh phúc bền vững là hạnh phúc thực sự và đó là mục tiêu của cuộc sống con người, mục tiêu của sự phát triển.
2. Hạnh phúc bền vững – miền chung sống giữa thành tựu và triển vọng
Ở đâu có sự chung sống giữa niềm tự hào về dĩ vãng với năng lực tạo ra miền triển vọng thì ở đấy có hạnh phúc. Tôi cho rằng, xét về mặt cấu trúc các yếu tố hợp thành hạnh phúc thì hạnh phúc bền vững là một không gian tinh thần mà ở đấy có sự chung sống, sự hợp tác giữa quá khứ và tương lai, giữa thành tựu và triển vọng. Chúng ta đều biết, nếu con người không có quá khứ thì con người không có niềm tự hào, dĩ vãng hay sự thành công tạo ra một trong những nền tảng vững chắc của hạnh phúc. Không có quá khứ, hay quá khứ là một hoang mạc thì con người đi đến tương lai như một kẻ vất vưởng, nhưng nếu con người có thành tựu, có quá khứ hào hùng thì họ đi đến tương lai như một người chiến thắng. Và con người có duy trì được hạnh phúc đó trong tương lai hay không là tuỳ thuộc vào triển vọng của họ như thế nào. Do đó, hạnh phúc là mảnh đất có sự chung sống giữa thành tựu và triển vọng.
Tuy nhiên, hạnh phúc mà con người mong chờ lại luôn nằm ở tương lai. Con người tìm thấy hạnh phúc khi con người nhận ra được lợi ích về tương lai. Con người không thể tìm thấy lợi ích trong quá khứ, vì quá khứ là một miền thật đã qua. Phải ăn tạm các món của dĩ vãng chính là một trong những dấu hiệu bất hạnh của cả cá nhân lẫn cộng đồng. Vì thế, con người chỉ hạnh phúc thật sự khi tìm được lối thoát hợp lý cho mình tại mỗi một thời điểm mà con người có trách nhiệm phải tìm ra phương hướng cho tương lai. Toàn bộ sự sáng suốt của con người là tìm ra khuynh hướng phát triển. Khuynh hướng đúng là con người phá vỡ được các giới hạn của khả năng để phát triển và tìm thấy được những giới hạn khác cao hơn. Như vậy, không phải thành tựu mà chính triển vọng mới là dấu hiệu cơ bản của hạnh phúc bền vững.
Năng lực triển vọng nằm trong chính sự đa dạng tinh thần của mỗi người. Tôi lấy ví dụ, nếu một nhà thơ chỉ biết làm thơ thì anh ta trói buộc năng lực của mình vào thơ. Nhưng nếu cuộc sống thay đổi, anh ta không còn là nhà thơ nữa mà đi làm một công việc khác thì làm công việc khác ấy là một năng lực mới trong miền triển vọng của người đó. Đấy là sự đa dạng tinh thần. Ở đây, tôi muốn nhắc lại rằng đa dạng tinh thần phải là những năng lực sống luôn tồn tại và phát triển trong một con người. Bởi vì con người sẽ đến miền triển vọng của mình không chỉ với tư cách là người có năng lực để tồn tại trong đó mà còn là người giữ được giá trị của dĩ vãng. Hạnh phúc trọn vẹn khi con người đáp ứng được đầy đủ những nhu cầu của mình. Những người sử dụng lao động luôn luôn tìm cách làm cho năng lực lao động trở nên chuyên nghiệp. Tuy nhiên, con người bị khai thác chuyên nghiệp thì dễ phiến diện và không phải là con người chủ động. Con người ấy không có hạnh phúc, con người ấy chỉ tồn tại. Con người ở những nước lạc hậu vẫn nhầm lẫn giữa tồn tại và hạnh phúc. Sự tồn tại trong bất kỳ điều kiện nào không phải là hạnh phúc, mà sự tồn tại như mình vốn có trong bất kỳ điều kiện nào mới chính là hạnh phúc.
