Cập nhật thông tin chi tiết về Vấn Đề Pháp Lý Về Người Nước Ngoài mới nhất trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
1.Khái niệm về người nước ngoài Người nước ngoài, tức là người có quốc tịch nước ngoài, là quốc tịch của một nước khác không phải là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Do chính sách mở cửa của nước ta hiện nay nên số lượng người nước ngoài vào nước ta có nhiều loại với những mục đích khác nhau nhưng nhìn chung có thể phân thành: – Người nước ngoài tạm trú tức là người cư trú có thời hạn tại Việt Nam. – Người nước ngoài thường trú tức là người nước ngoài cư trú không thời hạn ở Việt Nam
Ngoài ra, còn có những trường hợp người nước ngoài quá cảnh, người nước ngoài nhập cảnh nhưng thời gian lưu ở Việt Nam không quá 48 tiếng; hoặc người nước ngoài mượn đường vào Việt nam không quá 3 ngày (72 tiếng) vv… Ở nước ta không có sự phân biệt đối xử giữa người nước ngoài. Họ đều được làm ăn sinh sống, quyền cư trú, đều chịu sự tác động của cùng một quy chế pháp lý hành chính.
2.Đặc điểm về quy chế pháp lý của người nước ngoài
– Tất cả những người nước ngoài cư trú, làm ăn và sinh sống tại Việt Nam đều bình đẳng về năng lực pháp luật hành chính, không phân biệt dân tộc, màu da, tôn giáo, nghề nghiệp;
– Quy chế pháp lý của người nước ngoài có những hạn chế nhất định so với công dân Việt Nam xuất phát từ nguyên tắc quốc tịch được quy định trong luật quốc tịch của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
– Người nước ngoài cư trú tại Việt Nam phải chịu sự tài phán của hai hệ thống pháp luật là hệ thống pháp luật Việt Nam và hệ thống pháp luật của nước mà họ mang quốc tịch.
3. Quyền và nghĩa vụ của người nước ngoài
Người nước ngoài phải chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của nhà nước Việt Nam. Họ không có quyền bầu cử và ứng cử vào các cơ quan quyền lực nhà nước và cũng không phải thực hiện nghĩa vụ quân sự. Người nước ngoài có công với nhà nước Việt Nam được xét khen thưởng, còn người vi phạm pháp luật Việt Nam sẽ bị xử lý theo pháp luật Việt Nam. Theo pháp luật Việt nam, chế độ pháp lý dành cho người nước ngoài bao gồm các vấn đề cơ bản sau:
a, Về vấn đề tạm trú
– Người nước ngoài được cơ quan quản lý xuất nhập cảnh tại cửa khẩu cấp giấy chứng nhận tạm trú trên lãnh thổ Việt nam khi có đăng kí tạm trú phù hợp với mục đích nhập cảnh trên lãnh thổ Việt nam. Thời hạn tối đa được chứng nhận tạm trú là 12 tháng;
– Người nước ngoài chỉ có thể đi vào nơi cấm người nước ngoài cư trú khi được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
– Người nước ngoài có thể đi lại không phải xin phép trong phạm vi tỉnh, thành phố thuộc trung ương hoặc các địa phương khác nếu mục đích đi lại phù hợp với mục đích tạm trú.
b) Về vấn đề thường trú
– Trong thời hạn 48 tiếng kể từ khi nhập cảnh, người nước ngoài phải đăng kí cư trú (thường trú) tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nơi đăng kí thường trú là Phòng Quản lý xuất nhập cảnh thuộc công an nơi thường trú.
– Trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày nhận đủ thủ tục hợp lệ, Phòng quản lý xuất nhập cảnh thuộc công an tỉnh cấp giấy chứng nhận thường trú. Trường hợp người nước ngoài muốn đăng kí, thay đổi nghề nghiệp, địa chỉ đã đăng kí hoặc thay đổi nơi thường trú phải làm thủ tục sửa đổi, bổ sung tại Phòng quản lý xuất nhập cảnh thuộc Công an tỉnh nơi cư trú.
– Ðối với người dưới 14 tuổi sống chung với cha mẹ hoặc người đỡ đầu là người nước ngoài thường trú tại Việt nam được cha hoặc mẹ đỡ đầu khai chung vào bản khai thường trú.
– Giấy chứng nhận thường trú có giá trị không thời hạn chỉ được cấp cho người có đủ các yêu cầu luật định và phải từ đủ 14 tuổi trở lên.
c) Về vấn đề trục xuất
Người nước ngoài có thể bị trục xuất nếu thuộc 1 trong các trường hợp sau:
– Có hành vi xâm phạm an ninh quốc gia;
– Bản thân là mối đe doạ tính mạng, sức khoẻ của những người khác tại Việt nam
– Ðã bị Toà án Việt nam kết án về tội hình sự và đã chấp hành xong hình phạt hoặc không còn nghĩa vụ chấp hành hình phạt;
d) Về vấn đề cư trú
Ðược quyền cư trú, đi lại trên lãnh thổ Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam.
đ) Vấn đề lao động và nghề nghiệp
– Người nước ngoài có quyền lao động nhưng không được tự lưa chọn nghề nghiệp như công dân Việt Nam. Hiện nay, có một số nghề kinh doanh mà người nước ngoài không được thực hiện là:
+ Nghề in và sao chụp;
+ Nghề cho thuê nghỉ trọ;
+ Nghề giải phẫu thẩm mỹ
+ Nghề khắc con dấu;
+ Nghề kinh doanh có sử dụng đến chất nổ, chất độc mạnh, chất phóng xạ;
+ Nghề sản xuất và sửa chửa súng săn, sản xuất đạn súng săn và cho thuê súng săn;
Ngoài những ngành nghề quy định chung nếu muốn làm những ngành nghề khác hoặc xin vào làm trong các xí nghiệp, cơ quan thì người nước ngoài phải được cơ quan công an nơi cư trú cho phép và cơ quan quản lý lao động hoặc quản lý ngành nghề đó chấp thuận.
e) Vấn đề y tế và giáo dục
– Ðược khám và chữa bệnh tại các cơ sở y tế của Việt Nam và phải chịu mọi chi phí về khám chữa bệnh theo quy định của nhà nước Việt Nam;
g) Vấn đề các quyền khác về xã hội
– Có nghĩa vụ lao động công ích và được hưởng phúc lợi xã hội theo quy định của pháp luật Việt Nam. Nếu là công nhân trong các cơ quan nhà nước thì người nước ngoài, người không quốc tịch cũng được hưởng các khoản trợ cấp như công nhân viên chức Việt Nam;
– Có quyền tư do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, quyền được bảo đảm bí mật về thư tín, điện tín, điện thoại, quyền được bảo hộ về tài sản, tính mạng, danh dự và nhân phẩm. Ðược nhà nước Việt Nam bảo hộ tính mạng, tài sản và quyền lợi hợp pháp khác trên cơ sở pháp luật Việt Nam và Ðiều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia.
Người Nước Ngoài Là Gì? Chế Độ Pháp Lý Dành Cho Người Nước Ngoài?
Người nước ngoài là gì? Chế độ pháp lý dành cho người nước ngoài là là chế độ mà người nước ngoài được hưởng khi làm ăn, sinh sống hay làm việc tại Việt Nam.
Hiện nay ở Việt Nam, định nghĩa về người nước ngoài được quy định ở nhiều văn bản.
Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh cư trú của người nước ngoài tại Việt nam 2014 thì ” Người nước ngoài là người mang giấy tờ xác định quốc tịch nước ngoài và người không quốc tịch nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú tại Việt Nam” và khoản 2 điều này thì “Giấy tờ xác định quốc tịch nước ngoài là loại giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài hoặc Liên hợp quốc cấp, gồm hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị thay hộ chiếu (sau đây gọi chung là hộ chiếu).”
Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật quốc tịch Việt nam năm 2008 thì ” Quốc tịch nước ngoài là quốc tịch của một nước khác không phải là quốc tịch Việt Nam.” và khoản 2 điều này thì “Người không quốc tịch là người không có quốc tịch Việt Nam và cũng không có quốc tịch nước ngoài.”
Như vậy, việc công dân của các nước khác nhau sống cùng công dân nước sở tại trong lãnh thổ của một quốc gia là một hiện thực khách quan. Việc nghiên cứu quy chế pháp lý của công dân nước ngoài không thể không tìm hiểu sâu khái niệm “người nước ngoài” đã được hình thành trong khoa học pháp lý ở nước ngoài và ở nước ta.Hiện nay. thuật ngữ “người nước ngoài” được sử dụng rộng rãi ở các nước cũng như ở Việt Nam và nó được hiểu rất rộng, bao hàm như sau: Người mang một quốc tịch nước ngoài; Người mang nhiều quốc tịch nước ngoài; Người không mang quốc tịch nước nào (gọi tắt là người không quốc tịch).