Người hạnh phúc là người chủ động, người biết rất rõ lộ trình sống, lộ trình làm việc, lộ trình cống hiến, lộ trình thưởng thức của mình và người ta thưởng thức một cách hợp lý tất cả những yếu tố mà cuộc sống đem lại. Nội dung sống của con người là kiểm soát hàng ngày những gì mình chịu trách nhiệm và cái vĩ đại của một con người chính là sự bám riết lấy cuộc sống đó. Cuộc sống mà con người chịu trách nhiệm càng dài, càng rộng bao nhiêu thì con người càng vĩ đại bấy nhiêu. Cho đến cuối cuộc đời, con người sẽ tìm đến một miền triển vọng mới, đó là Chúa, là Thượng Đế. Miền triển vọng lớn nhất và vô tận nhất của con người chính là thiên đường. Con người tự tin vào giây phút mình từ giã cuộc sống chính là tin mình sẽ đến một miền cao thượng hơn cái miền đã có. Năng lực phát triển lớn nhất của con người chính là năng lực để đi vào các miền cao thượng của đời sống con người. Mà để thiết kế ra tương lai hay để có được năng lực triển vọng, con người phải có tự do.
Định Nghĩa Về Cái Đẹp :: Suy Ngẫm &Amp; Tự Vấn :: Chúngta.com
Thưa tiến sĩ Adler,Có lẽ không có lĩnh vực nào mà ở đó sự bất đồng lại phổ biến như trong lĩnh vực của những phán đoán của chúng ta về cái đẹp. Có phải điều này có nghĩa rằng cái đẹp nằm trong mắt người nhìn ngắm, rằng nó là vấn đề phán đoán chủ quan đơn thuần? Hay là có một phẩm tính hoặc những phẩm tính nào đó trong đối tượng sẽ khiến chúng ta thấy nó đẹp? Tôi không biết các tác giả của những cuốn sách nổi tiếng có nói điều gì về cái đẹp khả dĩ giải quyết vấn đề khó xử này không.
J.E.T.
J.E.T. thân mến,
Hầu hết những người cố gắng định nghĩa cái đẹp đều nhất trí rằng nó dính dáng đến sự đáp ứng của ý thích. Chúng ta gọi một cái gì đó là đẹp khi nó làm chúng ta vui thích hay hài lòng ở một phương diện đặc biệt nào đó. Nhưng cái gì gây nên sự đáp ứng này từ phía chúng ta? Nó có phải là cái gì trong chính bản thân đối tượng? Nó chỉ là một phản ứng chủ quan từ phía chúng ta? Hay nó là sự kết hợp ít nhiều của hai điều này?
Chúng ta biết từ kinh nghiệm thông thường rằng mọi người không thấy đẹp đối với cùng đối tượng. Cái gì làm vui lòng một số người này lại không làm vui lòng những người khác. Thỉnh thoảng người ta vin vào điều này để nói rằng cái đẹp chỉ hiện hữu trong mắt người nhìn ngắm. Nhưng nó cũng có nghĩa rằng khi thị hiếu của một người được trau dồi, người ấy có thể hiểu rõ giá trị của những yếu tố của cái đẹp trong các đối tượng mà các đối tượng này lại không làm vui lòng những người khác bởi vì họ chưa biết cách đánh giá đúng cái đẹp đó.
Trong truyền thống của những tác phẩm lớn, hai lý thuyết nổi bật về cái đẹp được hình thành trong các trước tác của nhà thần học Cơ Đốc giáo, Thomas Aquinas, và trong các tác phẩm của một triết gia Đức hiện đại, Immanuel Kant. Aquinas và Kant dạy chúng ta rằng cái đẹp có phương diện chủ quan và phương diện khách quan. Khoái cảm thẩm mỹ mà một số đối tượng đem đến cho chúng ta có quan hệ với cái trác việt nội tại trong bản thân các đối tượng.
Luận điểm này đưa Aquinas đến phương diện khách quan của cái đẹp. Nó là cái gì trong đối tượng khiến cho nó khả tri như vậy – trong cách thế làm thỏa mãn hoặc làm vui lòng chúng ta như vậy? Câu trả lời của Aquinas là những sự vật đẹp đều có ba đặc điểm chính: tính nguyên vẹn, tính cân xứng, và tính trong sáng.
Cách dễ dàng nhất để chúng ta hiểu được cái gì ông ta nghĩ trong đầu là nhớ lại qui tắc chúng ta học trong trường để viết một bài luận hay. Chúng ta được dạy cho biết rằng một bài viết hay phải có sự thống nhất, trật tự, và mạch lạc. Nó phải là một tổng thể phức hợp trong đó mọi thành phần đều liên lạc với nhau một cách thích đáng và trong đó cấu trúc thống nhất của tổng thể nổi bật lên một cách rõ ràng. Cái gì đúng đối với một bài viết hay thì cũng đúng đối với một bức họa đẹp hay một bản nhạc tuyệt vời. Khi bất kỳ tác phẩm nghệ thuật nào “được làm tốt” như vậy, thì nó đẹp; và khi nó có cái trác việt này, nó hoàn toàn có thể được nhận biết và đem lại niềm vui thích cho người nhìn ngắm.