Ngoài ra, thuật ngữ “người nước ngoài” còn được hiểu là công dân nước ngoài. Trong pháp luật của nhiều nước trên thế giới, có một nét đặc trưng chung nhất là đều lấy dấu hiệu quốc tịch để định nghĩa người nước ngoài. Chế định quốc tịch được nghiên cứu sâu trong khoa học pháp lý không chỉ có ý nghĩa lớn trong Công pháp quốc tế (về dân cư) mà còn có ý nghĩa không nhỏ trong Tư pháp quốc tế (về người nước ngoài) và trong các ngành khoa học pháp lý khác.
Người nước ngoài là người không có quốc tịch của nước nơi mà họ dạng cư trú. Phân tích khái niệm trên ta thấy bất kỳ một cá nhân nào cư trú trên lãnh thổ một nước nhất định mà không mang quốc tịch của quốc gia đó đều là người nước ngoài. Quốc tịch luôn là căn cứ để xác định người đó là công dân nước nào hoặc là người không thuộc công dân nước nào (người không quốc tịch). Quốc tịch luôn luôn thuộc quy chế nhân thân của con người.
Khái niệm người nước ngoài hiểu theo nghĩa rộng trong một so văn bản pháp quy không chỉ dùng để chỉ thể nhân nước ngoài, mà còn dùng để chỉ pháp nhân nước ngoài, đôi khi còn để chỉ cả quốc gia nước ngoài nữa, Người nước ngoài theo nghĩa hẹp chỉ dùng để hiểu đó là công dân nước ngoài (hay thế nhân nước ngoài) hoặc thậm chí cả người không quốc tịch. Có thể nói cách hiểu như trên chỉ mang tính chất quy ước.
2. Các chế độ pháp lý dành cho người nước ngoài
Chế độ pháp lý dành cho người nước ngoài là là chế độ mà người nước ngoài được hưởng khi làm ăn, sinh sống hay làm việc tại Việt Nam.
Đây là chế độ được quy định phổ biến trong pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới. Nội dung cơ bản của chế độ này được thể hiện như sau: chế độ cho phép người nước ngoài được hưởng các quyền cũng như được thực hiện các nghĩa vụ ngang hoặc tương đương với những quyền mà nghĩa vụ của công dân nước sở tại đang được hưởng và sẽ được hưởng trong tương lai (trừ những ngoại lệ theo pháp luật quy định trong các trường hợp cụ thể). Có thể nói chế độ đãi ngộ như công dân đã thể hiện được mối quan hệ giữa người nước ngoài với công dân nước sở tại. Thể hiện mối quan hệ bình đẳng những quyền và nghĩa vụ giữa người nước ngoài và công dân nước sở tại. Và hơn thế nữa chế độ đãi ngộ như công dân cũng thể hiện việc tôn trọng nhân quyền của pháp luật nước sở tại dành cho những người không phải công dân của mình. Thông thường người nước ngoài được hưởng các quyền dân sự, thương mại, lao động và văn hóa như công dân nước sở tại. Tuy nhiên trong một số quan hệ xã hội người nước ngoài bị hạn chế một số quyền thậm chí không được hưởng một số quyền như công dân nước sở tại, ví dụ như quyền bầu cử, ứng cử và các quyền theo học các trường an ninh, quân sự … những quy định này rất dễ có trong quy định của các nước nhằm bảo vệ lợi ích và an ninh quốc gia. Bởi khi người nước ngoài được hưởng đãi ngộ như công dân thì vấn đề xác định chế độ đãi ngộ của người nước ngoài dựa trên chế độ đãi ngộ như đối với công dân nước sở tại, tuy nhiên nhìn từ góc độ pháp lý quốc tế những hạn chế đấy chỉ được chấp nhận khi không làm phương hại đến chuẩn mực quốc tế về nhân quyền ( ví dụ như những hạn chế đó không được dựa trên cơ sở phân biệt chủng tộc, giới tính, tôn giáo…
Như vậy chế độ đãi ngộ quốc gia là cơ sở để xác định năng lực pháp luật của người nước ngoài tại nước sở tại bao gồm 3 vấn đề cơ bản sau:
– Người nước ngoài được hưởng các quyền dân sự và lao động, cũng như thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác tương đương hoặc bằng với những quyền và nghĩa vụ mà công dân nước sở tại đang được hưởng và sẽ được hưởng trong tương lai. Ví dụ: trong giao kết hợp đồng.