Lý thuyết của Immanuel Kant về cái đẹp được trình bày bằng những thuật ngữ hơi khác . Tương tự Aquinas, ông định nghĩa cái đẹp là cái gì mang lại cho người quan sát một kiểu vui thích không vụ lợi nào đó; nghĩa là, niềm vui thích, một cách thuần khiết và giản dị, đến từ sự thỏa mãn của chúng ta trong việc nhận biết đối tượng mà chúng ta đang chiêm ngắm. Nhưng trong lúc Aquinas đưa ra một phân tích về những yếu tố khách quan của cái đẹp, thì Kant viện đến một vài đặc điểm phổ quát của tinh thần con người làm nền tảng của ông để đưa sự phán đoán thẩm mỹ thực thụ về cái đẹp lên trên phản ứng vui thích chủ quan đơn thuần trong đối tượng. Đối với ông, cũng như đối với Aquinas, thị hiếu tốt có thể được trau dồi và những ai có nó đều có một thẩm định đúng đắn hơn về những gì thực sự là đẹp.
Suy Ngẫm Về Thói Ích Kỷ
“Thói ích kỉ” trong nhận định trên nên được hiểu là lối sống thực dụng, vụ lợi, đặt quyền lợi , địa vị của bản thân lên trên hết, mà không coi trọng lợi ích của tập thể hay quyền lợi của người khác. Những người nhiễm “thói ích kỷ” nhất định thờ ơ với cộng đồng, thờ ơ với những người sống xung quanh. Bới tôn chỉ của họ là “đèn nhà nhà nào rạng nhà ấy”, “sống chết mặc bây”. Hơn thế nữa, họ sẵn sàng vì quyền lợi của mình mà bỏ qua lợi ích chung của tập thể, hoặc thậm chí là gây tổn hại cho người khác.
Rõ ràng, trong ý niệm của những người nhiễm “thói ích kỷ”, không thể nào tồn tại hai tiếng “sẻ chia”. Bởi “sẻ chia” và “ích kỷ” là hai xu thế đối nghịch nhau. Nếu “ích kỉ” nghĩa là chỉ biết đến bản thân mình, thì “sẻ chia” là hành động hướng về người khác, “thương người như thể thương thân”. Người có khả năng sẻ chia là người có tấm lòng nhân hậu, biết cảm thông và thấu hiểu. Thông qua sẻ chia mà trái tim được sưởi ấm, linh hồn được cứu rỗi, và người gần người hơn, nhân tính hơn.
Sống trong cộng đồng, sẻ chia là cần thiết. Nhưng tiếc thay, “thói ích kỷ” vẫn đang tồn tại như một xu thế của xã hội hiện đại, con người bị cuốn vào vòng xoáy của dành giật, bon chen và những toan tính vật chất. Nếu một ngày nào đó thế giới chỉ còn lại những người ích kỷ, thì đời sống còn gì ngoài những trao đổi, mua bán? Nếu mọi cá nhân đều vụ lợi, thực dụng thì bất kì điều gì người ta làm – “yêu”, ghét, cười, nói, ăn cắp, tặng quà, làm từ thiện hay dồn ép người khác vào đường cùng … – dù là việc gì đi nữa, tất cả chúng đều được thực hiện nhằm mục đích nào đó, với chủ ý nào đó.
Nơi mà ích kỷ trở thành lối sống của con người thì tình yêu và sự sẻ chia sẽ không còn đất sống. Người ta cũng yêu đó! Nhưng chỉ là “tỏ ra yêu”, “giả vờ yêu”, hoặc tự lừa bịp và ảo tưởng rằng mình yêu, để được thỏa mãn lòng tham hay những nhu cầu mà họ cố giấu. Nơi ấy, tình yêu và sự sẻ chia chỉ còn là “những giá trị lạc lõng”, con người tự đào mồ để chôn cất trái tim mình… Cuối cùng, giả vờ yêu cũng là điều khó nữa, sẽ có lúc trung tâm tình yêu co lại, con người đi đến lãnh cảm, lạnh lùng và khô cứng. Lạnh lùng và khô cứng – nên nhớ rằng đây là những tính chất của xác chết.
“Khi thói ích kỉ trở thành lối sống của con người thì tình yêu thương và sự sẻ chia sẽ chỉ còn là những giá trị lạc lõng”.
Đây là một nhận định đúng đắn, được nêu ra như là lời cảnh tỉnh cho tất cả mọi người, đặc biệt là những ai đã và đang nhiễm “thói ích kỷ”. Tuy nhiên, ta hãy đào sâu suy nghĩ thêm một chút. Liệu con người có thể sống hoàn toàn không ích kỷ ? Và liệu bạn có sẵn sàng luôn nhận phần thiệt thòi về mình? Vì điều gì? Theo tôi, vấn đề không nằm ở chỗ bạn có nên giữ trong mình một chút ích kỉ hay không, quan trọng là chúng ta hạnh phúc và hài lòng với cuộc sống của mình. Ích kỉ hay hi sinh đều là không cần thiết. Một người ích kỉ chẳng khi nào vui được, anh ta đã lãnh cảm rồi, sao còn vui được nữa? Người biết cách hy sinh vì người khác thì có vẻ hạnh phúc hơn, nhưng sự viên mãn của anh ta không tràn đầy, niềm vui của anh ta không trọn vẹn. Anh ta cảm thấy thiếu vắng hay mất mát thứ gì đó. Nhưng vì anh ta hữu ích và có chút khác thường nên những con người kích kỷ xung quanh cứ ca tụng anh ta, khiến anh ta có cảm giác rằng mình đã đúng. Không nên ích kỷ và cũng không nhất thiết phải hy sinh, vậy thì điều gì còn lại?
Có một điều may mắn là “thói ích kỷ” không thuộc về bản chất ban sơ của chúng ta, và “hy sinh” cũng không là bản tính của ta. Chúng chỉ là những phẩm chất khả dĩ mà ta tiếp thu và bộc lộ trong quá trình sống. Bên trong một người ích kỷ – nếu chưa đi đến lãnh cảm – thường khởi lên những “tiếng nói nội tâm” khi anh ta làm điều gì đó trái với bản tính của mình. Và “tiếng nói” ấy rất nhỏ bé, tinh tế, thậm chí là phi ngôn ngữ. Anh ta có thể đối diện với nó hoặc phớt lờ nó. Và dù anh ta có nhận ra hay không thì nó vẫn có đó. Nắm bắt được “tiếng nói nội tâm” là dần bắt đầu sống thuận với bản chất của mình. Sống thuận với bản chất của mình thì những phẩm chất đẹp đẽ trong ta cũng tự nhiên hiển lộ.
Một đứa trẻ thì sống một cách tự nhiên, không bị chia chẻ thành nửa này, nửa kia. Nó sống vì bản thân một cách toàn bộ. Đứa trẻ không biết hy sinh là gì, nó cho vì nó muốn thế, nó cho mà không hề bận tâm. Nó làm mọi thứ từ niềm vui của chính nó, hạnh phúc của chính nó; nó không làm thế vì người khác nên không cảm thấy mất mát chút nào. Đó là sự cống hiến cao cả nhất, vượt trên cả hy sinh… Không những thế đứa trẻ còn vượt lên khỏi tính ích kỷ nữa. Người ích kỷ là kẻ nông cạn, hắn chỉ biết đến vật chất, quyền lợi và hư vinh. Những thứ đó chính là mục tiêu của đời hắn. Đứa trẻ biết nhiều thứ quý giá hơn, như là tình yêu, như là sẻ chia… Đứa trẻ không chỉ sống vì quyền lợi, nó sống vì cuộc sống (và quyền lợi là một phần trong đó). Nếu gọi là ích kỉ thì đó là một sự ích kỉ toàn bộ, sự ích kỉ ở tầm cỡ hoàn toàn khác.
Vui thay ta sống hồn nhiên, không ưu phiền, không hy sinh mà hy sinh, ích kỷ mà không ích kỷ. Ta sống toàn vẹn với thân thể này, trí tuệ và trái tim này … Thế rồi ích kỷ tự tiêu. Thế rồi, tình yêu tràn đầy.
– Du Li –
Bạn đang xem bài viết Vấn Đề Chân Lý :: Suy Ngẫm &Amp; Tự Vấn :: Chúngta.com trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!