– Người nước ngoài được hưởng quyền và nghĩa vụ như công dân nước sở tại không phải ở tất cả mọi mặt, người nước ngoài bị hạn chế ở một số quyền nhất đinh. Ví dụ: quyền bầu cử, quyền ứng cử, đề cử, quyền cư trú, quyền hành nghề, học tập trong lĩnh vực an ninh quốc phòng..
– Chế độ tối huệ quốc là người nước ngoài và pháp nhân nước ngoài được hưởng một chế độ mà nước sở tại dành cho người nước ngoài và pháp nhân nước ngoài của bất kỳ nước thứ ba nào đang được hưởng và sẽ được hưởng trong tương lai.
– Chế độ tối huệ quốc thì người nước ngoài cũng như pháp nhân nước ngoài được hưởng đầy đủ và hoàn toàn các quyền hợp pháp mà một quốc gia đã dành và sẽ dành cho bất kỳ một nhóm người nước ngoài cũng như pháp nhân nước ngoài đang sinh sống hay hoạt động tại lãnh thổ của quốc gia đó.
– Phạm vi áp dụng chủ yếu của chế độ này nằm trong thương mại và hàng hải được ghi nhận trong các điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia nhằm đưa lại những điều kiện và cơ hội như nhau cho công dân pháp nhân các nước khi tiến hành các hoạt động kinh doanh, thương mại trên lãnh thổ nước sở tại.
Ví dụ : Thuế nhập khẩu linh kiện xe máy vào Việt nam được áp dụng ở mức 50%, sau đó Việt nam kí kết hiệp định thương mại song phương với Nhật bản, quy định mức thuế mới đối lới linh kiện xe máy nhập khẩu từ Nhật bản là 30%. Khi đó nếu trong hiệp định giữa Việt nam và Trung quốc có quy định về việc hai bên giành cho nhau chế độ tối huệ quốc thì lúc này mức thuế nhập khẩu đối với linh kiện xe máy từ Trung quốc vào Việt nam sẽ tự động và ngay lập tức được điều chỉnh xuống còn 30%.
– Các ưu tiên, ưu đãi hoặc các đặc quyền này thường được quy định trong luật pháp của các quốc gia cũng như trong các điều ước quốc tế.
– Áp dụng đối với nhân viên ngoại giao, lãnh sự và nhân viên của các tổ chức quốc tế.
Cơ sở : người nước ngoài chỉ được hưởng chế độ đãi ngộ đặc biệt này trên cơ sở pháp luật quốc gia của nước sở tại hoặc điều ước quốc tế mà nước này tham gia. Trên thực tế các chế độ đãi ngộ đặc biệt này thường được áp dụng trong các quan hệ ngoại giao – quan hệ lãnh sự
Theo điều 29 Công ước viên năm 1961 về quan hệ ngoại giao thì nhân viên ngoại giao của nước ngoài ở nước sở tại được hưởng các chế độ đãi ngộ đặc biệt: “ thân thể của viên chức ngoại giao là bất khả xâm phạm. Họ không thể bị bắt hoặc bị giam giữ dưới bất kì hình thức nào. Nước tiếp nhận cần có sự đối xử trọng thị xứng đáng với họ và áp dụng mọi biện pháp thích đáng để ngăn chặn mọi hành vi xúc phạm đến thân thể, tự do hay phẩm cách của họ”
– Do các quốc gia có chế độ chính trị, nền kinh tế cũng như lịch sử khác nhau, cho nên trong thực tiễn chế độ có đi có lại được thể hiện dưới hai cách: có đi có lại thực chất và có đi có lại hình thức.
+ Có đi có lại thực chất: là một nước dành cho cá nhân hoặc pháp nhân nước ngoài một số quyền và nghĩa vụ hoặc những ưu đãi nhất định đúng bằng những quyền và nghĩa vụ cũng như những ưu đãi thực tế mà các cá nhân và pháp nhân của nước đó đã được hưởng ở nước ngoài kia. Có đi có lại thực chất được áp dụng ở những nước có cùng chế độ kinh tế – chính trị – xã hội.
+ Chế độ có đi có lại hình thức: Một nước dành cho cá nhân và pháp nhân nước ngoài một chế độ pháp lý nhất định như chế độ đãi ngộ như công dân hoặc chế độ đãi ngộ tội huệ quốc mà ở nước kia cũng đã dành cho công dân và pháp nhân nước mình một chế độ tương ứng như thế. Được áp dụng rất hữu hiệu trong quan hệ giữa các quốc gia có chế độ chính trị – xã hội khác nhau.
Một Số Vấn Đề Quản Lý Nhà Nước Về Kinh Tế
Bài làm
1. Khái niệm quản lý Nhà nước về kinh tế : Quản lý Nhà nước về kinh tế là sự tác động có tổ chức và bằng pháp quyền của Nhà nước lên nền kinh tế quốc dân nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước, các cơ hội có thể có, để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế đất nước đặt ra trong điều kiện hội nhập và mở rộng giao lưu quốc tế. Theo nghĩa rộng, quản lý Nhà nước về kinh tế dược thực hiện thông qua cả ba loại cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp của Nhà nước. Theo nghĩa hẹp, quản lý Nhà nước về kinh tế được hiểu như hoạt động quản lý có tính chất Nhà nước nhằm điều hành nền kinh tế, được thực hiện bởi cơ quan hành pháp (Chính phủ). 2. Quản lý Nhà nước về kinh tế vừa là một khoa học vừa là nghệ thuật, nghề nghiệp : a) Quản lý Nhà nước về kinh tế là một khoa học vì nó có đối tượng nghiên cứu riêng và có nhiệm vụ phải thực hiện riêng. Đó là các quy luật và các vấn đề mang tính quy luật của các mối quan hệ trực tiếp và gián tiếp giưã các chủ thể tham gia các hoạt động kinh tế của xã hội. Tính khoa học của quản lý Nhà nước về kinh tế có nghĩa là hoạt động quản lý của Nhà nước trên thực tế không thể phụ thuộc vào ý chí chủ quan hay sở thích của một cơ quan Nhà nước hay cá nhân nào mà phải dựa vào các nguyên tắc, các phương pháp, xuất phát từ thực tiễn và được thực tiễn kiểm nghiệm, tức là xuất phát từ các quy luật khách quan và điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn phát triển. Để quản lý Nhà nước mang tính khoa học cần : – Tích cực nhận thức các quy luật khách quan, tổng kết thực tiễn để đề ra nguyên lý cho lĩnh vực hoạt động quản lý của Nhà nước về kinh tế. – Tổng kết kinh nghiệm, những mô hình quản lý kinh tế của Nhà nước trên thế giới. – Áp dụng các phương pháp đo lường định lượng hiện đại, sự đánh giá khách quan các quá trình kinh tế. – Nghiên cứu toàn diện đồng bộ các hoạt động của nền kinh tế, không chỉ giới hạn ở mặt kinh tế – kỹ thuật mà còn phải suy tính đến các mặt xã hội và tâm lý tức là phải giải quyết tốt vấn đề thực chất và bản chất của quản lý. b) Quản lý Nhà nước về kinh tế còn là một nghệ thuật và là một nghề vì nó lệ thuộc không nhỏ vào trình độ nghề nghiệp, nhân cách, bản lĩnh của đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, phong cách làm việc, phương pháp và hình thức tổ chức quản lý; khả năng thích nghi cao hay thấp v.v… của bộ máy quản lý kinh tế của Nhà nước. Tính nghệ thuật của quản lý Nhà nước về kinh tế thể hiện ở việc xử lý linh hoạt các tình huống phong phú trong thực tiễn kinh tế trên cơ sở các nguyên lý khoa học. Bản thân khoa học không thể đua ra câu trả lời cho mọi tình huống trong hoạt động thực tiễn. Nó chỉ có thể đưa ra các nguyên lý khoa học là cơ sở cho các hoạt động quản lý thực tế. Còn vận dụng những nguyên lý này vào thực tiễn cuộc sống phụ thuộc nhiều vào kiến thức, ý chí và tài năng của các nhà quản lý kinh tế. Kết quả của nghệ thuật quản lý là đưa ra quyết định quản lý hợp lý tối ưu nhất cho một tình huống quản lsy. Quản lý Nhà nước về kinh tế là một nghề nghiệp với bộ máy là hệ thống tổ chức bao gồm nhiều người, nhiều cơ quan, nhiều bộ phận có những chức năng quyền hạn khác nhau nhằm đảm bảo tổ chức và quản lý có hiệu quả các lĩnh vực kinh tế của Nhà nước. Những người làm việc trong các cơ quan đó đều phải được qua đào tạo như một nghề nghiệp để có đủ tri thức, kỹ năng năng lực làm công tác quản lý các lĩnh vực kinh tế của Nhà nước. 3. Các phương pháp quản lý của Nhà nước về kinh tế : Phương pháp quản lý của Nhà nước về kinh tế là tổng thể những cách thức tác động có chủ đích và có thể có của Nhà nước lên nền kinh tế quốc dân và các bộ phận hợp thành của nó để thực hiện các mục tiêu quản lý kinh tế quốc dân ( tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế và công bằng kinh tế …). Qúa trình quản lý là quá trình thực hiện các chức năng quản lý theo đúng những nguyên tắc đã định. Những nguyên tắc đó chỉ được vận dụng và được thể hiện thông qua các phương pháp quản lý nhất định. Vì vậy, vận dụng các phương pháp quản lý là một nội dung cơ bản của quản lý kinh tế. Các phương pháp quản lý kinh tế mang tính chất đa dạng và phong phú, đó là vấn đề cần phải đặc biệt lưu ý trong quản lý kinh tế vì nó chính là bộ phận năng động nhất của hệ thống quản lý kinh tế. Phương pháp quản lý kinh tế thường xuyên thay đổi trong từng tình huống cụ thể, tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng đối tượng cũng như năng lực và kinh nghiệm của Nhà nước và đội ngũ cán bộ, viên chức Nhà nước. Các phương pháp quản lý chủ yếu của Nhà nước về kinh tế bao gồm : 3.1 Các phương pháp hành chính : Các phương pháp hành chính trong quản lý kinh tế là các cách tác động trực tiếp bằng các quyết đinhj dứt khoát mang tính bắt buộc của Nhà nước lên đối tượng và khách thể trong quản lý kinh tế của Nhà nước nhằm đạt mục tiêu đặt ra trong những tình huống nhất định. Phương pháp này có hai đặc điểm cơ bản là : – Tính bắt buộc : các đối tượng quản lý phải chấp hành nghiêm chỉnh các tacs động hành chính, nếu vi phạm sẽ bị xử lý kịp thời thích đáng. – Tính quyền lực : các cơ quan quản lý Nhà nước chỉ được phép đưa ra các tác động hành chính đúng với thẩm quyền của mình. Vai trò của các phương pháp hành chính là xác lập trật tự kỷ cương làm việc trong hệ thống; khâu nối các phương pháp khác lại thành một hệ thống; có thể giấu được ý đồ hoạt động và giải quyết các vấn đề đặt ra trong quản lý rất nhanh chóng. Sử dụng các phương pháp hành chính đòi hỏi các cấp quản lý phải nằm vững những yêu cầu chặt chẽ sau : – Quyết định hành chính chỉ có hiệu quả cao khi quyết định đó có căn cứ khoa học, được luận chứng đầy đủ về mặt kinh tế. – Khi sử dụng các phương pháp hành chính phải gắn chặt quyền hạn và trách nhiệm của cấp ra quyết định, chống việc lạm dụng quyền hành nhưng không có trách nhiệm cũng như chống hiện tượng trốn tránh trách nhiệm, không sử dụng những quyền hạn được phép.
Để tải tài liệu này xin mời bạn mua thẻ điện thoại VietTel mệnh giá 20.000đ sau đó gửi mã số thẻ cào cùng địa chỉ email của bạn và mã tài liệu KC194 đến số điện thoại: 0988.44.1615Sau khi nhận được tin nhắn tôi sẽ gửi tài liệu cho bạn và thông báo cho bạn biết
Tài liệu này không có hình ảnh khác
Vấn Đề Chung Về Quản Lý Nhà Nước Về Giáo Dục Và Đào Tạo
Quản lý nhà nước là sự chỉ huy, điều hành xã hội để thực hiện quyền lực nhà nước, là tổng thể và thể chế về tổ chức và cán bộ của bộ máy nhà nước có trách nhiệm quản lý công việc hàng ngày của nhà nước ,do các cơ quan nhà nước (lập pháp ,hiến pháp ,tư pháp ) có tư cách pháp nhân công pháp (công quyền )tiến hành bằng các văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện các chức năng ,nhiệm vụ và quyền hạn mà nhà nước đã giao cho trong việc tổ chức và điều khiển các quan hệ xã hội và hành vi của công dân.
Phân biệt khái niệm “quản lý nhà nước” và “nhà nước quản lý”
“Quản lý nhà nước” là dạng quản lý xã hội thực thi quyền lực nhà nước, dạng quản lý này được thể hiện trong các cơ quan hành chính nhà nước.
“Nhà nước quản lý” là nói đến các chủ thể quản lý ,đó là hệ thống tổ chức của các cơ quan nhà nước, trong đó có các cơ quan hành chính nhà nước.
1.2. Giáo dục và đào tạo là gì?
Giáo dục là một quá trình được tổ chức một cách có mục đích ,có kế hoạch nhằm truyền lại và lĩnh hội những tri thức được tích luỹ của loài người.
Đào tạo là một quá trình đặc thù của giáo dục, nó hướng về giáo dục chuyên nghiệp. Đó là sự phát triển có hệ thống các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo …đòi hỏi ở một cá nhân để thực hiện nhiệm vụ chuyên môn nhất định.
Từ hai khái niệm trên, chúng ta có thể hiểu được Quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo chính là việc nhà nước thực hiện quyền lực công để điều hành, điều chỉnh toàn bộ các hoạt động giáo dục và đào tạo trong phạm vi toàn xã hội để thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà nước.
Hay: Quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo là sự quản lý của các cơ quan quyền lực nhà nước, của bộ máy quản lý giáo dục từ trung ương đến cơ sở đối với hệ thống giáo dục quốc dân và các hoạt động giáo dục của xã hội nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước và hoàn thiện nhân cách cho nhân dân.
Quan điểm của Đảng, Nhà nước về giáo dục và đào tạo
Qua các văn kiện này thể hiện một số quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục và đào tạo như sau:
Giáo dục và đào tạo nhằm vào xây dựng con người có đầy đủ phẩm chất để xây dựng và bảo vệ đất nước.
Giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong giáo dục và đào tạo ,nhất là chính sách công bằng xã hội.
Thực sự coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là yếu tố quyết định góp phần tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.
Giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng , của Nhà nước và của toàn dân;mọi người, mọi cấp chăm lo cho giáo dục và đào tạo.
Giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế -xã hội, với khoa học, công nghệ và củng cố quốc phòng an ninh.
Giữ vững vai trò nòng cốt của các trường công lập song song với đa dạng hoá các loại hình giáo dục-đào tạo.
Chăm lo cho giáo dục và đào tạo là chăm lo cho con người và xã hội phát triển với các yêu cầu và tiêu chí được xác lập.
Phát triển giáo dục và đào tạo phải theo nguyên lý: học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
Theo luật giáo dục 2005 thì mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
3.1. Tính chất của quản lý Nhà nước về giáo dục và đào tạo
Tính lệ thuộc vào chính trị:quản lý Nhà nước về giáo dục ,phục tùng và phục vụ nhiệm vụ chính trị, tuân thủ chủ trương , đường lối của Đảng và Nhà nước.
Tính xã hội: giáo dục là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn xã hội. Trong quản lý Nhà nước về giáo dục và đào tạo cần phải coi trọng tính xã hội và dân chủ hoá giáo dục.
Tính pháp quyền: quản lý Nhà nước là quản lý bằng pháp luật vì vậy quản lý Nhà nước về giáo dục và đào tạo cũng phải tuân thủ những quy định chung của pháp luật.
Tính chuyên môn, nghiệp vụ: cán bộ -công chức hoạt động trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo cần được đào tạo có trình độ tương ứng với yêu cầu về tiêu chuẩn các ngạch chức danh đã được quy định.
Tính hiệu lực, hiệu quả: lấy hiệu quả của hoạt động chuyên môn nghiệp vụ để đánh giá cán bộ công chức ngành giáo dục và đào tạo.
3.2. Đặc điểm của quản lý Nhà nước về giáo dục và đào tạo
Kết hợp quản lý hành chính và quản lý chuyên môn trong các hoạt động quản lý giáo dục và đào tạo
Quản lý Nhà nước về giáo dục và đào tạo ở cơ sở thực chất là triển khai các hoạt động hành chính Nhà nước trong quá trình chỉ đạo các hoạt động giáo dục ở cơ sở. Đặc điểm hành chính – giáo dục là đặc điểm quan trọng nhất trong hoạt động quản lý Nhà nước về giáo dục và đào tạo. Chỉ trên cơ sở biết kết hợp quản lý hành chính và quản lý chuyên môn thì mới có thể chỉ đạo tốt hoạt động giáo dục và đào tạo.
Đặc điểm về tính quyền lực Nhà nước trong hoạt động quản lý
Đây là hoạt động nổi bật của quản lý Nhà nước và quản lý hành chính ở mọi lĩnh vực nói chung , đó là tính quyền lực trong hoạt động quản lý :tư cách pháp nhân trong quản lý, công cụ và phương pháp quản lý và quan hệ thứ bậc trong quản lý.
Đặc điểm kết hợp Nhà nước- xã hội trong quá trình triển khai quản lý Nhà nước về giáo dục và đào tạo
Dân chủ hoá và xã hội hoá công tác giáo dục là một tư tưởng có tính chiến lược và nó có vai trò rất to lớn trong sự phát triển giáo dục nói chung và quản lý giáo dục nói riêng.
Nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ
Mọi cơ sở giáo dục thực hiện chức năng , nhiệm vụ giáo dục và đào tạo theo sự chỉ đạo ngành dọc nhưng các cơ sở giáo dục đều đóng trên một địa bàn lãnh thổ nhất định vì vậy cũng phải tuân thủ sự quản lý hành chính của địa phương theo quy định phân cấp của Nhà nước.
Mọi hoạt động quản lý không thể tách rời sự chỉ đạo theo ngành dọc và theo lãnh thổ và chúng được coi là một nguyên tắc quan trọng trong quản lý Nhà nước nói chung và quản lý Nhà nước về giáo dục – đào tạo nói riêng.
Nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động quản lý Nhà nước về giáo dục và đào tạo
Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động chính trị xã hội ở nước ta, đồng thời cũng là nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước . quản lý Nhà nước về giáo dục – đào tạo cũng tuân thủ theo nguyên tắc này.
Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ ở đây là phát huy quyền chủ động của cơ sở dựa trên hành lang pháp lý được quy định bởi luật giáo dục và những văn bản pháp lí trong hoạt động quản lý giáo dục đồng thời nâng cao tinh thần cá nhân phụ trách, tập thể lãnh đạo và phát huy dân chủ của tập thể theo quy chế dân chủ của cơ sở do chính phủ của bộ giáo dục và đào tạo ban hành.
Nguyên tắc tập trung dân chủ yêu cầu Nhà nước thống nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu , chương trình , nội chúng tôi chế thi cử và hệ thống văn bằng ( theo điều 13, luật giáo dục). Bên cạnh đó phân cấp rõ ràng về quản lý giáo dục cho địa phương và tạo điều kiện để cơ sở phát huy chủ động và sáng tạo.
4. Vai trò và ý nghĩa của quản lý Nhà nước về giáo dục
Giáo dục và đào tạo là lĩnh vực rất quan trọng của đời sống xã hội , nó góp phần quyết định chất lượng cuộc sống của con người và sự phát triển của xã hội.
Giáo dục đào tạo nâng cao phẩm chất cho tong cá nhân, đồng thời làm cho xã hội phát triển. Giáo dục và đào tạo là nguồn lực hàng đầu cho phát triển kinh tế, vì lẽ giáo dục – đào tạo đem lại kiến thức khoa học, trình độ chuyên môn, kĩ năng, kĩ xảo, đạo đức, tư cách, tinh thần trách nhiệm, kỷ luật lao động, óc tìm tòi, sáng tạo…cho con người. Song muốn đạt được các yếu tố trên đòi hỏi phải có nền giáo dục phát triển mà muốn cho giáo dục phát triển thì yếu tố đầu tiên phải kể đến là quản lý Nhà nước về giáo dục và đào tạo.
Việt Nam là đất nước có truyền thống giáo dục từ Cách mạng tháng 8 đến nay, truyền thống đó ngày càng được vun đắp. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có tầm nhìn rất xa đối với giáo dục – đào tạo, coi đây là lĩnh vực quan trọng cho sự phát triển. Người cho rằng “Vì lợi ích trăm năm phải trồng người” hay ” Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”.
Như vậy giáo dục và đào tạo có vai trò rất lớn và có ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Cho nên Nhà nước thống nhất quản lý về giáo dục và đào tạo. Vì thông qua quản lý Nhà nước về giáo dục và đào tạo, việc thực hiện các chủ trương chính sách quốc gia nâng cao hiệu quả đầu tư cho giáo dục, chú ý thực hiện các mục giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục mới được triển khai, thực hiện có hiệu quả.
Quản lý Nhà nước về giáo dục và đào tạo có thể được coi là khâu then chốt của then chốt nhằm đảm bảo thực hiện thắng lợi của mọi hoạt động giáo dục và đào tạo, tiến tới mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước và hoàn thiện nhân cách con người.
Bạn đang xem bài viết Vấn Đề Pháp Lý Về Người Nước Ngoài trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!